Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
Phần II: Phật Pháp
- Không làm việc ác.
- Làm những việc thiện.
- Thanh lọc tâm.
- Đó là lời dạy của
chư Phật.
-oOo-
- [15]
- Phật Giáo là gì?
"Giáo Pháp mà
Như Lai đã chứng ngộ qủa thật thâm diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội,
vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi luận lý, tế nhị, chỉ có bậc
thiện trí mới thấu hiểu." -- Trung A Hàm
Tam Tạng Kinh
Đức Phật đã nhập diệt, nhưng
Giáo Lý cao siêu mà Ngài đã dày công hoằng dương trong bốn mươi lăm năm
trường vẫn còn lưu lại đến ngày nay cho nhân loại, trọn vẹn, đầy đủ,
và hoàn toàn tinh túy.
Mặc dầu giáo huấn của Đức Thế
Tôn không được ghi chép ngay lúc bấy giờ trên giấy trắng mực đen, các
vị đệ tử của Ngài luôn luôn nhuần nhã nằm lòng và truyền khẩu từ
thế hệ này sang thế hệ khác.
Ba tháng sau khi Đức Phật nhập Niết
Bàn, vào năm thứ tám triều đại Ajatasattu (A Xà Thế), năm trăm vị đại
đệ tử A La Hán của Ngài kết hợp lần đầu tiên tại Rajagaha (Vương Xá)
để nhắc lại những Phật ngôn quý báu. Đức Ananda - vị đệ tử trung
thành đã được diễm phúc luôn luôn ở bên cạnh Đức Thế Tôn và hân hạnh
được nghe tất cả giáo huấn của Ngài - và Đức Upali, được chọn đứng
lên trả lời những câu hỏi. Đức Ananda, được đề cử trình bầy những
lời khuyên dạy (Sutta, kinh), Đức Upali về những vấn đề có liên quan đến
giới luật (Vinaya), và cả hai vị luân phiên trả lời các câu hỏi về phần
Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), giáo lý cao siêu. Đó là lần kết tập đầu tiên,
tập trung toàn thể giáo lý của Đức Phật và sắp xếp rành mạch thành
ba tạng (Tam Tạng Kinh: Tạng Luật, Tạng Kinh và Tạng Luận).
Vì có những khuynh hướng làm sai lạc
Giáo Pháp nên sau đó hai lần [1] , một trăm năm và hai trăm ba mươi sáu năm,
các vị A La Hán lại kết tập lần thứ nhì và thứ ba để đọc lại Phật
ngôn.
Vào khoảng năm 83 trước D.L, dưới
triều vua Vatta Gamani Abhaya [2] xứ Sri Lanka (Tích Lan), các vị A La Hán lại
kết tập một lần nữa tại Aluvihara [3], một ấp nhỏ của đảo Sri Lanka
(Tích Lan), lối 30 cây số cách Kandy. Tại đây, lần đầu tiên trong lịch
sử Phật Giáo, Tam Tạng Pali (Nam Phạn) được ghi chép trên lá buôn [4] nhờ
sự cố gắng liên tục và tầm mắt thấy xa của chư vị Đại Đức A La
Hán. Đến ngày nay, và trong tương lai, không có lý do nào để chỉ trích,
và cũng không thể nào các học giả tân tiến làm sai lạc tách cách trong
trắng của giáo lý thuần túy.
Kể về lượng, ba Tạng kinh
(Tipitaka), gồm trọn vẹn Giáo Lý của đức Phật, bằng mười một lần
quyển thánh kinh của Ki-tô Giáo.
