Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [18]
- Nghiệp Báo
"Tất cả
chúng sanh đều có cái nghiệp của mình." -- Trung A Hàm
Định luật nhân quả trong lĩnh vực tinh thần đạo đức
là Nghiệp Báo, Kamma [1].
Tái Sanh là hệ luận tự nhiên của Nghiệp. Nghiệp Báo và
Tái Sanh là hai giáo lý căn bản trong đạo Phật có liên quan mật thiết với
nhau.
Từ trước thời Đức Phật, hai học thuyết Nghiệp Báo
và Tái Sanh đã được truyền bá sâu rộng tại Ấn Độ. Tuy nhiên, chính
Đức Phật đã giải thích tận tường và trình bầy đầy đủ Giáo Pháp
cao siêu ấy, đến nay vẫn còn lưu truyền.
Vì sao có sự bất đồng trong nhân loại?
Ta phải giải thích thế nào những chênh lệch tựa hồ như
bất công trong thế gian?
Tại sao có hạng người sanh trưởng trong cung điện nguy
nga, giàu sang vinh hiển, trí tuệ xuất chúng, đạo hạnh thanh cao, thân
hình tráng kiện, trong khí ấy có kẻ khác lại phải chịu sống trong cảnh
cùng đinh, cơ hàn khốn khổ? Tại sao người kia có tiền của ức triệu
mà người nọ lại thiếu trước hụt sau? Tại sao có người thông minh tuyệt
vời và có kẻ tối tăm ngu muội? Tại sao người nầy được sanh ra với
bản tánh hiền lương của các bậc thánh nhân, kẻ nọ lại sẵn nết hung
dữ từ khi lọt lòng mẹ? Tại sao có hạng thần đồng thông suốt nhiều
thứ tiếng, có hạng thần đồng về môn toán học, thần đồng về khoa hội
họa, văn chương, âm nhạc v.v...? Tại sao có những trẻ em sanh ra đã mù,
điếc, câm, ngọng hoặc kỳ hình dị thể? Tại sao có những trẻ em vừa
mở mắt chào đời đã được hưởng mọi phước lành, và có em lại bị
xem như một tội khổ?
Có chăng những nguyên nhân nhất định, tạo nên hoàn cảnh
chênh lệch trong thế gian? Nếu không, những trạng thái bất đồng kể trên
hẳn là những sự kiện ngẫu nhiên sảy ra hoàn toàn do sự may rủi.
Bậc trí tuệ không thể tin nơi sự may rủi mù quáng và
không chấp nhận lối giải thích bằng sự ngẫu nhiên.
Trong thế gian nầy không có điều chi xảy đến cho người
nào mà không do một hay nhiều nguyên nhân. Quả vui, quả khổ của những
người đang gặt hái đều trổ sanh do những nhân tốt hay xấu đã tạo,
hoặc trong kiếp hiện tại, hoặc trong những kiếp quá khứ. Nhưng với lý
trí phàm tục, với sự hiểu biết tùy thuộc nơi giác quan của nhục thể,
không dễ gì thấu triệt những nguyên nhân vô hình và phức tạp của guồng
máy thế gian. Ta chỉ thấy hiển hiện trước mắt cái quả đang trổ mà
không thấy được tất cả các nguyên nhân vi tế đã tạo điều kiện cho
quả ấy phát sanh, vì nhân kia không phải hoàn toàn được tạo nên trong
kiếp hiện tại mà có thể được rải rác gieo trồng từ vô lượng tiền
kiếp.
Có chăng những bậc cao minh sáng suốt, tiếp nhận được
bằng tuệ giác những điều mà mắt thịt tai phàm không thể nghe thấy? Phật
Giáo xác nhận rằng có thể có.
Vài hệ thống tín ngưỡng chủ trương rằng tất cả các
sự khác biệt trong đời đều do một nguyên nhân duy nhất, và nguyên nhân
ấy là do sự quyết định tối cao của Đấng Tạo Hóa. Đức Phật không
nhìn nhận có một Đấng Tạo Hóa toàn tri, toàn năng, tạo ra càn khôn vũ
trụ.
