Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [5]
- Cung thỉnh Đức Phật
truyền bá Giáo Pháp
"Người thấm nhuần
Giáo Pháp sống hạnh phúc với tâm an lạc. Người trí tuệ luôn luôn hoan
hỷ thỏa thích trong Giáo Pháp mà các bậc thánh nhân đã khám phá". --
Kinh Pháp Cú
Giáo Pháp Là Thầy
Sau ngày Thành Đạo, lúc còn ngự tại
gốc cây Ajapala, trên bờ sông Neranjara (Ni Liên Thiền), Đức Phật ngồi hành
thiền, và ý nghĩ sau đây phát sanh đến Ngài:
"Quả thật là đau khổ và
không có ai để lễ bái và tỏ lòng tôn kính. Hay là ta hãy tìm đến một
vị sa môn hay bà la môn nào để sùng bái!"
Rồi Ngài suy niệm:
"Ta phải tìm đến sống gần một
vị sa môn hay bà la môn để tôn kính và lễ bái, hầu nâng cao giới đức
(silakkhanda) đến mức toàn thiện chăng? Nhưng trên thế gian này không thấy
ai, dầu trong hàng chư Thiên, Ma Vương hay Phạm Thiên, hay giữa những chúng
sanh như sa môn, bà la môn, Trời và người, có giới đức cao thượng hơn
ta để thân cận, tôn kính và sùng bái.
"Ta phải tìm đến sống gần một
vị sa môn hay bà la môn nào để tôn kính và lễ bái, hầu nâng cao trạng
thái định tâm (samadhikkhanda) đến chỗ toàn thiện chăng? Nhưng trên thế
gian này không thấy ai, dầu trong hàng chư Thiên, Ma Vương hay Phạm Thiên,
hay giữa những chúng sanh như sa môn, bà la môn, Trời và người, có giới
đức cao thượng hơn ta để thân cận, tôn kính và sùng bái.
"Ta phải tìm đến sống gần một
vị sa môn hay bà la môn nào để tôn kính và lễ bái, hầu nâng cao trí tuệ
(pannakkahanda) đến mức toàn thiện chăng? Nhưng trên thế gian này không thấy
ai, dầu trong hàng chư Thiên, Ma Vương hay Phạm Thiên, hay giữa những chúng
sanh như sa môn, bà la môn, Trời và người, có trí tuệ cao thượng hơn ta
để thân cận, tôn kính và sùng bái.
"Ta phải tìm đến sống gần một
vị sa môn hay bà la môn nào để tôn kính và lễ bái, hầu đem sự giải
thoát (vimuttikkhanda) đến mức toàn thiện chăng? Nhưng trên thế gian này
không thấy ai, dầu trong hàng chư Thiên, Ma Vương hay Phạm Thiên, hay giữa
những chúng sanh như sa môn, bà la môn, Trời và người, có sự giải thoát
cao thượng hơn ta để thân cận, tôn kính và sùng bái."
Rồi tư tưởng sau đây phát sanh đến
Ngài:
"Hay là Ta hãy tôn kính và sùng
bái chính Giáo Pháp mà ta đã chứng ngộ?"
Lúc ấy Vị Phạm Thiên Sahampati hiểu
được ý Phật nên từ cảnh giới Phạm Thiên, dễ dàng như một người
khoẻ mạnh duỗi cánh tay thẳng ra, hay co tay vào, xuất hiện trước mặt
Đức Phật. Và, đắp y ngoại lên vai mặt, để trống vai trái [1] quỳ xuống
chắp tay đảnh lễ Đức Phật và bạch:
"Quả thật vậy, Bạch Đức Thế
Tôn, quả như vậy, Bạch Đức Như Lai, Bạch Ngài, những bậc -ng Cúng, những
bậc Chánh Đẳng Chánh Giác trong quá khứ đều tôn kính và sùng bái chính
Giáo Pháp này.
