Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [Phụ Bản 5]
- Từ Bi Kinh (Metta Sutta)
1. Người khôn khéo mưu tìm lợi
ích cho mình và có ước nguyện thành đạt trạng thái Vắng Lặng [2] nên
có hành động (như thế này):
Người ấy phải có khả năng, phải chánh trực, hoàn toàn
chánh trực [3].
2. Tri túc, dễ nuôi (sống giản dị, để cho người thiện
tín dễ dàng hộ trì), có ít nhiệm vụ (ít bị ràng buộc), sống dễ
dàng (không nhiều nhu cầu), thu thúc lục căn, kín đáo, tế nhị, không luyến
ái gia đình.
3. Người ấy khác nên vi phạm lỗi lầm nhỏ bé nào mà bậc
thiện trí có thể khiển trách. Ước mong tất cả chúng sanh được an vui
và châu toàn! Ước mong tất cả đều có tâm hoàn toàn trong sạch.
4. Bất luận chúng sanh ấy như thế nào: - yếu đuối hay
khỏe mạnh, cao lớn mập mạp hay tầm vóc bình thường, lùn thấp bé nhỏ,
hữu hình hay vô hình, những chúng sanh ở gần hay những chúng sanh ở xa,
những chúng sanh đã ra đời hoặc những chúng sanh chưa sanh - Ước mong tất
cả chúng sanh, không loại trừ bất luận ai, đều có tâm an lành hạnh
phúc.
5. Không ai làm cho ai thất vọng, không ai khinh bỉ ai, dù người
như thế nào hoặc ở nơi đâu. Trong cơn giận dữ hay lúc oán hờn, không
nên mong điều bất hạnh đến với người khác.
6. Cũng như bà từ mẫu hết lòng bảo bọc đứa con duy nhất
của bà dù có hiểm nguy đến tính mạng, cùng thế ấy người kia trau giồi
tâm Từ vô lượng vô biên, rải khắp mọi chúng sanh.
7. Hãy để những tư tưởng từ aí vô biên bao trùm toàn
thể thế gian: - bên trên, phía dưới, bốn phương tám hướng, không để
cho điều gì làm trở ngại, không mảy may nóng giận, không chút hiềm
thù.
8. Dù người ấy đứng, đi, ngồi hay nằm, giây phút nào
còn thức (không ngủ) thì nên phát triển tâm niệm. Đó là Phúc Lành Cao
Thượng Nhất. [4]
9. Không để rơi vào những Lầm Lạc [5], đức hạnh trong
sạch và viên mãn Giác Ngộ [6], người ấy lánh xa mọi hình thức ái dục.
Đúng như vậy, người ấy không còn trở lại vào bào thai [7].
-oOo-
Chú Giải Từ Bi Kinh
[1] Vào lúc ấy mùa mưa sắp đến, sau khi được Đức Phật
ban dạy những đề mục hành thiền, một nhóm tỳ khưu ra đi, tìm nơi thích
hợp để thực hành. Trong cuộc đi bất định ấy các Ngài đến một địa
điểm vắng vẻ yên tĩnh và quyết định ở lại đó hành thiền nhằm mục
tiêu giải thoát.
Các vị thọ thần sống trên cây cảm thấy bất tiện nên
tìm cách làm cho chư tỳ khưu không còn ở được và phải ra đi. Đêm đêm
các vị thọ thần làm đủ cách để phá khuấy không cho chư tăng ở yên
hành thiền.
Chư vị tỳ khưu thấy khó mà an trụ tâm trong tình trạng
như vậy nên trở về cbùa bạch lại tự sự với Đức Thế Tôn.
Đức Phật dạy chư Tăng bài Kinh Metta Sutta (kinh về tâm Từ)
và khuyên các vị này trở lại ngay địa điểm trước rồi cùng đọc lên
bài Kinh này khi vào rừng. Chư Tăng làm theo lời dạy.
Những tư tưởng Từ ái an lành được ban rải ra, thấm
nhuần bầu không khí trong toàn khu rừng. Các vị thọ thần ở khắp nơi
trong rừng nghe Kinh cảm thấy thanh bình an lạc, phát tâm kỉnh mộ chư
Tăng, và kể từ đó thay vì khuấy nhiễu làm trở ngại, tận tình hộ
trì và nâng đỡ chư Tăng.
Trong thời đại ba tháng an cư kiết hạ, Vassana, tất cả
chư vị tỳ khưu trong nhóm đều chứng đắc Đạo Quả A La Hán.
Bài Kinh Metta Sutta này vừa có tánh cách bảo hộ, vừa là
một đề mục hành thiền. Phần đầu bài Kinh mô tả những phẩm hạnh
mà người mong tìm tình trạng an lành cho mình cần nên trau giồi, và phần
sau là phương pháp thực hành tâm Từ, được giải thích cặn kẽ.
[2] Tức Niết Bàn.
[3] Uju và Suju. Chữ Uju hàm ý đặc tánh chánh trực trong lời
nói và hành động - tức thân khẩu chánh trực. Chữ Suju là tâm chánh trực
(Bản Chú Giải).
[4] Đó là thực hành Tứ Vô Lượng Tâm (Brahma Vihara).
[5] "Lầm lạc" ở đây có nghĩa Sakkayaditthi (thân
kiến).
[6] Tức nhoáng thấy Niết Bàn lần đầu tiên.
[7] Khi đã chứng đắc tầng Anagami (A Na Hàm) thì tái sanh
vào cảnh giới Suddhavasa (Cảnh Giới Trong Sạch) và không cần tái sanh vào
cảnh người.