Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [42]
- Tứ Vô Lượng Tâm
- "Được
sanh trong cảnh người thật là hy hữu.
- Đời sống của chúng
sanh quả là khốn khổ.
- Chớ để lỡ mất cơ
hội nầy." -- Kinh Pháp Cú
Con người là một chúng sanh
huyền bí có nhiều tiềm năng phi thường.
Có hai năng lực trái ngược luôn
luôn tiềm tàng ngủ ngầm trong mỗi người. Một, hướng về trạng thái
cao thượng trong sạch, đặc tính của bậc thánh nhân và một, hướng về
những điều tội lỗi nhơ bẩn, của kẻ sát nhân tàn bạo. Cả hai tiềm
lực nầy đều có thể phát sanh bất ngờ với một sức mạnh vô cùng
hùng hậu. Xuất phát từ đâu? Nào ai biết. Chỉ biết rằng nó luôn luôn
nằm bên trong ta, nhiều hay ít, mạnh hay yếu,tùy trường hợp.
Trong guồng máy phức tạp của con
người, có cái tâm vô cùng dũng mãnh. Tâm chứa đựng một kho tàng đức
hạnh và một hầm tật xấu. Người biết vun bồi đức hạnh là một phước
lành cho nhân loại. Kẻ bị tật xấu chi phối là một đại họa.
Những ai có chí hướng trở thành
bậc vĩ nhân cao thượng và hữu ích, những ai muốn vượt lên trên đám
đông quần chúng để phục vụ nhân loại bằng cách nêu gương lành trong
sáng và ban bố những lời dạy hữu ích, những ai muốn tận dụng cơ hội
quý báu được sanh làm người, đều cố gắng gia công gội rửa các tật
xấu còn lại và phát triển những đức hạnh đang ngủ ngầm trong tâm.
Khi khai thác hầm mỏ là một điều
khó. Để tìm mỏ kim cương, mỏ dầu, hay một nhiên liệu quý báu khác,
con người phải tốn hao biết bao nhiêu tiền của và công lao, phải trãi
qua biết bao hiểm nguy gian khổ, đôi khi phải hy sinh cả mạng sống, để
đào sâu trong đất. Nhưng, để khai thác kho tàng vô giá đang ngủ ngầm bên
trong mình, chỉ cần kiên trì cố gắng và nhẫn nại gia công. Mọi người,
dầu trai hay gái, sang hay hèn, đều có thể chuyên cần nỗ lực và kiên
tâm trì chí để thâu thập sự nghiệp quý báu kia, vì đó không phải là
một di sản do ông cha truyền lại.
Thế thường, ta coi tật xấu của
con người là thiên tánh ngẩu nhiên bộc phát. Âu cũng là một điều lạ!
Cũng lạ thay, tuy rằng đối chiếu với mỗi tật xấu có một phẩm hạnh
xác thực mà mọi người đều có thể thọ hưởng, ta lại không coi phẩm
hạnh ấy là thông thường, phải có.
Sân hận (Dosa) là một tật xấu
có sức tàn phá vô cùng khốc liệt. Đối diện với lòng sân, tâm Từ
(Metta) là một đức độ nhẹ nhàng êm dịu làm cho con người trở nên cao
thượng, tuyệt luân.
Hung bạo (Himsa) là một tật xấu
khác đã gây nên biết bao tội ác và biết bao hành động bạo tàn trên thế
gian. Tâm Bi (Karuna) là vị thuốc công hiệu để tiêu trừ bệnh hung bạo.
Ganh tyIssa) là chất độc cho cơ
thể, vừa là động lực thúc đẩy con người vào những cuộc ganh đua
nhơ bẩn và những hoàn cảnh tranh chấp hiểm nguy. Phương thuốc trị liệu
nhiệm màu và công hiệu nhất để trị bệnh ganh tyà tâm Hỷ (Mudita).
Bám níu vào những gì ưa thích, và
bất toại nguyện với những điều không vừa lòng làm cho tâm mất bình
thản. Do sự phát triển tâm Xả (Upekkha), hai tệ đoạn trên sẽ bị tiêu
diệt dần dần.
Phạn ngữ "Brahma Vihara" có
nghĩa là lối sống cao thượng, trạng thái cao siêu, hoặc chổ nương tựa
của bậc thánh nhân. Ta gọi là Tứ Vô Lượng Tâm.
Tứ Vô Lượng Tâm giúp con người
trở nên toàn thiện và có lối sống của bậc thánh, trong kiếp hiện tại.
Tứ Vô Lượng Tâm có khả năng biến đổi người thường ra bậc siêu
nhân, phàm ra thánh.
Nếu mỗi người đều cố gắng công
thực hành Tứ Vô Lượng Tâm, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, nam nữ
v.v... quả địa cầu nầy sẽ trở thành một thiên đàng, trong đó tất cả
chúng sanh chung sống an vui trong tình huynh đệ, và mỗi người sẽ là một
công dân lý tưởng trong một thế giới thanh bình an lạc.
Bốn đức độ cao thượng ấy
cũng được gọi là "Appamanna", rộng lớn bao la, vì Từ, Bi, Hỷ, Xả
không bờ bến, không biên cương, không bị hạn định. Tứ Vô Lượng Tâm
bao trùm tất cả chúng sanh, không trừ bỏ một sanh linh nhỏ bé nào. Từ,
Bi, Hỷ, Xả là vô lượng, vô biên.
Dầu theo tôn giáo nào hay hấp thụ
văn hóa nào, mỗi người đều có thể trau giồi bốn đức độ nhẹ nhàng
êm dịu ấy để trở nên một phước lành, cho mình và cho kẻ khác.
1. Tâm Từ
(Metta)
Trạng thái cao thượng đầu tiên
là tâm "Từ ", tiếng Pali là Metta, Sanskrit là Maitri.
Nghĩa trắng của Metta là cái gì
làm cho lòng ta êm dịu. Metta là tâm trạng của người bạn tốt. Metta là
lòng thành thật ước mong rằng tất cả chúng sanh đều được sống an lành
hạnh phúc. Metta có khi cũng được định nghĩa là lòng mong mỏi chân
thành của người bạn hiền, thành thật muốn cho bằng hữu mình được
an vui hạnh phúc.
"Tâm Từ phải được rãi khắp
đồng đều cho mọi chúng sanh, phải bao trùm vạn vật, phải sâu rộng và
đậm đà như tình thương của bà từ mẫu đối với người con duy nhất,
săn sóc, bảo bọc con, dầu nguy hiểm đến tánh mạng cũng vui lòng."
-- Metta Sutta (Kinh Từ Bi).
So sánh tâm Từ với tình mẫu tử
trong đoạn kinh Metta Sutta (kinh Từ Bi), Đức Phật không đề cập đến lòng
trìu mến ít nhiều vị kỷ của người mẹ. Ngài chỉ nhắm vào sự mong mỏi
thành thật của bà mẹ hiền, mong muốn cho người con duy nhất của mình
được sống an lành.
Tâm Từ (Metta) không phải sự yêu
thương thiên về xác thịt, cũng không phải lòng trìu mến, luyến ái một
người nào. Tình dục và luyến ái là nguyên nhân của bao nhiêu phiền muộn.
Tâm Từ (Metta) không phải là tình
thương riêng biệt đối với láng giềng, bởi vì người có tâm Từ không
phân biệt người thân, kẻ sơ.