Các nhà bác học hiện đại giải thích thế nào sự chênh
lệch của nhân loại?
Căn cứ trên sự cảm nhận của giác quan, nhà khoa học cho
rằng tình trạng bất đồng kia do những nguyên nhân vật lý và hóa học hổn
hợp, do truyền thống và do giới thân cận.
Nhà sinh lý học trứ danh, ông Julien Huxley, có viết như
sau:
"Mầm giống sơ khởi cấu tạo con người là những
đơn vị sinh lý gọi là "gene" (gene là những cực vi tế bào trong
tinh trùng do đó mầm giống của cha truyền sang con gọi là định luật
truyền thống).
Có những loại "gene" tạo ra màu sắc cho cơ thể.
Có loại chi phối bề cao, sức nặng. Có loại ảnh hưởng tới khả năng
sinh sản, tuổi thọ, và sức khỏe của con người. Cũng có loại
"gene" ảnh hưởng đến hình hài thể vóc. Phần lớn các đặc tánh
di truyền, nếu không phải là tất cả, đều do các đơn vị sinh lý
"gene" chi phối.
"Riêng về những đặc tính tinh thần - phức tạp và tế
nhị hơn - thật khó mà chứng minh một cách cụ thể. Mặc dầu có những
sự kiện hiển nhiên có sự di truyền thuộc về tinh thần, nhưng không có
hiện tượng nào xác nhận rằng những đặc điểm tinh thần từ ông bà
cha mẹ truyền xuống cho con cháu phải theo một thể thức nào giống như
thể thức truyền thống về xác thịt.
"Mọi truyền thống, tinh thần và vật chất, bằng
cách nầy hay cách khác, đều tùy thuộc nơi tác động tương quan giữa các
bẩm thụ "gene" mà mỗi người mang trong mình từ lúc mới được
thọ thai."
Ta phải nhìn nhận rằng tất cả các hiện tượng lý-hóa
mà nhà khoa học hiện đại nêu lên đã giải thích một phần vấn đề.
Tuy nhiên các hiện tượng lý-hóa ấy không thể là nguyên nhân duy nhất
quyết định sự khác biệt tế nhị giữa những cá nhân. Nếu thuyết truyền
thống hoàn toàn là đúng, nếu con cái nhất định phải giống cha mẹ, thì
ta phải giải thích thế nào trường hợp hai bé sanh đôi, thụ hưởng một
thứ sanh khí, một thứ "gene", được nuôi dưỡng in như nhau, tại
sao bẩm tánh của mỗi em lại khác? Trí tuệ và tánh nết lại càng khác
biệt.
Truyền thống không đủ để giải thích chỗ âm u sâu rộng
của vấn đề chênh lệch trong đời. Đúng ra, thuyết nầy giải thích những
chỗ giống nhau nhiều hơn là chứng minh những điểm dị biệt. Hạt
"gene" cực kỳ vi tế - lối một phần ba chục triệu của một phân
Anh (1/30.000.000 inch) - chỉ giải thích được một phần vấn đề, phần vật
chất. Đối với sự chênh lệch tinh thần, trí tuệ đạo đức, vô cùng
phức tạp và tế nhị hơn, chúng ta vẫn còn cần nhiều tia sáng khác. Truyền
thống không thể giải thích tại sao có những đứa con hung dữ, sát nhân,
trong một gia đình có tiếng là lương thiện, và trái lại, có những trẻ
con hiền từ, sanh trưởng trong một gia đình hung ác. Thuyết truyền thống
cũng không thể giải thích do đâu có những thần đồng, những bậc vĩ nhân,
những bậc Đại Giáo Chủ v.v...
Luận về thuyết truyền thống, Tiến sĩ Th. Pascal viết
như sau trong quyển "Reincarnation":
"Quay về vai trò của bẩm thụ "gene" trong vấn
đề truyền thống, chúng ta lập lại rằng bẩm thụ vật lý"gene"
tự nó giải thích phần vật chất của con người. Về khả năng trí thức
và đạo hạnh, bẩm thụ "gene" không rọi được tia sáng nào. Nếu
bẩm thụ "gene" cấu tạo được trọn vẹn con người, ta sẽ tìm
thấy trong mọi người tất cả bẩm tánh của cha mẹ và không khi nào có
những tánh khác.
