Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [8]
- Đức Phật và Thân Quyến
(I)
"Phục vụ thân bằng quyến thuộc là một phước báu"
-- Hạnh Phúc Kinh [1]
Vua Tịnh Phạn
Muốn Gặp Đức Phật
Hay tin Đức Phật đang ngự tại thành
Rajagaha (Vương Xá) và đang truyền bá Giáo Pháp, Vua Suddhodana (Tịnh Phạn)
càng nóng lòng muốn gặp người con trí tuệ. Chín lần liên tiếp, đức
vua truyền lệnh cho chín vị sứ thần đến triệu thỉnh Đức Phật về
Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ). Trái ngược với lòng ước mong chờ đợi của
vua, khi gặp được Đức Phật, tất cả chín vị sứ thần đều lấy làm
thỏa thích, ở lại nghe Pháp, xin xuất gia, và đắc Quả A La Hán. Khi đã
đắc Quả A La Hán các Ngài không còn thiết tha đến việc trần gian nên
không nghĩ đến sứ mạng là thỉnh Đức Phật về. Đức vua lấy làm thất
vọng. Sau cùng, Ngài truyền lệnh cho người tôi trung thần, Kaludayi, vốn
là bạn thân của Đức Phật lúc còn là Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta),
đi thỉnh Đức Phật. Kaludayi phụng mạng nhưng xin một điều là cho phép
ông xuất gia theo Phật.
Như các vị sứ thần trước,
Kaludayi cũng được diễm phúc nghe Đức Phật thuyết giảng Giáo Pháp, đắc
Quả A La Hán và xin xuất gia. Nhưng khác với các vị kia là ông không quên
sứ mạng. Ông thiết tha khẩn cầu Đức Phật về thăm phụ hoàng, nay đã
già yếu. Lúc ấy nhằm mùa khô ráo, có thể đi đó đây dễ dàng, Đức
Phật lên đường trở về quê nhà với rất đông đệ tử. Trên con đường
dài từ Rajagaha (Vương Xá) đến Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ), Ngài chia từng
chặng ngắn, vừa đi vừa thuyết Pháp, hai tháng sau đã đến nơi.
Mọi việc đã được chuẩn bị để
Đức Phật ngự tại huê viên của Hoàng Thân Nigrodha, dòng Sakya (Thích Ca).
Khi Đức Phật đến nơi, các vị cao niên ngã mạn dòng Thích Ca nghĩ rằng:
"Vị đạo sĩ kia chẳng qua là em, cháu của chúng ta, nên bảo các người
trẻ tuổi chào đón đạo sĩ, chúng ta sẽ ở phía sau, và ngồi yên một
chỗ, không đảnh lễ Đức Phật". Để khắc phục tánh kiêu căng và
cảm hóa các vị cao niên trong hoàng tộc, Đức Phật bay lên giữa lừng trời
và dùng thần thông, hóa phép Yamaka Patihariya, "đôi thần thông lực",
làm cho nước và lửa cùng một lúc phát sanh ra từ lỗ chân lông [2].
Thấy oai lực thần thông của Đức
Phật, Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) đến đảnh lễ Ngài và nói rằng đây là
sự đảnh lễ lần thứ ba [3]
Tất cả các vị hoàng thân khác đều
noi gương đức vua, cung kính đảnh lễ Phật.
Khi mọi người đảnh lễ xong, Ngài
bay xuống và ngồi trên một ghế bành cao đã được dọn sẵn. Tất cả
hoàng thân quốc thích đều khiêm tốn ngồi lại xung quanh, im lặng lắng
nghe Đức Phật giảng.
Vừa lúc ấy, một trận mưa bất
ngờ rơi xuống, gây nên những lời bàn tán sôi nổi giữa các vị hoàng
thân về hiện tượng kỳ lạ ấy.
Kế đó, Đức Phật giảng kinh
Vessantara Jataka [4], dạy rằng trường hợp tương tợ đã xảy ra trong một
tiền kiếp, khi Ngài thuyết Pháp trước cử tọa gồm họ hàng thân quyến.
Tất cả đều lấy làm thỏa thích.
Nhưng khi chia tay ra về, không ai biết
bổn phận là phải cung thỉnh Đức Phật và chư đệ tử về trai tăng. Chính
Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) cũng không biết, vì nghĩ rằng, "Nếu
Thái tử con ta không về hoàng cung thì còn đi đâu?" nên Ngài trở về
cung điện truyền bày yến tiệc và đón chờ Đức Phật.