Tâm Từ (Metta) không phải chỉ là
tình huynh đệ rộng rãi giữa người và người, mà phải bao trùm tất cả
chúng sanh, không trừ bỏ sanh linh bé nhỏ nào, bởi vì loài cầm thú, các
người bạn xấu số của chúng ta, cũng cần nhiều đến sự giúp đỡ và
tình thương của ta.
Tâm Từ (Metta) không phải là tình
đồng chí, không phải là tình đồng chủng, không phải là tình đồng
hương, cũng không phải là tình đồng đạo.
Tình đồng chí chỉ biết những người
cùng một chí hướng chánh trị, một chủ nghĩa, hay một đảng phái như Dân
Chủ, Cộng Hòa, Xã Hội v.v...
Tình đồng chủng chỉ giới hạn
giữa những người cùng một chủng tộc, một da màu.
Tình đồng hương chỉ có giữa những
người cùng một quốc gia. Đôi khi vì tình đồng chủng con người nhẫn tâm
tàn sát đến đàn bà và trẻ con, chỉ vì những người vô tội nầy
không được diễm phúc có đôi mắt xanh và tóc vàng như họ. Người da trắng
có cảm tình riêng với người da trắng. Người da đen có cảm tình riêng
với người da đen, người da vàng với người da vàng, người da đỏ với
người da đỏ v.v... Cũng có khi vì một mặc cảm nào, một dân tộc đem lòng
nghi kyà lo sợ một giống dân khác. Lắm lúc, để chứng minh rằng dân
tộc mình cao trổi hơn dân tộc khác, con người không ngần ngại dùng những
phương tiện tàn ác như gây chiến tranh, dội bom, nhã đạn, tiêu hủy cả
triệu sanh linh. Nhân loại ngày nay vẫn không bao giờ có thể quên những
thảm trạng đã xảy diễn trong thời Thế Chiến Thứ Nhì vừa qua.
Cùng một quốc gia, cũng có những
tâm trạng hẹp hòi, hợp lại thành từng nhóm để gây nên cái mà chúng gọi
là tình huynh đệ giữa những người cùng một giai cấp xã hội, một thứ
tình thương chỉ nằm vỏn vẹn trong phạm vi nhỏ hẹp của một số người
có quyền thế, để đàn áp một hạng người khác đến độ không cho
phép họ hưởng những nhân quyền sơ đẳng, chỉ vì những người nầy rủi
ro phải sanh trưởng trong một giai cấp hạ lưu. Chính hạng người thượng
lưu kia mới đáng thương hại, vì họ là những người chỉ biết sống hẹp
hòi bưng bít.
Tâm Từ (Metta) cũng không phải là
tình huynh đệ giữa những người cùng một tôn giáo. Bởi sự hiểu biết
hẹp hòi, gọi là "tình đồng đạo", bao nhiêu đầu người đã rơi,
bao nhiêu vĩ nhân đã bị tù đày và đối xử khắc nghiệt. Bởi tình đồng
đạo hẹp hòi, bao nhiêu người phải bị thiêu sống một cách tàn nhẫn
chỉ vì thành thật nói lên ý tưởng của mình. Bao nhiêu hành động hung bạo,
bao nhiêu chiến tranh tàn khốc, đã làm hoen ố lịch sử nhân loại cũng vì
tình đồng đạo hẹp hòi.
Cho đến thế kỷ thứ hai mươi nầy
mà người ta cho là sáng suốt, nhân loại vẫn còn chứng kiến những vụ
tranh chấp võ trang, mà nguyên nhân chỉ vì những người theo tôn giáo nầy
không ép buộc được những người khác tư tưởng như mình. Con người
ghen ghét nhau, thù hận nhau, chém giết lẫn nhau, chỉ vì không cùng chung sống
được với nhau dưới một nhãn hiệu.
Nếu vạn nhất, vì không đồng tín
ngưỡng mà những người khác tôn giáo với nhau không thể nhìn nhau như
anh chị em trong một đại gia đình, thì sứ mạng của tất cả các vị
giáo chủ trên thế gian nầy hẳn thật đã thảm bại chua cay.
Tâm Từ êm dịu vượt hẳn lên
trên các tình huynh đệ hẹp hòi ấy. Phạm vi của tâm Từ không bờ bến,
không biên cương, không hạn định. Tâm Từ không có bất luận một loại
kỳ thị nào. Nhờ tâm Từ mà ta có thể xem tất cả chúng sanh là bạn hữu,
và khắp nơi trên thế gian như chỗ chôn nhau cắt rún. Tựa hồ như ánh
sáng mặt trời, bao trùm vạn vật, tâm Từ cao thượng rãi khắp đồng đều
phước lành thâm diệu cho mọi người, thân cũng như sơ, bạn cũng như thù,
không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, hư hèn hay đạo đức, người
hay thú.
Người có tâm Từ vô lượng vô
biên như thế ấy là Đức Phật, Ngài đã tận tâm tạo an lành hạnh phúc
cho tất cả những người thân yêu kính mộ Ngài cũng như những người
ganh tyﬠoán ghét, và những người âm mưu ám hại Ngài.
Tâm Từ của Đức Phật đối với
Rahula (La Hầu La), con Ngài, không có chút gì khác hơn là đối với
Devadatta (Đề Bà Đạt Đa), người đã coi Ngài là thù nghịch và với Đại
Đức Ananda (A Nan), vị thị giả thân tín rất kính mến Ngài...
Tâm Từ bao la rộng rãi, đồng đều,
đối với chính mình cũng như đối với những người thân cận, những người
không quen biết, và những người có ác ý đối với mình. Như chàng kia
đi trong rừng với một người bạn, một người không quen biết, và một
người thù, gặp một tướng cướp dữ tợn. Tên cướp quyết định phải
giết một người. Nếu anh chàng chịu hy sinh mạng sống để cứu các bạn
đồng hành thì ra anh thiếu tâm Từ đối với chính mình. Nếu anh tính rằng
một trong ba người kia đáng chịu hy sinh thì anh lại không có tâm Từ đối
với người ấy.
Tâm Từ là như vậy. Có lòng từ
ái đối với người khác không có nghĩa là phải quên mình. Hy sinh mạng sống
mình vì một lợi ích nào là một đức độ cao thượng khác, và không chấp
ngã là một loại tâm cao thượng khác nữa. Đó là quan điểm tế nhị mà
ta không nên lầm lộn.
Người thực hiện tâm Từ đến mức
cùng tột sẽ thấy mình đồng hóa với tất cả chúng sanh, không cón sự
khác biệt giữa mình và người. Cái gọi là "Ta" lần lần mở rộng,
lan tràn cùng khắp càn khôn vạn vật. Mọi sự chia rẽ đều tiêu tan, biến
mất như đám sương mờ trong nắng sáng. Vạn vật trở thành một, đồng
thể, đồng nhất.
Thật ra không có ngôn ngữ nào diễn
tả đúng nghĩa chữ "Metta" trong tiếng Pali. Thiện ý, từ ái, hảo
tâm, bác ái, là những danh từ tạm gọi là đồng nghĩa với Metta mà
thôi.
Nghịch nghĩa với Metta là sân hận,
ác ý, thù oán, ghen ghét. Tâm Từ và sân hận không thể cùng phát sanh
cùng một lúc. Thù oán cũng không có thể chứa đựng Metta.
