Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [28]
- Hiện tượng Tái
Sanh
"Đống xương tàn
(của tất cả thể xác) của một người, Xuyên qua các kiếp sống nầy
trong một chu kỳ, Có thể cao vọi như một ngọn núi - Bậc cao minh nói như
vậy." Itivuttaka
Theo triết học Phật Giáo (Vi Diệu Pháp, Abhidhamma), ba hiện
tượng có thể xuất hiện cho con người thấy trong giai đoạn hấp hối là:
Nghiệp (Kamma), Hiện Tượng Của Nghiệp (Kamma Nimita), và Biểu Hiện Lâm
Chung (Gati Nimitta).
Kamma (Nghiệp) là vài hành động tốt hay xấu trong đời sống
hoặc ngay trước phút lâm chung. Nếu người hấp hối đã phạm một trong
năm trọng tội (Garuka Kamma, ngũ nghịch trọng tội: giết cha, giết mẹ, giết
một vị A La Hán, làm tổn thương Đức Phật và chia rẽ Tăng Chúng), hoặc
người ấy đã đắc một trong các tầng Thiền-na (Jhana), thì chứng nghiệm
hiện tượng Kamma trước khi chết. Những hành động thiện hay bất thiện
đặc biệt ấy có năng lực thật mạnh, chen vào, áp đảo tất cả các
hành động khác và biểu hiện thật rõ rệt trước mắt người hấp hối.
Nếu không có Nghiệp nặng như vậy thì có thể tiến
trình tư tưởng cuối cùng của người ấy đeo níu theo cái Nghiệp vừa tạo
liền trước khi chết, gọi là Asanna Kamma, hay Cận Tử Nghiệp. Cận Tử
Nghiệp là hành vi cuối cùng hay hành vi nào mà chập tư tưởng cuối cùng
nhớ đến, liền trước khi lâm chung.
Nếu không phải Cận Tử Nghiệp thì có thể là Thường
Nghiệp (Acinna Kamma), hành động tốt hay xấu thường ngày, những việc ta
thường làm hằng ngày, hay những việc mà ta thưòng nhớ đến và ưa thích
hơn hết. Trong trường hợp nầy, nếu người hấp hối là một bác sĩ thì
thấy đang săn sóc bệnh nhân, một tỳ khưu thì thấy đang thuyết pháp, một
tên trộm thì thấy đang cạy cửa, khoét vách v.v...
Nếu ba trường hợp trên không xảy ra thì Nghiệp Tích Trữ
(Katatta Kamma), xuất hiện. Nghiệp Tích Trữ gồm tất cả những trường hợp
không có kể trong ba loại Nghiệp trên, những hành động, tốt hay xấu, không
quan trọng.
Hiện Tượng của Nghiệp - Kamma Nimitta - là những biểu tượng
xuất hiện trong tâm thức của người hấp hối dưới hình thức sắc,
thinh, hương, vị, xúc hay pháp, tức là những hình sắc, âm thanh, mùi, vị
hay tư tưởng mạnh mẽ, quen thuộc, trong nếp sanh hoạt hằng ngày, tốt
hay xấu. Như người đồ tể thì thấy con dao hay con thú chết, bác sĩ thì
thấy bệnh nhân, người mộ đạo thì thấy các món lễ vật v.v...
Biểu Hiện Lâm Chung - Gati Nimitta - là vài dấu hiệu có
liên quan đến cảnh giới mà người hấp hối sắp được tái sanh vào. Do
đó, mặt người sắp lâm chung thường lộ vẽ vui sướng hoặc đau khổ.
Khi triệu chứng phát sanh, nếu là xấu thì ta có thể sửa chữa kịp thời
bằng cách giảng kinh hay nói pháp để tạo đối tượng tốt đẹp trong
tư tưởng người sắp chết. Những Biểu Hiện Lâm Chung (Gati Nimitta) [1] thường
là lửa, rừng, vùng sơn cước, thai bào mẹ, thiên cung v.v...