"Như vậy sẽ không có những người con sát nhân trong
gia đình lương thiện và cũng không có những bậc hiền nhân sanh trưởng
trong gia đình hung ác. Trong đời sống hằng ngày ta có thể gặp hai đứa
trẻ sinh đôi, cùng cha, cùng mẹ, cùng thừa hưởng một bẩm thụ của cha
mẹ, cùng được sanh ra trong những điều kiện như nhau, cùng trưởng thành
trong những điều kiện như nhau, cùng trưởng thành trong một giới thân cận,
thân hình, mày mặt thật giống nhau, những một đứa thì hiền lương, còn
một đứa thì hung ác tàn bạo. Ngoài ra, số trẻ thần đồng cũng khá nhiều
và đủ làm bối rối các học giả chủ trương thuyết truyền thống. Nếu
đi ngược dòng thời gian, phăng mãi lên trong gia phả các vị thần đồng,
ta có thể tìm được chăng những vị tổ tiên cũng thần đồng như vậy?
Vậy, không phải tất cả bẩm tánh và trí tuệ của con người đều do
nơi cha mẹ, ông bà, cũng không truyền lại hết cho con. Bằng chứng là
trong hàng con cháu của Mozart, Beethoven và Dantes không có một thần đồng
hay một vĩ nhân nào, và trong phạm vi của các nhà duy-vật-học, chưa có
gì chứng minh được thuyết truyền thống một cách thiết thực.
"Về mặt thể xác, không phải tất cả đặc điểm vật
lý của cha mẹ đều được truyền hết cho con, trí tuệ và tính nết mỗi
người con một khác [2] và nhiều gia đình lương thiện lấy làm đau khổ
mà sanh ra những đứa con ngỗ nghịch bất lương."
Phật Giáo cũng nhìn nhận có phần ảnh hưởng của sự
truyền thống và của giới thân cận, nhưng cho rằng không đủ. Phật Giáo
thêm vào đấy định luật Nghiệp Báo (Kamma), tức là sự tổng hợp các
hành động khác trong quá khứ và hiện tại. Chính chúng ta phải lãnh phần
trách nhiệm về những hành động của chúng ta trong quá khứ và gặt hái
hoàn cảnh an vui hay đau khổ trong hiện tại. Chính ta tạo thiên đàng cho
ta. Cũng chính ta tạo địa ngục cho ta. Ta là người xây dựng tương lai của
ta. Chính ta tạo cái mà người thế gian gọi là Định Mệnh.
Nguyên
Nhân của Sự Chênh Lệch
Thuở Đức Phật còn tại tiền, có chàng thanh niên tên
Sudha, thắc mắc trước trạng huống bất đồng giữa loài người, muốn tìm
chân lý, đến gần Ngài và bạch rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn, vì lý do nào và nguyên nhân nào
trong đời có người yểu (appayuka) và có người thọ (dighayuka), người bệnh
hoạn (bavhabadha) và người khoẻ mạnh (appabadha), người xấu xa (dubbanna) và
người đẹp đẽ (vannavanta), có hạng người làm gì cũng không ai làm
theo, nói chi cũng không ai nghe (appesakka) và hạng người có thế lực, làm
gì cũng có người theo, nói chi cũng có người nghe (mahesakka), có người
nghèo khổ (appabhopga) và người giàu sang (mahabhoga), có người sanh trưởng
trong gia đình bần tiện (nicakulina) và có người dòng dõi cao sang
(uncakulina), có người dốt (duppanna) và có người trí tuệ (pannavanta)?