Phạn ngữ Tipitaka (Bắc Phạn:
Tripitaka) có nghĩa là ba cái giỏ. Ba cái giỏ ấy là: giỏ đựng Luật
(Vinaya Pitaka), giỏ đựng Kinh (Sutta Pitaka) và giỏ đựng Luận (Abhidhamma
Pitaka, Vi Diệu Pháp), tức ba Tạng: Luật, Kinh và Luật
Tạng Luật
(Vinaya Pitaka)
Tạng Luật được xem là cái neo vững
chắc để bảo tồn con thuyền giáo hội trong những cơn phong ba bão táp của
lịch sử. Phần lớn tạng Luật đề cập đến giới Luật và nghi lễ
trong đời sống xuất gia của các vị tỳ khưu và tỳ khưu ni. Ngót hai mươi
năm sau khi Thành Đạo, Đức Phật không có ban hành giới luật nhất định
để kiểm soát và khép chư tăng vào kỹ cương. Về sau, mỗi khi có trường
hợp xảy diễn, Đức Phật đặt ra những điều răn thích hợp. Tạng Luật
nêu rỏ đầy đủ lý do tại sao và trường hợp nào Đức Phật ban hành một
giới, và mô tả rành mạch các nghi thức hành lễ sám hối (Vinaya) của chư
tăng. Lịch trình phát triển đạo giáo từ thuở ban khai, sơ lược đời sống
và chức nhiệm của Đức Phật, và các chi tiết về ba lần kết tập Tam
Tạng là những điểm khác được đề cập đến trong Tạng Luật. Một cách
gián tiếp, đây là những tài liệu hữu ích về lịch sử thời thượng cổ,
về các cổ tục ở Ấn, về kiến thức và trình độ thẩm mỹ thời bấy
giờ. Người đọc Tạng Luật không khỏi ngạc nhiên và thán phục tánh
cách dân chủ trong phương pháp thành lập và tổ chức Giáo Hội Tăng Già,
việc sử dụng tài sản, mức độ luân lý cao thượng của chư Tăng và khả
năng xuất chúng của Đức Phật trong việc điều hành Giáo Hội.
Ngài Zetland viết:
"Và rất nhiều người lấy làm
ngạc nhiên được biết rằng những nguyên tắc sơ đẳng trong quốc hội
của chúng ta ngày nay (Anh Quốc) đã có sẵn trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn
Độ, từ hơn hai ngàn năm về trước. [5] "
Tạng Luật gồm năm quyển:
Vibhanga:
1. Parajika Pali (Tội nặng)
2. Pacittiya Pali (Tội nhẹ)
Khandaka:
3. Mahavagga Pali (Phần lớn)
4. Cullavagga Pali (Phần nhỏ)
5. Parivara Pali (Giới toát yếu)
Tạng
Kinh (Sutta Pitaka)
Tạng Kinh đại để gồm những bài
Pháp có tánh cách khuyên dạy mà trong nhiều cơ hội khác nhau, Đức Phật
giảng cho các bậc xuất gia và hàng cư sĩ. Một vài bài giảng của các vị
đại đệ tử như các ngài Sariputta (Xá Lợi Phất), Moggallana (Mục Kiền
Liên) và Ananda (A Nan Đà) cũng được ghép vào Tạng Kinh và cũng được tôn
trọng như chính lời Đức Phật vì đã được Đức Phật chấp nhận. Phần
lớn các bài Pháp này nhằm vào lợi ích của chư Tỳ Khưu và đề cập đến
đời sống thánh thiện của các bậc xuất gia. Nhiều bài khác liên quan đến
tiến bộ vật chất và tinh thần, đạo đức của người cư sĩ. Kinh
Sigalovada [6] chẳng hạn, dạy về bổn phận của người tại gia. Ngoài ra
còn có những bài giảng lý thú dành cho trẻ em.
Tang Kinh giống như một quyển sách
ghi lại nhiều quy tắc để coi theo mà thực hành, vì đó là các bài Pháp
do Đức Phật thuyết giảng ở nhiều trường hợp khác nhau cho nhiều người
có căn cơ, trình độ, và hoàn cảnh khác nhau. Ở mỗi trường hợp, Đức
Phật có một lối giảng để người thính Pháp có thể lãnh hội dễ
dàng. Thoáng nghe qua hình như mâu thuẫn, nhưng phải nhận định đúng Phật
ngôn theo mỗi trường hợp riêng biệt mà Đức Phật dạy điều ấy. Tỷ
như để trả lời môt câu hỏi về cài "Ta", có khi Đức Phật giữ
im lặng, có khi ngài giải thích dong dài. Nếu người vấn đạo chỉ vì
tánh tò mò muốn biết thì Ngài làm thinh, không trả lời. Nhưng với người
cố tâm tìm hiểu chân lý thì Ngài giảng dạy rành mạch và đầy đủ.
Tạng kinh gồm năm bộ:
1. Digha Nikaya,
Trường A Hàm, chép lại những bài Pháp dài.