Dầu sanh trong trường hợp bất đắc kỳ tử, tiến trình
tư tưởng của người sắp chết vẫn diễn tiến và đối tượng của chập
tư tưởng cuối cùng ấy là một trong ba hiện tượng: Nghiệp, Hiện Tượng
của Nghiệp và Biểu Hiện Lâm Chung (Kamma, Kamma Nimitta, và Gati Nimitta).
Thí dụ một người sắp lâm chung và tái sanh vào cảnh người.
Đối tượng của chập tư tưởng cuối cùng là một vài hành động (nghiệp)
tốt. Tiến trình tư tưởng cuối cùng của người ấy diễn ra như sau: Luồng
Bhavanga ngưng rung động trong hai chập rồi diệt. Liền khi ấy Ngũ Môn Hướng
Tâm (manodvaravajjana) phát sanh rồi tắt. Kế đến một giai đoạn tâm lý
quan trọng, tiến trình Javana, lúc bình thường phát sanh liên tiếp trong bảy
chập, nhưng trong tư tưởng cuối cùng của một kiếp sống thì chỉ phát
sanh trong năm chập liên tiếp. Tiến trình nầy không có năng lực tái tạo
mà chỉ có nhiệm vụ điều hòa kiếp sống mới (abhinavakarana). Trong trường
hợp của người sắp tái sanh trở lại vào cảnh người, đối tượng của
luồng Javana cuối cùng là một nghiệp tốt, vậy là tâm thiện. Đăng Ký
Tâm (tadalambhana citta), có phận sự ghi nhận, có thể phát sanh trong hai chập,
mà cũng có thể không phát sanh. Đó là chập tư tưởng tối hậu của kiếp
sống hiện tại. Có người lầm tưởng rằng Tử Tâm (cuti citta) tạo điều
kiện để tái sanh. Trong thực tế, Tử Tâm không có nhiệm vụ đặc biệt
nào. Chính tiến trình Javana tạo điều kiện cho sự tái sanh sắp đến.
Cái chết thật sự đến lúc Tử Tâm (cuti citta) chấm dứt.
Kể từ đó tâm và vật thực (cittaja và aharaja) không còn tạo năng lực vật
chất nữa. Chỉ còn một loại năng lực vật chất phát sanh do hơi nóng
(utuja) tiếp tục tồn tại đến khi cơ thể vật chất tan rã [2].
Lúc Tử Tâm vừa tắt thì Thức-tái-sanh phát hiện cùng một
lúc cũng phát sanh "mười-thành-phần của thân", "mười-thành-phần
của giống" nam hay nữ, và "mười-thành-phần của ý căn" [3].
Như vậy, theo Phật Giáo, tánh chất nam hay nữ đã được
quyết định ngay lúc bà mẹ thọ thai và do Nghiệp tạo điều kiện, chớ
không phải là một sự hòa hợp ngẫu nhiên của minh châu và tinh trùng.
Sự diệt tắt của tâm trong kiếp vừa qua là cơ hội để
cho một tâm mới phát sanh trong kiếp sống kế. Tuy nhiên, không có cái gì
vĩnh cửu, nguyên vẹn đơn thuần, không biến đổi, được chuyển từ quá
khứ sang hiện tại. Cũng như bánh xe lăn tròn trên đường, mỗi một lúc
chỉ có một điểm của bánh xe chạm với đường. Nói một cánh chính
xác, chúng ta chỉ sống trong từng chập tư tưởng. Ta chỉ sống trong hiện
tại và hiện tại nhất định phải trôi vào dĩ vãng.
Trong tiến trình luôn luôn biến đổi của đời sống,
trong một khoảnh khắc, mỗi chập tư tưởng, sanh, trụ, rồi diệt, và
trong khi diệt, chuyển tất cả năng lực và cảm giác đã ghi nhận cho chập
tư tưởng kế. Vậy mỗi chập tư tưởng mới gồm những năng lực tiềm
tàng của chập trước và thêm vào đó chút gì khác. Đến lúc chết, chập
tư tưởng cuối cùng chấm dứt, để nhường chổ cho chập tư tưởng kế
phát sanh trong kiếp sống mới. Vậy, cái thức mới gồm chứa tất cả những
kinh nghiệm trong quá khứ, vì tất cả những cảm giác trong quá khứ đều
được ghi nhận trong cái tâm biến đổi, và tất cả tiềm năng đều được
chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác, mặc dầu phần vật chất tan rã. Vì
lẽ ấy, đôi khi có người còn nhớ được kiếp quá khứ của mình. Nếu
trí nhớ chỉ thùy thuộc khối não, tức nhiên không thể có người nhớ
được tiền kiếp của mình.