"Những bậc -ng Cúng, những bậc
Chánh Đẳng Chánh Giác trong tương lai sẽ tôn kính và sùng bái chính Giáo
Pháp này.
"Bạch Đức Thế Tôn, cầu xin
Ngài là bậc -ng Cúng, bậc Chánh Đẳng Chánh Giác trong thời hiện đại,
cũng tôn kính và sùng bái Giáo Pháp ấy!"
Phạm Thiên Sahampati bạch với Đức
Phật như vậy và thêm rằng:
"Những bậc Chánh Biến Tri
trong quá khứ, vị lai và hiện tại, những vị đã giúp cho nhiều vị được
thoát khổ - tất cả những vị ấy đã, sẽ, và đang tôn kính Giáo Pháp
cao Thượng. Đó là đặc tánh của chư Phật.
"Vậy, ai muốn tìm trạng thái
an lành cho mình và mong chờ sự trưởng thành của mình, chắc chắn phải
tôn kính Giáo Pháp Cao Quý và ghi nhớ nằm lòng bức thông điệp của chư
Phật".
Phạm Thiên Sahampati bạch như vậy
và cung kính đảnh lễ Đức Phật, đi vòng quanh Ngài từ trái sang mặt và
biến mất. Vì chư Tăng cũng có những đặc tánh vĩ đại cao thượng, nên
cũng xứng đáng thọ lãnh sự tôn kính của Đức Phật [2].
Cung Thỉnh Truyền Bá Giáo Pháp
Ngài đi từ gốc cây Rajayatana đến
gốc cây Ajapala. Lúc ngồi trầm tư, những tư tưởng sau đây phát sanh:
"Giáo Pháp mà Như Lai đã chứng
ngộ quả thật thâm sâu huyền diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng
lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi luận lý, tế nhị, chỉ còn bậc
thiện trí mới thấu hiểu. Chúng sanh còn luyến ái trong nhục dục ngũ trần.
Lý nhân quả tương quan "Tùy Thuộc Phát Sanh", là một đề mục rất
khó lãnh hội, và Niết Bàn -- trạng thái chấm dứt mọi hiện tượng phát
sanh có điều kiện, từ bỏ mọi khát vọng, tiêu diệt mọi tham ái, không
luyến ái và chấm dứt -- cũng là một vấn đề không phải dễ lãnh hội.
Nếu Như Lai truyền dạy Giáo Pháp ấy, kẻ khác ắt không thể hiểu được.
Thật là phí công vô ích, thật là phí công vô ích."
Rồi những câu kỳ diệu sau đây,
chưa từng được nghe trước kia, phát sanh đến Đức Phật:
"Như Lai đã khó khăn lắm mới
chứng ngộ được "Giáo Pháp". Không cần phải phổ biến
"Giáo Pháp" ngay lúc này. Người còn mang nặng tham ái và sân hận
không dễ gì thấu triệt. Người tham ái chìm đắm trong đêm tối, không
thấy được Giáo Pháp, vì lòng tham ái bao phủ như đám mây mờ đen nghịt,
vì Giáo Pháp đi ngược dòng với tham ái. Giáo Pháp sâu kín, thâm diệu,
khó nhận thức và rất tế nhị".
Nghĩ như vậy, Đức Phật chưa quyết
định truyền bá Giáo Pháp. Lúc ấy vị Phạm Thiên Sahampati sợ Ngài không
truyền bá Giáo Pháp và vì không được nghe Pháp thế gian phải diệt vong,
nên đến cung thỉnh Đức Phật như sau:
"Bạch hóa Đức Thế Tôn, cầu
xin Đức Thế Tôn truyền dạy Giáo Pháp! Cầu xin Đấng Trọn Lành truyền
bá Giáo Pháp! Có những chúng sanh bị ít nhiều cát bụi vướng trong mắt,
nếu không nghe được Giáo Pháp sẽ phải trầm luân sa đọa. Nhưng cũng có
người sẽ chứng ngộ chân lý".
