Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [3]
- Đạo Quả Phật
"Các Đấng Như Lai chỉ là những vị thầy"--
Kinh Pháp Cú
Đặc Điểm Của Đức Phật
Sau cuộc chiến đấu kỳ diệu phi
thường kéo dài sáu năm đăng đẳng, không có sự hỗ trợ từ bên ngoài
và không được sự hướng dẫn của một năng lực siêu phàm nào, đơn độc
một mình và chỉ nương nhờ nơi nỗ lực của chính mình, Đạo Sĩ Gotama
(Cồ Đàm), lúc ấy ba mươi lăm tuổi, tận diệt mọi ô nhiễm, chấm dứt
mọi tiến trình tham ái và chứng ngộ thực tướng của vạn pháp, đã trở
thành một vị Phật (Buddha), Đấng Chánh Biến Tri, bậc Toàn Giác. Kể từ
ngày ấy, Ngài là Đức Phật Cồ Đàm (Buddha Gotama) [1], một trong chuỗi
dài những vị Phật đã xuất hiện trong quá khứ và sẽ xuất hiện trong
tương lai.
Không phải khi sanh ra Ngài đã là
Phật, mà Ngài trở thành Phật do sự nỗ lực của mình.
Phạn ngữ Buddha (Phật) xuất
nguyên từ căn "Budh", là hiểu biết hay thức tỉnh. Gọi là Buddha
(Phật) vì Ngài hiểu biết đầy đủ Bốn Chân Lý Thâm Diệu Cao Quý (Tứ
Diệu Đế), và từ giấc mơ vô minh Ngài đã thức tỉnh. Chẳng những
hoàn toàn thấu triệt, mà Ngài còn có đủ khả năng truyền bá giáo lý
nên cũng gọi là Samma Sambuddha (Chánh Biến Tri, âm là Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề)
để phân biệt với chư Phật Pacceka (Độc Giác, cá nhân, đơn độc) chỉ
thấu triệt giáo lý mà không thể rọi sáng cho kẻ khác, tự giác nhưng không
thể giác tha.
Trước khi thành đạt Đạo Quả Phật,
Ngài được gọi là Bồ Tát (Bodhisatta) [2], có nghĩa là người có nguyện
vọng trở thành Phật.
Người muốn đắc Quả Phật phải
trải qua thời kỳ Bồ Tát, một thời kỳ tích cực trau giồi và phát triển
những phẩm hạnh: bố thí, trì giới, từ khước (xuất gia), trí tuệ,
tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, quyết định, tâm từ và tâm xả.
Trong một thời kỳ chỉ có một đấng
Chánh Biến Tri. Cũng như có những loại cây, trọn đời chỉ trổ ra một
bông, một hệ thống thế gian (lokadhatu) chỉ có một đấng Chánh Biến
Tri.
Đức Phật là chúng sanh duy nhất,
là nhân vật hy hữu, chỉ thật lâu mới có thể xuất hiện trên thế
gian, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc của chư
Thiên và nhân loại. Tôn vinh Ngài là "Acchariya manussa" vì Ngài là một
con người kỳ diệu lạ thường. Tôn vinh Ngài là "Amatassa data" vì
Ngài đã ban bố tình trạng Bất Diệt. Tôn vinh Ngài là "Varado" vì
Ngài là người đã ban bố tình thương tinh khiết nhất, trí tuệ thâm sâu
nhất và chân lý cao siêu nhất. Cũng tôn vinh Ngài là "Dhammassami"
vì Ngài là Pháp Vương, Chúa của Giáo Pháp (Dhamma).
Như Đức Phật dạy, Ngài là:
"Đấng Như Lai (Tathagata), bậc
-ng Cúng (Araham), đấng Chánh Biến Tri (Samma Sambuddha), người đã sanh ra con
đường vô sanh, đã sáng tạo con đường chưa được sáng tạo, đã công
bố con đường chưa được công bố, người đã hiểu biết con đường,
người đã mục kích con đường, người đã nhận thức con đường"
[3].
Không có vị thầy nào dạy Đức
Phật phương pháp tu học để chứng Đạo Quả Chánh Đẳng Chánh Giác,
"Na me acariyo atthi" [4], "một đạo sư, ta không có", là
chính lời của Đức Phật. Ngài có học với những vị thầy để hiểu
biết thế gian pháp [5] nhưng để đến tầng siêu thế thì không. Chính
Ngài tự lực thành đạt trí tuệ trực giác.