Đức Phật dạy rằng:
"Không thể lấy thù oán để
diệt sân hận, chỉ có tâm Từ mới dập tắt lòng sân."
Không những dập tắt được lòng
sân, tâm Từ (Metta) còn diệt trừ các mầm tư tưởng bất thiện đối với
người khác. Người có tâm Từ (Metta) không bao giờ nghĩ đến làm hại,
làm giảm giá trị, hoặc bài xích ai, không bao giờ sợ ai, cũng không bao
giờ làm ai sợ.
Kẻ thù gián tiếp thường mang lốt
bạn của tâm Từ một cách sâu ẩn bất ngờ là lòng trìu mến vị kỹ. Nếu
quan niệm không đúng, tâm Từ có thể dễ dàng trở thành luyến ái. Kẻ
thù gián tiếp nầy thật là tế nhị mà cũng thật hiểm độc. Nó hành động
như một người ẩn núp trong rừng sâu hay ở sau một sườn núi để chờ
cơ hợi ám hại một người khác. Trìu mến đem lại đau khổ. Tâm Từ chỉ
tạo an lành hạnh phúc.
Đây là điểm tế nhị mà ta không
nên hiểu lầm. Cha mẹ thương yêu trìu mến con, con trìu mến thương yêu
cha mẹ, vợ mến chồng, chồng mến vợ. Tình thương và tâm luyến ái giữa
những người thân yêu là lẽ thường, là một sự kiện tự nhiên. Thế
gian không thể tồn tại nếu không có tình thương. Nhưng tình thương luyến
ái luôn luôn ích kỷ, hẹp hòi, không sánh được với tâm Từ là tình thương
đồng đều đối với tất cả chúng sanh trong vũ trụ bao la. Do đó, tâm Từ
không đồng nghĩa với tình thương ích kỷ.
Cố ý mong muốn làm cho kẻ khác
được yên vui là đặc điểm quan trọng của tâm Từ. Người có tâm Từ
luôn luôn cố gắng tạo an lành cho tất cả chúng sanh, chỉ thấy những
gì tốt đẹp nơi mọi người và không bao giờ nhìn phần xấu xa hư hỏng
của một ai.
Tâm Từ đem lại nhiều quả phúc:
1. Người có tâm Từ luôn luôn ngủ
được an vui. Ngủ với tâm trạng thơ thới, không giận hờn, không lo âu
sợ sệt, tự nhiên giấc ngủ sẽ đến dễ dàng. Mỗi người đều có thể
kinh nghiệm. Người có tâm Từ nhắm mắt là ngủ, và ngủ ngon lành.
2. Khi ngủ với tâm an lành, tự
nhiên lúc tỉnh giấc, thức dậy cũng với tâm an lành, với gương mặt vui
vẽ.
3. Người có tâm Từ không chiêm
bao mộng mị, thấy những điều xấu xa, ghê tợn. Dầu có nằm mộng cũng
thấy điều lành.
4. Người có tâm Từ đối với kẻ
khác, tất nhiên sẽ gặt hái những tình cảm ưu ái của mọi người. Khi
nhìn vào gương, nếu mặt ta vui vẽ hiền lành, phản ánh của nó sẽ hiền
lành vui vẽ. Trái lại, nếu mặt ta cau có quạu quọ, phản ảnh của nó
ắt cũng cau có quạu quọ. Cùng một thế ấy, thế gian bên ngoài là phản
ánh của những hành vi, tư tưởng thiện hay ác của con người. Người hèn
hạ xấu xa chỉ biết nhìn vào tội lỗi của kẻ khác.
Một thi hào người Anh đã viết ra
những dòng thơ rất đẹp đẽ và thâm thúy có nhiều ý nghĩa:
- Tôi nhìn anh tôi qua kính hiển vi của sự Chỉ
Trích
- và tôi nói. "Anh tôi quả thật thô lỗ!"
- Nhìn anh tôi qua kính viễn vọng của sự Khinh Bỉ
- và tôi nói. "Anh tôi quả thật bé nhỏ thấp
hèn"
- Rồi tôi nhìn vào "Tấm Gương Chân Lý"
- Và tôi nói, "Anh tôi thật giống hệt như tôi."
Trong con người tốt nhất cũng có
những điểm khuyết, mà trong con người xấu nhất cũng có những điểm tốt.
Tại sao ta chỉ nhìn phần xấu xa tội lỗi mà không để ý đến phần tốt
của người? Nếu mỗi người đều nhìn vào phần tốt đẹp của nhau, nhân
loại đã tìm được nguồn hạnh phúc dồi dào vậy.
5. Người có tâm Từ chắc chắn
là bạn thân của nhân loại mà cũng là bạn thân của tất cả chúng sanh.
Loài cầm thú cũng lấy làm vui thích được sống gần những bậc hiền nhân
đạo đức. Càc vị tu sĩ sống đơn độc một mình ở chốn rừng sâu, giữa
đám sài lang hổ bao, chỉ nhờ có tâm Từ để tự bảo vệ. Đức Phật có
lần nói rằng:
"Như Lai sống trên một ngọn
núi, giữa đám sư tử, cọp, beo, nai hươu, các thứ, giữa rừng rậm cỏ
hoang. Không một con vật nào sợ Như Lai mà Như Lai cũng không sợ con vật
nào. Chính nhờ oai lực của tâm Từ nâng đỡ, bảo vệ và giúp Như Lai sống
yên ổn."
6. Khi thực hành đúng mức, tâm Từ
có khả năng đổi dữ ra lành. Thuốc độc không hại được người có
tâm Từ , ngoại trừ trường hợp người ấy phải trả một nghiệp xấu
đã tạo trong quá khứ. Tâm Từ giúp hành giả thêm sức khỏe và ngăn ngừa
những ảnh hưởng xấu xa từ bên ngoài. Tư tưởng độc ác đầu độc
con người. Tư tưởng trong sạch giúp con người trở nên lành mạnh.
Kinh sách có chép lại chuyện bà
Suppiya, một tín nữ giàu lòng bi mẫn và có tâm đạo nhiệt thành. Bà
Suppiya mang một vết thương nặng trên vế. Hôm nọ, Đức Phật đi bát đến
trước nhà, được chồng bà cho biết rằng bà đang lâm bệnh không thể
ra đảnh lễ Ngài. Đức Phật bảo cứ đưa bà ra. Bà cố gắng đi lần ra
cửa. Vừa thấy mặt Đức Phật, vết thương bà bỗng dưng lành lại, bà
trở nên khỏe mạnh như thường. Chíng lòng thành kính trong sạch của bà
khi được diện kiến Đức Phật, hợp với năng lực của tâm Từ mà Đức
Phật rải đến, đã cứu bà khỏi bệnh.
Một đoạn kinh khác thuật rằng
khi Đức Phật trở về quê nhà lần đầu tiên, con Ngài là Rahula (La Hầu
La), lúc ấy vừa lên bảy, đến gần Ngài và bạch:
"Bạch đức Xa Môn, chỉ cái
bóng của Ngài cũng đủ làm con mát mẽ lạ thường."
Tâm Từ của Đức Phật bao trùm lấy
cậu bé Rahula và có một năng lực hấp dẫn mạnh mẽ làm cho cậu vô
cùng cảm kích.