Sau đó vị Phạm Thiên lưu ý Đức
Phật:
"Thuở xưa tại Magadha (Ma Kiệt
Đà) có phát nguyên một Giáo Pháp không tinh thuần, do người trần tục
suy tìm ra. Cầu xin Đức Thế Tôn hoan hỷ rộng mở cửa Vô Sanh Bất Diệt.
"Xin Đức Thế Tôn cho phép mọi
người được nghe Giáo Pháp mà bậc Vô Nhiễm, đấng Tuyệt Đối Thanh Tịnh
đã chứng ngộ. Cũng như người đứng trên ngọn núi đá cao nhìn xuống,
thấy rõ ràng từng người ở vòng quanh phía dưới, bậc Toàn Giác, bậc
Thiện Trí, đứng trên đỉnh tối cao của lâu đài Pháp Bảo huy hoàng!
Kính xin đấng Toàn Tri hãy nhìn xuống chúng sanh đang chìm đắm trong biển
khổ và triền miên lăn trôi trong vòng sanh tử luân hồi!
"Xin cung thỉnh Ngài là bậc Anh
Hùng, là người Chiến Thắng, là Đấng Vô Thiện Điều Ngự Trượng Phu,
Người đã Tháo Gỡ mọi trói buộc. Xin Ngài hoan hỷ đứng lên và châu du
khắp thế gian! Xin Đức Thế Tôn truyền bá Giáo Pháp! Sẽ có người lãnh
hội được!"
Đức Phật trả lời:
"Này hỡi Phạm Thiên, Như Lai
thầm nghĩ: Người còn vấn vương trong tham ái và sân hận không dễ gì
lãnh hội được Giáo Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ. Người tham ái chìm
đắm trong đêm tối, bị đám mây mù tham ái bao phủ, sẽ không thấy được
Giáo Pháp bởi Giáo Pháp đi ngược dòng với tham ái. Giáo Pháp sâu kín,
thâm diệu, khó nhận thức và tế nhị. Vì suy gẫm như thế Như Lai chưa
quyết định truyền bá Giáo Pháp".
Vị Phạm Thiên cung thỉnh Đức Phật
lần thứ nhì. Đức Phật trả lời như trước.
Khi vị Phạm Thiên cung thỉnh lần
thứ ba, Đức Thế Tôn dùng thiên nhãn quan sát thế gian.
Ngài nhận thấy rằng chúng sanh kẻ
ít người nhiều đều có bụi trong mắt, người thông minh sáng suốt, kẻ
ngu muội tối tăm, bẩm tánh của người này tốt, người kia xấu, có
chúng sanh dễ dạy cũng có chúng sanh khó dạy, và một số ít khác, với
lòng biết lo sợ, nhận thấy mối hiểm họa của một kiếp sống tương
lai.
Cũng như trong đầm sen. Sen xanh, đỏ,
trắng lẫn lộn. Có những cây mọc từ trong nước, trưởng thành trong nước,
sống trong lòng nước, và sởn sơ tươi tắn trong nước. Có những cây
sanh trong nước, trưởng thành trong nước, và ló dạng trên mặt nước. Có
những cây khác sanh trong nước, trưởng thành trong nước và vượt lên khỏi
mặt nước, không vướng chút bùn nhơ.
Đức Phật tuyên bố:
"Cửa Vô Sanh Bất Diệt đã rộng
mở cho chúng sanh. Hãy để cho ai có tai muốn nghe đặt trọn niềm tin tưởng.
Vì biết có sự mệt mỏi dã dượi trong thế gian nên trước kia Như Lai phân
vân, chưa quyết định truyền dạy Giáo Pháp vinh quang và hoàn hảo".
Phạm Thiên Sahampati lấy làm hoan hỷ,
vui mừng rằng đã được cơ hội thỉnh cầu Đức Thế Tôn hoằng dương
Giáo Pháp, tôn kính đảnh lễ Ngài, rồi đi một vòng quanh từ trái sang phải,
chỗ Đức Phật ngồi, rồi bái từ lui gót.
