Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [39]
- Phẩm hạnh A La Hán
- "Dù ít tụng
nhưng hành đúng giáo lý,
- diệt tham, sân, si,
- tri kiến chân chánh, tâm siêu thoát,
- không luyến ái, tại đây và về sau.
- Người ấy sẽ chứng nghiệm thành quả
- của đời sống phạm hạnh thiêng liêng." -- Kinh
Pháp Cú
Trong Tam Tạng kinh điển có rất
nhiều Phật ngôn mô tả trạng thái vắng lặng và hạnh phúc của một vị
A La Hán, còn tạm trú trên thế gian cho đến khi ngũ uẩn chấm dứt, để
phục vụ những ai muốn tìm Chân Lý, bằng lời giáo huấn và gương lành
trong sạch.
Kinh Pháp Cú ghi lại những Phật ngôn sau đây:
Đối với người đã trải qua suốt cuộc hành trình [1],
chấm dứt mọi ưu phiền [2], hoàn toàn siêu thoát [3], cắt đứt mọi trói
buộc [4], nhiệt độ (tham ái) không còn nữa .[5] -- (câu 90)
Người tự lực cố gắng giữ tâm niệm, không luyến ái,
không đeo níu theo nơi trú ẩn nào; cũng tựa hồ như những con thiên nga đã
lìa ao hồ, người ấy rời bỏ nhà này đến nhà khác, và ra đi. [6] -- (câu
91)
Những ai không tích trữ [7], giữ chánh niệm khi dùng vật
thực [8], những vị đã nhắm sự Giải Thoát, vốn hư không và vô hình tướng,
như đối tượng của mình [9]. Lộ trình của những vị ấy không khác
nào lộ trình của đàn chim bay trên không trung, không thể vẽ lại được.
-- (câu 92)
Người tận diệt ô nhiễm, không luyến ái vật thực, nhắm
đến Giải Thoát, vốn hư không và vô tướng, như đối tượng của mình.
Con đường của Ngài không khác nào con đường của đàn chim bay trên
không trung, không thể vẽ lại. -- (câu 93)
Chư vị A La Hán chứng nghiệm hạnh phúc Niết Bàn bằng
cách chứng đắc Đạo Quả A La Hán trong kiếp sống hiện tiền. Đã chế
ngự lục căn như tuấn mã được huấn luyện thuần thục, đã tiêu trừ
ngã mạn và không còn ô nhiễm, người vững chắc như thế, chí đến chư
Thiên cũng quý mộ. -- (câu 94)
Như đất, người giữ tâm quân bình và có nếp sống kỷ
cương không còn xúc động. Người ấy như trụ đồng Indakhila [10], như ao
hồ phẳng lặng, không bị bùn đất làm nhơ bẩn. Với người có tâm
quân bình như thế [11], cuộc đi lang thang bất định của đời sống không
còn lặp lại nữa [12]. -- (câu 95)
Tâm trầm tĩnh, ngôn ngữ trầm tĩnh, hành động trầm
tĩnh, người ấy, hiểu biết chân chánh, trọn vẹn siêu thoát, hoàn toàn tịnh
lạc và quân bình. -- (câu 96)
Người không nhẹ dạ [13], thấu triệt trạng thái Vô Sanh
[14] (Niết Bàn), cắt đứt mọi hệ lụy [15], chấm dứt mọi cơ hội [16]
(cho điều thiện và điều ác phát sanh) [17], tận diệt mọi tham ái [18],
người ấy quả thật là tối thượng. -- (câu 97)
Dù ở làng mạc hay trong rừng sâu, ở non cao hay trũng thấp
[19], bất luận nơi nào mà vị A La Hán trú ngụ, nơi ấy quả thật là tịnh
lạc. -- (câu 98)
Quả thật tịnh lạc, chốn rừng sâu mà người trần tục
không thích ở. Người hết dục vọng [20] sẽ hoan hỷ an trú (ở nơi ấy)
vì các Ngài không tìm dục lạc. -- (câu 99)
Hạnh phúc thay, ta sống không hận thù giữa đám người thù
hận. Giữa những người thù hận, ta sống không thù hận. -- (câu 197)
Hạnh phúc thay, ta sống mạnh khỏe [21] giữa những người
ươn yếu. Giữa đám người bệnh hoạn ta được sống mạnh khoẻ. -- (câu
198)
Hạnh phúc thay, ta sống không khao khát (dục lạc) giữa những
người khao khát. Trong đám người tham ái ta sống không dục vọng. -- (câu
199)
Hạnh phúc thay, ta sống không bị chướng ngại. Dưỡng nuôi
phỉ lạc, ta sẽ như các vị Trời trong cảnh Quang Âm Thiên. -- (câu 200)
Người không còn bờ bên này [22] hay bên kia [23], cũng không
còn cả hai bên, bên này và bên kia, người thoát ly phiền não và không
còn bị ràng buộc [24] - Như Lai gọi ngườiay là Bà La Môn (Brahmana). [25]
-- (câu 385)
Người có hành thiền [26], sống trong sạch và ẩn dật
[27], hoàn thành nhiệm vụ và thoát ra khỏi mọi hoặc lậu [28], người đã
thành tựu Mục Tiêu Tối Thượng [29] - Như Lai gọi người ấy là Bà La
Môn. -- (câu 391)
Người đã cắt đứt mọi thằng thúc, người không còn