Đức Phật Đi Trì Bình và Tế Độ
Đức Vua Suddhodana
Vì không có lời thỉnh cầu riêng
nên Đức Phật chuẩn bị dắt đoàn đệ tử đi trì bình. Trước khi đi,
Đức Phật suy xét như sau: "Khi về đến quê nhà, chư Phật trong quá
khứ có đi ngay vào nhà thân bằng quyến thuộc để độ thực hay cũng đi
từ nhà này sang nhà khác". Sau khi nhận thấy rằng các Ngài đi trì
bình chứ không về nhà, thì Đức Phật cũng làm theo, dẫn chư tăng đi
theo đường phố trong thành Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ) khất thực.
Khi nghe Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà
La) thuật lại hành động thoáng qua hình như bất lịch sự của Đức Phật,
vua lấy làm bàng hoàng khó chịu, đi ra tìm Ngài và sau khi đảnh lễ, nói:
"Này Thái Tử con, sao con nỡ
làm tổn thương thể thống hoàng tộc như vậy? Cha lấy làm nhục nhã khi
thấy con đi khất thực trong chính cái thành phố mà thường ngày con chỉ
đi bằng kiệu vàng. Tại sao con nỡ làm nhục cha như vậy?"
Trước sự ngạc nhiên của vua cha,
Đức Phật trả lời:
"Tâu Đại Vương, Như Lai không
hề làm nhục Đại Vương! Như Lai chỉ hành động theo đúng truyền thống
của dòng dõi Như Lai"
- Nhưng này Thái Tử con! Có phải
chăng truyền thống trong dòng dõi hoàng tộc là nuôi mạng sống bằng cách
đi khất thực? Hoàng tộc chúng ta là dòng dõi của vị chiến sĩ anh hùng
Mahasammata chứ không phải chỉ là hạng người tầm thường phải nhục nhã
đi khất thực để nuôi mạng.
- Tâu Đại Vương, hẳn không phải
truyền thống của hoàng tộc là khất thực độ mạng. Nhưng đây là truyền
thống của chư Phật. Hằng ngàn vị Phật trong quá khứ vẫn đi trì bình
khất thực.
Rồi, đứng luôn ngoài đường, Đức
Phật khuyên vua cha như sau:
"- Không dể duôi phóng dật,
luôn luôn giữ chánh niệm (khi đi trì bình, đứng trước cửa người ta).
Người trang nghiêm hạnh chánh hạnh ấy sẽ sống an vui hạnh phúc ở thế
gian này và trong những kiếp tương lai. [5]"
Nghe đến đây Đức Vua Tịnh Phạn
chứng ngộ Chân Lý, đắc Quả Tu Đà Hườn . Vua liền đến gần rước bát
của Đức Phật và thỉng Ngài cùng chư đệ tử về hoàng cung trai tăng.
Sau khi độ thực xong, Đức Phật lại giảng như sau:
"Hãy trang nghiêm hành chánh hạnh.
Không nên dể duôi phóng dật. Người trang nghiêm giữ chánh hạnh ấy sẽ
sống an vui hạnh phúc, trong thế gian này và thế gian sắp đến. [6]"
Vua nghe xong, đắc Quả Tư Đà Hàm
(Sakadagami, Nhứt Lai), tầng nhì trong bốn tầng thánh và bà Pajapati Gotami đắc
Quả Tu Đà Hườn.
Về sau, có người thuật lại rằng
trước kia, khi thái tử tu khổ hạnh trong rừng, có lời đồn đến tai vua
rằng vì không chịu nổi lối sống ép xác khắc khổ nên thái tử đã từ
trần, nhưng vua nhất định không tin. Đức Phật giảng cho vua đoạn kinh
Dhammapala Jataka [7] (Trì Pháp Túc Sanh Truyện), thuật lại rằng trong một tiền
kiếp cũng có lần vua từ chối không chịu tin rằng con của mình chết,
khi có người báo như vậy. Lúc ấy người ta chỉ đống xương, bảo là xương
của người con, nhưng vua không tin. Lần này, khi nghe xong thời Pháp, vua đắc
Quả A Na Hàm (Anagami,Bất Lai), tầng thánh thứ ba.