Hai
Thiện Tín Đầu Tiên
Sau bốn mươi chín ngày không ăn uống,
lúc Đức Phật ngồi dưới cội cây Rajayatana, có hai thương gia tên Tapassu
và Bhallika từ Ukkala (Orissa), trên đường về quê nhà, đi ngang qua chỗ Đức
Phật ngự. Khi đến gần nơi ấy hai vị lái buôn được một vị Trời
[3], vốn là bà con họ hàng trong một tiền kiếp, mách bảo như thế này:
"Này hai ông, Đức Thế Tôn vừa
chứng đắc Đạo Quả Chánh Đẳng Chánh Giác, đang ngự dưới cội
Rajayatana phiá trước kia. Hai ông hãy nhanh chân đến đó dâng lên Ngài bột
khô và mật [4]. Phước báu này sẽ đem lại cho hai ông an vui và hạnh
phúc lâu dài."
Hai vị thương gia vui mừng, tiếp
nhận lấy cơ hội vàng ngọc, sửa soạn bột và mật ong xong đến gần Đức
Phật, cung kính đảnh lễ và thỉnh cầu Ngài chấp nhận hai lễ vật
khiêm tốn ấy để hai người được an vui.
Đức Phật nghĩ:
"Các Đấng Như Lai không khi
nào đưa tay thọ nhận vật thực. Không có bát, làm thế nào Như Lai có thể
nhận lãnh hai lễ vật này?"
Lúc ấy bốn vị Đại Thiên Vương
[5] đoán biết ý nghĩ của Đức Phật, từ bốn phương vội vã đem đến
dâng lên mỗi vị một cái bát bằng đá [6] và bạch rằng:
"Bạch hoá Đức Thế Tôn, xin
Ngài hoan hỷ chấp nhận bốn cái bát này và thọ thực trong ấy".
Đức Phật ân cần dùng bát thọ
lãnh món vật thực đạm bạc được dâng đúng lúc ấy, sau thời gian nhịn
ăn lâu ngày.
Sau khi Đức Phật độ thực xong,
hai thương gia quỳ xuống dưới chân Ngài và bạch rằng:
"Bạch hoá Đức Thế Tôn,
chúng con xin quy y Phật, quy y Pháp. Xin Ngài thâu nhận chung con làm thiện
tin kể từ nay đến ngày cuối cùng của đời chúng con" [7].
Đó là hai thiện tín đầu tiên quy
y Nhị Bảo [8].
Trên
Đường Đến Banares
Khi chấp nhận lời thỉnh cầu của
Phạm Thiên Sahampati, tư tưởng đầu tiên của Đức Phật trước khi bước
lên con đường truyền giáo vĩ đại là:
"Ai là người đầu tiên sẽ thọ
hưởng Giáo Pháp? Ai là người sẽ lãnh hội mau chóng Giáo Pháp?
"Có Alara Kalama [9] là người có
học thức, thông minh, là bậc thiện trí, và đã lâu rồi không còn bao
nhiêu bụi cát trong mắt. Hay là Như Lai sẽ giảng Giáo Pháp cho vị đạo
sĩ này trước nhất. Đạo Sĩ này sẽ lãnh hội mau lẹ Giáo Pháp".
Một vị Trời hiện ra trước Đức
Phật, đảnh lễ Ngài và bạch rằng: "Bạch hóa Đức Thế Tôn, Đạo
Sĩ Alara Kalama đã từ trần một tuần nay."
Đức Phật dùng tuệ nhãn xác nhận
điều này. Ngài nghĩ đến Uddaka Ramaputta [10]. Vị Trời lại xuất hiện và
bạch rằng Đạo Sĩ Uddaka Ramaputta cũng đã viên tịch đêm hôm trước. Một
lần nữa Đức Phật dùng tuệ nhãn xác nhận.
