Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [44]
- Những vấn đề của
kiếp nhân sinh
Con người là ai? Từ đâu đến?
Đi về đâu? Tại sao? Mục tiêu là gì?
Đó là vài thắc mắc quan trọng thường
làm bận tâm toàn thể nhân loại.
Chúng ta hãy tuần tự nghiên cứu,
khởi đầu bằng cách khảo sát những gì tự nó biểu hiện hiển nhiên, mọi
người đều có thể nhận ra.
1. Con người
là gì?
Con người có một cơ thể vật chất
mà giác quan của chúng ta có thể cảm nhận trực tiếp hay xuyên qua những
dụng cụ. Cơ thể vật chất này bao gồm những năng lực và những tính
chất luôn luôn biến chuyển.
Nhà khoa học nhận thấy khó mà định
nghĩa vật chất là gì? Vài triết gia giải rằng: "Vật chất là cái
gì trong đó có những biến đổi liên tục diễn tiến gọi là di động, và
di động là những biến chuyển ấy, xảy diễn bên trong vật chất."
[1]
Danh từ Pali gọi vật chất là
"Rupa", Sắc. Sắc được giải thích là cái gì biến đổi và hư
hoại. Sắc hay vật chất cũng được giải thích là cái gì tự mình biểu
hiện thành hình.
Theo Phật Giáo, vật chất được cấu
thành do bốn nguyên tố căn bản là: Pathavi (Đất), Apo (Nước), Tejo (Lửa)
và Vayo (Gió).
Pathavi (Đất), là nguyên tố có đặc
tính duỗi ra, nền tảng của vật chất. Nếu không có nguyên tố Đất, vật
thể không thể chiếm không gian. Tính chất cứng hay mềm chỉ là hai điều
kiện tương đối của nguyên tố Đất. Nguyên tố Đất luôn luôn hiện hữu
trong đất, nước, lửa và không khí. Thí dụ như nước ở lớp dưới nâng
đỡ nước ở lớp trên. Chính nguyên tố Đất có đặc tính duỗi ra hợp
với nguyên tố Gió có đặc tính di động, đã tạo áp lực hướng lên
trên và do đó nâng đỡ lớp nước ở phần trên. Nước nóng hay lạnh là
do nguyên tố Lửa (Tejo). Thể lỏng của nước do nguyên tố Nước (Apo).
Apo (Nước) là nguyên tố có đặc
tính kết hợp lại và làm dính liền. Không giống như đối với nguyên tố
Đất, ta không thể cảm giác nguyên tố Nước (Apo) bằng xúc giác, tức
không thể hay biết nó được bằng cách sờ đụng. Đây là nguyên tố có
đặc tính kết hợp lại, làm dính liền nhau những phần tử rời rạc của
vật chất và cho ta ý niệm vật thể.
Tejo (Lửa) là nguyên tố có đặc tính
nóng. Lạnh cũng là một hình thức của Lửa (Tejo). Cả hai, nóng và lạnh,
đều là đặc tính của Lửa, bởi vì cả hai đều có khả năng làm đổi
thay, làm cho già, chín hay nói cách khác, tạo sinh lực cho vật thể. Một vật
được duy trì gìn giữ lâu bền, hay bị hư hoại là do nguyên tố Lửa.
Vajo (Gió) là nguyên tố có đặc tính
di động. Có sự chuyển động là do nơi nguyên tố này. Trạng thái di động
được xem là năng lực hay nguyên động lực làm phát sanh hơi nóng. Di động
và sức nóng trong lãnh vực vật chất cũng tương ứng với nhau gống như
tâm và nghiệp trong phạm vi tinh thần.
Bốn năng lực hùng mạnh này tương
quan với nhau mật thiết mà không thể tách rời lìa khỏi nhau. Nhưng trong
một vật thể, thành phần này có thể trội hơn là thành phần khác. Như
trong đất chẳng hạn, nguyên tố Đất trội hơn ba nguyên tố kia. Trong nước
thì nguyên tố Nước trội hơn v.v...
Như vậy, Sắc (Rupa) bao gồm những
năng lực và những tính chất trong trạng thái luôn luôn biến chuyển,
không bao giờ tồn tại giống hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Theo Phật
Giáo, Sắc (Rupa) chỉ tồn tại trong thời gian 17 chặp tư tưởng. [2]
Theo các nhà sinh vật học, vào lúc
bà mẹ thọ thai, con người cbỉ thừa hưởng nơi cha mẹ một tế bào cực
kỳ vi tế là một phần ba chục triệu (1/30.000.000) bề kính, của một
phân Anh (inch). "Trong vòng chín tháng, đốm nhỏ cực vi này trở thành
một khối sinh vật 15.000 triệu lần lớn hơn lúc ban sơ. [3]" Tế bào
vật-lý-hóa này là nền tảng vật chất của con người. Theo Phật Giáo,
nam tính hay nữ tính của một người được quyết định vào lúc mẹ thọ
thai.