2. Majjhima Nikaya, Trung
A Hàm, những bài Pháp dài bậc trung.
3. Samyutta Nikaya , Tạp
A Hàm, những câu kinh tương tợ nhau.
4. Anguttara Nikaya, Tăng
nhứt A Hàm, những bài Pháp sắp xếp theo con số.
5. Khuddaka Nikaya, Tiểu
A Hàm, những câu kệ vắn tắt.
Riêng bộ Khuddaka
Nikaya (Tiểu A Hàm) chia làm 15 tập:
1. Khuddaka Patha, những
bài ngắn.
2. Dhammapada, Kinh Pháp
cú, con Đường chân lý.
3. Udana, Khúc ca hoan hỷ.
4. Itivuttaka, những
bài kinh bắt đầu bằng cụm từ "Phật dạy như thế này".
5. Sutta Nipata, những
bài kinh sưu tập.
6. Vinama Vatthu, câu
chuyện những cảnh trời.
7. Peta Vattthu, câu chuyện
cảnh giới ngạ quỷ.
8. Theragatha, Trưởng Lão
Tăng Kệ.
9. Therigatha, Trưởng Lão
Ni Kệ.
10. Jataka, những câu
chuyện tái sinh của Bồ Tát: Túc Sanh Truyện, hay Kinh Bổn Sanh.
11. Niddesa, những bài
trần thuật, Nghĩa thích.
12. Patisambhida, quyển
sách đề cập đến kiến thức Phân Giải.
13. Apadana, đời sống
của chư vị A La Hán.
14. Buddhavamsa, tiểu sử
của Đức Phật.
15. Cariya Pitaka, những
phẩm hạnh.
Tạng Luận
(Abhidhamma Pitaka - Vi Diệu Pháp Tạng)
Tạng Luận thâm diệu và quan trọng
nhất trong toàn thể Giáo Pháp vì đây là phần triết lý cao siêu, so với
Tạng Kinh vốn giản dị hơn. Abhidhamma, Tạng Luận hay Vi Diệu Pháp, là
tinh hoa của Phật Giáo.
Đối với một vài học giả, Vi Diệu
Pháp không phải là Đức Phật giảng mà do các nhà sư uyên bác khởi thảo
về sau. Tuy nhiên, đúng theo truyền thống thì chính Đức Phật đã dạy phần
chánh yếu của Tạng này. Những đoạn gọi là Matika hay Nòng Cốt Nguyên
Thủy của Giáo Lý cao siêu này, như thiện pháp (kusala dhamma), bất thiện
pháp (akusala dhamma), và bất định pháp (abyakata dhamma), trong sáu tập của
Tạng Luận (trừ tập Kathavatthu, những điểm tranh luận) [7] đều do chính
Đức Phật dạy. Ngài Sariputta (Xá Lợi Phật) được danh dự lãnh trọng
trách giảng rộng và giải thích sâu vào chi tiết. Dầu tác giả, hay các vị
tác giả là ai, chắc chắn Tạng Luận là công trình sáng tác của một bộ
óc kỹ xảo kỳ tài chỉ có thể so sánh với một vị Phật. Và điểm này
càng nổi bật một cách hiển nhiên trong tập Patthana Pakarana, vừa phức tạp
vừa tế nhị, diễn tả mối tương quan của luật nhân qủa với đầy đủ
chi tiết.
Đối với bậc thiện trí thức muốn
tìm chân lý, Tạng Luận là quyển kinh chỉ đạo khẩn yếu, vừa là một
tập khải luận vô giá. Ở đây có đủ thức ăn tinh thần cho các học giả
muốn mở mang trí tuệ và đời sống lý tưởng của người Phật tử. Vi
Diệu Pháp không phải loại sách để đọc thoáng qua cầu vui hay giải
trí.
Khoa tâm lý học hiện đại, còn hạn
định, vẫn nằm trong phạm vi của Vi Diệu Pháp khi đề cập đến tâm, tư
tưởng, tiến trình tư tưởng, các trạng thái tâm. Nhưng Tạng Luận không
chấp nhận có một linh hồn, hiểu như một thực thể trường tồn bất
biến. Như vậy, Vi Diệu Pháp dạy một thứ tâm lý học trong đó không có
linh hồn.