Trong giờ phút hấp hối, vua lại
được nghe Đức Phật giảng Pháp lần cuối cùng và đắc Quả A La Hán trước
khi nhắm mắt. Sau khi hưởng quả phúc trong bảy ngày, Đức Vua Suddhodana (Tịnh
Phạn) băng hà. Lúc ấy Đức Phật khoảng bốn mươi tuổi.
Đức
Phật và Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La)
Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La), thường
được gọi là Rahulamata, hay Bimba, hay Bhaddakaccana, là con của vua
Suppabuddha, trị vì dân tộc Koliya, và Hoàng hậu Pamita, em gái Vua Suddhodana
[8]. Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La) đồng tuổi với Thái Tử Siddhattha.
Lúc bà lên mười sáu, Thái Tử Siddhattha được vua Suppabuddha chọn làm
phò mã sau một cuộc biểu dương võ nghệ. Lúc bấy giờ đời sống của
công chúa thật vô cùng dồi dào phong phú và an vui hạnh phúc. Năm hai
mươi chín tuổi, chính trong ngày bà hạ sanh hoàng nam, người con duy nhất
tên Rahula (La Hầu La), vị Thái tử trầm tư mặc tưởng và thông minh xuất
chúng, ông chồng yêu quý của Bà, quyết định từ bỏ thế gian để tìm
lối thoát ra khỏi mọi khổ đau của đời sống. Không một lời từ giã
người vợ trẻ đẹp và hiền lành đáng quý, Thái tử rời bỏ cung điện
trong đêm tối, để lại bà trọn vẹn trọng trách chăm nom và giáo dục
con thơ. Đến sáng, lúc bà đang trông chờ Thái tử để đón mừng như
thường lệ thì được tin Ngài đã ra đi. Niềm sầu muộn của bà không
sao kể xiết. Bà đã mất bảo vật quý giá nhất trong đời. Cung vàng điện
ngọc lúc bấy giờ đối với bà chỉ là ngục thất tối tăm. Nguồn an
ủi độc nhất của bà là hoàng tử sơ sanh.
Lúc ấy có nhiều hoàng thân quý tộc
dòng dõi Kshatriya ngắm nghé đến hỏi, nhưng bà từ chối tất cả và
luôn luôn trung thành với ông chồng yêu quý. Khi nghe chồng sống đời tu
sĩ, bà cởi hết vòng vàng châu báu và đắp y vàng. Trong khoảng thời gian
sáu năm trường, lúc Đạo Sĩ Gotama cố gắng chiến đấu để chứng ngộ
Đạo Quả Vô Thượng thì Công Chúa Yasodhara luôn luôn theo dõi mọi hành động
và cũng sống giống như vậy.
Khi Đức Phật trở về quê nhà ở
Kapilavatthu và khi Đức Vua Suddhodana thỉnh về cung điện trai tăng thì tất
cả mọi người đều ra đảnh lễ, nhưng công chúa Yasodhara thì không. Bà
nghĩ rằng: "Nếu vạn nhất ta còn giữ được trong sạch một đức hạnh
nào, thì chính Đức Thế Tôn sẽ quang lâm đến đây. Chừng ấy ta sẽ đảnh
lễ Ngài".
Sau khi độ thực xong, Đức Phật
trao bát lại cho Đức Vua cầm, dắt theo hai vị đại đệ tử, bước vô
phòng công chúa, ngồi trên chỗ đã dọn sẵn cho Ngài và dạy: "Hãy để
công chúa tùy tiện đảnh lễ Như Lai theo ý thích. Không nên nói gì."
Lúc nghe Đức Phật về, công chúa
truyền lệnh cho tất cả thị nữ đều mặc y phục màu vàng. Khi Đức Phật
vào phòng và ngồi yên nơi, công chúa nhẹ nhàng bước đến, dụm hai chân
lại, quỳ xuống, khấu đầu trên chân Ngài và đảnh lễ theo ý bà, rồi
cung kính ngồi lại một bên. Lúc ấy Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) mở lời
tán dương đức hạnh của bà và ngợi khen lòng trung thành trong sạch của
bà như sau:
"Bạch Đức Thế Tôn, khi công
chúa nghe tin Ngài đắp y vàng thì nàng cũng đắp y vàng; khi được biết
Ngài chỉ độ thực một lần trong ngày, nàng cũng làm như vậy; khi được
biết Ngài không nằm giường cao, nàng cũng nằm dưới thấp; khi được biết
Ngài từ bỏ không dùng tràng hoa và dầu thơm, nàng cũng từ bỏ những vật
ấy; khi các hoàng thân quý tộc cậy người đến mai mối, nàng không màng
nhìn đến người nào. Công chúa quả thật tiết hạnh vẹn toàn."