Phối hợp với phần vật chất (Sắc),
trong guồng máy phức tạp của con người còn có một yếu tố quan trọng.
Đó là cái Tâm. Cũng như có vài tác giả uyên thâm thích nói, rằng con người
không phải là "Tâm cọng với Thân", hay "Danh và Sắc", mà
là "Danh-Sắc", một sự phối hợp chặt chẽ giữa hai thành phần
- vật chất và tâm linh. Các nhà khoa học nói rằng đời sống khởi sanh từ
vật chất, và tâm (phát sanh) từ đời sống. Nhưng các vị này không cung
ứng cho ta một giải thích thỏa đáng về lịch trình phát triển của
tâm.
Không giống như cơ thể vật chất,
tâm không có hình thể và ta không thể thấy. Mặc dù vậy ta có thể trực
tiếp thọ cảm. Có hai câu nói của người thời xưa như sau:
"Tâm là gì? - Không có vật chất
Vật chất là gì? - Không bao giờ
có tâm" [4]
Chúng ta hay biết những tư tưởng,
những cảm giác v.v... bằng cách trực tiếp tri giác, và chúng ta suy luận
rằng người khác cũng tri giác cùng một thế ấy.
Tiếng Pali có nhiều danh từ để
chỉ cái Tâm, trong đó ba danh từ "mana", "citta" và
"vinnana" là thông dụng nhất. Chúng ta hãy so sánh căn
"man", có nghĩa suy tư, với chữ "man" trong tiếng Anh, có
nghĩa con người, và Phạn ngữ "manussa", có nghĩa người đã có
tâm thức được phát triển.
Trong Phật Giáo không có sự phân
biệt giữa "tâm" (citta) và "thức" (vinnana). Hai danh từ
này được sử dụng đồng nghĩa với nhau. Tâm chỉ giản dị được định
nghĩa là "sự hay biết đối tượng", bởi vì không có một thực
thể tác động, hay một linh hồn chỉ đạo tất cả những sinh hoạt tâm
linh. Chỉ có những trạng thái tâm luôn luôn sanh rồi diệt, nhanh như chớp.
Sông từ nguồn chảy ra biển cả. Trong dòng trôi chảy, sông tiếp nhận những
luồng nước mới từ các rạch ngòi đổ vào. "Với sự sanh là nguồn
và tử là cửa biển, tâm đều đặn trôi chảy như một dòng sông, không
ngừng tiếp nhận những luồng nước khác nhau do các rạch ngòi giác quan
cung ứng."
Mỗi chặp tư tưởng (sát na tâm) của
dòng đời luôn luôn biến đổi này khi diệt, chuyển trao tất cả năng lực,
tất cả những cảm xúc đã thâu nhận và không thể xóa bỏ, cho chập tư
tưởng kế đến. Như vậy, mỗi chặp tư tưởng mới bao gồm những tiềm
năng của chặp trước và thêm vào những gì khác. Vì tất cả những cảm
xúc đã được ghi nhận vững chắc trong cái tâm luôn luôn biến đổi, và
bởi vì tất cả những tiềm năng đều được chuyển trao từ kiếp sống
này sang kiếp khác nên có người còn có thể nhớ lại tiền kiếp, hoặc
một vài diễn biến của tiền kiếp, mặc dù cơ thể đã trải qua giai đoạn
tạm thời hoại diệt. Nếu trí nhớ chỉ tùy thuộc vỏn vẹn nơi bộ óc,
thì khi cân não hoại diệt cùng với cơ thể vật chất ắt không ai còn hồi
nhớ gì.
Như điện lực, tâm có khả năng rất
hùng mạnh, để xây dựng cũng như để tiêu diệt, như một khí giới bén
cả hai bề, mà ta có thể xử dụng để làm điều phải hay điều quấy.
Chỉ một tư tưởng phát sanh trong cái tâm vô hình này cũng có thể cứu
vãn hay tiêu diệt thế gian. Một ý nghĩ có thể giúp an cư lạc nghiệp hay
tàn phá toàn thể một quốc gia. Chính tâm tạo thiên đàng cho ta, cũng chính
tâm tạo địa ngục cho ta.