run sợ, đã vượt hẳn ra khỏi mọi ràng buộc, không dính mắc - Như Lai gọi
người ấy là Bà La Môn. -- (câu 397)
Người ấy đã cắt đứt dây cương (sân hận), dây thừng
(luyến ái), và dây nọng (tà kiến), cùng các món đồ bắt kế (những
khuynh hướng còn ngủ ngầm), vứt bỏ cây trục (vô minh), người đã giác
ngộ (Phật) [30] - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 398)
Người không tức giận, chịu đựng lời khiển trách, roi
vọt, và hình phạt. Người lấy hạnh nhẫn nhục làm quân lực (để tự
bảo vệ) - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 399)
Người không nóng giận, làm tròn bổn phận [31], giới hạnh
trang nghiêm, thoát khỏi ái dục, thu thúc lục căn và mang xác thân ngũ uẩn
này lần cuối cùng [32] - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 400)
Như nước trên lá sen, như hột cải đặt trên đầu mũi
kim, người không luyến ái dục lạc - người ấy, Như Lai gọi là Bà La
Môn. -- (câu 401)
Tại đây, trên thế gian này, người chứng ngộ sự tận
diệt phiền não của chính mình, người bỏ gánh nặng xong bên đàng [33]
và siêu thoát - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 402)
Người có tri kiến thâm diệu, người trí tuệ, thấu hiểu
đường chánh nẻo tà [34], người đã thành đạt mục tiêu tối thượng -
Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 403)
Người không trìu mến hàng cư sĩ cũng như hàng xuất gia,
người du phương đó đây, không có một nơi ở nhất định, người không
còn tham ái - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 404)
Người đã rời bỏ gậy gộc trong khi tiếp xúc với chúng
sanh, mạnh hay yếu, không sát sanh hoặc làm tổn thương bất luận ai - Như
Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 405)
Thân hữu giữa những người thù nghịch, ôn hoà trong đám
đông hung hăng, hỷ xả giữa người cố chấp [35] - Như Lai gọi người
ấy là Bà La Môn. -- (câu 406)
Nơi con người mà tham lam, sân hận, ngã mạn và phỉ báng
(không còn bám vào được) lả tả rơi như hột cải để đầu mũi kim (phải
rơi) - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 407)
Người nói lời êm dịu, hiền hoà, xây dựng, chân thật
và không xúc phạm đến ai - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu
408)
Người không tham ái điều gì trong thế gian này hay thế
gian kế, người dập tắt dục vọng và siêu thoát - người ấy, Như Lai gọi
là Bà La Môn. -- (câu 410)
Người đã vượt khỏi điều thiện, điều ác, và mọi
ràng buộc [36], người không ưu phiền, không ô nhiễm và tinh khiết - người
ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 412)
Ngh không bợn nhơ, người trong sáng như mặt trăng, thanh tịnh,
vắng lặng và không chao động [37], người đã tuyệt trừ tham ái thủ hữu
- người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 413)
Người đã tự tách rời ra những ràng buộc trong cảnh người
và vượt qua những thằng thúc của cảnh Trời, thoát ly mọi hệ lụy - người
ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 417)
Người đã dứt bỏ ưa [38] và ghét [39], thản nhiên, không
bị ô nhiễm [40] làm hoen ố, người đã khắc phục thế gian [41] và kiên
trì cố gắng - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 418)
Người không bám vào ngũ uẩn trong quá khứ, vị lai hay hiện
tại, không luyến ái (ái) và không bám chặt vào (thủ) - người ấy, Như
Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 412)
Vô quý [42], cao thượng, anh dũng, đại hiện thánh [43], người
đã khắc phục [44], không còn dục vọng, người ấy rửa sạch [45] (mọi
ô nhiễm), đã giác ngộ [46] - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. --
(câu 422)
Bậc hiền thánh đã thấu hiểu tiền kiếp, đã thấy những
cảnh hạnh phúc [47] và đau khổ [48], đã đến mức tận cùng của mọi kiếp
sống [49], người đã, với trí tuệ cao siêu, tự mình cải tiến [50],
hoàn tất [51] (đời sống phạm hạnh thiêng liêng) và chấm dứt mọi dục
vọng - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 423).