- "Không phải chỉ trong kiếp sống
cuối cùng của Như Lai mà trong tiền kiếp, nàng đã bảo vệ, kỉnh mộ
và trung thành với Như Lai."
Đức Phật tiếp lời vua Tịnh Phạn
và, để an ủi bà trước khi Ngài rời cung điện, thuật câu chuyện
Candakinnara Jataka, nhắc lại mối liên hệ giữa Ngài và công chúa trong những
kiếp quá khứ [9].
Về sau, khi Đức vua Suddhodana băng
hà, Hoàng Hậu Pajapati Gotami xuất gia Tỳ khưu ni (Bhikkhuni), Công Chúa
Yasodhara cũng xuất gia và đắc Quả A La Hán.
Trong hàng tín nữ, bà Yasodhara đứng
đầu những vị đã chứng đắc đại thần thông (Maha Abhinna) [10] và nhập
diệt lúc bảy mươi tám tuổi.
Tên bà không được nhắc đến
trong kinh Therigatha nhưng những câu kệ đáng chú ý của bà có ghi trong kinh
Apadana [11]
Đức
Phật và Rahula (La Hầu La)
Rahula (La Hầu La) là con duy nhất của
Thái Tử Siddhattha và Công Chúa Yasodhara. Ngài sanh ra đúng nhằm ngày mà
Thái Tử Siddhattha quyết định thoát ly thế tục. Tin mừng Công chúa hạ
sanh hoàng nam đến trong lúc Thái tử đang trầm tư chiêm nghiệm trong ngự
uyển. Trái với lệ thường khi người ta có được đứa con đầu lòng,
thái tử không quá đỗi vui mừng. Ngài than: "Rahu jato, bandhanam
jatam!", "Một 'Rahu' đã ra đời, lại thêm một trói buộc!" Do
đó đức vua cha đặt tên cháu nội là Rahula [12].
Rahula trưởng thành trong cảnh
không cha, được mẹ và ông nội nuôi dưỡng. Lúc Đức Phật trở về
Kapilavatthu lần đầu tiên, Rahula lên bảy. Vào ngày thứ bảy sau khi Đức
Phật lưu lại quê nhà, Công chúa Yasodhara mặc áo chỉnh tề cho con và chỉ
Đức Phật, bảo con:
"Này con, nhìn xem kìa, vị sa
môn đắp y vàng, trông như một vị Phạm Thiên giữa đám hai vạn tu sĩ!
Ngài là cha của con và Ngài là một kho tàng vô giá, vô cùng vĩ đại. Từ
ngày Ngài xuất gia, chúng ta chưa được gặp. Hãy chạy đến và xin Ngài
trao lại cho con phần gia sản của con. Con nói như thế này: "Kính thưa
cha, con là hoàng tử. Sau khi lên ngôi, con sẽ là một vị vua cai trị cả vương
quốc. Hiện giờ con đang cần gia sản. Kính xin cha trao cho con, vì tài sản
của cha tức là của con."
Cậu bé ngây thơ Rahula (La Hầu La)
làm theo lời mẹ dạy, đến gần Đức Phật và, một cách vô cùng kính mến,
bạch:
"Bạch Sa Môn, chỉ cái bóng của
Ngài cũng làm cho con hết sức mát mẻ an vui."
Khi độ ngọ xong, Đức Phật rời
hoàng cung. Rahula theo chân Ngài và bạch: "Xin Ngài trao gia tài cho
con". Và nói thêm nhiều chuyện nữa, nhưng không ai ngăn cản. Đức Phật
cũng không cấm đi theo. Khi về đến ngự uyển là nơi Ngài lưu trú, Đức
Phật nghĩ:
"Nó muốn gia tài của cha, nhưng
tài sản trong thế gian quả thật đầy phiền não. Như Lai sẽ ban cho nó
gia tài cao thượng gồm bảy phần mà Như Lai đã thâu đạt dưới cội bồ
đề. Như Lai sẽ giúp cho nó trở thành sở hữu chủ của một gia tài
siêu thế."