Sau cùng Đức Phật nghĩ đến năm
vị Đạo Sĩ tinh tấn đã phục vụ Ngài trong lúc tranh đấu để tìm chân
lý. Với nhãn quan siêu phàm, Ngài nhận thấy năm vị này đang ở vườn Lộc
Giả, tại Isipatana, xứ Benares. Ngài lưu lại Uruvela, chờ lúc thấy thuận
lợi sẽ lên đường sang Benares.
Trên đoạn đường đi từ Gaya đến
cội Bồ Đề đã che mưa đỡ nắng cho Ngài trong những ngày sau cùng, trước
khi thành đạt Đạo Quả Vô Thượng, một Đạo Sĩ tên Upaka gặp Đức Phật
liền hỏi:
"Này hỡi Đạo Hữu! Ngũ quan của
Đạo Hữu thật vô cùng sáng tỏ. Nước da của Đạo Hữu thật trong trẻo
và tươi tắn. Hỡi này Đạo Hữu, vì sao Đạo Hữu từ bỏ đời sống
gia đình? Thầy của Đạo Hữu là ai? Đạo Hữu truyền bá giáo lý của
ai?"
Đức Phật trả lời:
- "Như Lai đã vượt qua tất cả. Như lai đã
thông suốt tất cả.
- Như Lai đã buông xả, gỡ bỏ mọi trói buộc, đã
thoát ly tất cả.
- Như Lai đã chăm chú cố gắng tập trung tâm lực,
diệt trừ tham dục tận gốc rễ (Đạo Quả A La Hán).
- Đã thấu triệt tất cả. Như Lai còn gọi ai là
thầy?
- Không ai là thầy của Như Lai. [11]
- Không ai đứng ngang hàng với Như Lai.
- Trên thế gian này, kể cả chư Thiên và chư Phạm
Thiên, không ai có thể sánh với Như Lai.
- Quả thật Như Lai là một vị A La Hán trên thế
gian này,
- Như Lai là tôn sư vô thượng:
- Chỉ một mình Như Lai là bậc Toàn Giác,
- Vắng lặng và thanh tịnh.
Như Lai đang đi đến thành Kasi để
vận chuyển bánh xe Pháp Bảo giữa thế gian mù quáng. Như Lai sẽ gióng
lên hồi trống Vô Sanh Bất Diệt."
Upaka hỏi vặn:
"Này Đạo Hữu, vậy phải
chăng Đạo Hữu đã tự nhận là A La Hán, bậc siêu hùng, quyền lực vô
biên?"
Đức Phật trả lời:
"Tất cả những bậc siêu hùng
đã chinh phục mọi ô nhiễm của mình đều giống Như Lai. Như Lai đã
chinh phục, tận diệt tất cả những gì bất thiện, xấu xa tội lỗi. Vậy,
này Đạo Sĩ Upaka, Như Lai là bậc siêu hùng".
Nghe xong, Đạo Sĩ Upaka lễ phép
nói:
"Có thể được vậy chăng, đạo
hữu?"
Và cúi đầu, quay lưng rẽ sang con
đường nhỏ bên cạnh, đi luôn.
Đức Phật hoàn toàn thản nhiên.
Trở ngại đầu tiên trên đường hoằng Pháp không làm Ngài nản chí.
Ngài tiếp tục lần bước từ nơi này đến nơi khác, và một ngày kia đến
vườn Lộc Giả, xứ Benares.
Gặp
Lại Năm Đạo Sĩ
Thấy Đức Phật từ xa đến, năm
vị Đạo Sĩ, anh em Kondanna (Kiều Trần Như), bàn thảo với nhau, quyết định
không đảnh lễ Ngài với lòng tôn kính như xưa. Các vị ấy hiểu lầm
thái độ của Bồ Tát khi, trong cuộc chiến đấu để thành đạt Đạo Quả,
Ngài từ bỏ lối tu khổ hạnh quá khắt khe và chứng tỏ là tuyệt đối
vô ích:
"Này các đạo hữu, Đạo Sĩ
Gotama (Cồ Đàm) đang đi đến ta. Đạo Sĩ ấy xa hoa, không bền chí cố gắng
và đã trở lại với đời sống lợi dưỡng. Đạo Sĩ ấy không đáng cho
ta niềm nở tiếp đón và cung kính phục vụ. Ta khác nên rước bát và y.
