Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [32]
- Nghiệp
báo và Tái sanh với người phương Tây
Thuyết Nghiệp Báo và Tái
Sanh là căn bản của nền triết học Plato. Con người trãi qua một
"chu kỳ của sự cần thiết". Tội lỗi mà con người gây ra ở phần
phân nửa đầu tiên của cuộc hành trình, con người phải trả trong phần
phân nửa sau. Trong quyển "Republic", Nghiệp Báo được biểu hiện
trong nhân vật Lachesis, con gái của "sự cần thiết", mà chúng sanh
ở cảnh vô hình đã chọn để đầu thai vào. Orpheus chọn hình thể một
con thiên nga. Thersites chọn hình con dã nhân. Agamemmon chọn hình con ó. Cùng
một lối ấy, vài con thú trở thành người rồi lại thành một người khác
nữa. Người bất công trở thành man rợ, người công minh chánh trực trở
nên văn minh lịch sự.
Trong thời kỳ tiền chiến của dân tộc Ba Tư, sự gặp gỡ
Đông và Tây tạo nên cuộc cách mạng chống lối "thế mạt luận"(eschatology
- luận về cứu cánh tối hậu của loài người sau khi chết và sau khi tận
thế) giản dị của Homer, và con người bắt đầu tìm một giải thích
sâu hơn về đời sống. Cũng nên ghi nhận rằng cuộc tìm kiếm ấy khởi
đầu do những người Hy Lạp vùng Tiểu-Á-Tế-Á (Ionian Greek of Asia Minor),
mà những người nầy lại chịu ảnh hưởng của Ấn Độ.
Theo lời người ghi chép lại tiểu sử của Pythagoras [1],
ông sanh vào lối 588 trước D.L. tại đảo Samos. Ông du lịch rất nhiều
và đã nghiên cứu giáo huấn của người Ấn. Chính Pythagoras đã truyền dạy
thuyết Nghiệp Báo và Tái Sanh cho người phương Tây.
Trong quyển "Greek Thinkers", sử gia Garbe viết rằng:
"Thật không phải quá đáng khi qủa quyết rằng nhờ sự trung gian của
người Ba tư (Persia) mà những người Hy Lạp hiếu kỳ trong thời Đức Phật
đã thâu thập những kiến thức ít nhiều chính xác về thời kỳ văn hóa
cực thịnh của phương Đông."
Thuyết
Tái Sanh Dưới Mắt Những Người Khác
Bhavagad Gita:
"Cũng như người kia vứt bỏ bộ quần áo cũ để mặc
y phục mới vào, người nọ vứt bỏ thể xác quá cũ để nhập vào một
thân hình mới."
"Con người sanh ra chắc chắn phải chết, và chết rồi
chắc chắn sẽ tái sanh trở lại."
Herodotus:
"Người Ai Cập truyền bá lý thuyết chủ trương rằng
linh hồn con người trường tồn bất diệt. Khi thân xác hư hoại, linh hồn
sẽ nhập vào một xác thân khác sẳn sàng đón nhận."
Pythagoras:
"Tất cả đều có linh hồn, tất cả là linh hồn lang
thang, quanh quẩn trong thế gian hữu cơ và diễn tiến theo ý nguyện hay định
luật trường cửu."
Plato:
"Linh hồn thọ hơn thể xác. Linh hồn liên tục sanh rồi
tái sanh, tái sanh trở lại trên thế gian."
Ovid viết về Pythagoras, Dryden phiên dịch:
"Cái được gọi là chết chỉ là vật chất cũ rít nằm
trong hình thức mới.
"Cũng như người ta thay một bộ y phục, và trong những
bộ quần áo khác nhau, bị đẩy đưa từ nơi nầy đến nơi khác, linh hồn
vẫn là một, chỉ có hình thể đổi mới.
"Và cũng như loại sáp mềm dẻo mà người ta đổ vào
khuôn, mặt sáp sẽ ghi nhận hình ảnh của cái khuôn, cùng một lúc hình
ảnh cũ bị xóa bỏ. Chỉ có hình thức biến đổi, sáp vẫn là sáp.
"Như vậy, được sanh ra là bắt đầu trở thành một
cái gì mới, khác hơn cái trước.
"Và những hình thức mới ấy cũng biến đổi nữa. Không
có cái gì giữ nguyên vẹn hình thể mà không liên tục thay hình dổi dạng."