"Chúng sanh mới là sự biển hiện của luồng nghiệp
trong hiện tại, không giống hệt cũng không đồng nhất với chúng sanh trước
kế đó.
"Những thành phần (ngũ uẩn) tạo nên chúng sanh ấy
không giống hệt cũng không phải là một với thành phần (ngũ uẩn) đã tạo
nên chúng sanh trước. Tuy nhiên, cũng không phải hoàn toàn là khác vì cả
hai cùng nằm chung trong một luồng nghiệp, mặc dầu biểu hiện dưới hình
thức mới, trong thế gian mà ngũ quan ta có thể thâu nhận, và ta cho là có
một chúng sanh mới."
Theo Phật
Giáo, cái chết là sự chấm dứt của đời sống tâm-vật-lý của cá
nhân. Chết là sự diệt tắt của: sinh lực (ayu) - tức đời sống tâm
linh và vật lý (jivitidriya), hơi nóng (usma) và thức (vinnana).
Chết không phải là sự tiêu diệt hoàn toàn của một
chúng sanh, mặc dầu kiếp sống chấm dứt. Cái tiềm lực làm sống chúng
sanh không bị tiêu diệt.
Cũng như ánh sáng đèn điện là biểu hiện bề ngoài mà
ta có thể thấy của luồng điện vô hình, chúng ta là biểu hiện bề
ngoài của luồng nghiệp vô hình. Bóng đèn có thể vỡ và ánh sáng có thể
tắt, nhưng luồng điện vẫn tồn tại, và ánh sáng có thể phát hiện trở
lại nếu ta đặt vào đấy một bóng đèn khác. Cùng thế ấy, sự tan rã
của thể xác không làm xáo trộn luồng nghiệp lực, và sự chấm dứt của
thức hiện tại dẫn đến sự phát sanh của công thức mới. Tuy nhiên,
không có gì trường tồn bất biến, như một thực thể đơn thuần,
"chuyển" từ hiện tại sang tương lai.
Trong trường hợp nêu trên, người chết tái sanh trở lại
vào cảnh người, chập tư tưởng cuối cùng tất nhiên là một loại tâm
thiện. Thức-tái-sanh (patisandhi vinnana) là tâm thiện ấy phát sanh, tự
nhiên chuyển đến hạt minh châu và tinh trùng tương xứng trong cảnh người
và tắt, nhường cho những chập Bhavanga nối tiếp.
Như thế, lúc chết, luồng nghiệp lực vẫn luôn luôn trôi
chảy, không có một điểm thời gian gián đoạn. Ngay lúc chết những chập
tư tưởng vẫn liện tục kế tiếp như trong đời sống.
Hiện tượng tử-sanh, chết và tái sanh, diễn ra tức khắc,
dầu ở nơi nào, cũng như làn sóng điện phát ra trong không gian được thâu
nhận tức khắc vào bộ máy thâu thanh. Luồng nghiệp lực trực tiếp chuyển
từ cái chết ngay đến tái sanh, không trãi qua một trạng thái chuyển tiếp
nào (antarabhava). Phật Giáo thuần túy không chủ trương có linh hồn người
chết tạm trú ở một nơi nào, chờ đến khi tìm được một nơi thích hợp
để đầu thai [4].
Trong kinh
Milinda Panha (Mi-lin-đa Vấn Đạo), đức vua Milinda hỏi Đại Đức
Nagasena:
"Kính bạch Đại Đức, nếu có một người chết ở
đây và tái sanh vào cảnh Trời Phạm Thiên và một người khác cũng chết
ở đây và tái sanh tại Kashmir, người nào sanh ra trước?