Ouspenky viết:
"Về năng lực ngủ ngầm trong
các hiện tượng tâm linh, chẳng hạn như trong những tư tưởng, những cảm
giác, những ham muốn, chúng ta khám phá rằng tiềm năng của nó càng vô lượng
vô biên hơn. Do kinh nghiệm bản thân, do công trình khảo sát, do những văn
kiện lịch sử, chúng ta biết rằng những ý nghĩ, những cảm giác, những
ham muốn, tự nó biểu hiện, có thể phóng thích vô năng lực và tạo nên
chuỗi dài vô tận những hiện tượng. Một tư tởng có thể tác động
trong nhiều thế kỷ, nhiều ngàn năm, chỉ tăng trưởng và ăn sâu thêm,
không ngừng khơi dậy những hiện tượng mới, luôn luôn giải phóng những
năng lực mới. Chúng ta biết rằng tư tưởng tiếp tục sống và tác động
chí đến khi chánh danh tánh của người tạo ra nó đã biến thành nhân vật
của thần thoại truyền kỳ, như tên tuổi của các vị đã sáng lập những
tôn giáo cổ xưa, những thi gia thời cổ đã làm ra những vần thơ bất hủ,
các đấng anh hùng, những bậc lãnh đạo và những nhà tiên tri. Lời nói
của các vị này vẫn còn được vô số những cặp môi lặp đi nhắc lại
và vẫn còn được chúng ta học hỏi và luận bình.
"Mỗi tư tưởng của một nhà
thơ chắc chắn chứa đựng tiềm năng vô cùng trọng đại - như năng lực
tiềm ẩn trong một cục than đá hay một tế bào sống - nhưng cũng vô
cùng vi tế, không thể cân lường, nhưng thật sự hùng mạnh." --
(Ouspenky - "Tertium Organum", trang 125).
Chúng ta thử khảo sát tiềm năng
chứa đựng trong những lời dạy có ý nghĩa sau đây của Đức Phật:
Manopubbangama dhamma - manosettha
manomaya.
Tâm dẫn đầu hành động; tâm là
chủ, và tất cả (hành động) đều do tâm tạo.
Theo Phật Giáo, tâm hay thức phát
hiện ngay vào lúc được thọ thai, cùng một lúc với phần vật chất. Như
vậy, thức vẫn có hiện hữu trong thai bào. Cái thức sơ khởi ấy mà kinh
sách gọi là thức tái sanh, hay thức nối liền khởi sanh do nghiệp quá khứ
của đương sự tạo duyên. Sự khác biệt tế nhị về tinh thần, trí thức
và đạo đức giữa những người khác nhau của nhân loại là do cái thức
được nghiệp quá khứ tạo duyên của mỗi người. Thức tái sanh là yếu
tố thứ nhì của con người. Yếu tố thứ nhất là phần vật chất, do
cha mẹ cung cấp.
Để cho đủ ba thành phần tạo
nên con người, còn có yếu tố thứ ba, hiện tượng sống, tạo sinh lực
cho cả hai, tâm và vật chất, hay Danh và Sắc. Do có sinh lực, thai mới trụ
và có sự tái sanh. Sinh lực biểu hiện trong cả hai hiện tượng, vật chất
và tâm linh. Danh từ Pali để chỉ hai hình thức sinh lực ấy là
Namajivitindriya, Danh Sinh Lực và Rupajivitindriya, Sắc Sinh Lực, tức sức sống
của tâm linh và sức sống của cơ thể vật chất.
Như vậy, vật chất, tâm và sinh lực
là ba yếu tố khác biệt tạo nên con người. Với sự phối hợp của ba yếu
tố này một năng lực gọi là con người được hình thành với những khả
năng không thể quan niệm được. Con người tự tạo nên mình, cũng chính
con người tự tiêu diệt lấy mình. Bên trong con người có một đống rác
tật xấu và một kho tàng đức hạnh. Ta có thể tìm thấy trong con người
bản chất sâu bọ, cầm thú, người, siêu nhân, trời, Phạm Thiên. Những
khuynh hướng tội lỗi và những tâm tánh thánh thiện đều có ngủ ngầm
trong đó. Con người có thể là một phước lành hay một tội khổ cho
mình và cho kẻ khác. Trong thực tế, con người tự mình là cả một thế
giới.
2. Từ Đâu
Đến?
Là câu hỏi thứ nhì. Khởi thủy,
con người phát sanh như thế nào?
Hoặc có một khởi điểm từ đó
con người bắt đầu hiện hữu, hoặc không có khởi điểm. Những gì thuộc
trường phái đầu chủ trương có một nguyên nhân đầu tiên, một năng lực
của vũ trụ, hay một Thần Linh Vạn Năng. Trường phái thứ nhì phủ nhận
một nguyên nhân đầu tiên bởi vì theo kinh nghiệm chung, nhân trở thành quả
và quả trở thành nhân, trong một tiến trình mãi mãi liên tục. Trong vòng
quanh nhân-quả, ta không thể quan niệm một khởi điểm. Theo luồng tư tưởng
đầu thì có một khởi điểm. Luồng tư tưởng thứ nhì chủ trương không
có. Theo nhận xét của vài người, quan niệm có một nguyên nhân đầu tiên
cũng vô lý như quan niệm có hình tam giác mà tròn.
Theo quan điểm của khoa học, con
người là sản phẩm tực tiếp của tinh trùng và minh châu do cha và mẹ
cung ứng. Trong khi quả quyết, "Omne vivum ex vivo" - tất cả sự sống
đều phát sanh từ sự sống - nhà khoa học cũng chủ trương rằng tâm và
sự sống phát nguyên từ trạng thái không có sự sống.