Nhưng dầu sao, cũng nên dọn một chỗ ngồi để sẵn. Nếu vị đạo sĩ
ấy muốn ngồi cứ ngồi."
Tuy nhiên, khi Đức Phật bước lần
đến Ngài, vẻ oai nghi cốt cách của Ngài tự nhiên cảm hoá năm đạo sĩ
và, không ai bảo ai, người đến rước y và bát, người dọn chỗ ngồi,
người đi lấy nước cho Ngài rửa chân. Mặc dầu vậy, năm đạo sĩ vẫn
gọi Ngài là "avuso" (đạo hữu), một hình thứ xưng hô thường dùng
giữa những người ngang nhau, hoặc để người bề trên xưng hô với kẻ
dưới.
Đức Phật mở lời khuyên dạy:
"Này các Đạo Sĩ, không nên gọi
Như Lai bằng tên hay bằng danh từ "avuso" (đạo hữu). Như Lai là
Đức Thế Tôn, là Đấng Toàn Giác. nghe đây, các Đạo Sĩ, Như Lai đã
thành đạt trạng thái Vô Sanh Bất Diệt (Amata) và sẽ giảng dạy Giáo
Pháp. Nếu hành đúng theo giáo huấn của Như Lai, các thầy cũng sẽ sớm
chứng ngộ bằng trí tuệ trực giác và sống cuộc sống thánh thiện cùng
tột ngay trong kiếp này. Nhằm mục tiêu cao thượng này, nhiều người con
trong các gia tộc quý phái sẽ rời bỏ tài sản, sự nghiệp và cuộc sống
tại gia để trở thành người không tiền của, không cửa nhà."
Năm vị đạo sĩ liền trả lời:
"Này Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm),
trước kia với bao nhiêu cố gắng để nghiêm trì giới luật mà Đạo Hữu
không thành đạt trí tuệ nào siêu phàm, cũng không chứng ngộ được gì
xứng đáng với chư Phật. Giờ đây, sống xa hoa và từ bỏ mọi cố gắng,
Đạo Hữu đã trở lại đời sống lợi dưỡng, thì làm sao mà có thể
thành đạt được trí tuệ siêu phàm và chứng ngộ Đạo Quả ngang hàng với
chư Phật?"
Đức Phật giải thích thêm:
"Này các Đạo Sĩ, Như Lai không hề xa hoa, không hề ngừng cố gắng
và không quay trở lại đời sống lợi dưỡng. Như Lai là Đức Thế Tôn,
là Đấng Toàn Giác. Nghe đây các Đạo Sĩ! Như Lai đã thành đạt trạng
thái Vô Sanh Bất Diệt và sẽ giảng dạy Giáo Pháp. Nếu hành đúng theo
giáo huấn của Như Lai, các thầy cũng sẽ sớm chứng ngộ, bằng trí tuệ
trực giác và sống cuộc đời thánh thiện cùng tột, ngay trong kiếp sống
này. Nhằm mục tiêu cao thượng này nhiều người con trong các gia tộc quý
phái sẽ rời bỏ tài sản sự nghiệp và cuộc sống tại gia để trở thành
người không tiền của, không cửa nhà".
Lần thứ nhì năm đạo sĩ vẫn giữ
nguyên thành kiến và tỏ ý thất vọng. Đến lần thứ ba, sau khi Đức Phật
lặp lại lời xác nhận, năm đạo sĩ vẫn giữ vững lập trường, tỏ ý
hoài nghi. Đức Phật hỏi lại:
"Này các Đạo Sĩ! Các thầy
có biết một lần nào trước đây Như Lai đã nói với các thầy như thế
không?"