Chú thích
[1] Suốt cuộc hành trình trong vòng luân hồi: ám chỉ một
vị A La Hán.
[2] Hành giả chấm dứt mọi ưu phiền lúc đắc Quả A Na Hàm,
tầng thứ ba trong bốn tầng thánh. Đến tầng ấy, hành giả đã tận diệt
mọi luyến ái đeo níu theo dục vọng và mọi hình thức bất mãn.
[3] Sabbadhi, hoàn toàn tự do, thoát ra khỏi mọi dính mắc
đối với ngũ uẩn v.v...
[4] Có bốn loại trói buộc (gantha) là: a/ tham muốn
(abhijja), b/ oán ghét (vyapada), c/ dễ duôi nương theo nghi thức lễ bái và
cúng tế (silabbataparamasa, giới cấm thủ), d/ cố chấp trong thành kiến, khư
khư chấp rằng thành kiến của mình là chân lý (idhamsaccabhinivesa, kiến thủ).
[5] Những câu này ám chỉ phẩm hạnh của một vị A La
Hán. Có hai loại nhiệt độ: tinh thần và vật chất. Lúc còn sống, một
vị A La Hán còn thọ cảm nhiệt độ của thể xác, nhưng không quan tâm đến.
Tuy nhiên, Ngài không còn có nhiệt độ của tham vọng, hay lửa tham ái.
[6] Chư vị A La Hán đi lang thang bất định, không luyến
ái một nơi ở nhất định nào bởi vì các Ngài đã hoàn toàn tự do, đã
thoát ra khỏi mọi quan niệm về "Ta" và "Của Ta".
[7] Có hai loại tích trữ là hoạt động có liên quan đến
nghiệp (tức tích trữ nghiệp hay hành), và bốn món cần thiết trong đời
sống của một vị tỳ khưu (tứ vật dụng: thuốc men, chỗ ở, y bát và
vật thực). Loại tích trữ đầu tiên có khuynh hướng kéo dài cuộc hành
trình trong vòng luân hồi. Tứ vật dụng, mặc dù cần thiết, có thể là
một trở ngại cho tiến bộ tinh thần.
[8] Dứt khoát từ bỏ mọi thèm muốn về vật thực.
[9] Giải Thoát, hay Niết Bàn, là thoát ra khỏi mọi phiền
não (Vimokkha). Gọi là hư không vì còn lòng tham-sân-si, chớ không phải Niết
Bàn là hư vô, không có gì hết hay tuyệt diệt. Niết Bàn là trạng thái
siêu thế tích cực, không thể mô tả bằng ngôn ngữ tại thế. Không có
dấu vế của tham-sân-si, chư vị A La Hán chứng nghiệm quả vị Niết Bàn
lúc còn ở trong kiếp sống này. Nói rằng sau khi từ bỏ kiếp này, các
Ngài sẽ còn sống, "tại", hay hết sống, "bất tại", đều
không đúng, bởi vì Niết Bàn không phải vĩnh cửu cũng không phải hư vô.
Không có cái gì để vĩnh viễn hóa cũng không có cái gì, ngoại trừ khát
vọng, để tuyệt diệt (hư vô hoá).
[10] Indakhila là một cây cột vừa vững chắc vừa cao của
Trời Đế Thích, hoặc là cây trụ chánh ở cổng vào một thị trấn.
Các nhà chú giải ghi nhận rằng Indakhila này là những trụ
cột vững chắc, dựng lên bên trong hay bên ngoài các thị trấn cho đẹp mắt.
Thông thường, các trụ cột này làm bằng gạch hoặc bằng gỗ, hình bát
giác. Những trụ cột này được chôn thật sâu dưới đất. Do đó có
thành ngữ "vững chắc như trụ Indakhila".
[11] "Tadi" là người đã buông xả, không còn luyến
ái những gì ưa thích, không bất mãn với điều không vừa lòng, cũng không
bám níu vào điều gì. Giữa tám điều kiện thăng trầm của thế sự -
được và thua, tán dương và khiển trách, danh thơm và tiếng xấu, hạnh
phúc và đau khổ - một vị A La Hán sống hoàn toàn bình thản. Tâm quân
bình, không chao động, không biểu hiện lòng ưa thích hay bất mãn, không hỷ
hạ vui cười mà cũng không lo âu sầu muộn.
[12] Bởi vì các Ngài không còn sanh tử nữa.
[13] Assaddho, theo sát nghĩa là không tín nhiệm hay không
trung thành. Vị A La Hán không chấp nhận suông những nguồn hiểu biết,
vì chính Ngài đã tự chứng nghiệm chân lý.