Theo Phật Giáo, con người được
sanh ra từ bào thai hành động (kammayoni, bào thai nghiệp). Cha mẹ chỉ cung
ứng phần vật chất. Như vậy, chúng sanh đến trước chúng sanh. Vào lúc
được thọ thai, chính nghiệp tạo duyên để thức đầu tiên làm nguồn sống
cho thai bào. Chính nghiệp lực vô hình phát sanh từ kiếp sống quá khứ tạo
những hiện tượng "tâm linh" và hiện tượng "sinh lực"
trong hiện tượng "vật chất" sẵn có, hội đủ ba yếu tố (tam
nguyên) cấu thành con người.
Đề cập đến vấn đề thọ thai
của chúng sanh, Đức Phật tuyên ngôn:
"Nơi nào có đủ ba yếu tố phối
hợp là mầm sống bắt đầu. Nếu cha và mẹ gặp nhau mà không nhằm thời
kỳ thọ thai của mẹ và không có một chủng tử (gandhabba), thì không có
mầm sống. Nếu cha mẹ gặp nhau vào thời kỳ thọ thai của mẹ mà không
có một chủng tử hiện hữu, thì cũng không có mầm sống. Nếu cha và mẹ
gặp nhau vào thời kỳ thọ thai của mẹ và có một chủng tử hiện hữu,
chừng ấy, do sự phối hợp của ba yếu tố, sự sống bắt đầu."
Nơi đây danh từ
"gandhabba", được phiên dịch là chủng tử, là một chúng sanh sẵn
sàng được sanh vào bào thai, chỉ dùng trong trường hợp riêng biệt này.
Ta không nên lầm lẫn với một linh hồn trường cửu.
Cho đặng có một chúng sanh được
thọ thaiở nơi này phải có một chúng sanh chết ở một nơi nào khác.
Cái sanh của một chúng sanh trong hiện tại tương ứng với cái chết của
một chúng sanh trong kiếp vừa qua; cũng giống như thông thường ta nói rằng
mặt trời mọc ở một nơi có nghĩa là mặt trời lặn ở một nơi khác.
Đức Phật dạy rằng: "Một khởi
điểm đầu tiên của chúng sanh - vốn bị che lấp mù mịt trong vô minh, bị
trói bộc chặt chẽ trong ái dục, và triền miên lang thang bất định - quả
thật không thể quan niệm."
Dòng đời trôi chảy vô cùng tận
ngày nào còn tiếp nhận bùn nhơ nước đục của vô minh và ái dục. Chỉ
khi nào chặn đứng được hai luồng rạch ngòi ô nhiễm này, đời sống mới
ngừng trôi chảy, hiện tượng tái sanh mới không còn xảy diễn, như trường
hợp chư Phật và chư vị A La Hán. Trong khi còn mang nặng vô minh và ái dục
ta không thể nhận thức khởi điểm cùng tột của dòng đời. Đức Phật
chỉ đề cập đến như "khởi thủy dòng đời" của chúng sanh.
Hãy để cho các nhà khoa học suy cứu về vấn đề này.
3. Đi về
đâu?
Là câu hỏi thứ ba. Từ đây rồi
con người sẽ đi về đâu?
Theo chủ thuyết vật chất của thời
xưa - mà danh từ Pali và Sanskrit đều gọi là Lokayata - con người hoàn
toàn tuyệt diệt sau khi chết, bỏ lại sau lưng bất luận năng lực nào
phát nguyên trong đời sống.
"Con người do bốn nguyên tố cấu
thành. Khi chết rồi thì nguyên tố Đất trở về và tan biến trong lòng đất;
nguyên tố Nước trở về với nước; nguyên tố Lửa trở về với lửa
và nguyên tố Gió trở về hòa tan trong không khí; giác quan tan biến trong
không gian. Người trí cũng như kẻ ngu, một khi thể xác tan rã thì tất cả
chấm dứt, hoại diệt, không còn tồn tại nữa. Không có thế gian nào
khác. Cái chết là mức tận cùng của tất cả. Chỉ có thế gian hiện tại
là thật có. Cái được gọi là thiên đàng trường cửu và địa ngục là
những phát minh của hạng người gian manh mong vụ lợi." [5]
Người sống theo chủ thuyết duy vật
chỉ tin những gì mà giác quan có thể cảm nhận. Do đó, chỉ có vật chất
là thực tại. Nguyên tắc cùng tột là Tứ Đại: Đất, Nước, Lửa, Gió,
và từ đó đời sống tâm linh nhảy vọt ra một cách bí ẩn, giống như
ông thần xuất hiện khi Aladin chà tay trên cây đèn. Não tiết ra tư tưởng
giống như gan tiết ra mật.