- Tâu Đại Vương, cả hai cùng sanh ra một lượt. Đại
Vương sanh ở đâu?
- Kính bạch Đại Đức, trong một làng nọ gọi là Kalasi.
- Làng Kalasi cánh đây bao xa?
- Bạch Đại Đức, lối 200 dặm.
- Tâu Đại Vương, Kashmir cách đây bao xa?
- Bạch Đại Đức, lối 20 dặm.
- Bây giờ xin Đại Vương hãy nghĩ đến làng Kalasa.
- Bạch Đại Đức tôi đã nghĩ xong.
- Và bây giờ Đại Vương xin hãy nghĩ đến Kashmir.
- Bạch Đại Đức tôi đã nghĩ xong.
- Trong khi nghĩ đến hai nơi, nơi nào tư tưởng của Đại
Vương đến mau và nơi nào đến chậm?
- Bạch Đại Đức cả hai đều bằng nhau.
- Vậy, tậu Đại Vương, cùng một thế ấy, người chết
ở đây và tái sanh vào cảnh Phạm Thiên không chậm hơn người chết ở
đây và tái sanh ở Kashmir.
- Kính bạch Đại Đức, Ngài ban thêm cho con một thí dụ
khác.
- Tâu Đại Vương, nếu hai con chim đang bay trên trời và cả
hai cùng đáp một lúc. Một con đáp trên ngọn cậy cao. Còn con kia thì đáp
trên ngọn cây thấp. Tâu Đại Vương nghĩ thế nào, cái bóng của con nào
rọi xuống đất trước?
- Cả hai cái bóng đều rọi xuống cùng lúc. Không có cái
nào rọi trước cái nào rọi sau. [5]"
-oOo-
Vấn đề có thể được nêu lên: "Tìm đâu luôn luôn
có minh châu và tinh trùng sẵn sàng để tiếp nhận thức-tái-sanh?"
Theo Phật Giáo, số chúng sanh vô cùng tận, vô hạn định,
và nơi trú ngụ của chúng sanh cũng vậy. Bào thai cũng không phải là nơi
duy nhất cho sự tái sanh.
Quả địa cầu chỉ là một điểm nhỏ, so với vũ trụ
bao la, không phải là cảnh giới duy nhất có thể trú ngụ. Và con người
cũng không phải là chúng sanh duy nhất. [6]
Vậy, tin rằng luôn luôn có một nơi thích ứng để tiếp
nhận thức tái sanh cũng không có gì quá đáng. Nếu ta tung lên trời một
hòn gạch, hòn gạch sẽ rơi trở xuống, và luôn luôn có một điểm nào
trên mặt đất sẵn sàng tiếp nhận hòn gạch.
Chú thích
[1] Quyển "The Tibetan Book of the Dead" của tác giả
Dr W.T. Evans-Wents, có trình bầy đầy đủ chi tiết
[2] Theo Phật Giáo năng lực vật chất do bốn yếu tố tạo
nên:
a) Kamma (nghiệp), là hành động thiện hay bất thiện trong
quá khứ.
b) Utu, là sự biến đổi vật chất hay Tejo, nguyên tố lửa,
có đặc tánh nóng hay lạnh, trong Tứ Đại.
c) Citta, gồm tâm vương và tâm sở.
d) Ahara, sức dinh dưỡng trong thực vật.
[3] Xem Chương 25
[4] Dr Evans-Wents viết rằng theo kinh sách Tây Tạng, có một
trạng thái chuyển kiếp từ khi chết đến lúc đầu thai. Linh hồn người
chết phải ở trạng thái ấy trong 1, 2, 3, 4, 5, 6 hay 7 tuần lễ, cho đến
49 ngày ("The Tibetan Book of the Dead", trang XLII - XLIII, 58, 160, 165).
Quan niệm như vậy trái với giáo lý của Đức Phật (Xem "A Manual of
Abhidhamma).
[5] "Milinda's Questions", phần 1, tr. 127-128.
[6] Trên dãy ngân hà có lối một triệu hành tinh trên ấy
có sự sống -- "The Nature of the Universe", Fred Hoyle, tr. 87-89.