Nếu đọc Vi Diệu Pháp như một
quyển sách tâm lý học hiện đại thì ắt phải thất vọng, vì ở đây
không có ý định giải quyết tất cả những vấn đề mà tâm lý học hiện
đại phải đối phó.
Tâm hay tâm vương (Citta) được định
nghĩa rõ ràng. Tư tưởng được phân tách và sắp xếp đại để thành từng
loại về phương diện luân lý. Tất cả những trạng thái tâm, hay tâm sở
(Cetasika), đều được lược kê cẩn thận. Thành phần cấu hợp của mỗi
loại tâm được kể ra từng chi tiết.Tư tưởng phát sanh thế nào cũng
được mô tả tỉ mỉ. Riêng những chặp tư tưởng bhavanga và javana, chỉ
được đề cập đến và giải thích trong Vi Diệu Pháp, thật là đặc biệt
hữu ích cho ai muốn khảo cứu về tâm lý học. Những vấn đề không
liên quan đến giải thoát đều được gác hẳn qua một bên.
Sắc, tức phần vật chất, cũng
được đề cập đến, nhưng không phải như các nhà vật lý học hay các
y sĩ mô tả. Đơn vị căn bản của vật chất, những đặc tánh, nguồn gốc
của vật chất, tương quan giữa vật chất và tâm, sắc và danh, đều được
giải thích. Vi Diệu Pháp không nhằm tạo lập một hệ thống tư tưởng về
tâm và vật chất mà chỉ quan sát hai thành phần cấu tạo cái được gọi
là chúng sanh để giúp hiểu biết sự vật theo đúng thực tướng. Dựa trên
căn bản ấy, một triết lý đã được xây dựng và dựa trên triết lý
này một hệ thống luân lý được phát triển nhằm đưa đến mục tiêu tối
hậu.
Bà Rhys Davids viết:
"Vi Diệu Pháp đề cập đến:
1) cái gì ở bên trong ta, 2) cái gì ở chung quanh ta, và 3) cái gì ta khao
khát thành đạt."
Tạng Kinh chứa đựng những lời dạy
thông thường (vohara desana), còn Tạng Luận gồm Giáo Lý Cùng Tột
(paramattha desana).
Hầu hết các học giả Phật Giáo
đều xác nhận rằng muốn thông hiểu Giáo Huấn của Đức Phật, phải có
kiến thức về Tạng Luận vì đó là chìa khoá để mở cửa vào thực tế.
Tạng Luận gồm bảy bộ:
1. Dhammasanghani,
phân loại các Pháp, Pháp Tụ.
2. Vibhanga, những tiết
mục, Phân Biệt.
3. Dhatukatha, luận giải
về các nguyên tố hay giới, Giới Thuyết.
4. Puggala Pannatti, chỉ
danh những cá tính, Nhơn Thi Thuyết.
5. Kathavathu, những điểm
tranh luận, Thuyết Sự.
6. Yamaka, quyển sách về
những cặp đôi, Song Đối.
7. Patthana, quyển sách
đề cập đến nhân quả tương quan, Phát Thú.
-oOo-
Phật
Giáo có phải là một Triết Học không?
Được tôn trí trọn vẹn trong Tam
Tang Kinh, Giáo Pháp cao siêu đề cập đến những chân lý và những sự kiện
mà mọi người đều có thể trắc nghiệm và kiểm chứng xuyên qua kinh
nghiệm bản thân, Phật Giáo không hề liên quan đến những lý thuyết
suông hay những không luận có thể được chấp nhận ngày hôm nay là chân
lý thâm diệu mà qua ngày sau thì bị loại bỏ như một lầm lẫn. Đức Phật
không truyền giạy một lý thuyết triết học cách mạng, cũng không có ý
định sáng tạo một nền khoa học vật lý mới. Bằng những lời lẽ rõ
ràng, không thể lầm lẫn, Đức Phật giải thích những gì ở bên trong
và những gì ở bên ngoài ta, có liên quan đến sự giải thoát, vượt ra
khỏi mọi hình thức khổ đau của đời sống và Ngài vạch ra Con Đường.