Dưới cái nhìn của con người duy
vật, tin có một thế giới khác "là giấu hiệu của sự giả dối
ươn hèn của người có tính đàn bà, yếu ớt, hèn nhác và bất lương",
như ngài Radhakrishna tuyên bố.
Theo Cơ Đốc Giáo, con người không
có dĩ vãng. Hiện tại chỉ là thời gian chuẩn bị để tiến đến hoặc
thiên đàng vĩnh cửu, hoặc địa ngục trường tồn. Dù xem đó là hai nơi
chốn hay hai trạng thái trong tương lai, con người sẽ hưởng lạc thú vô
cùng tận trên thiên đàng, hoặc vĩnh viễn phải chịu đau khổ dưới địa
ngục. Vậy sau khi chết, con người không tuyệt diệt mà phần tinh túy sẽ
vĩnh cửu trường tồn.
Schopenhaeur nói:
"Bất cứ ai tự xem mình được
sanh ra từ hư không cũng phải nghĩ rằng mình sẽ trở lại thành hư không;
hoặc nữa, cho rằng trước khi có mình đã có một quá khứ vô tận, rồi
một thời gian vô tận thứ nhì lại bắt đầu, và xuyên qua thời gian ấy,
ta không bao giờ ngừng sống. Thật là một ý nghĩ quái dị."
Tín đồ Ấn Độ Giáo tin có quá
khứ và hiện tại, và không chủ trương rằng sau khi chết con người sẽ
hoàn toàn tiêu diệt. Họ cũng không cho rằng con người sẽ vĩnh cửu trường
tồn. Họ tin có một chuỗi dài những kiếp sống quá khứ và vị lai. Theo
họ, luồng sống của con người chảy trôi vô cùng tận ngày nào mà nghiệp
lực, tức năng lực của hành động còn đủ sức đưa đẩy. Vào đúng
lúc, tinh hoa của con người có thể nhập trở vào Thực Tại Cùng Tột
(Paramatma), cái Đại Hồn mà từ đó linh hồn đã phát xuất.
Phật Giáo tin có hiện tại, rồi căn
cứ trên hiện tại, suy diễn rằng có quá khứ và vị lai. Cũng như ánh
sáng điện là sự biểu hiện ra bên ngoài của luồng điện lực vô hình,
cùng thế ấy, con người chỉ là sự biểu hiện ra ngoài của năng lực vô
hình gọi là Nghiệp - Kamma. Bóng đèn điện có thể bể và ánh sáng có thể
tắt, nhưng luồng điện vẫn còn và ánh sáng có thể trở lại khi gắn
vào đó một cái bóng khác. Cũng dường thế ấy, luồng Nghiệp Lực vẫn
trôi chảy như thường, không bị sự tan vỡ của cơ thể vật chất làm
xáo trộn. Tâm thức của người lâm chung trong hiện tại chấm dứt và khi
chấm dứt, tạo duyên cho một tâm thức mới phát sanh trong kiếp sống kế.
Nơi đây luồng điện giống như luồng Nghiệp và cái bóng đèn mới có thể
ví như tế bào trứng của cha mẹ.
Nghiệp quá khứ tạo điều kiện
cho sự sanh trong hiện tại, và Nghiệp hiện tại, phối hợp với Nghiệp
quá khứ, tạo điều kiện cho kiếp sống tương lai. Hiện tại là con đẻ
của quá khứ, rồi đến lượt mình, trở thành cha mẹ của vị lai.
Như vậy, chết không phải là hoàn
toàn tuyệt diệt, bởi vì mặc dù không phải kiếp sống này chấm dứt,
cái năng lực tạo sự sống cho nó không bị tiêu diệt. Sau khi chết, dòng
sinh lực của con người tiếp tục trôi chảy vô cùng tận, ngày nào mà những
luồng nước vô minh và ái dục còn được cung cấp để dưỡng nuôi nó.
Theo ngôn ngữ chế định thông thường, chúng ta nói rằng con người không
nhất thiết phải tái sanh lại làm người, bởi vì con người không phải
là chúng sanh duy nhất. Hơn nữa, quả địa cầu, hầu như chỉ là một điểm
nhỏ không đáng kể trong vũ trụ bao la, không phải là nơi chốn duy nhất
mà chúng sanh có thể tái sanh vào.
Sau khi chết con người có thể tái
sanh vào một cảnh giới khác. [6]
Nếu muốn chấm dứt chuỗi dài những
kiếp sống triền miên, con người có thể làm như Đức Phật và chư vị
A La Hán đã làm để chứng ngộ Niết Bàn, chấm dứt trọn vẹn mọi hình
thức ái dục.
4. Con người
đi về đâu?