Đức Phật trả lời vắn tắt như thế nầy:
"Tất cả chúng sanh đều mang theo cái Nghiệp (Kamma) của
chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như
chỗ nương tựa. Chính vì cái nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên
mới có cảnh dị đồng giữa chúng sanh. [3]"
Rồi Đức Phật giải thích cho Subha nghe từng trường hợp:
"Nếu người kia trọn đời chỉ biết sát sanh, người
thợ săn chẳng hạn, bàn tay luôn luôn đẩm máu, hằng ngày sống trong sự
giết chóc và gây thương tích không chút xót thương. Do tính hiếu sát ấy,
nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ là một người có mạng
"yểu".
"Nếu người kia luôn luôn thận trọng, không hề xác
phạm đến tính mạng của ai, sống xa gươm đao, giáo mác và các loại
khí giới, lấy lòng tứ ái đối với tất cả chúng sanh.Do sự không sát
sanh (Tâm Từ) ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ trường
" thọ".
"Nếu người kia độc ác, luôn luôn tìm cách hại người,
luôn luôn dùng đấm đá và gươm đao đối sử với mọi người. Do nết
hung dữ, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ ươn yếu bệnh hoạn.
"Nếu người kia không bao giờ làm tổn thương ai khác.
Do đức tánh hiền lương nhu hòa, nếu tái sanh trong cảnh người, người
ấy sẽ được mạnh khỏe.
"Nếu người kia thô lỗ, cộc cằn, luôn luôn giận dữ,
chưởi mắng, nguyền rủa kẻ khác.Do hậu quả của sự thô lỗ, cộc cằn
ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ xấu.
"Nếu người kia thanh tao nhã nhặn, dầu ai có chưởi mắng
thậm tệ cũng không hề oán giận và tìm cách trả thù. Do hậu quả của
phong thái thanh nhã ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ đẹp
đẽ.
"Nếu người kia có tánh đố kyﬠthèm thuồng, ham muốn
lợi danh của kẻ khác, không biết tôn kính người đáng kính, luôn luôn
chứa chấp lòng ganh tyﮠDo hậu quả của tính tật đố ganh ấy, nếu tái
sanh trong cảnh người, sẽ là người có ảnh hưởng, nói gì không ai nghe,
làm gì không ai theo.
"Nếu người kia không có tánh đố kyﬠkhông thèm ham
muốn lợi danh của người khác, biết tôn trọng người đáng kính, không
chứa chấp lòng ganh tyﮠDo ảnh hưởng của tâm không ganh ty#7845;y, nếu
tái sanh trong cảnh người, sẽ là người có thế lực, nói gì cũng có người
nghe, làm gì cũng có người theo.
"Nếu người kia không bao giờ biết bố thí vật gì.
Do tánh keo kiết, bám níu vào tài sản sự nghiệp của mình, nếu tái sanh
trong cảnh người, sẽ là người nghèo nàn thiếu thốn.
"Nếu người kia giàu lòng quảng đại, tánh ưa bố thí.
Do lòng quảng đại rộng rãi ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, sẽ là
người giàu có dư dã.
"Nếu người kia không biết phục thiện, tánh ưa kiêu
hãnh, không tôn trọng người đáng kính. Do tánh ngạo mạn và vô lễ ấy,
nếu tái sanh trong cảnh người, sẽ là người đê tiện thấp hèn.
"Nếu người kia biết phục thiện, tánh không kiêu
hãnh, biết tôn trọng người đáng kính. Do đức tính biết phục thiện
và có lễ độ ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, sẽ là người sang trọng
quyền quý.
"Nếu người kia không chịu gần người có tài đức
để học hỏi điều hay lẽ phải và phân biệt chánh tà. Do sự kém học
ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, sẽ là người dốt.
"Nếu người kia cố công tìm đến người có tài đức
để học hỏi. Do sự học hỏi chánh đáng ấy, nếu tái sanh trong cảnh người,
sẽ là người thông minh trí tuệ." [4]
Trên đường tái sanh luân hồi, con người chịu ảnh hưởng
của nghiệp quá khứ nhiều hơn truyền thống.