Đức Phật cũng không truyền dạy
tất cả những điều mà Ngài biết. Ngày kia, trong cụm rừng nọ, Đức Phật
bốc lên một nắm lá và dạy:
"Nầy các Tỳ Khưu, những điều
mà Như Lai dạy các con có thể sánh với nắm lá này, còn những điều mà
Như Lai không dạy cũng như tất cả lá trong rừng [8]."
Đức Phật chỉ dạy những điều
mà Ngài xét là cần thiết để gội rửa, thanh lọc tâm, và không bao giờ
bàn đến các vấn đề không liên quan đến nhiệm vụ cao cả của Ngài. Mặc
dầu vậy, trên nhiều điểm, Ngài đã đi trước các học giả và các nhà
khoa học hiện đại.
Heraclitus (500 năm trước D.L) tin rằng
tất cả đều trôi chảy (pante rhei) và vũ trụ luôn luôn đang trở thành.
Ông dạy rằng không có cái chi trường tồn, mọi vật đều đang trở thành
cái gì khác. Chính ông đã thốt ra câu nói trứ danh: "Không thể bước
hai lần lên cùng môt chỗ trên dòng suối". Pythagore (532 trước D.L) dạy
thuyết chuyển sinh linh hồn. Descartes (1596 -1650) chủ trương cần phải quan
sát mọi hiện tượng trên nền tảng của sự hoài nghi hợp lý. Spinoza
(1632-1677) vừa chấp nhận có thực thể trường tồn vừa lập luận rằng
tất cả những hình thức tồn tại đều tạm bợ nhất thời. Theo triết
gia nầy, muốn diệt trừ đau khổ phải tìm ra một nguồn kiến thức
không đổi thay, không xê dịch, trước sau như một, trường tồn, vĩnh cửu.
Berkeley (1685-1776) cho rằng cái được gọi nguyên tử chỉ là một giả định
của siêu hình học. Hume (1711-1776) phân tách phần tâm linh của con người
và kết luận rằng đó chỉ là những trạng thái tinh thần luôn luôn biến
chuyển. Theo Hegel (1770-1831): "toàn thể hiện tượng là sự đang trở
thành". Schopenhauer (1788-1860), trong quyển "Thế Gian Xem Như Ý Chí
và Tư Tưởng" diễn tả chân lý về sự đau khổ và nguồn gốc của
nó theo lối Tây Phương. Henri Bergson (1859-1941) chủ trương thuyết vô thường
và nhấn mạnh giá trị của trực giác. William James (1842-1910) đề cập đến
luồng tâm như một dòng nước và phủ nhận một linh hồn trường cửu.
Trên 2500 năm về trước, Đức Phật
đã dạy những chân lý Vô thường (anicca), Khổ (dukkha) và Vô ngã (anatta).
Giáo huấn mà Đức Phật truyền dạy,
dầu có tánh cách luân lý hay triết lý, là để học hỏi, thực hành, và
trên tất cả, là để chứng ngộ bằng trí tuệ trực giác "Giáo Pháp
như chiếc bè đưa ta qua đại dương của cuộc sống [9]".
Vậy, một cách chính xác, Phật
Giáo không phải là một triết học vì Phật Giáo không phải chỉ là:
"Sự yêu chuộng trí tuệ, lòng ham thích thúc đẩy đi tìm trí tuệ"
(Webster's Dictionary). Phật Giáo cũng không phải là "một lối giải
thích căn cứ trên lý thuyết, cái không bao giờ cũng được biết (như
trong siêu hình học) hay cái được biết không rành mạch (như trong triết
học, luân lý hay chính trị)" [10].
Nếu hiểu triết học là
"nghiên cứu, học hỏi, không phải chỉ một vài sự kiện riêng biệt
mà đặc tính căn bản của thế gian trong đó ta đang sống và cuộc sống
đáng cho ta sống trong thế gian nầy" [11] thì Phật Giáo có thể gần với
triết học, nhưng Phật Giáo hàm xúc hơn nhiều [12].
Triết học đại để quan tâm đến
sự hiểu biết và không chú ý đến phần thực hành, trong khi đó Phật
Giáo đặc biệt đặt trong tâm trên phần thực hành và chứng ngộ.
Phật
Giáo có phải là một Tôn Giáo không?