7. Người có tâm Từ luôn luôn được
chư Thiên hộ trì.
8. Tâm Từ được an trụ dễ dàng,
vì không bị những tư tưởng trái ngược khuấy động. Với tâm thanh
bình an lạc, người có tâm Từ sẽ sống ở cõi trời, và cõi trời ấy
chính ta tạo ta. Chí đến những ai lân cận tiếp xúc với người có tâm
Từ cũng chứng nghiệm được phước lành ấy.
Người có tâm Từ gương mặt
tươi sáng vì gương mặt là phản ánh của nội tâm. Lúc giận, máu trong cơ
thể chạy mau gấp đôi ba lần lúc bình thường, trở nên nóng, dồn lên
làm đỏ mặt tía tai. Tâm Từ trái lại làm loại cho tinh thần vui vẽ,
thân có cãm giác thoải mái an lành, máu được thanh lọc trong sạch và gương
mặt hiền từ dễ mến. Kinh sách chép rằng sau khi Đức Phật thành tựu
Đạo Quả Phật, trong lúc ngồi tham thiền, suy luận về pháp Nhân Quả Tương
Quan (Patthana), tâm hoàn toàn an trụ và máu trong cơ thể tuyệt đối thanh tịnh.
Lúc ấy, từ bên trong pháp thân Ngài phát tủa ra những ánh hào quang xanh,
vàng, đỏ, trắng, và màu cam, bao phủ lấy Ngài.
10. Người có tâm Từ đến lúc
lìa đời cũng được an vui, vì trong lòng không chứa chấp tư tưởng sân
hận. Sau khi tắt thở, gương mặt tươi tỉnh ấy là phản ánh của sự ra
đi vui vẽ an toàn.
11. Chết an vui, người có tâm Từ
sẽ tái sanh vào cảnh giới nhàn lạc.
Nếu đã đắc Thiền (Jhana), người
ấy sẽ tái sanh vào cảnh giới của chư Phạm Thiên.
Năng Lực Của Tâm Từ (Metta)
Ngoài những lợi ích có tánh cách
vật chất, tâm Từ còn có năng lực hấp dẫn mạnh mẽ phi thường. Tâm Từ
có thể gieo những ảnh hưởng tốt đẹp từ xa đến một người khác. Mọi
người đều cảm thấy yên vui khi ở gần người lành.
Một hôm, Đức Phật đến chỗ nọ.
Trong hàng các thân hào đến đảnh lễ Ngài , có một trưởng giả tên
Roja, trước kia là bạn thân của Đức Ananda. Thấy Roja, Đại Đức Ananda
nói: "Sư lấy làm vui mà thấy Roja hôm nay đến đây đảnh lễ ra mắt
chào mừng Đức Phật." Roja liền trả lời: "Thật ra tôi đến đây
không phải tỏ lòng thành kính Đức Phật. Sở dĩ chúng tôi đến đây
hôm nay là vì chúng tôi đánh cuộc với nhau rằng người nào không đến
đảnh lễ Đức Phật sẽ bị phạt năm trăm đồng vàng. Chính vì sợ mất
tiền mà tôi đến."
Đức Ananda lấy làm thất vọng, đến
bạch tự sự cho Đức Phật rỏ và xin Ngài tế độ người bạn thân của
mình. Đức Phật liền rãi tâm Từ đến Roja, rồi trở về tịnh thất.
Lúc ấy Roja thấy khắp thân châu
mình đượm nhuần một luồng cảm xúc mát mẽ lạ thường, dường như từ
Đức Phật đưa đến. Bị cảm kích quá mạnh, chàng không thể cưỡng kháng
lại ý muốn gặp ngay Đức Phật. Không khác nào bò con chạy theo mẹ, Roja
chạy vào chùa, từ tịnh thất nầy đến tịnh thất kia, để tìm Đức Phật.
Được chỉ dẫn đến nơi, Roja gỏ cửa. Cửa vừa mở, ông lật đật đảnh
lễ Đức Phật, rồi nghe Đức Phật giảng pháp và xin quy y. Đó là một
trường hợp cho thấy rằng tâm Từ có sức hấp dẫn thật mạnh mà mỗi
người đều có thể chứng nghiệm, tùy theo khả năng của mình, vì cũng
như các đức tánh khác trong Tứ Vô Lượng Tâm, tâm Từ luôn luôn tiềm
tàng ngủ ngầm bên trong mọi người .
Trong một tích chuyện khác, có người
muốn hại Đức Phật, cho voi uống rượu đến say rồi lùa chạy ngay lại
phía Ngài. Con voi hung tợn cắm đầu chạy đến Đức Phật, định làm dữ.
Thản nhiên, Đức Phật rải tâm Từ đến con voi và chế ngự trong khoảnh
khắc.
Và sau đây là một mẩu chuyện cho
thấy đến mức độ nào một vị Bồ Tát có thể rải tâm Từ vô lượng
đến những người ở quanh mình, khi cha Ngài hạ lệnh giết Ngài. Bồ Tát
nghĩ như thế nầy:
"Đây là cơ hội quý báu để
ta thực hành tâm Từ. Đứng trước đây là cha ta. Mẹ ta đang khóc than
thê thảm. Kìa là đao phủ sẵn sáng hành quyết ta, và ta đây là nạn
nhân đang đứng ở giữa. Ta phải rãi tình thương đồng đều đến tất
cả bốn người. Ngưỡng nguyện cha ta khթ phải chịu quả xấu do hành động
hung ác nầy gây ra. Mong cầu cha ta, mẹ ta, tên đao phủ, và ta, được hạnh
phúc an vui, không đau khổ, không bệnh tật, không gây oan trái. Nhờ năng lực
tâm Từ nầy, ngưỡng nguyện rằng ngày kia ta sẽ thành Phật."
Trong Vô Lượng Tiền Kiếp, một ngày
kia, khi Đức Phật còn là Bồ Tát, đang hành Nhẫn nhục Ba la mật trong ngự
uyển. Hôm ấy nhà vua say rượu. Muốn thử xem hạnh nhẫn nhục của Ngài
đến đâu, vua truyền lệnh cắt tay và chân Ngài. Ngài vẫn điềm nhiên, lặng
lẽ hành pháp nhẫn. Vua lấy làm tức giận, dùng chân đá vào ngực Ngài .
Ngài ngã gục trên vũng máu, hoi hóp thở những hơi thở cuối cùng, nhưng
lòng vẫn bảo lòng:
"Người như ta không bao giờ
sân hận, thù oán."
Một vị tỳ khưu xứng đáng phải
có tâm Từ rộng rãi bao la. Không đào đất cũng không bảo người đào,
vì sợ rủi ro làm chết côn trùng. Vị tỳ khưu chân chánh cũng không uống
nước chưa lọc. Lời dạy sau đây của Đức Phật cho ta một ý niệm thế
nào là một tâm Từ mà một vị tỳ khưu nên có:
"Nếu có bọn cướp hung tợn dùng
cưa cưa con ra từng mảnh và nếu con sanh tâm tức giận hoặc căm thù kẻ
cướp, chính lúc ấy con đã không thực hành lời dạy của Như Lai."