Con người có thể đi bất cứ nơi
nào mình muốn, bất luận nơi nào mình quyết chí đi nếu hội đủ điều
kiện thích nghi. Nếu không đặc biệt có chú nguyện nào, con người sẽ
lăn trôi theo con đường mà những diễn biến của cuộc đời đưa đẩy mình
vào, và sẽ tái sanh vào trạng thái tương xứng với cái Nghiệp mình đã
tạo.
5. Tại
sao?
Là thắc mắc cuối cùng của chúng
ta. Tại sao có con người? Cuộc sống này có mục tiêu gì?
Đây quả thật là một vấn đề
đã được bàn thảo sôi nổi.
Quan điểm của người sống thiên
về vật chất là thế nào? Nhà khoa học giải đáp:
"Đời sống có mục tiêu
không? Là gì ở đâu hay lúc nào?
Từ không gian Vũ Trụ đến, Mặt
Trời đến,
Quả Địa Cầu đến, Đời sống
đến, Con Người đến, và còn nhiều nữa phải đến.
Nhưng còn mục tiêu: Của ai và từ
đâu? Tại sao, không có gì cả."
Người sống theo chủ thuyết duy vật
chỉ đơn thuần tự giới hạn mình trong những dữ kiện do giác quan cảm
nhận và chỉ biết đời sống vật chất hiện tại, mà lờ đi những giá
trị tinh thần. Lối nhìn của họ nghịch hẳn quan điểm của nhà đạo đức.
Theo họ, không có ai tạo mục tiêu cho đời sống, và như vậy, đời sống
không có mục tiêu.
Những người không có Thần Linh -
người Phật tử nằm trong số này - không tin có một nhân vật tạo mục
tiêu cho mình.
"Ai tô điểm màu sắc một
cách tuyệt diệu cho con công, hay ai làm cho chim cú có tiếng gáy lảnh
lót?" Đó là một trong những lý luận chánh của thuyết duy vật, cho rằng
tất cả đều nằm trong trật tự thiên nhiên của sự vật.
"Hãy ăn uống và tận hưởng mọi
lạc thú, bởi vì cái chết sẽ đến với tất cả, chấm dứt cuộc sống
của chúng ta" hình như là đạo đức lý tưởng của hệ thống này.
Theo quan niệm của họ, như ngài Sri Radhakrishna viết: "Đạo đức là
ảo tưởng và hưởng thụ khoái lại là thực tại duy nhất. Chết là mức
tận cùng của đời sống. Tôn giáo là một thác loạn điên cuồng, một
chứng bệnh thần kinh. Có sự ngờ vực tất cả những gì tốt đẹp, cao
cả, trong sạch và bi mẫn. Lý thuyết này chủ trương thỏa mãn dục vọng
và lợi kỷ và hiển nhiên xác nhận ý chí tục tằn thô bỉ. Không cần
phải kiểm soát khác vọng và bản năng, bởi vì đó là di sản của thiên
nhiên mà con người thừa hưởng." [7]
Sarvadarsana Sangraha nói:
"Trong khi đời sống còn là của
bạn, hãy thoả thích sống,
Không ai có thể thoát khỏi cặp mắt
tìm tòi của Tử Thần;
Một khi chúng nó đã thiêu đốt cái
xác này của ta,
Làm sao còn trở lại?
Trong khi còn sống đây con người hãy
sống an vui,
Hãy ăn, uống sung sướng, dù có phải
vay nợ." [7]
Bây giờ chúng ta hãy trở về với
khoa học để tìm một giải đáp cho câu hỏi "Tại sao?".
Nên ghi nhận rằng "khoa học
tìm hiểu sự vật, nghiên cứu học hỏi để biết sự vật là thế nào,
trong khi tôn giáo thì tìm hiểu những lý tưởng, nghiên cứu học hỏi xem
sự vật là thế nào."
Sir Arthur Thompson khẳng định rằng
khoa học còn khiếm khuyết vì không thể giải đáp câu hỏi "Tại
sao".
Đề cập đến Mục Tiêu của vũ
trụ, Bertrand Russell nhắc đến ba loại quan điểm: quan điểm tin có Thượng
Đế; quan điểm Phiếm Thần cho rằng trời là tất cả vũ trụ hay vạn vật,
và tất cả vũ trụ là trời; và quan điểm thứ ba cho rằng sự vật nhô
lên, xuất hiện một cách không thể đoán trước.
Ông viết:
"Quan điểm thứ nhất chủ
trương rằng Thượng Đế tạo nên thế gian và ban hành những định luật
thiên nhiên, bởi vì Ngài tiên đoán rằng vào đúng lúc, sẽ có gì tiến
hoá tốt đẹp. Theo quan điểm này, mục tiêu đã sẵn có một cách rõ
ràng trong tâm vị Thần Linh Tạo Hoá, vốn ở ngoài tạo vật của mình.