Nếu Đức Phật đã nhờ một vị
thầy hay một hệ thống tín ngưỡng nào như Ấn Độ Giáo chẳng hạn --
tôn giáo mà Ngài đã trưởng thành trong ấy -- để phát triển trí tuệ
siêu phàm, thì ắt Ngài không thể tự gọi là "đạo sư vô song"
(aham sattha anuttaro) [6]. Trong bài Pháp đầu tiên, Ngài tuyên bố rằng ánh
sáng đã rọi rõ cho Ngài trong những việc chưa từng được nghe.
Trong những ngày đầu tiên sau khi
xuất gia tầm đạo, Ngài cố tìm đến sự hướng dẫn của những vị thầy
lỗi lạc nhất thời bấy giờ, nhưng trong giáo huấn của các vị thầy
này không tìm thấy được điều mong mỏi. Tình thế bắt buộc Ngài phải
tự mình suy niệm và quay trở vào bên trong để tìm Chân Lý. Và Ngài đã
tìm ra Chân Lý bên trong Ngài. Ngài theo dõi đến tận mức thâm sâu nhất của
dòng tư tưởng, và chứng ngộ Chân Lý cùng tột, chưa bao giờ từng được
nghe và chưa từng được biết. Tuệ giác phát sanh từ bên trong và rọi
sáng những sự vật mà trước kia Ngài chưa từng nghe thấy.
Vì Ngài đã thấu triệt tất cả
những gì cần được biết và đã nắm được cái chìa khóa mở cửa vào
mọi kiến thức, nên tôn Ngài là Sabbannu, bậc Toàn Giác. Đó là trí tuệ
siêu phàm mà Ngài đã dày công trau giồi, trải qua vô lượng tiền kiếp.
Phật
Là Ai?
Ngày nọ có người theo đạo Bà La
Môn tên Dona, nhân khi thấy dấu chân của Đức Phật in dưới cát có những
đặc điểm lạ thường, đến gần Ngài và hỏi:
- Phải chăng Ngài là một vị Trời
(Deva)?
- Không, quả thật tôi không phải
là một vị Trời.
- Vậy phải chăng Ngài là một nhạc
công trong cảnh Trời (Gandhabba)?
- Không, tôi không phải là một nhạc
công trong cảnh Trời.
- Vậy Ngài là quỷ Yakka chăng?
- Không, quả thật tôi cũng không
phải là quỷ Yakka.
- Như thế chắc Ngài là người?
- Không, quả thật tôi cũng không
phải là người.
- Vậy, xin cho biết Ngài là ai?
Đức Phật trả lời rằng Ngài đã
tận diệt những pháp trầm luân (hoặc lậu), vốn tạo điều kiện để tái
sanh vào những cảnh Trời, Gandhabba, Yakka hay cảnh người, và thêm:
"Như hoa sen, đẹp đẽ và dễ
mến,
Không ô nhiễm bùn dơ nước đục,
Giữa đám bụi trần, ta không vướng
chút bợn nhơ.
Như vậy, Ta là Phật." [7]
Đức Phật không hề tự xưng là
hiện thân (avatara) của thần Vishnu, một Thần Linh Ấn Độ Giáo mà kinh
Bhagavadgita đã ca ngợi một cách huyền diệu, sanh ra để bảo vệ sự chân
chánh, tiêu diệt tội lỗi và để thiết lập và củng cố đạo lý
(Dharma).
Theo lời dạy của Đức Phật thì
có hằng hà sa số chư Thiên (Deva, cũng gọi là những vị Trời) -- cũng là
hạng chúng sanh, còn phải chịu sanh tử luân hồi -- nhưng không có một Thần
Linh Tối Thượng, với quyền lực siêu thế, kiểm soát vận mạng con người,
xuất hiện trên thế gian từng lúc, dùng hình thức người làm phương tiện.
[8]
Đức Phật cũng không bao giờ tự
gọi là "Đấng Cứu Thế" có quyền năng cứu vớt kẻ khác bằng
chính sự cứu rỗi của mình. Ngài thiết tha kêu gọi những ai hoan hỷ bước
theo dấu chân Ngài không nên ỷ lại nơi người khác mà phải tự mình giải
thoát lấy mình, bởi vì cả hai trong sạch và bợn nhơ, cũng đều tùy thuộc
nơi chính mình. Ta không thể trực tiếp làm cho ai trong sạch hay ô nhiễm.