Schopenhauer:
"Ta thấy rằng thuyết luân hồi khởi xuất từ thuở sơ
khai, trong thời kỳ vàng son của nhân loại, luôn luôn lan rộng trong dân
gian, được coi là tín ngưỡng của phần lớn và cũng là giáo lý của tất
cả tôn giáo, ngoại trừ tín ngưỡng của người Do Thái và hai tôn giáo
xuất xứ từ hình thức rất tế nhị của tín ngưỡng ấy. Các thuyết
luân hồi đã biến chuyển đến rất gần chân lý mà Phật Giáo đề cập
. Như vậy, trong lúc Cơ Đốc Giáo tự an ủi với những ý tưởng sẽ tự
gặp mình trở lại trong một thế gian khác, và cũng sẽ tự nhận ra tức
khắc, thì theo các tôn giáo khác, sự gặp gỡ trở lại đã diễn tiến
nhiều lần, nhưng ta không thể nhận ra. Trong những kiếp tái sanh liên tục
tái diễn, những người đã có liên quan mật thiết hoặc có tiếp xúc
ngay với nhau sẽ gặp lại nhau trong một kiếp sống vị lai, cũng lại có
sự liện hệ với nhau hoặc y hệt, hoặc tương tợ, và những tình cảm,
thiện hay ác, đối với nhau như trong kiếp sống nầy.
"Cũng như đã được ghi chú trong kinh Phệ Đà (Vedas)
và tất cả các kinh sách khác ở Ấn Độ, thuyết luân hồi được xem là
nền tảng của Bà La Môn Giáo và Phật Giáo. Cho đến nay, phần lớn các
dân tộc Á Đông không phải Hồi Giáo, hơn phân nữa nhân loại, vẫn tin tưởng
chắc chắn thuyết luân hồi và đời sống thực tế hằng ngày vẫn chịu
ảnh hưởng xâu sắc của thuyết ấy.
"Đó cũng là tín ngưỡng của người Ai Cập, và từ
Ai Cập, Orpheus, Pythagoras và Plato đã nhiệt thành nhận lãnh, và đặc biệt
giữ lại. Giáo lý nầy cũng được dạy trong những bí ẩn của người Hy
Lạp, chắc chắn không thể chối cải là theo quyển thứ chín trong Định
Luật của Plato."
"Sách Edda, đặc biệt là trong tập "Volusna", cũng
dạy thuyết luân hồi; không ít hơn nền tảng của những người theo tín
ngưỡng Druid (một hệ thống tín ngưỡng trước thời Cơ Đốc Giáo).
"Theo như tất cả những gì được trình bầy, sự tin
tưởng nơi thuyết luân hồi tự nó là niềm tin quả quyết tự nhiên của
con người mỗi khi nghĩ đến vấn đề nầy mà không bị ám ảnh trước
..." (The World As Will And Idea)
Hume:
"Thuyết luân hồi là hệ thống duy nhất đề cập đến
trạng thái vĩnh cửu trường tồn mà triết học có thể quan tâm đến."
Disraeli:
"Không có hệ thống nào vừa giản dị, vừa ít va chạm
sự hiểu biết của chúng ta bằng thuyết luân hồi. Thuyết ấy xem những
đau khổ và lạc thú trong kiếp sống nầy như sự thưởng hay phạt các
hành động của ta trong một trạng thái khác."
Dante:
"Và đây hỡi con, do nơi trọng lượng lúc chết, con sẽ
trở lại xuống đây."
Emerson:
"Cái định mệnh mà chúng ta phải lãnh là do chính ta
đã chuẩn bị một cách hồn nhiên, vô ý thức, trong rất nhiều kinh nghiệm
mà ta không thấy nổi giá trị. Có lẽ chúng ta còn tiếp tục nhận lãnh
định mệnh ấy trong nhiều kiếp nữa, trước khi hoàn tất công việc trả
quả."
Lesling:
"Tại sao tôi không thường trở lại đây để lãnh hội
những hiểu biết mới, những kinh nghiệm mới? Trong mỗi chuyến đi, tôi
có đem theo đầy đủ kinh nghiệm và hiểu biết để khỏi phải phiền phức
trở lại không?"
Huxley:
"Cũng như chủ thuyết tiến hóa luận, thuyết chuyển
sinh linh hồn bắt nguồn từ thực tế.