Đức Phật gọi Ngài Sariputta (Xá Lợi
Phất), dạy làm lễ xuất gia cho Rahula (La Hầu La).
Lúc ấy lên bảy, Rahula thọ lễ xuất
gia.
Khi nghe tin người cháu nội thân
yêu xuất gia thì vua Suddhodana vô cùng sầu muộn. Ngài ngự giá đến gặp
Đức Phật và từ tốn xin Phật từ rày về sau không ban truyền lễ xuất
gia cho ai mà chưa được cha mẹ cho phép. Vua nói: "Khi Đức Thế Tôn
lìa bỏ thế gian ra đi, Trẫm vô cùng đau xót. Rồi đến Nanda, và nay lại
có trường hợp Rahula. Tình thương của người cha mất con quả thật cũng
dường như bị ai cắt da, xẻ thịt, cắt gân, cắt luôn cả xương, cả tủy.
Xin Đức Thế Tôn chấp nhận lời thỉnh nguyện này, sẽ không ban hành lễ
xuất gia cho một người con nào mà chưa được cha mẹ cho phép." [13]
Đức Phật sẵn sàng chấp thuận lời
thỉnh cầu và ban hành thành luật.
Thật rất khó tưởng tượng một
cậu bé có thể sống đời cao thượng theo bậc xuất gia. Nhưng Sa-di Rahula
(La Hầu La) vừa thông minh vừa đặc biệt biết vâng lời và tôn trọng giới
luật lại rất chuyên cần tu học. Kinh sách ghi rằng, mỗi sáng Sa di dậy
thật sớm, ra ngoài bốc lên tay một nắm cát, tung ra và nguyện: "Mong
rằng ngày hôm nay ta học được nhiều như bao nhiêu cát đây!"
Một trong những bài kinh đầu tiên
mà Rahula được nghe giảng là Ambalatthika Rahulovada Sutta, nhấn mạnh tầm
quan trọng của hạnh chân thật.
Ngày kia, thấy Đức Phật từ xa đến,
Sa-di Rahula dọn dẹp chỗ ngồi và để sẵn nước cho Đức Phật rửa chân.
Khi rửa xong, Đức Phật chừa lại một ít nước trong thau và hỏi:
"Rahula, con thấy còn lại một
chút nước trong thau không?"
-- Bạch Đức Thế Tôn, dạ con thấy.
-- Cùng thế ấy, Rahula, đời Sa-di
quả thật không có nghĩa lý gì nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn.
Rồi Đức Phật tát hết nước
trong thau ra và dạy:
"Đời Sa-di quả thật như bỏ
đi, nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn."
Rồi Đức Phật lật úp cái thau xuống
và dạy:
"Đời Sa-di quả thật bị đảo
lộn, nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn."
Cuối cùng Đức Phật lật trở lên
và để ngay ngắn cái thau và dạy:
"Đời Sa-di quả thật trống không
và vô vị, nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn."
"Với người nói dối mà không
biết hổ thẹn, Như Lai tuyên bố, không có điều tội lỗi xấu xa nào mà
người ấy có thể không làm. Do đó, Rahula, con phải cố gắng lập tâm
quyết định: - Dầu trong lúc chơi đùa, tôi cũng không nói dối."
Nhấn mạnh tầm quan trọng của
hãnh chân thật bằng những thí dụ dễ hiểu, Đức Phật giải thích cho
Sa-di Rahula giá trị của sự suy luận và đức hạnh căn bản, với hình
ảnh thông thường, trẻ con cũng có thể lãnh hội:
"- Rahula, cái gương để làm
gì?"
"- Bạch Đức Thế Tôn, để phản
chiếu lại hình ảnh."
"- Cùng thế đó, Rahula, trước
khi hành động con phải dò xét, suy gẫm tận tường. Trước khi nói phải
dò xét, suy gẫm. Trước khi nghĩ gì phải dò xét và suy gẫm tận tường.
"Bất luận điều gì con muốn
làm (bằng thân), phải suy gẫm thế này: 'Bây giờ, chính điều này mà ta
muốn thực hiện bằng thân, hành động này có hại cho ta, hay có hại cho
kẻ khác, hoặc có hại cho ta và cho kẻ khác'. Vậy thì hành động này là
bất thiện, hành động này đem lại phiền não và đau khổ. Hành động
như vậy, con phải tránh, không nên làm.