- Quả thật không.
Đức Phật lặp lại lần thứ ba rằng
Ngài đã là Đấng Toàn Giác và chính năm đạo sĩ cũng có thể chứng ngộ,
nếu hành đúng giáo huấn.
Đó là những lời nói chân thật
do chính Đức Phật thốt ra. Năm vị đạo sĩ là bậc thiện trí, mặc dù
đã có thành kiến không tốt, khi nghe vậy nhận định chắc chắn rằng Đức
Phật đã thành tựu Đạo Quả Vô Thượng và có đầy đủ khả năng để
hướng dẫn mình. Năm thầy bấy giờ tin lời Đức Phật và ngồi xuống,
yên lặng lắng nghe Giáo Pháp Cao Quý.
Trong khi Đức Phật thuyết Pháp cho
ba vị thì hai vị kia đi trì bình, rồi tất cả sáu vị -- năm đạo sĩ và
Đức Phật -- cùng độ thực với những gì mà hai vị đem về. Qua hôm
sau, trong khi hai vị này nghe Pháp thì ba vị kia đi trì bình.
Tất cả năm vị đạo sĩ, vốn còn
phải chịu sanh, lão, bệnh, tử và ái dục, được Đức Phật khuyên nhắc
và giảng dạy, tất cả năm đều nhận thức thực tướng của đời sống
và nỗ lực gia công nhằm thoát ra khỏi vòng đau khổ ấy để vượtn chỗ
không sanh, không lão, không bệnh, không tử, không phiền não, không ái dục,
Thanh Bình An Lạc cùng tột vô song, Niết Bàn, châu toàn tuyệt đối, không
còn sanh, lão, bệnh, tử, phiền não và ái dục. Trí tuệ phát sanh, năm vị
thấu hiểu rằng sự Giải Thoát của các Ngài rất là vững chắc, không
thể lay chuyển, và đây là lần sanh cuối cùng. Các Ngài không bao giờ
còn tái sanh nữa.
Kinh Chuyển Pháp Luân [12] đề cập
đến Tứ Diệu Đế, là bài Pháp đầu tiên mà Đức Phật giảng cho năm vị.
Khi nghe xong Đức Kondanna (Kiều Trần Như), niên trưởng trong năm vị, đắc
Quả Tu Đà Huờn [13], tầng thánh đầu tiên trong tứ thánh. Về sau bốn vị
kia cũng chứng đắc tầng thánh ấy. Đến khi nghe Đức Phật giảng kinh
Anattalakhana Sutta [14] (Kinh Vô Ngã Tướng), đề cập đến pháp Vô Ngã thì
tất cả năm vị đều đắc Quả A La Hán.
Năm
Đệ Tử Đầu Tiên
Năm vị tỳ khưu minh mẫn vừa đắc
Quả A La Hán cũng là năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Tên các
vị ấy là Kondanna, Bhaddiya, Vappa, Mahanama và Assaji.
Kondanna (Kiều Trần Như) là vị trẻ
tuổi nhất trong tám vị bà la môn trước kia được Đức Vua Suddhodana (Tịnh
Phạn) thỉnh đến dự lễ quáng đính của thái tử sơ sinh. Bốn người
khác là con của bốn trong bảy vị bà la môn lớn tuổi kia. Tất cả năm
anh em đều cùng nhau vào rừng hành đạo. Khi hay tin Thái Tử Siddhattha (Sĩ
Đạt Ta) rời bỏ cung điện, cả năm cùng nhau đi tìm Đạo Sĩ Gotama (Cồ
Đàm) để phục vụ. Nhưng đến khi Bồ Tát chấm dứt cuộc sống khổ hạnh
ép xác vô ích và bắt đầu độ thực để bồi dưỡng lại sức khỏe đã
hao mòn, thì cả năm vị ấy lấy làm thất vọng, bỏ Ngài đi Isipatana. Sau
đó không bao lâu Bồ Tát đắc Quả Phật.