"Hình thức Phiếm Thần cho rằng
trời là vũ trụ và tất cả là trời. Thượng Đế không ở ngoài vũ trụ
mà chính là vũ trụ, xem như một toàn thể. Do đó, không thể có tác động
sáng tạo mà chỉ có một loại năng lực sáng tạo trong vũ trụ. Năng lực
này làm cho vũ trụ phát triển theo một kế hoạch. Ta có thể nói rằng
xuyên qua suốt tiến trình, kế hoạch này luôn luôn đi đôi với năng lực
sáng tạo.
"Trong hình thức thứ ba, mục
tiêu càng mù mịt hơn. Vào một giai đoạn sơ khởi, không có gì trong vũ
trụ thấy trước giai đoạn sau, mà có một năng lực mù quáng thúc đẩy
đến những biến đổi, và biến đổi tạo nên những hình thức phát triển
hơn. Do đó, trong một ý nghĩa mù mờ, đoạn cuối đã được hàm xúc ở
đoạn đầu." [8]
Chúng ta không phê bình. Đây chỉ
là quan điểm của những học giả chuyên khảo cứu về các tôn giáo và
những tư tưởng gia trứ danh.
Dù có chăng một mục tiêu trong vũ
trụ, dù sự hiện hữu của vũ trụ có nhằm mục tiêu nào không, vẫn có
vấn đề được nêu ra về tính cách hữu dụng của các loài sán lãi, rắn
rít, muỗi mòng, v.v... và sự hiện hữu của bệnh chó dại. Phải giải
thích thế nào về vấn đề thiên tai? Những cuộc động đất, những trận
bão lụt, những bệnh truyền nhiễm nguy hại có được trù hoạch trước
không?
Diễn đạt quan điểm riêng của
mình về Mục Tiêu Của Vũ Trụ, Russell mạnh mẽ tuyên bố:
"Dù thế nào, tại sao tán dương,
tại sao ca ngợi con người? Còn sư tử, cọp hùm thì sao? Chúng nó sát hại
sanh linh - thú và người - ít hơn là chúng ta mà lại còn đẹp đẽ hơn chúng
ta. Còn loài kiến? Chúng nó quản trị một Đoàn Thể Quốc Gia còn tài
tình hơn nhiều bất cứ người phát xít nào. Thế gian loài chim họa mi,
chim sơn ca, loài nai, có phải chăng là tốt đẹp an bình hơn là thế gian
tàn bạo, bất công và hiếu chiến của loài người? Những người tin mục
tiêu của vũ trụ căn cứ niềm tin ấy nơi cái được giả tưởng là sự
sáng suốt của chúng ta, nhưng những gì họ viết ra làm cho ta ngờ vực
điều ấy.
"Nếu tôi là một đấng toàn năng,
và tôi có được cả triệu năm để kinh nghiệm, ắt tôi không nghĩ rằng
Con Người có gì nhiều để kiêu hãnh với thành quả cuối cùng của tất
cả mọi nỗ lực của tôi."
Đối với các tôn giáo khác nhau
thì mục tiêu của đời sống là gì?
Theo Ấn Độ Giáo, mục tiêu của
đời sống là "đồng nhất thể với Bahma", hoặc "hườn nguyên,
nhập trở vào Tinh Chất Thần Linh, cái Đại Hồn" mà từ đó linh hồn
của con người được tách rời ra.
Theo Do Thái Giáo, Cơ Đốc Giáo và
Hồi Giáo, mục tiêu của đời sống là "tôn vinh và làm vẻ vang Thượng
Đế mãi mãi đời đời."
Một người thường trong bất luận
tôn giáo nào có sẵn sàng từ bỏ kiếp sống ở trần gian mà họ khư khư
bám chặt, để vĩnh viễn sống trong một thiên đàng cực kỳ an lạc
không? -- Chưa chắc, quả thật vậy!
Bây giờ, Phật Giáo giải đáp thế
nào câu hỏi: "Tại Sao?"
Phật Giáo phủ nhận một Thần
Linh Tạo Hoá. Như vậy, theo quan điểm của Phật Giáo không thể có một mục
tiêu của đời sống đã được định cho họ.
Phật Giáo không chủ trương có vận
mạng, định mạng, hay tiền định bất di dịch đã được sắp xếp an bài,
kiểm soát tương lai của con người ngoài ý muốn, và không tùy thuộc
hành động của họ. Nếu tin vậy, tự do ý chí đã trở nên tuyệt đối
là một chuyện khôi hài và đời sống trở thành thuần túy máy móc.
Phần lớn hành động của con người
ít nhiều có tính cách tự động, hầu như máy móc vì đã chịu ảnh hưởng
của thói quen, của môi trường sinh sống, của giới thân cận v.v...
Nhưng trong một giới hạn nào, con
người cũng có thể xử dụng tự do ý chí. Khi người kia từ trên cao té
xống vực sâu thì chỉ rơi như một hòn đá vô tri vô giác. Dù có tâm chớ
không phải như đá, người kia vẫn không thể xử dụng tự do ý chí của
mình. Nhưng lúc trèo lên cao, chắc chắn là anh có đủ tự do ý chí - quyết
định có trèo lên hay không, hay trèo lên cách nào - và hành động theo ý
mình. Hòn đá ngược lại, không thể làm như vậy.