Quả thật rất khó chịu đựng và
nhẫn nại đến mức ấy. Nhưng đó là mức sống lý tưởng mà Đức Phật
trông đợi hàng đệ tử Ngài cố gắng thành đạt. Chính Đức Phật đã
nêu gương lành cao thượng. Ngài dạy:
"Như đàn voi lâm trận không kể
lằn tên mũi đạn, ta phải can đảm chịu đựng những sự bất hạnh của
đời. Phần lớn nhân loại sống ngoài khuôn khổ giới luật. Ta phải có
thái độ của đàn voi lâm trận: mạnh tiến giữa rừng gươm đao giáo
mác, bình tĩnh hứng lấy những nỗi chua cay của đời, và thản nhiên vững
bước trên đường phạm hạnh."
Chúng ta đang sống trong một thế
gian hỗn loạn, giữa những tình thế căng thẳng và luôn luôn lo sợ hiểm
họa chiến tranh. Các quốc gia ngày nay ráo riết võ trang chống đối lẫn
nhau và nhân loại không ngớt phập phồng chờ đợi một loại võ khí
nguyên tử thình lình từ không trung rơi xuống.
Trong giờ phút nầy, thế gian ắt
đang trông đợi một tâm đại từ bi cứu khổ đễ mỗi người được sống
an lành trong cảnh thái bình và thuận hòa trong tình huynh đệ.
Ta tự hỏi: "Trước sự hăm dọa
của bom đạn, trên thực tế có thế nào ta bình thản thực hành tâm Từ
được không?" Một người thường có thể làm gì để chống lại đám
mưa bom? Trong tay không có một món vũ khí, người dân thường có thể làm
gì để chặn đứng lằn tên mũi đạn?
Trước cái chết sắp đến, tâm Từ
của Phật Giáo là một khí giới ôn hòa và hữu hiệu để ngăn ngừa bom
đạn.
Nếu các quốc gia hiếu chiến khứng
chịu đem tâm Từ thay thế vũ khí để cai trị thế gian bằng công lý và
tình thương, thay vì bạo lực cường quyền, thì nhân loại ắt được an
cư lạc nghiệp và hạnh phúc lâu dài.
Sau đây là một vài chỉ dẫn thực
tế để thực hành tâm Từ.
Trước tiên, hành giả phải gieo trồng
tâm Từ cho chính mình. Muốn vậy, phải rãi khắp thân và tâm những tư
tưởng an vui hạnh phúc. Hành giả tưởng niệm:
"Tâm tôi rất yên tĩnh, thân
tôi rất an vui. Tôi không bệnh họan, không phiền não, không lo âu, không
sân hận. Tôi thể hiện tâm Từ. Hào quang từ ái bao phủ chung quanh tôi, dập
tắt mọi tư tưởng ích kỹ, mọi xúc động thù nghịch. Tôi không còn cảm
xúc trước cơn xung nộ xấu xa của kẻ khác. Tôi đáp lại cái xấu bằng
cái tốt, sân hận bằng tâm Từ."
Hằng ngày rèn luyện tinh thần như
thế, dần dần hành giả trở nên vô cùng quãng đại, quên tất cả những
điều xấu xa của kẻ khác và giữ tâm hoàn toàn trong sạch, không còn bợn
nhơ sân hận, oán thù.
Ánh sáng hạnh phúc tủa ra khắp
thân châu, hành giả ban rải hạnh phúc ấy đến người khác bằng những
tư tưởng an lành và bằng những hành động vị tha, thể hiện tâm Từ,
trong cuộc sống hằng ngày.
Khi tâm được an vui và không bị
những tư tưởng sân hận làm chao động, hành giả sẽ dễ dàng rãi tâm Từ
đến cho kẻ khác. Ta không thể cho ai một vật mà chính ta không có. Trước
khi muốn làm cho người khác được an vui, chính hành giả phải được an
vui, phải biết làm thế nào cho mình được an vui. Hành giả rãi tâm Từ
đến thân bằng quyến thuộc, riêng từng người, rồi đến toàn thể, và
ước mong mọi người đều lành xa phiền não, bệnh tật, lo âu, sân hận.
Hành giả cũng rãi tâm Từ đến bạn
bè và những người không quen biết và thành thật ước mong cho những người
nầy, như trước kia đã ước mong cho mình và thân bằng quyến thuộc mình
được an vui, hạnh phúc và lánh xa phiền não, bệnh tật, lo âu, sân hận.
Sau cùng, mặc dầu là khó, hành giả
rãi tâm Từ đến cho những người có ác ý với mình, nếu có. Rãi tâm Từ
đến những người coi mình là thù nghịch, lấy thái độ ôn hòa đối lại
những cử chỉ bất hòa là hành động của bậc anh hùng quân tử, đáng
được làm gương cho đời. Đức Phật dạy: "Hãy giữ tâm luôn luôn
trong sạch giữa đám người đầy thù hận."
Hành giả rãi tâm Từ đến tất cả
chúng sanh, không phân biệt chủng tộc, màu da, nam hay nữ, không trừ bỏ một
loài cầm thú nhỏ nhen câm điếc nào. Hành giả tự đồng hóa với tất cả,
tự mình chan hòa trong toàn thể, thấy vạn vật và mình là một. Tâm
không còn một điểm vị kỹ, hành giả đã vượt lên mọi hình thức chia
rẽ riêng tư. Không bị giam hãm trong những tư tưởng hẹp hòi, không chịu
ảnh hưởng của tinh thần đấu tranh giai cấp, quốc gia, chủng tộc, tôn
giáo, hành giả nhìn tất cả mọi người là bạn đồng hành trong đại trùng
dương mà ta gọi là đời sống của muôn loài vạn vật.
2. Tâm Bi
(Karuna)
Đức tánh thứ nhì giúp con người
trở nên cao thượng là tâm Bi.
Bi là động lực làm cho tâm rung động
trước sự đau khổ của kẻ khác, là cái gì thoa dịu niềm khổ đau sầu
não của người. Đặc tánh của tâm Bi là ý muốn giúp người khác thoát
khỏi một cảnh khổ.
Lòng người có tâm Bi thật là mềm
dịu, hơn cả những tai hoa. Ngày nào chưa cứu giúp được kẻ khác, tâm
Bi không hề thỏa mãn. Lắm khi, để làm êm dịu nỗi khổ đau của kẻ khác,
người có tâm Bi không ngần ngại hy sinh đến cả mạng sống mình. Sự
tích Túc Sanh Truyện Vyaghri Jakata [1] đã nêu lên cho ta gương lành của một
vị Bồ Tát hiế thân để cứu một con cọp mẹ và bầy cọp con khỏi chết
đói.
Chính do nhờ tâm Bi mà con người có
thể hoàn toàn vị tha trong khi phục vụ. Người có tâm Bi không sống
riêng cho mình, mà lúc nào cũng sống cho kẻ khác và luôn luôn tìm cơ hội
để giúp đời, nhưng không bao giờ mong được đền ơn đáp nghĩa.
Đối tượng của tâm Bi là gì?
Những kẻ nghèo nàn đói rách, những
người túng thiếu cơ hàn, đau ốm, cô đơn, dốt nát, hư hèn, người có
đời sống bẩn thỉu buông lung, là hạng người cần đến tâm Bi của những
tấm lòng trắc ẩn cao thượng, không luận nam nữ, không phân biệt chủng
tộc, giai cấp hoặc tôn giáo.