Như trường hợp của Đức Phật. Ngài đã thọ sanh nhờ
tinh trùng, minh châu và bẩm thụ "gene" của cha mẹ cũng như mọi
chúng sanh. Nhưng về mặt thể chất cũng như về phương diện tinh thần,
trong quý tốc, từ tổ tiên mấy đời xuống đến Ngài, không ai có thể
sánh với Ngài. Đức Phật đã có lần dạy rằng Ngài không thuộc dòng
dõi vua chúa mà thuộc dòng của chư Phật, chắc chắn Đức Phật là bậc
siêu nhiên. Ngài sanh ra với cái nghiệp phi thường mà chính Ngài đã tạo
nên từ vô lượng kiếp.
Theo kinh Lakkhana Sutta [5], Đức Phật sanh ra với tướng mạo
khác thường - 32 đặc điểm phi thường - là do bao nhiêu công đức cao dày
mà ngài đã tạo ra trong vô lượng kiếp quá khứ. Kinh Lakkhana Sutta cũng giải
thích rành mạch mỗi tướng tốt của Đức Phật, tướng nào phát sanh do
nhân nào.
Trường hợp hy hữu của Đức Phật chứng tỏ rằng năng
lực của Nghiệp chẳng những chi phối cơ thể mà còn vượt lên, làm mất
phần hiệu năng của tinh trùng, minh châu và bẩm thụ "gene" của
cha mẹ. Vì thế Ngài dạy rằng :
"Ta là kẻ thừa hưởng những hành vi tạo tác của ta
như một di sản từ quá khứ truyền lại."
Đề cập đến sự khác biệt giữa chúng sanh, sách
Atthasalini ghi rằng:
"Do sự khác biệt giữa cái nghiệp mỗi chúng sanh nên
có trạng thái chênh lệch trong sự tái sanh. Người sanh ra sang cả, kẻ thì
đê hèn. Người sanh ra trong sự khinh khi nguyền rủa, kẻ thì được tôn
trọng kính vì. Người được hạnh phúc an vui từ lúc lọt lòng mẹ, kẻ
lại khổ sở khốn cùng.
"Do sự khác biệt giữa cái nghiệp mỗi chúng sanh nên
có sự khác nhau về hình dung, sắc diện: người thì đẹp đễ, kẻ lại
xấu xa, người cao, người thấp, kẻ thì tuấn tú phương phi, người thì
kỳ hình dị tướng .
"Do sự khác biệt giữa cái nghiệp mỗi chúng sanh nên
có trạng thái chênh lệch trong xã hội như được, thua, danh thơm, tiếng xấu,
được ca tụng hay bị khiển trách, hạnh phúc hay đau khổ."
"Do nghiệp, thế gian luân chuyển.
Do nghiệp, chúng sanh tồn tại.
Và cũng do nghiệp, mà chúng sanh vướng víu.
Liên kết với nhau như bánh xe,
cấu hợp, dính liền và quây tròn quanh cái trục.
Do nghiệp, chúng sanh được vinh hạnh tôn sùng.
Do nghiệp, chúng sanh chịu cảnh nô lệ tôi đòi,
Bị nạn độc tài đàn áp và đi đến chỗ bại vong .
Đã biết rằng nghiệp sanh quả
Tại sao vẫn tin rằng:
"Trong đời nầy không có nghiệp báo? [6]
Tóm tắt, theo Phật Giáo, những sự chênh lệch về tinh thần,
đạo đức, trí tuệ và bẩm tánh, một phần lớn đều tùy thuộc hành động
và khuynh hướng của chúng ta trong quá khứ và trong hiện tại, tức là
nghiệp.
Không Phải Tất Cả Đều Do Nghiệp
Mặc dầu chủ trương rằng nguyên nhân chánh tạo nên hoàn
cảnh chênh lệch trong đời sống là sự khác biệt giữa cái Nghiệp mỗi
chúng sanh, Phật Giáo không quả quyết rằng tất cả đều do nơi Nghiệp.