[9]
Để minh định rõ ràng mối tương
quan của Ngài đối với hàng môn đệ và để nhấn mạnh tầm quan trọng
của sự kiện tự mình nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm và tự mình nỗ
lực kiên trì, Đức Phật minh bạch dạy rằng:
"Các con phải tự mình nỗ lực.
Các đấng Như Lai chỉ là đạo sư." [10]
Đức Phật chỉ vạch cho ta con đường
và phương pháp mà ta có thể nương theo đó để tự giải thoát ra khỏi mọi
khổ đau của vòng sanh tử và thành tựu mục tiêu cứu cánh. Đi trên con
đường và theo đúng phương pháp cùng không, là phần của người đệ tử
chân thành muốn thoát khỏi những bất hạnh của đời sống.
"Ỷ lại nơi kẻ khác để giải
thoát cho mình là tiêu cực. Nhưng đảm đang lãnh lấy trách nhiệm, chỉ
tùy thuộc nơi mình để tự giải thoát, quả thật là tích cực."
Tùy thuộc nơi người khác là đem
tất cả cố gắng của chúng ta ra quy hàng.
"Hãy tự xem con là hải đảo của
con. Hãy tự xem con là nương tựa của con. Không nên tìm nương tựa nơi ai
khác!" [11]
Các lời lẽ có rất nhiều ý nghĩa
kia mà Đức Phật đã dạy trong những ngày sau cùng của Ngài quả thật mạnh
mẽ, nổi bật và cảm kích. Điều này chứng tỏ rằng cố gắng cá nhân
là yếu tố tối cần để thành tựu mục tiêu. Tìm sự cứu rỗi nơi những
nhân vật hảo tâm có quyền năng cứu thế và khát khao ham muốn hạnh
phúc ảo huyền xuyên qua những lời van vái nguyện cầu vô hiệu quả và
nghi thức cúng tế vô nghĩa lý, quả thật là thiển bạc và vô ích.
Đức Phật là một người như chúng
ta. Ngài sanh ra là một người, sống như một người, và từ giã cõi đời
như một người. Mặc dầu là người, Ngài trở thành một người phi thường,
một bậc siêu nhân, do những cá tính đặc biệt duy nhất của Ngài. Đức
Phật đã ân cần nhắc nhở nhiều lần như vậy và không có điểm nào
trong đời sống hoặc trong lời dạy của Ngài để chúng ta lầm hiểu rằng
Ngài là một nhân vật vô sanh bất diệt. Có lời phê bình rằng lịch sử
nhân loại, không hề có vị giáo chủ nào "phi thần linh hơn Đức Phật,
tuy nhiên, cũng không có vị nào có đặc tánh thần linh hơn Đức Phật"
[12]
Trong thời Ngài còn tại thế, Đức
Phật chắc chắn được hàng tín đồ hết lòng tôn kính, nhưng không bao
giờ Ngài tự xưng là Thần Linh.
Tánh
Cách Vĩ Đại Của Đức Phật
Sanh ra là một người, sống như một
người, Đức Phật thành đạt trạng thái tối thượng của sự toàn thiện,
Đạo Quả Phật, do sức kiên trì nỗ lực cá nhân. Nhưng Ngài không dành
giữ sự liễu ngộ siêu phàm cho riêng mình mà công bố trước thế gian rằng
tâm có khả năng và oai lực bất khuất. Không khi nào tự hào rằng chỉ
có Ngài là người duy nhất đắc Quả Phật, vì Đạo Quả Phật không phải
là ân huệ đặc biệt dành riêng cho một cá nhân tốt phước nào đã được
chọn trước.
Thay vì đặt trên con người một
thần linh vạn năng vô hình và cho con người một địa vị khép nép rụt
rè, Đức Phật chứng minh rằng con người có thể thành đạt trí tuệ cao
siêu và Đạo Quả tối thượng do sự cố gắng của chính mình. Và như vậy,
Đức Phật nâng cao phẩm giá con người. Ngài dạy rằng muốn thoát ra khỏi
vòng trầm luân phiền não, chính ta phải tự mình gia công cố gắng chớ
không phải phục tùng, tùy thuộc nơi một thần linh, hay một nhân vật
nào làm trung gian giữa ta và vị thần linh ấy.