"Kinh nghiệm sống hằng ngày làm chúng ta quen dần với
những sự kiện được gom lại dưới danh từ truyền thống. Mỗi người
chúng ta đều mang theo với mình những đặc điểm của cha mẹ, đôi khi của
thân quyến xa xôi. Riêng về những thói quen, những khuynh hướng hành động
mà ta gọi là "tâm tánh", thường được chuyển đi rất xa theo chiều
dọc, từ ông bà xuống con cháu, và theo chiều ngang, trong quyến thuộc. Như
vậy, ta có thể nói rằng tánh tình, tinh thần và tinh hoa trí thức của
con người, chắc chắn có thuyên chuyển từ người nầy sang người khác
và từ thế hệ trước đến thế hệ sau. Bên trong đứa trẻ sơ sinh đã
có ngủ ngầm những đặc điểm truyền thống, và cái "ta" chỉ
là một khối năng lực tiềm tàng, thêm vào chút gì khác. Nhưng tiềm năng
ấy rất sớm nổi lên mặt và trở thành sức mạnh thật sự, một thực
lực, từ tuổi trẻ trở lên, biểu hiện lúc lu mờ khi sáng tỏ, lúc yếu,
lúc mạnh, lúc đúng, lúc sai lầm, và mỗi lần đổi sang từ thể xác nầy
đến một xác thân khác thì tâm tánh riêng biệt ấy lại bị một tâm
tánh khác biến đổi.
"Những triết gia Ấn Độ gọi cái "Tánh" đồng
nghĩa với Karma (nghiệp). Chính cái nghiệp chuyển từ đời này đến đời
khác và nối liền các kiếp sống trong một chuỗi dài những kiếp chuyển
sinh, và các triết học gia ấy chủ trương rằng trong mỗi kiếp sống, cái
nghiệp biến đổi, không những do truyền thống mà còn do chính động của
mình"
Tennyson:
"Hoặc nếu tôi đến đây xuyên qua những kiếp sống
thấp kém, mặc dầu cả mọi kinh nghiệm trong quá khứ đã vững chắc đóng
khuôn trong tâm, có thể tôi quên đi số phần yếu kém của tôi. Bởi vì năm
đầu tiên của chúng ta đã bị lãng quên, những vang âm trí nhớ, vốn tới
lui thường xuyên, không còn lai vãng."
Wordsworth:
"Cái sanh của chúng ta chỉ là một giấc điệp và một
sự lãng quên. Linh hồn vì tinh tú của đời sống, xuất hiện với ta hôm
nay, đã có cơ sở ở một nơi và sau đó, đến đây từ phương xa: không
trọn vẹn trong sự lãng quên, cũng không trơ trọi."
Shelley:
"Nếu không có lý do nào để giả định rằng ta đã
có sống trước thời kỳ hiện tại bắt đầu biểu hiện, thì cũng không
căn cứ vào đâu để giả định rằng chúng ta sẽ còn tiếp tục sống nữa
sau khi kiếp sống hiện tại chấm dứt."
Giáo sư Francis Bowen của đại học Harvard viết như sau để
kêu gọi tín đồ Cơ Đốc Giáo nên chấp nhận thuyết tái sanh :
"Đời sống của chúng ta trên một quả cầu là một
qui phạm và một sự chuẩn bị tiến đến đời sống sau này, cao thượng
và vĩnh viễn hơn. Nhưng nếu phải bị giới hạn trong thời gian của một
kiếp sống thì thật là ngắn ngủi, và hình như khó đầy đủ mục tiêu
quan trọng như thế. Bảy mươi năm chắc chắn không đủ để chuẩn bị
cho thời gian vĩnh cửu vô cùng tận. Nhưng có gì bảo đảm cho ta rằng
giai đoạn tập sự cho linh hồn phải bị gò bó trong thời hạn hẹp hòi
như vậy? Tại sao giai đoạn ấy không thể tiếp tục kéo dài thêm hay lặp
lại trong một chuỗi dài những thế hệ kế tiếp, một cái tính tạo sinh
khí cho một số thể xác vô định? Từ thân này đến thân khác, và mang
đến cho mỗi thể xác những kiến thức đã thâu lượm, tánh tình đã tạo
nên, khí chất và tâm tánh sẵn có trong những giai đoạn kế tiếp liền
đó. Nó không cần biết đến quá khứ của nó, mặc dầu đang mang quả và
chịu sâu rộng của quá khứ ấy trong thể chất hiện tại. Bao nhiêu đoạn
dài của kiếp sống quá khứ đã bị lãng quên hoàn toàn, mặc dầu đã
góp phần quan trọng vào việc xây dựng tâm và trí. Do đó có sự khác biệt
giữa người này và người kia. Trách nhiệm của chúng ta không vì sự
quên lãng ấy mà giảm kém đi. Hình như ta vẫn chịu ảnh hưởng của sự
lạm dụng thì giờ, mặc dầu đã quên hẳn ta đã phung phí như thế nào,và
ở đâu. Chính đến nay, chúng ta vẫn còn đang lập lại những quả đắng,
do nơi sức khỏe yếu kém, và tham vọng hư hèn của những hành động dễ
duôi vô ý thức và tội lỗi đã bị lãng quên, bị lãng quên vì chúng
quá nhiều.