Đức Kondanna (Kiều Trần Như) là vị
đệ tử đầu tiên của Đức Phật đắc Quả A La Hán và cũng là vị tỳ
khưu cao hạ nhất trong Giáo Hội Tăng Già. Chính Ngài Assaji là người sẽ
thâu phục và dẫn dắt Đức Sariputta (Xá Lợi Phất), vị đệ tử của Đức
Phật mà về sau đứng đầu trong Giáo Hội.
Chú thích
[1] Dấu hiệu tôn kính.
[2] Đức Phật thuyết bài Pháp này
khi Ngài ngự tại Kỳ Viên Tịnh Xá (Jetavana Vihara), Savatthi, lâu sau khi
thành lập Giáo Hội Tăng Già. Ngài muốn chứng tỏ lòng tôn kính của
mình đối với Tăng Già để khuyên dạy bà Maha Pajapati Gotami nên dâng đến
chư Tăng một bộ y mà bà đã có ý định ra công may để dâng đến Đức
Phật.
[3] Danh từ Pali là Devata, cũng là một
hạng chúng sanh trên quả địa cầu, hoặc trong những cảnh giới khác
ngoài quả địa cầu, mắt người không thể trông thấy. Vị Trời này là
quyến thuộc của hai thương gia trong một tiền kiếp.
[4] Sattu, bột rang khô và Madhu, mật
ong, là lương thực mà du khách Ấn Độ thời ấy giờ thường mang theo.
[5] Catummaharajikas - Tứ Đại Thiên
Vương, là Chư Thiên ở bốn phương Trời.
[6] Bản Chú Giải thêm rằng Đức
Phật làm cho bốn cái bát nhập lại thành một.
[7] Buddham Saranam Gacchami (Con xin quy
y Phật), Dhammam Saranam Gacchami (Con xin quy y Pháp), là câu kin đọc xin quy y
khi làm lễ Nhị Bảo. Thuở bấy giờ Giáo Hội Tăng Già chưa được thành
lập, nên chỉ có Nhị Bảo là Phật Bảo và Pháp Bảo. Vì Tăng Bảo chưa
được thành lập nên hai vị không đọc câu xin quy y thứ ba Sangham Saranam
Gacchami (Con xin quy y Tăng.)
[8] Bản Chú giải Túc Sanh Truyện
ghi rằng khi hai thương gia xin Đức Phật một món gì để đem về thờ thì
Đức Phật nhổ vài sợi tóc đưa cho hai người. Tục truyền rằng hai bảo
vật ấy đến nay vẫn còn, và được tôn trí trong bảo tháp của chùa Swe
Dagon tại Ngưỡng Quang (Miến Điện), một hãnh diện, mà cũng là một vinh
quang của người Phật tử Miến Điện. Tháp to lớn này có hình một cái
chuông úp lại, ở xa nhìn giống như một hòn núi bằng vàng.
[9] Vị đạo sư đầu tiên dạy Bồ
Tát hành thiền tầng Vô Sở Hữu Xứ.
[10] Vị đạo sư thứ nhì, người
đã dẫn dắt Ngài đến tầng thiền Vô Sắc cao nhất: Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng
[11] Đức Phật nói như vậy vì
Ngài tự lực gắng, tự mình chứng ngộ Đạo Quả Tối Thượng, không có
sự hỗ trợ của một vị thầy. Trước đó Ngài có thầy dạy những
pháp thế gian, nhưng chính Ngài tự vạch ra con đường dẫn đến Đạo Quả
Phật. Như vậy nói rằng Phật Giáo là sự trưởng thành tự nhiên của
Ấn Độ Giáo là sai lầm.
[12] Xem Chương 6.
[13] Sotapatti. Tu Đà Huờn hay Nhập
Lưu, là người lần đầu tiên bước chân vào dòng suối chảy đến Niết
Bàn.
[14] Xem Chương 6.