"Nếu đàng khác, khi suy luận,
con nhận định rằng: 'Bây giờ chính hành động này mà ta muốn thực hiện
bằng thân, sẽ không có hại cho ta, không có hại cho ai khác, cũng không
có hại cho ta và cho kẻ khác.'Như vậy, đó là hành động thiện, sẽ đem
lại an vui và hạnh phúc. Hành động như thế con phải làm."
Và Đức Phật dạy Sa-di Rahula (La Hầu
La) phải dùng trí suy luận trong lúc, và sau khi, làm điều gì.
"Trong khi đang làm điều chi bằng
thân, con phải suy gẫm: 'Bây giờ hoạt động này mà ta đang làm bằng
thân, có hại cho ta không? Hoặc có hại cho kẻ khác không? Hoặc có hại
cho ta và kẻ khác không?'
"Nếu khi suy luận, con nhận định
rằng: 'Bây giờ hành động này mà ta đang làm bằng thân, có hại cho
chính ta, có hại cho kẻ khác, hoặc có hại cho ta và cho kẻ khác.' Như vậy,
đó là hành động bất thiện, sẽ đem lại phiền não và đau khổ. Con phải
ngưng ngay, không tiếp tục hành động ấy nữa.
"Nếu, khi suy luận, con nhận định
rằng: 'Bây giờ hành động này mà ta đang làm bằng thân, không có hại
cho chính ta, không có hại cho kẻ khác, cũng không có hại cho ta và cho kẻ
khác.' Như vậy, đó là hành động thiện, sẽ đem lại an vui và hạnh
phúc. Hành động như thế, con phải lặp đi lặp lại nhiều lần."
Và Đức Phật thêm:
"Nếu, khi suy luận, con nhận định
rằng: 'Bây giờ, hành động này mà ta đã làm là bất thiện.' Con phải
sám hối, phải nói với vị thầy tế độ hay với bậc thiện trí thức,
hoặc với các đạo hữu trong Giáo Hội. Đã sám hối, con phải chừa trong
tương lai, không nên tái phạm."
Những lời khuyên dạy về hành động
thiện, bất thiện, bằng khẩu và ý cũng giống như vậy.
Đức Phật giảng giải dong dài rằng
muốn giữ tâm trong sạch, điều chánh yếu là phải luôn luôn suy luận,
và Ngài kết thúc bài Pháp như sau :
"Như thế ấy con phải cố gắng
luyện tập, luôn luôn suy gẫm tận tường để giữ trong sạch mọi hành
động bằng thân, khẩu, ý."
Trong bộ Samyutta Nikaya (Tạp A Hàm)
[14], có một chương đặc biệt ghi lại những lời Đức Phật dạy Sa-di
Rahula về đặc tướng vô thường của vạn pháp.
Vì Đại Đức Rahula xuất gia lúc
tuổi còn nhỏ nên Đức Phật năng chăm lo khuyên bảo và dẫn dắt Ngài
trên con đường chân chính.
Kinh Sutta Nipata ghi chép rằng Đức
Phật thường lặp đi nhắc lại Sa-di Rahula bài kệ sau đây [15]:
"Hãy từ bỏ dục lạc của ngũ
trần - vừa êm dịu vừa đầy sức quyến rũ. Với Niềm Tin vững chắc, hãy
từ bỏ gia đình để làm người chấm dứt mọi đau khổ.
Hãy tìm chỗ ở nơi xa xôi, ẩn dật,
thanh vắng và an tĩnh.
Hãy tri túc trong sự độ thực.
Không luyến ái y, bát, những vật
dụng cần thiết và chỗ ở.
Không nên trở lại thế gian này.
Hãy nghiêm trì giới luật và thu
thúc lục căn.
Hãy thận trọng canh phòng nhục dục
ngũ trần và hãy nhàm chán thế gian.
Hãy tránh xa những hào nhoáng bề
ngoài của sự vật. Hãy trau dồi tâm nhất điểm và tĩnh lặng trong sạch.