Nói cách khác, Nghiệp không phải là nguyên nhân duy nhất tạo nên những
khác biệt, những sự chênh lệch giữa chúng sanh. Định luật Nghiệp Báo
tuy quan trọng, chỉ là một trong 24 nguyên nhân (Paccaya) [7] trong đời sống
được mô tả trong triết hoặc Phật Giáo. Để điều chỉnh quan niệm sai
lầm cho rằng:"Những quả lành, dữ, hay không-lành, không-dữ, tất cả
đều phát sanh do những hành động [8] (nghiệp đã tạo ra) trong quá khứ
(Pubbekatehetu)", Đức Phật dạy:
"Nếu luận như vậy và quả quyết rằng do những hành
động trong quá khứ mà con người trở thành sát nhân, trộm cướp, dâm
loàn, láo xược, thô lỗ, nhảm nhí, tham lam, xảo quyệt, hư hèn, thì ta
có lý do để ỷ lại, dựa trên quá khứ mà không muốn thực hiện, không
cố gắng thực hiện,và cũng không cần thiết phải thực hiện, hay không
thực hiện, một hành động, dầu hành động ấy có đáng thực hiện hay
không. [9]"
Đoạn kinh quan trọng trên đây đính chánh một quan điểm
sai lầm chủ trương rằng tất cả những xảy ra trong lãnh vực tinh thần
cũng như vật chất, đều do tiền nghiệp mà phát sanh.
Nếu kiếp sống hiện tại tuyệt đối do hành động quá
khứ chi phối hay hoàn toàn do tiền nghiệp chủ động thì định luật Nghiệp
Báo chẳng có gì khác hơn là Thuyết Định Mệnh hay Tiền Định. Không ai
còn tự do để cải thiện đời sống mình, trong hiện tại hay trong tương
lai,và tự do ý trí chỉ là một điều phi lý. Đời sống trở nên hoàn
toàn tự động và con người không mấy khác biệt với một cái máy.
Tin rằng chúng ta được sanh ra do một đấng Tạo Hóa Toàn
Năng, toàn quyền định đọat số phận và sắp đặt trước định mạng
mà, dầu muốn dầu không, ta không thể nào thay đổi được, hoặc tin rằng
cái Nghiệp tạo ra số phận và định đoạt đời sống của chúng ta thì
có gì khác nhau? Có khác chăng chỉ ở hai danh từ.
Thuyết định mạng như vậy không phải là định luật
Nghiệp Báo trong Phật Giáo.
Năm Niyama (Định Luật)
Theo Phật Giáo có năm định luật, hay tiến trình (Niyama)
[10] tác động trong lĩnh vực vật chất và tinh thần. Đó là :
1. Utu Niyama, là định luật vật lý có liên quan đến tiến
trình của những sự vật vô cơ như hiện tượng thời tiết, mưa, gió,
nhiệt, hàn v.v... bốn mùa tám tiết và đặc tánh của mỗi mùa như hạ thì
nóng, đông thì lạnh cũng nằm trong định luật nầy.
2. Bija Niyama, là định luật vật lý có liên quan đến tiến
trình của những sự vật hữu cơ như cây cỏ. Do định luật nầy thì mầm
nào sanh giống đó. Cây lúa thì do bột lúa, cây cam thì do hột cam, vị ngọt
do đường, mía, mật ong mà ra v.v... Lý thuyết khoa học về tế bào và bẩm
thụ gene trong việc thọ thai cũng do định luật nầy chi phối. Sự giống
nhau về phương diện vật lý của hai trẻ sanh đôi cũng vậy.
3. Kamma Niyama, là định luật nhân quả hay là sự tiến triển
từ hành động, thiện hoặc ác, đến quả, lành hay dữ. Nhân gieo thì quả
trổ. Nhân lành đem lại quả tốt. Nhân ác đem lại quả xấu. Đó là định
luật thiên nhiên, quả phải trổ sanh do nhân như vậy, chớ không phải là
hình thức thưởng hay phạt. Tiến trình từ nhân đến quả cũng tự nhiên
và cần thiết như sự xoay chuyển của mặt trăng quanh mặt trời. Đó là
nguyên tắc nhân quả tương xứng của định luật Nghiệp Báo.