Phần đông người Á Châu và Phi
Châu là dân tộc nghèo. Ở Âu Châu, Úc Châu và Mỹ Châu, dân chúng sống tương
đối sung túc dễ dàng hơn. Có nhiều quốc gia giàu về vật chất mà
nghèo về tinh thần. Cũng có những dân tộc khác nghèo về vật chất mà
giàu về tinh thần. Chẳng luận tinh thần hay vật chất, bổn phận cao cả
của người giàu là giúp đỡ kẻ nghèo. Biết bao nhiêu đàn ông, đàn bà,
trẻ em, đang sống trong cảnh cơ hàn, thiếu thốn đến cả những vật dụng
cần thiết. Nếu các địa phú gia đem tiền của dư dả ra giúp đỡ cho hạng
người nầy, công tác từ thiện ấy không đến nổi làm tổn hao tài sản
của họ.
Ngày kia, có chàng sinh viên trẻ tuổi
về nhà xin phép mẹ gỡ bức màn treo trên cửa để cho một người nghèo
khó, đói rách. Chàng nói rằng không có bức màn nầy, cái cửa không đến
nổi phải chịu lạnh, nhưng nếu thiếu quần áo che thân, chắc chắn người
nghèo kia phải khổ sở vì lạnh. Lòng thương xót của chàng sinh viên nọ
đáng làm một gương tốt.
Nhân loại lấy làm vinh hạnh ghi nhận
rằng một vài lục địa giàu có đã tổ hợp lại thành những cơ quan từ
thiện, tìm mọi cách giúp đỡ những dân tộc kém mở mang. Trong hầu hết
các quốc gia, nhiều tổ chức đủ hạng - nam, nữ và sinh viên - đã hoạt
động mạnh mẽ để mang lại cho hạng người nghèo đói và túng thiếu những
sự giúp đỡ cần thiết. Các đoàn thể tôn giáo, trong phạm vi khiêm tốn
của mình, cũng tận dụng khả năng để làm tròn phận. Các quốc gia kém
mở mang đang cần trại dưỡng lão, cô nhi viện và những tổ chức từ
thiện tương tợ. Ở Á Châu, nạn ăn xin vẫn còn là một vấn đề nan giải.
Trong nhiều quốc gia ở vùng nầy, ăn xin đã trở thành nghề sinh sống. Đó
là một sĩ nhục cho quốc thể, nên chánh phủ nào cũng cần phải lưu tâm
giải quyết.
Người giàu tiền của có bổn phận
giúp đỡ kẻ nghèo về vật chất. Người giàu tinh thần đạo đức có bổn
phận giúp đỡ kẻ nghèo tinh thần, mặc dầu người ấy có thể là một
đại phú gia. Tiền rừng bạc bể một mình, không đem lại hạnh phúc
hoàn toàn. Kho tàng của báu không tạo an vui tinh thần. Tâm trạng an lạc
thanh bình chỉ do kho tàng đạo đức tạo nên.
Hạng người phóng đãng tội lỗi
càng đáng được các bậc đạo đức cao thượng xót thương hơn, vì họ
là những người bệnh hoạn về tinh thần. Không nên khinh rẽ hoặc bài
xích hạng người yếu đuối ấy vì họ đã lầm đường lạc nẻo, trái
lại, nên thương xót và dìu dắt họ trở lại đường phải. Cha mẹ
thương đồng đều các con, nhưng đặc biệt chăm nom săn sóc những đứa
ốm yếu hoặc kém sút. Cũng dường thế ấy, tâm Bi của ta phải bao trùm
tất cả chúng sanh đau khổ. Nhưng riêng đối với hạng người bệnh hoạn
tinh thần, suy kém đạo đức, ta nên có lòng thương xót đặc biệt và hết
lòng giúp đỡ, dẫn dắt họ trở lại đường lành.
Như Đức Phật xưa kia, hết lòng
thương hại và cứu độ Ambapali người, phụ nữ lạc bước giang hồ, và
tận tâm tế độ Angulimala, tên sát nhân tàn ác, toan ám hại Ngài. Về sau
cả hai đều theo Ngài và hoàn toàn đổi tánh.
Bên trong mỗi người, dầu là người
xấu xa thế nào, đều có tiềm tàng những đức tánh tốt đẹp. Đôi khi
chỉ một lời nói phải, đúng lúc, cũng có thể đổi hẳn con người từ
dữ ra lành. Như vua Asoka trước kia, tàn bạo đến đổi người thời bấy
giờ gọi là "Asoka con người tội lỗi", thế mà khi nghe được lời
nói phải của một thầy sa di trẻ tuổi, Ngài đổi hẳn tánh tình, mạnh
tiến trên đường tự giác, và trở nên "Asoka con người hiền đức",
một đấng minh quân.
Đức Phật khuyên nên xa lánh hạng
người cuồng si. Như vậy không cói nghĩa là ta không thể đến gần để
cảm hóa cùng khuyến thiện họ. Có những bệnh nhân mắc phải chứng bệnh
truyền nhiễm ngặt nghèo. Mọi người đều sợ và lánh xa. Nhưng cũng có
nhiều vị lương y hết lòng thương hại, đến gần săn sóc và chữa trị
cho họ khỏi bệnh. Nếu không có các vị lương y giàu tâm Bi kia, bệnh
nhân ắt phải bỏ mạng. Cùng một thế ấy, hạng người xấu xa bệnh hoạn
về tinh thần ắt phải bị chìm đắm mãi trong đêm tối của tội lỗi nếu
không ai có lòng quãng đại thương xót và ra tay tế độ. Thế thường, Đức
Phật tìm đến những hạng xấu xa hư hèn để cảm hóa, nhưng chính bậc
đạo đức trong sạch thì lại tìm đến Ngài.
Tâm Bi vô lượng, vô biên, vô hạn
định. Tâm Bi phải được rãi đến cho tất cả, không trừ bỏ một loài
cầm thú câm điếc nào, cũng không loại trừ những chúng sanh còn trong trứng.
Tâm Bi không nhìn nhận thế lực
và oai quyền của hạng người được xã hội coi là trên trước chỉ vì
những người nầy sanh trưởng trong một giai cấp hoặc một chủng tộc nào.
Giết, hoặc sai bảo người khác giết những con thú vô tội để bày tiệc
linh đình, ăn uống hả hê, cũng là hành động trái ngược với tâm Bi.
Dùng bom đạn để tiêu diệt hằng triệu sanh linh là hình thức xấu xa nhất
của sự tàn bạo mà nhân loại có thể làm. Thế gian ngày nay sống trong
tình trạng căm thù, sân hận, đã đem vật sở hữu quý báu nhất là mạng
sống, đặt trước bàn thờ để tế thần bạo lực. Muốn cứu vãn tình
thế, toàn thể nhân loại ngày nay cần phải thực hiện tâm Bi để tiêu
trừ những hành động độc ác và tàn bạo.
Cũng nên nhận định rằng tâm Bi của
Phật Giáo không phải là những giọt nước mắt nhỏ suông gọi là thương
xót. Kẻ thù gián tiếp của tâm Bi là âu sầu, phiền muộn (domanassa).
Tâm Bi bao trùm những chúng sanh đau
khổ. Tâm Bi bao trùm tất cả chúng sanh, kể cả đau khổ và an vui.
3. Tâm Hỷ
(Mudita)
Đức tánh cao thượng thứ ba trong
Tứ Vô Lượng Tâm là Hỷ, vui (Mudita).