Hãy phát triển những gì không nuôi dưỡng lớp mặt bề ngoài. Hãy loại
trừ tánh ngã mạn ngủ ngầm trong tâm. Khi tận diệt ngã mạn như vậy,
con sẽ đi xuyên qua cuộc sống trong thanh bình an lạc tuyệt đối."
Đến năm lên mười tám, nhân dịp
một tư tưởng luyến ái phát sanh có liên quan đến thân hình đẹp đẽ của
mình, Sa-di Rahula (La Hầu La) lại được nghe một bài Pháp thâm diệu về sự
phát triển tinh thần. Ngày nọ thầy Sa-di theo Đức Phật trì bình. Phong độ
oai nghiêm quý trọng của hai vị tu sĩ xem tựa hồ như thớt ngự tượng dõng
dạc cùng đi với tượng con quý phái, như thiên nga của đức vua dắt con
lội trên mặt hồ trong cung điện, như hổ chúa oai phong và hùm con lẫm liệt.
Cả hai Ngài đều có thân hình đẹp đẽ, cả hai đều thuộc dòng mã thượng
và vương tôn, cả hai đều từ ngai vàng cất bước ra đi. Trong lúc chiêm
ngưỡng dung nhan Đức Thế Tôn, Sa-di Rahula (La Hầu La) nghĩ rằng: "Ta
cũng đẹp đẽ như Đức Thế Tôn, cha ta. Thân hình của Đức Phật vô
cùng đẹp đẽ và thân hình ta cũng vậy. [16]"
Đức Phật đọc ngay tư tưởng bất
thiện ấy. đang đi, Ngài dừng chân, quay lại dạy như sau:
"Bất luận hình dáng đẹp đẽ
hay xấu xa, hay thế nào đi nữa, cũng phải được quan sát như vầy: Cái
này không phải của ta (N'etam mama); cái này không phải là ta (N'eso'ham'
asami); cái này không phải là linh hồn của ta (Na me so atta) [17]"
Thầy Rahula cung kính bạch với Đức
Phật có phải ta chỉ nên xem hình thể như thế ấy không. Đức Phật dạy
rằng ta phải xem tất cả năm uẩn (khandha) [18] như thế ấy.
Sau khi nghe lời giáo huấn của Đức
Thế Tôn, Thầy Rahula xin phép không đi theo vào làng trì bình như mọi hôm.
Thầy dừng lại dưới cội cây, ngồi tréo chân theo lối kiết già, thẳng
mình và chú tâm hành thiền.
Đức Sariputta (Xá Lợi Phất), thầy
tế độ của Sa-di Rahula (La Hầu La), lúc ấy không biết người đệ tử
đang hành thiền về một đề mục mà Đức Phật vừa dạy, thấy thầy
Rahula ngồi kiết già dưới cội cây thì khuyên nên chú tâm về pháp niệm
hơi thở (Anapana Sati).
Sa-di Rahula lấy làm phân vân khó xử
bởi vì Đức Phật dạy một đề mục và vị thầy tế độ lại dạy một
đề mục hành thiền khác.
Thầy liền hành theo lời vị thầy
tế độ, niệm hơi thở rồi sau đó, đến bạch với Đức Phật xin được
giải thích về điểm này. Đức Phật dẫn giải lời Ngài đã khuyên dạy
về đề mục sắc uẩn và các uẩn khác, rồi Ngài vắn tắt đề cập đến
một vài đề mục hành thiền khác với công hiệu của mỗi đề mục như
tạm thời chế ngự tâm bất thiện nào v.v... Sau cùng Ngài giải thích về
pháp niệm hơi thở-vào, thở-ra (Anapana Sati).
Làm đúng theo lời dạy của Đức
Phật, Sa Di Rahula gia công chăm chú hành thiền và không bao lâu, khi nghe kinh
Cula Rahulovada Sutta [19], đắc Quả A La Hán.
Mười bốn năm sau khi Đức Phật
Thành Đạo, Sa Di Rahula thọ cụ túc giới, xuất gia tỳ khưu. Ngài viên tịch
trước Đức Phật và Đức Xá Lợi Phất. Đại Đức Rahula nổi tiếng là
người rất tôn trọng kỷ luật. Những vần thơ trong kinh Theragatha, phiên
dịch sau đây, được xem là của Ngài:
"Ta được diễm phúc hai lần
thọ hưởng phước báu và được bạn hữu gọi là 'La Hầu La hữu phước',
vì là cả hai -- con của Đức Phật và người đã Chứng Ngộ Chân Lý.