[14] Akata, Vô Sanh, là Niết Bàn. Akatannu cũng có thể được
hiểu là người vô ân bạc nghĩa.
[15] Những dây nối liền trong kiếp nhân sinh. Sandicchedo cũng
có nghĩa là người phá nhà, một tên trộm.
[16] Hata + avakaso là người đã tiêu trừ cơ hội.
[17] Vanta + aso, người ăn đồ ói mửa, là một định
nghĩa khác của danh từ này.
[18] Bằng bốn Thánh Đạo. Những hình thức thô kịch của
tham ái được chế ngự trong ba tầng Thánh đầu tiên. Hình thức vi tế
được tận diệt trong tầng cuối cùng.
[19] Nina và Thala, sát văn tự là những lớp thấp và những
đất cao, những thung lũng và những đồi cao.
[20] Chư vị A La Hán đã dứt bỏ dục vọng,thích ở nơi vắng
vẻ ẩn dật trong rừng sâu, nơi mà người trần tục không thích.
[21] Khỏe mạnh, không còn những chứng bệnh của tham ái.
[22] Bờ bên này, tức Param, lục căn: nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt,
thân, ý.
[23] Bờ bên kia, tức Aparam, lục trần: sắc, thinh, hương,
vị, xúc, pháp.
[24] Không dính mắc, không bị ràng buộc vào điều gì như
"Ta" và "Của Ta".
[25] Brahmana là một danh từ có liên quan đến giai cấp Bà
La Môn, giai cấp được ưu đãi nhất thời bấy giờ, và cũng là danh từ
để gọi những người theo đạo Bà la Môn. Mặc dù vậy ở đây Brahmana
có nghĩa là người đã hoàn tất Con Đường, người đã chứng nộ Đạo
và Quả, tức một vị Phật hay một vị A La Hán. Trong chương này danh từ
Bà La Môn được dùng theo ý nghĩa này.
[26] Người thực hành thiền Vắng Lặng (Samatha, chỉ) và
thiền Minh sát (Vipassana, quán).
[27] Asinam, người sống một mình trong rừng, ẩn dật.
[28] Bằng cách chứng ngộ Tứ Diệu Đế và tận diệt các
Thằng Thúc.
[29] Tức chứng ngộ Niết Bàn.
[30] Đã thông suốt Tứ Diệu Đế.
[31] Bổn phận đối với đạo giáo.
[32] Vì người đã tận diệt dục vọng không còn tái sanh
nữa.
[33] Gánh nặng của ngũ uẩn.
[34] Người thông suốt con đường dẫn đến những cảnh
khổ, con đường dẫn đến các nhàn cảnh và con đường Niết Bàn.
[35] Những người còn thành kiến ngã chấp, còn luyến ái
ngũ uẩn.
[36] Những ràng buộc ấy là: tham, sân, si, ngã mạn và tà
kiến.
[37] Không bị ô nhiễm làm chao động.
[38] Tức luyến ái, đeo níu theo nhục dục ngũ trần.
[39] Arati, ghét bỏ, không chịu cuộc sống ở chốn rừng
sâu (theo bản Chú giải).
[40] Upadhi, bợn nhơ. Có bốn loại upadhi là: ngũ uẩn
(khanda), khát vọng (kilesa), tác hành (abhisankhara), và dục lạc (kama).
[41] Thế gian là ngũ uẩn.
[42] Usabham, là con trâu cổ - Ý nói người vô úy, không sợ
sệt, như con trâu cổ.
[43] Mahesim, người tìm giới định, tuệ, cao thượng.
[44] Vijitavinam, người đã khắc phục mọi khát vọng.
[45] Nahatakam, người đã thanh lọc mọi ô nhiễm.
[46] Buddham, người đã thông suốt Tứ Diệu Đế.
[47] Sagga, là sáu cảnh Trời Dục, mười sáu cảnh Trời Sắc
Giới, bốn cảnh Trời Vô Sắc Giới. (Xem Chương 27).
[48] Apaya là bốn khổ cảnh.
[49] Jatikkhayam là đạo quả A La Hán.
[50] Abhinnavosito tức là đến mức cùng tột bằng cách
thông suốt những điều phải được thông suốt, xa lìa những điều phải
xa lìa, chứng ngộ những gì phải chứng ngộ và trau dồi những gì phải
trau dồi (theo bản Chú giải).
[51] Sabbavositavosanam tức là đã sống đời phạm hạnh thiêng
liêng dẫn đến mức tận cùng là tuệ giác có liên quan đến Con Đường
A La Hán, chấm dứt mọi khát vọng.