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình
làm trung tâm của vũ trụ và chạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng
ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi. Ngài chống đối tệ
đoan phân chia giai cấp trong xã hội -- chỉ làm trở ngại mức độ tiến
hoá của loài người -- và luôn luôn bênh vực công lý, khuyên dạy bình đẳng
giữa người và người. Ngài tuyên bố rằng cánh cửa đưa vào sự thành
công và thạnh vượng phải rộng mở cho tất cả mọi người, ai cũng như
ai, dầu cao thấp, sang hèn, đạo đức hay tội lỗi, nếu người ấy cố công
cải thiện nếp sống, hướng về con đường trong sạch. Ngài nâng đỡ hoàn
cảnh của người phụ nữ, lúc bấy giờ bị xã hội khinh thường, không
những bằng cách nâng phẩm giá của người đàn bà lên đúng tầm quan trọng,
mà còn sáng lập giáo hội đầu tiên trong lịch sử cho hàng phụ nữ. Cũng
lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, Ngài đứng lên cố gắng đánh
đổ chế độ mua bán người làm nô lệ. Ngài bãi bỏ phong tục đem những
con vật xấu số ra giết để cúng tế thần linh và nới rộng tâm Từ,
bao trùm luôn cả loài thú.
Không bao giờ Đức Phật cưỡng bách
tín đồ phải làm nô lệ cho giáo lý của mình hay cho chính mình. Những ai
bước theo dấu chân Ngài đều được tự do tư tưởng. Ngài khuyên dạy
hàng môn đệ không nên nhắm mắt chấp nhận những lời của Ngài chỉ
vì kính nể, tôn trọng, nhưng phải xem xét, nghiên cứu, suy niệm cẩn thận
cũng như người trí tuệ muốn thử vàng, phải "đốt, cắt và chà
vào đá".
Đức Phật nâng đỡ những bà mẹ
bạc phước như Patacara và Kisagotami bằng những lời khuyên lơn an ủi. Ngài
tự tay chăm sóc những người bệnh hoạn cô đơn như Putigatta Tissa Thera.
Ngài giúp đỡ người nghèo đói và bị bỏ rơi, không noi nương tựa như
Rajjumala và Sopaka và giải cứu những vị này khỏi phải chết oan thê thảm.
Đức Phật nâng cao đời sống đạo đức của hạng người tội lỗi sát
nhân như Angulimala và hạng gái giang hồ hư hỏng như Ambapali. Ngài khuyến
khích kẻ yếu, đoàn kết người chia rẽ, đem ánh sáng đến cho người vô
minh tăm tối, dắt dẫn kẻ mê muội lầm đường, nâng đỡ người thấp
kém và tăng cao phẩm giá người cao quý. Người nghèo, người giàu, người
lương thiện và người tội lỗi, tất cả đều quý mến Ngài như nhau. Những
bậc vua chúa tàn bạo độc tài và những vì minh quân chánh trực, những
hoàng tử vinh quang hiển hách và những người sống cuộc đời tối tăm,
không ai biết đến, những nhà triệu phú giàu lòng quảng đại, những vị
keo kiết bỏn xẻn, những học giả khiêm tốn và những người kiêu căng
tự đắc, hạng gái giang hồ, hạng người làm nghề bẩn thỉu, hạng sát
nhân, hạng người thường bị khinh bỉ, tất cả đều có hưởng những lời
khuyên dạy đầy trí tuệ và từ bi của Đức Phật. Gương lành cao quý của
Ngài là nguồn gợi cảm, là niềm khích lệ cho tất cả. Ngài là vị đạo
sư giàu lòng bi mẩn và rộng lượng khoan hồng hơn tất cả.
Ý chí sắt đá, trí tuệ cao siêu,
lòng bi mẫn vô biên, đức vị tha phục vụ, sự thoát ly chưa từng có, đời
sống gương mẫu, những phương pháp toàn thiện mà Ngài đã áp dụng để
truyền bá giáo lý, và sự thành công tối hậu của Ngài -- tất cả những
yếu tố ấy đã khiến một phần năm nhân loại tôn thờ Ngài là vị
giáo chủ siêu việt nhất tự cổ chí kim.