Thật vậy! (Ta) không còn trở lại
nữa (trên thế gian).
A La Hán, ta xứng đáng nhận lãnh
lòng tôn kính cúng dường của nhân loại.
Chúng sanh bị nhục dục ngũ trần
làm mù quáng.
Những khát vọng của cơ thể vật
chất bao trùm lên chúng sanh như một màng lưới kín mít.
Chúng sanh bị bao phủ trong tham ái,
không khác nào cá nằm trong rọ.
Nhưng nay ta đã xoay lưng, không còn
nghe tiếng gọi của ngũ trần.
- Đã cắt đứt và phá vỡ
mọi thằng thúc,
- Đã tận diệt tham ái, bứng tận gốc
rễ.
- Giờ đây ta mát mẻ, thanh bình, an lạc.
- Bao nhiêu lửa đã bị dập tắt."
[20]
Chú thích
[1] Mangala Sutta, Kinh Hạnh Phúc. Xem
Phụ Bản I.
[2] Yamaka Patihariya, thường được
gọi "đôi phép thần thông", là hai phép lạ phát sanh cùng một
lúc. Đây là thần thông mà chỉ một vị Phật mới có. Do phép này, nước
và lửa phun ra cùng một lỗ chân lông. Bản chú giải Patisambhida-magga ghi rằng
lửa và nước có nghĩa là tia sáng đỏ và tia sáng xanh.
[3] Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) đảnh
lễ lần thứ nhất khi thấy hoàng tử lúc mới sanh, gác chân lên đầu tóc
Đạo Sĩ Asita. Lần thứ nhì trong lễ đi cày, khi thấy Thái tử ngồi hành
thiền.
[4] Xem Jataka, Túc Sanh Truyện, Tập
VI, trang 479, số 547; Dhammapadatthakatha, Tập III, trang 163-164. Câu chuyện lý
thú này, dài nhất trong bản chú giải Túc Sanh Truyện, cho thấy đức độ
quảng đại khoan hồng của Đức Phật thật là vô hạn.
[5] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 168.
[6] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 169.
[7] Túc Sanh Truyện, số 447
[8] Xem bảng gia phả, cuối Chương
1
[9] Bản chú giải bộ Anguttara
Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, ghi: "Một vị Phật chỉ có bốn đệ tử đắc
đại thần thông (Maha Abhinna). Những đệ tử khác chỉ có thể nhớ được
đến 100.000 Kalpa (châu kỳ), không thể hơn. Nhưng vị đắc đại thần thông
có thể nhớ lại vô số kỷ nguyên. Trong thời Đức Phật chỉ có bốn vị
đắc đại thần thông là hai vị đại đệ tử, vị Trưởng lão Bakkula
và Đức Bhadda Kaccana, tức bà Yasodhara (Da Du Đà La). Chỉ có bốn vị ấy."
[10] Trang 584-590. Nơi đây, bà thuật
lại mối liên hệ giữa bà và Bồ Tát khi Ngài gặp Đức Phật Dipamkara và
phát nguyện trở thành Phật.
[11] Đúng ngữ nguyên
"La"là bị cột lại hay bị nắm lấy; và "Rahu" là dây
trói buộc.
[12] Xem Buddhist Legends, phần I, trang
219.
[13] Majjhima Nikaya, Trung A-hàm, 61
[14] Samyutta Nikaya, phần 2 trang
244-253 và Kindred Sayings, phần 2 trang 164-168.
[15] Sutta Nipata, Rahula Sutta. Chalmers'
"Buddha's Teachings", trang 81
[16] Majjhima Nikaya, Trung A-hàm, số
62.
[17] Xem Anattalakkhana Sutta, Kinh Vô
Ngã Tướng, bài Pháp thứ nhì, chương 6, trang 117-119.
[18] Cái được gọi là chúng sanh gồm
năm uẩn. Ngoài năm uẩn ấy không có chúng sanh. nếu bỏ năm uẩn ra sẽ
không còn gì tồn tại. Không có linh hồn hay bản ngã trong một uẩn riêng
lẻ, không có linh hồn trong năm uẩn hợp lại, mà linh hồn cũng không có
ngoài năm uẩn ấy.
[20] Psalms of the Brethren, trang 183. Những
câu 297-298.