"Nếu mỗi linh hồn tuyệt đối là một tạo vật mới,
mỗi đời sống phải được tạo ra hoàn toàn, thì một cách hợp lý, ta
có thể hỏi tại sao các linh hồn có thể khác biệt nhau như thế từ lúc
đầu? Nếu thuyết di thể cũng nằm trong chương trình của một chánh quyền
trên thiên đàng để trị vì thế gian thì tất cả những khó khăn trên đều
tự nhiên tan biến cùng một lúc. Đứng về một phương diện, mọi người
đều được sanh vào trạng thái mà chính mình tạo trong lịch trình quá khứ
của mình. Lý thuyết chủ trương rằng mình phải chịu hậu quả của những
tội lỗi mà tổ tiên gây nên là một bài học khó. Nhưng không ai có thể
phản đối về cái thân phận mà chính mình đã thừa hưởng của chính
mình, của chính tự ngã của mình trong một trạng thái ở kiếp sống quá
khứ. Cái mà ta gọi là chết chỉ là biến trạng đưa đến một đời sống
khác trên quả địa cầu và nếu đời sống ấy không được cao quí tốt
đẹp hơn kiếp sống cũa vừa chấm dứt thì chính là tại ta."
Tiền kiếp
- " Tôi trải mình nằm dài trên bãi biển
- Và thả hồn thơ mộng một không gian bé nhỏ.
- Tôi nghe những lượn sóng to tan vỡ và gầm thét.
- Mặt trời ở ngay trước mặt tôi.
- "Những ngón tay đen trên bàn tay dã dượi của tôi
- Lười biếng nô đùa với cát xám,
- Những lượn sóng vập vồ trườn lên bãi.
- Những lượn sóng rút về biển cả
- vang động và vui vẻ ,
- "Những hột cát vừa trong, vừa mịn,
- Ấm áp nằm trên tay tôi ,
- Cũng như những người bé nhỏ mà tôi thấy
- Ngồi đó đây trên bãi biển.
- "Những hột cát nhỏ, rực rỡ và mịn màng,
- Lọt xuyên qua kẽ tay tôi ;
- Mặt trời rọi xuống trên tất cả ...
- Và tôi đã bắt đầu mơ tưởng:
- "Tất cả những cái ấy trước kia là thế nào ?
- Bao nhiêu năm đã tôi qua, xa xôi trong dĩ vãng
- Tôi đã nằm trên bãi biển nào mà nay đã lãng quên,
- Cũng như tôi đã nằm đây hôm nay .
- "Những lượn thủy triều đã vươn lên.
- Và chiếu sáng bãi cát cũng như hôm nay .
- Và trong lòng bàn tay thuộc về thời thượng cổ của tôi
- Những hột cát vẫn ấm áp và mịn màng.
- "Tôi đã quên hẳn từ đâu tôi đến đây,
- hay quê nhà của tôi là thế nào.
- Hay lúc ấy tôi gọi cái biển gầm thét vang động này.
- Bằng những danh từ quái lạ và man rợ nào.
- "Chỉ biết rằng lúc ấy mặt trời đã rọi sáng xuống
- cũng như rọi sáng hôm nay,
- và những hột cát mịn màng
- nằm trên ngón tay dài thượt và đen xám của tôi. [2]
Chú thích
[1] Pythagoras nhớ lại đã tham dự trận chiến Trojan dưới
tên Euphorbus. Empedocles đã có những kiếp sống làm một thanh niên, một
thiếu nữ, một con chim và một con cá trong lòng biển cả (Frag. 117, Diels).
[2] Frances Cornford, "An Anthology of Modern Verse", do A.
Methuen, London, Methuen and Co., chọn và trích đăng trong "The Buddhist Annual
of Ceylon", 1927.