Nguyên tắc của luật nhân quả là quả trổ liên tục. Một
nhà bác học tìm tòi, học hỏi, thâu thập được nhiều kiến thức và
kinh nghiệm trong đời sống, đến lúc chết và tái sanh, tất cả những
kinh nghiệm và kiến thức ấy cũng được chuyển từ kiếp nầy sang kiếp
khác. Đối khi ta phảng phất nhớ lại một vài kinh nghiệm và kiến thức
trong kiếp trước, nhưng lắm lúc ta quên hẳn, cũng như ta quên một vài
kinh nghiệm và kiến thức đã thu thập lúc còn nhỏ, trong cùng một kiếp
sống. Do nguyên tắc quả trổ liên tục có những trường hợp thần đồng
nhạc sĩ, họa sĩ, sử học gia, ngôn ngữ gia v.v..., những em bé chưa học
mà nói được nhiều thứ tiếng.
4. Dhamma Niyama, là định luật của vạn pháp, như những hiện
tượng xảy ra khi một vị Bồ Tát đản sanh trong kiếp chót, luật hấp dẫn
lực và những định luật khác trong vũ trụ v.v... đều có thể liệt vào
lịch trình tiến triển nầy.
5. Citta Niyama, là định luật tâm lý, như tiến trình tâm,
sự cấu tạo phần tâm linh, những năng lục của tâm như thần giao cánh cảm,
hiểu biết quá khứ vị lai, huệ nhãn, huệ nhĩ, tha tâm htông, và những
hiện tượng tượng tương tợ mà khoa học hiện đại chưa giải thích
được.
Năm lịch trình tiến triển tự nó là những định luật dựa
theo đó ta có thể giải thích tất cả những hiện tượng tâm lý cũng
như vật lý.
Nghiệp Báo chỉ là một trong năm định luật ấy.
Cũng như tất cả định luật trong vũ trụ, năm lịch trình
tiến triển kể trên không do một oai lực thiêng liêng huyền bí nào tạo
nên.
Định luật liên quan đến sự tiến triển vật lý, loại
vô cơ, loại hữu cơ, định luật của vạn pháp (Dhamma Niyama) là những lịch
trình tiến triển ít nhiều tự động, mặc dầu trong một giới hạn nào,
trí thông minh của con người cũng có thể kiểm soát được. Thí dụ như
lửa nóng có đặc tánh làm phỏng da, tiết lạnh đến mức độ nào thì
làm đông nước, nhưng cũng có người có thể đi trên lửa mà không bị
phỏng mà cũng có người khỏa thân ngồi trên tuyết lãnh sơn mà không
sao. Những người trồng hoa chuyên nghiệp có thể tạo những cảnh vườn
tụyêt đẹp với các loại hoa trái mùa, người luyện phép du dà (yoga) có
thể dùng oai lực thần bí nâng cao một vật nặng.
Định luật thuộc về phần tâm linh cũng như máy móc như
các định luật khác, nghĩa là cũng tác động một cánh hồn nhiên, tự động,
vô ý thức, không cần kích thích, không tùy thuộc nơi ý muốn nào bên
ngoài. Khi nhân đã gieo thì, do Nghiệp Báo, quả phải trổ.
Công phu tu tập trong Phật Giáo nhằm mục đích kiểm soát
tâm, và sự kiểm soát nầy có thể thực hiện được nhờ hiểu biết chân
chánh và tư tưởng trong sạch. Luật nhân quả tác động một cách rất
máy móc. Khi Nghiệp quá nặng thì dầu con người có muốn cũng không thể
sửa đổi hậu quả nghiêm khắc của nó. Nhưng trong những trường hợp
ấy cũng vậy, Chánh Kiến là tác ý trong sạch có thể sửa chữa phần
nào cái Nghiệp. Trong một giới hạn nào Nghiệp lành có thể làm dịu bớt
quả dữ.
Định luật nhân quả thật phức tạp. Chỉ có Đức Phật
mới thấu hiểu được cội nguồn của nó.
Mục tiêu tối hậu của người Phật tử là tận diệt
Nghiệp.
Chú thích
[1] Sanskrit là Karma.