Để tỏ lòng kính thâm sâu của
mình đối với Đức Phật, Sri Radhakrishnan viết:
"Nơi Đức Phật Gotama (Cồ Đàm)
ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện của người phương Đông. Ảnh hưởng
của Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hy hữu,
cho đến nay không thua kém ảnh hưởng của bất cứ vị giáo chủ nào
trong lịch sử. Mọi người đều sùng kính, tôn Ngài là người đã dựng
nên một hệ thống tôn giáo vô cùng cao thâm huyền diệu. Ngài thuộc về
lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh của người thiện trí bởi
vì, đứng về phương diện trí thức, chắc chắn Ngài là một trong những
bậc vĩ nhân cao thượng nhất của lịch sử". [13]
Trong quyển "Three Greatest Men
in History", nhà học giả H. G. Wells ghi nhận như sau:
"Nơi Đức Phật ta thấy rõ
ràng là một con người giản dị có tâm đạo nhiệt thành, một mình tự
lực phát huy ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống, một con người
như mọi người chớ không phải một nhân vật thần thoại ẩn hiện trong
nhiều truyền thuyết hoang đường. Ngài cũng ban bố cho nhân loại lời
kêu gọi có tính cách phổ thông. Bao nhiêu quan niệm của thế hệ tân thời
đều tương hợp với giáo lý ấy. Đức Phật dạy rằng tất cả những
gian lao sầu khổ và bất hạnh trong đời đều do lòng ích kỷ sanh ra. Trước
khi có thể trở nên vắng lặng, con người cần phải ngừng sống cho giác
quan mình. Rồi từ đó, vượt lên trên tất cả mọi người, Ngài sống cuộc
đời siêu nhiên. Năm trăm năm trước Chúa Christ (Ki Tô), xuyên qua nhiều
ngôn ngữ khác nhau, Phật Giáo đã kêu gọi con người nên tự quên mình.
Đứng về một vài phương diện, giữa ta (là người Âu) và những nhu cầu
của chúng ta và Phật Giáo, có nhiều quan điểm gần nhau. Đối với tầm
quan trọng của con người trong sự phục vụ, Ngài tỏ ra sáng suốt hơn, và
đối với vấn đề trường tồn bất hoại của kiếp nhân sinh, Ngài ít
lúng túng trong biện thuyết mập mờ hơn Chúa Ki Tô."
Thi sĩ Tagore tôn Ngài là bậc Vĩ Nhân
Cao Quý nhất trên thế gian.
Một triết gia người Đan Mạch,
ông Fausboll, tán dương Đức Phật với những lời lẽ như sau:
"Càng hiểu biết Ngài, tôi
càng quý mến Ngài".
Một tín đồ từ tốn của Đức
Phật sẽ nói:
"Càng hiểu biết Ngài, tôi
càng quý mến Ngài. Càng quý mến Ngài, tôi càng hiểu biết Ngài".
Chú thích
[1] Hàng tín đồ gọi Ngài là Đức
Phật (Buddha), Đức Thế Tôn (Bhagava), Đức Thiện Thệ (Sugata) v.v... Những
người ở đạo khác gọi Ngài là Tôn Giả Cồ Đàm (Bho Gotama), Sa Môn Cồ
Đàm (Samana Gotama) v.v... Khi đề cập đến mình, Đức Phật dùng danh từ
"Như Lai" (Tathagata) có nghĩa là "người đã đến như vậy",
"người đã ra đi như vậy".
[2] Sanskrit: Bodhisatva. Xem Chương 40
và 41.
[3] Samyutta Nikaya, Tạp A-Hàm phần
3, trang 66; Kindred Sayings, phần 3, tr.58
[4] Majjhima Nikaya, Trung A-Hàm,
Ariyapariyesana Sutta, số 26
[5] Như Kondanna, Alara Kalama, Uddaka
Ramaputta v.v...
[6] Majjhima Nikaya, Trung A-Hàm, Kinh
Ariyapariyesana Sutta, số 26
[7] Gradual Sayings, phần 2, tr. 44-45.
Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A-Hàm, phần 2, tr. 37.
[8] Tuy nhiên, có những vị đạo
sư Ấn Độ Giáo, để khuyến dụ người Phật tử theo tôn giáo mình, đã
sai lầm gọi Đức Phật là hiện thân của một Thần Linh Ấn Độ Giáo,
điều mà Đức Phật đã bác bỏ từ lúc còn tại tiền.
[9] Pháp Cú, 165: Trong sạch hay ô
nhiễm đều tùy nơi ta. Khong ai làm cho người khác trong sạch được.
[10] Pháp Cú, 276
[11] Digha Nikaya - Trường A-Hàm,
Mahaparinibbana Sutta - Kinh Đại Bát Niết Bàn.
[12] Dwight Goddard - Buddhist Bible,
trang 20.
[13] Gautama The Buddha, trang 1.