Mudita, Hỷ, không phải là trạng
thái thỏa thích suông, cũng không phải cảm tình riêng đối với người nào.
Hỷ (Mudita) là tâm vui thích trước hạnh phúc của người khác, trước sự
thành công của một chúng sanh. Ganh tyà kẻ thù trực tiếp của tâm Hỷ.
Hỷ là niềm vui làm tiêu tan lòng ganh ty﮼/p>
Ganh tyó sức phá hoại vô cùng
nguy hiểm. Có nhiều người lấy làm khó chịu bực tức khi thấy hoặc
nghe nói người khác thành tựu mỹ mãn một công trình. Thấy người thất
bại thì vui mừng, mà không thể chịu đựng sự thành công của kẻ khác,
và cố gắng phá hoại hoặc bóp méo sự thật để chê bai, thay vì vui lên
để tán dương thắng lợi của người.
Đứng về một phương diện, chính
người có tâm Hỷ trực tiếp hưởng nhiều lợi ích do tâm ấy đem lại,
hơn là người khác, vì tâm Hỷ không chấp chứa lòng ganh tyﮠVề một phương
diện khác, người có tâm Hỷ không bao giờ làm trở ngại tiến bộ và
phá rối tình trạng an lạc của ai.
Cũng như tâm Từ, tâm Hỷ đối với
thân bằng quyến thuộc phát hiện rất dễ dàng nhưng khó mà bộc lộ trước
những người thù nghịch. Thật vậy, con người bình thường không bao giờ
có thể biểu lộ sự hoan hỷ vui mừng trước cái vui của người thù nghịch.
Lòng ganh tyại còn thúc đẩy con người làm những điều vô cùng độc
ác. Socrates, một nhà hiền triết Hy Lạp, bị bắt buộc phải quyên sinh bằng
thuốc độc. Chúa Christ (Ki Tô) bị đóng đinh trên thánh giá. Thánh
Gandhi(Cam Địa) bị ám sát. Đức Phật bị lăn đá gây thương tích.
Đó là bẩm tánh tội lỗi của thế
gian, đang miệt mài say đắm trong ảo mộng.
Nếu so sánh với tâm Từ và tâm
Bi, tâm Hỷ lại càng khó thực hiện. Muốn phát triển tâm Hỷ phải có ý
chí mạnh mẽ và phải tận lực cố gắng.
Người phương Đông có thành thật
thỏa thích với sự thịnh vượng của người phương Tây không? Người
phương Tây có thành thật thỏa thích với sự thịnh vượng của người
phương Đông không? Quốc gia nầy có vui mừng thấy một quốc gia khác sung
túc an lạc không? Chủng tộc nầy có hoan hỷ ghi nhận rằng một chủng tộc
khác đang vươn mình trưởng thành trong cảnh an cư lạc nghiệp không? Mặc
dầu mục đích của các tôn giáo là trau giồi tinh thần đạo đức, giáo
phài nầy có vui mà thấy ảnh hưởng tinh thần của một giáo phái khác
bành trướng mạnh mẽ không?
Tôn giáo nầy ganh tyới tôn giáo
khác. Phần bên nầy quả địa cầu ganh tyới phần bên kia. Tổ chức nầy
ganh ty với tổ chức kia. Hảng buôn nầy ganh tyới hảng buôn khác.
Gia đình nầy ganh tyới gia đình khác. Học trò ganh tyới học trò,
chí đến anh chị em trong một nhà có khi cũng ganh tyẫn nhau. Người Phật
tử nên thực hành tâm Hỷ trong đời sống cá nhân cũng như trong cuộc sống
tập thể, để tạo an vui hạnh phúc và vươn mình tiến lên trong nếp sống
thanh cao trong sạch.
Đặc tánh của tâm Hỷ là hoan hỷ
với người thành công, người lộc cao phúc hậu (anumodana). Vui cười không
phải là đặc tánh của tâm Hỷ và ra vẻ hân hoan, giả làm ra tuồng thỏa
thích, được coi là kẻ thù gián tiếp của tâm Hỷ.
Tâm Hỷ bao trùm những chúng sanh hữu
phúc. Tâm Hỷ là phẩm hạnh thành thật chia vui, chung cùng hoan hỷ với
lòng ngợi khen và loại trừ mọi hình thức bất mãn (arati), trước sự thành
công của kẻ khác.
4. Tâm Xả
(Upekkha)
Upekkha (Xả) là đức tánh thứ tư
trong Tứ Vô Lượng Tâm, khó thực hành nhất, mà cũng cần thiết nhất
trong bốn phẩm hạnh cao thượng nầy.
Phạn ngữ "Upekkha" do hai
căn "upa" và "ikkha" hợp thành. Upa là đúng đắn, chân
chánh, vô tư. Ikkha là trông thấy đúng đắn, nhận định chân chánh, hoặc
suy luận vô tư, tức không luyến ái cũng không ghét bỏ, không ưa thích cũng
không bất mãn. Không tham cũng không sân.
Upekkha (Xả) không có nghĩa là lạnh
lùng, lãnh đạm, không màng đến thế sự, cũng không phải là cảm giác
vô ký, không vui thích không phiền muộn.
Khinh rẽ, phỉ báng, nguyền rủa
là thường tình. Hạng người trong sạch đạo đức thường bị chỉ trích
và khiển trách. Giữa cơn giông tố của trường đời, người trau giồi tâm
Xả cao thượng luôn luôn giữ tâm bình thản.
Được và thua, thành và bại, ca tụng
và khiển trách, hạnh phúc và đau khổ là những việc thường xảy ra
trong đời, làm con người chao động. Được ca tụng thì vui thích,bị khiển
trách thì buồn rầu. Đó là lẽ thường. Nhưng giữa cuộc thăng trầm của
thế sự, Đức Phật dạy luôn luôn thản nhiên, hành tâm Xả vững chắc
như tảng đá to sừng sững giữa trời.
Túc Sanh Truyện (Jataka) có lời
khuyên:
"Trong hạnh phúc, trong đau khổ,
lúc thăng, lúc trầm, ta phải giữ tâm như đất.
"Cũng như trên đất ta có thể
vất bất luận vật gì, dầu chua, dầu ngọt, dầu sạch, dầu dơ, đất vẫn
thản nhiên, một mực trơ trơ. Đất không giận cũng không thương."
Cho những ai còn luân chuyển trong
Tam giới (Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới), đời sống của Đức
Phật là một gương sáng về tâm Xả. Chưa từng có một vị giáo chủ hoặc
một nhân vật nào bị chỉ trích nghiêm khắc, bị đả kích, sỉ nhục, hoặc
bị lăng mạ nhiều như Đức Phật. Tuy nhiên Đức Phật cũng được tán dương,
tôn kính và sùng bái nhất.
Ngày kia, trong khi Đức Phật đi trì
bình khất thực, có một đạo sĩ Bà La Môn ngạo mạn kêu Ngài là cùng
đinh và đối xử hết sức vô lễ. Đức Phật thản nhiên chịu đựng và
ôn hòa giải thích cho đạo sĩ thế nào là cùng đinh và vì sao chẳng nên
khinh rẽ hạng người nầy [2]. Vị đạo sĩ lấy làm khâm phục.