[2] Đại tá Ingersol viết như sau về văn hào trứ danh nước
Anh, ông Shakespeare. "Cả cha lẫn mẹ ông Shakespeare đều không biết đọc
biết viết. ông Shakespeare trưởng thành trong một làng bé nho giữa những
người dốt".
[3] Kammassaka manava satta, Kammadayada, Kammayoni, Kammabandhu,
Kammapatisarana, Kamma satte vibhajati yadidam hinappanitataya'ti. (Majjhima Nikaya, Trung
A Hàm, bài kinh Cullakammavibhanga Sutta, số 135).
Xem lời giải đáp của Đại đức Nagasena cho Vua Milinda về
vấn đề nầy. Warren, Buddhism in Translation, trang 214.
[4] Về sự báo ứng của nghiệp, khi đề cập đến mối
tương đồng giữa nhân và quả (nhân nào tạo quả ấy), Tiến sĩ Crimm có
viết như sau:
"Trong tất cả những trường hợp tương tợ, ta có thể
dẫn chứng dễ dàng rằng đinh luật tương đồng có tác dụng điều chỉnh
và chuyển hướng cho thức tái sanh phối hợp với một tế bào mới. Như
người kém lòng từ bi, giết chóc người và vật một cách dễ dàng, đã
ôm ấp dưỡng nuôi sâu kín trong lòng bản tánh sát sanh.
"Người ấy sẽ không ngần ngại và lắm khi cũng lấy
lòng thỏa thích mà giết một sanh mạng, tức là cắt đứt một sự sống
của một chúng sanh, hay nói cách khác, là thâu ngắn đời sống của một
chúng sanh. Tức nhiên mầm giống có khuynh hướng sát sanh, mầm giống có bẩm
tánh thâu ngắn đời sống, thấm nhuần trong người ấy và đến lúc chết,
do định luật tương đồng, bị hấp dẫn đến một cảnh giới cũng có
những khuynh hướng tương tợ, và trong cảnh giới ấy đương nhiên đời
sống bị thu ngắn lại. Cùng một thế ấy, người có tâm ác, vui thích
trong việc hành hạ chúng sanh và làm cho kẻ khác đau đớn tật nguyền
cũng nuôi sâu kín trong lòng mầm giống hung ác ấy. Khi chết - do định luật
tương đồng, cái gì giống nhau có sức hấp dẫn lẫn nhau, xấu hút xấu,
tốt hút tốt - tâm ác sẽ bị thu hút đến những cảnh giới cũng hung ác
như vậy, với năng lực tạo nên một thân thể xấu xa dị tướng.
"Một người có tánh nóng giận hằng kích thích những
mầm giống có tính chất làm cho sắc diện trở nên xấu xa. Vì đổi sắc
diện là đặc tánh của sự giận dữ.
"Người nào có tánh ganh tyﬠkeo kiệt, kiêu hãnh, hằng
tích trữ những bẩm chất thù hận, ác cảm, khinh rẻ kẻ khác, những
khuynh hướng khai triển mầm giống tương xứng với cảnh nghèo khổ v.v...
"Đó dĩ nhiên, chỉ là hậu quả của nghiệp đã tạo
trong quá khứ, có thể thay đổi tánh nam hay tánh nữ, như kinh Digha Nikaya,
Trường A Hàm, số 21 có thuật rằng Gopiksa, vì bà rất ghét tâm tánh đàn
bà và do đó tự tạo cho mình một bẩm tánh đàn ông". The Doctrine of
the Buddha, trang 191.
[5] Digha Nikaya, Trường A Hàm, iii, trang 112, số 30.
[6] The Expositor, trang 65, chương 87.
[7] Xem Compendium of Philosophy, trang 191, Manual of Abhidhamma, tác
giả Narada Thera.
[8] Hành động bằng thân, khẩu hay ý.
[9] Angutatara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, trang 173; Gradual Sayings;
Phần i, trang 157.
[10] Xem Abhidhammavatara, trang 54. Bà Rhys Davids, Buddhism, trang
119.