Con người có đủ quyền năng chọn
lựa giữa điều phải và lẽ quấy, việc tốt hay việc xấu. Con người có
thể là bạn lành hay là kẻ thù nghịch của chính mình và của người khác.
Tất cả đều do tâm và tiến trình phát triển của tâm.
Mặc dù không có sẵn mục tiêu đặc
biệt nào cho kiếp nhân sinh, con người vẫn được tự do tạo cho mình một
lý tưởng của cuộc sống.
Vậy, mục tiêu của đời sống là
gì?
Ouspensky viết:
"Vài người nói rằng ý nghĩa
của cuộc sống là phục vụ, là đè nén, hàng phục cái tự ngã của
mình, tự hy sinh, hy sinh tất cả, chí đến mạng sống. Người khác tuyên
bố rằng ý nghĩa của cuộc đời là thỏa thích hưởng thụ, quên đi thảm
trạng rùng rợn cuối cùng xảy diễn trong hiện tượng chết. Vài người
thấy ý nghĩa của đời sống trong sự làm cho mình trở nên hoàn hảo và
tạo dựng cho mình một tương lai tốt đẹp hơn, ở bên kia nấm mồ. Người
khác nữa chủ trương rằng ý nghĩa của cuộc sống là cố gắng đến gần
trạng thái "không sinh tồn"; người khác nữa tìm ý nghĩa của đời
sống trên quả địa cầu; trong lúc ấy có người khẳng định rằng dù
chỉ là sự cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của đời sống cũng không thể
được." [9]
Bác bỏ tất cả những quan kiến
trên, nhà học giả uyên thâm viết:
"Điểm sai lầm của tất cả
những giải thích trên là cố gắng khám phá ý nghĩa của đời sống ở bên
ngoài chính mình. Họ tìm trong bản chất của nhân loại, hoặc trong vài cuộc
sống mơ hồ bên kia nấm mồ, hoặc nữa trong sự tiến triển của Tự
Ngã xuyên qua chuỗi dài những cuộc đầu thai - luôn luôn một cái gì ở
ngoài đời sống hiện tại của con người.
"Thay vì khảo sát viễn vọng,
nếu con người chỉ nhìn vào bên trong chính mình, họ sẽ nhận thức rằng
trong thực tế, ý nghĩa của đời sống không còn gì là mù mờ. Nó chỉ
là hiểu biết."
Theo quan điểm của Phật Giáo, mục
tiêu cứu cánh của kiếp nhân sinh là thành đạt trạng thái Toàn Giác
(Sambodhi), tức thấu triệt thực tướng của chính mình, tự hiểu biết
chính mình đúng như thực sự mình là vậy.
Sự Giác Ngộ Cao Siêu này có thể
được thành tựu bằng cách nghiêm túc giữ gìn giới hạnh, trau giồi tâm
và khai triển tuệ minh sát hoặc, nói cách khác, bằng cách "phục vụ
và trở nên toàn hảo".
Phục Vụ bao gồm tâm Từ, tâm Bi
vô lượng vô biên và vị tha tuyệt đối, những đức hạnh cao đẹp thúc
giục con người giúp đỡ người khác.
Toàn Hảo là tuyệt đối Trong Sạch
và tuyệt đối Trí Tuệ.
Chú thích
[1] Ouspenky, "Tertium Organum",
trang 8.
[2] Chặp tư tưởng - cũng được gọi
là "sát na tâm". Trong thời gian của một cái nhoáng trời chớp, hằng
tỷ tỷ chặp tư tưởng có thể phát sanh.
[3] Sir Charles Sherrington, "Lifés
Unfolding", trang 32.
[4] "What is mind? - No matter. What
is matter? - Never mind". Để giúp quí vị độc giả không đọc tiếng
Anh có thể thưởng thức lối chơi chữ này, người dịch xin phụ chú rằng
hai chữ "no matter" vừa có nghĩa là "không có vật chất, vừa
là một lối nói rằng "không sao đâu". Hai chữ "never mind"
vừa có nghĩa "không bao giờ có tâm", mà cũng có nghĩa "không
có gì đâu, không cần phải bận tâm".
[5] Sri Radhakrishna, "Indian
Philosophy", tập I, trang 278.
[6] "Có khoảng một triệu hệ
thống hành tinh trong dãy Ngân Hà trong đó, có sự sống". Xem Fred Hoyle,
"The Nature of The Universe", trang 87-89.
[7] Sri Radhakrishna, "Indian
Philosophy", tập I.
[8] Bertrand Russell, "Religion and
Science", trang 191.
[9] [1] Ouspenky, "Tertium
Organum", trang 192.