Một lần khác có người thỉnh Đức
Phật đến nhà trai tăng. Khi Đức Phật đến, chủ nhà lại dùng lời vô
lễ, đối xử với Ngài một cách thậm tệ. Nhưng Đức Phật không tức
giận, ôn hòa hỏi chủ nhà: - Nếu biết có khách đến nhà thì ông làm
sao?
- Tôi sẽ chuẩn bị, dọn một bữa
cơm để khoản đãi khách.
- Tốt lắm, Đức Phật nói, nhưng
rồi nếu khách không đến thì sao?
-Thì tôi sẽ cùng vợ với con chia
nhau bữa cơm.
- Tốt lắm, nầy ông, hôm nay ông mời
Như Lai đến nhà để đãi ăn. Ông đã dọn lên cho Như Lai những lời thô
lỗ cộc cằn. Như Lai không nhận. Vậy xin ông hãy giữ lấy.
Những lời nói nầy đã làm đổi
hẳn thái độ của chủ nhà.
"Không nên trả thù. Khi bị
nguyền rủa, mắng chửi, phải biết làm câm như cái mỏ bể. Được như
vậy tức đã đứng trước ngưỡng cửa Niết Bàn, mặc dầu trong thực tế
chưa đắc quả Niết Bàn."
Đó là những lời vàng ngọc mà Đức
Phật khuyên nên ghi nhớ hằng ngày trong kiếp sống vô thường biến đổi
nầy.
Trong xứ nọ, có lần có một mệnh
phụ phu nhân xúi giục một người say rượu đến nhục mạ Đức Phật thậm
tệ đến đổi Đại Đức Ananda không thể chịu được, kính bạch Đức
Phật nên sang xứ khác. Nhưng Ngài không đi cũng không hề xúc động.
Một người đàn bà giả có mang để
vu oan Đức Phật giữa công chúng. Một thiếu phụ khác nữa bị giết để
vu cáo Đức Phật phạm tôi sát nhân. Một người bà con vừa là đệ tử
của Đức Phật cũng manh tâm lăn đá từ trên đồi cao, quyết sát hại
Ngài. Chí đến hàng đệ tử của Ngài cũng có người chỉ trích Ngài là
thiên vị, bất công.
Đàng khác, bao nhiêu người đã
tán dương công đức và ca tụng Đức Phật. Bao nhiêu vua chúa đã kính cẩn
khấu đầu lễ bái dưới chân Ngài .
Như đất, Đức Phật nhận lãnh tất
cả với tâm Xả hoàn toàn.
"Vững như voi, mạnh như hổ,
ta không nên run sợ trước tiếng động. Miệng lằn lưỡi mối không làm
cho ta xúc động. Như gió thổi ngang màn lưới mà không bị vướng trong
lưới, tuy sống giữa chợ người, ta không nên say mê luyến ái những lạc
thú huyền ảo và vô thường của kiếp nhân sinh. Như hoa sen, từ bùn nhơ
nước đục, vượt lên bao nhiêu quyến rũ của thế gian, ta phải sống
trong sạch, luôn luôn tinh khiết, an lạc và thanh bình."
Người thù trực tiếp của tâm Xả
là luyến ái (raga) và kẻ thù gián tiếp của tâm Xả là sự lãnh đạm,
thái độ lạnh lùng, xây lưng với thế sự.
Upekkha (tâm Xả) lánh xa tham ái và
bất mãn. Thái độ vô tư, thản nhiên, an tỉnh là đặc tánh chánh yếu của
tâm Xả. Người có tâm Xả không bị lạc thú trần gian quyến rũ, không
thích thú say mê trong hạnh phúc, cũng không bị những gì nghịch ý làm bực
tức buồn phiền, bất mãn trong khổ đau. Người có tâm Xả không thấy sự
khác biệt giữa người tội lỗi và bậc thánh nhân, và đối xử đồng
đều với tất cả.
-oOo-
Tâm Từ bao trùm tất cả chúng
sanh; tâm Bi những chúng sanh đau khổ; tâm Hỷ, những chúng sanh hạnh phúc;
tâm Xả phủ khắp những gì tốt đẹp và những gì xấu xa, những điều
khả ái và những điều khả ố, những thích thú và những nghịch lòng.
Những ai có nguyện vọng trở
thành bậc thánh nhân trong chính kiếp sống nầy, có thể hằng ngày trau giồi
và phát triển bốn đức hạnh cao thượng trên, vốn tiềm tàng ngủ ngầm
bên trong mọi người .
Những ai có nguyện vọng trở nên
toàn thiện và bi mẫn gia công tạo an lành cho tất cả, trong khoảng thời
gian còn triền miên sanh tử theo vòng luân hồi, có thể kiên trì cố gắng,
phát triển mười ba pháp Ba La Mật (Parami), và cuối cùng, thành tựu Đạo
và Quả Chánh Đẳng Chánh Giác (Samma Sambuddha), Chánh Biến Tri.
Những ai có nguyện vọng tận diệt
mọi khát vọng của mình và chấm dứt đau khổ bằng cách chứng ngộ Niết
Bàn nhân cơ hội sớm nhất, có thể chuyên cần noi theo Con Đường Duy Nhất
- Bát Chánh Đạo - mà đến nay vẫn còn được giữ nguyên vẹn tánh cách
tinh túy nguyên thủy.
Đức Phật dạy:
"Nầy chư Tỳ Khưu, thì dụ như
toàn thể vùng đất mênh mông nầy trở thành nước, và người kia bỏ xuống
nước một cái ách xe bò, trên ách có một lỗ. Rồi có một cơn gió thổi,
đẩy trôi cái ách từ Đông sang Tây, một cơn gió khác thổi cái ách từ
Tây sang Đông, rồi một cơn gió nữa đẩy cái ách từ Bắc xuống Nam, và
một cơn gió khác từ Nam lên Bắc. Và cứ như thế, cái ách triền miên
trôi dạt trên mặt nước. Trong khi ấy có một con rùa mù, mỗi năm nổi lên
mặt nước một lần. Như vậy, có thể nào con rùa mù, sau một trăm năm,
trồi lên mặt nước và thọc đầu ngay vào cái lỗ duy nhất của cái ách
được không?
- Bạch Hóa Đức Thế Tôn, quả thật
con rùa mù khó làm như vậy.
- Nầy chư Tỳ Khưu, cùng một thế
ấy, được sanh vào cảnh người cũng khó vậy. Cùng thế ấy, khi có một
đấng Như Lai thị hiện trên thế gian. Cùng thế ấy, Giáo Pháp (Dhamma) và
Giới Luật (Vinaya) mà một đấng Như Lai tuyên bố, được truyền bá trong
thế gian quả thật vô cùng hy hữu.
Nhưng nay, nầy chư Tỳ Khưu, quả
thật vậy, trạng thái làm người đã được thành đạt, một đấng Như
Lai đã thị hiện trên thế gian, Giáo Pháp và Giới Luật mà Đức Như Lai
tuyến bố đã được truyền bá trong thế gian.
Vậy, nầy chư Tỳ Khưu, các con phải
kiên trì tinh tấn để chứng ngộ: Đây là đau khổ, đây là nguyên nhân
sanh đau khổ, đây là sự chấm dứt đau khổ, đây là con đường dẫn đến
sự chấm dứt đau khổ." [3]
Chú thích:
[1] Xem Chương 42
[2] Xem Phụ Bản 3.
[3] Kindred Sayings, trang 334.