Giáo sư Rhys Davids viết:
"Religion (tôn giáo) là gì? Như người ta biết rõ, danh từ Religion (tôn
giáo) không có trong những sinh ngữ không liên quan đến tiếng Anh và căn
nguyên của chữ nầy vẫn còn bất định. Trong một đoạn, Ciceron phân
tách danh từ nầy làm hai phần, dẫn xuất từ "re" và
"logo" và định nghĩa religion (tôn giáo) là sự lập lại nhiều lần
những câu kinh, câu chú. Một lối giải thích khác, dẫn suất từ
"re" và "logo" chủ trương rằng ý nghĩa đầu tiên là liên
kết, trói buộc, là sự hàn gắn, dính liền (chắc chắn đó là sự nối
liền với Thần Linh). Lối giải thích thứ ba, dẫn xuất từ
"lex", là sự ẩn náu trong luật pháp, là sự thận trọng đặt tâm
linh vào khuôn khổ [13]".
Theo lối định nghĩa thông thường,
một cách chính xác, Phật Giáo không phải là một tôn giáo (religion) bởi
vì Phật Giáo không phải là "một hệ thống tín ngưỡng và tôn sùng
lễ bái", trung thành với một thần linh siêu nhiên.
Phật Giáo không đòi hỏi nơi tín
đồ một đức tin mù quáng. Do đó một niềm tin tưởng suông không thể
có chỗ đứng. Thay vào đó là lòng tín nhiệm căn cứ trên sự hiểu biết.
Trước khi đắc Quả Tu-Đà-Hườn
người Phật tử lắm lúc còn hoài nghi Đức Phật, hoặc Giáo pháp hoặc
Giáo Hội Tăng Già. Đến khi thành đạt Đạo Quả cao thượng ấy rồi thì
mọi hình thức hoài nghi hoàn toàn chấm dức và hành giả mới thật sự bước
theo chân Đức Phật [14].
Niềm tin mà người Phật Tử đặt
nơi Đức Phật cũng giống như niềm tin mà bệnh nhân đặt nơi một
lương y trứ danh hay của trò đặt nơi thầy. Mặc dầu tìm nương tựa
nơi Đức Phật và tôn trọng Ngài là vị hướng đạo vô thượng, là thầy
dắt dẫn trên Con Đường Trong Sạch (Thanh Tịnh Đạo), người Phật Tử
không quy phục mù quáng như kẻ nô lệ, không tin rằng chỉ quy y Tam Bảo
hay chỉ có đức tin suông nơi Tam Bảo mà mình có thể trở nên trong sạch.
Không ai, dầu là Đức Phật đi nữa, có đủ quyền lực để gội rửa bợn
nhơ của người khác. Nói một cách chính xác, không ai có thể rửa sạch,
cũng không ai có thể làm hoen ố người khác. Đức Phật là vị Tôn Sư có
thể giúp đỡ bằng cách vạch ra con đường, nhưng chính ta phải lãnh lấy
nhiệm vụ gội rửa thân tâm của chúng ta.
Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
- "Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta
làm cho ta ô nhiễm.
- Chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gội
rửa cho ta.
- Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta.
- Không ai có thể làm cho người khác trở nên
trong sạch". (Câu 145)
Người Phật Tử không làm nô lệ
cho một quyển sách hay một cá nhân, cũng không hy sinh tự do tư tưởng của
mình khi bước theo dấu chân của Đức Phật. Người Phật Tử hoàn toàn tự
do thực hiện ý chí, mở mang kiến thức và phát triển trí tuệ cho đến
ngày chính mình đắc Quả Phật, bởi vì khả năng trở thành Phật nằm
bên trong tất cả mọi chúng sanh.
Lẽ dĩ nhiên, người Phật Tử nhắc
lại Phật ngôn như những chân lý bất di dịch, nhưng chính Đức Phật dạy
phải nên luôn luôn suy gẫm, không nên nhắm mắt tin càng.
Sự chứng ngộ có thể có trong hiện
tại không phải là tiêu chuẩn chân lý duy nhất trong Phật Giáo. Điểm
then chốt là Chánh Kiến (samma-ditthi), sự hiểu biết thuần lý. Đức Phật
khuyên dạy người đi tìm chân lý không nên chấp nhận điều gì chỉ vì
một người đáng tin cậy đã nói như vậy mà phải suy luận kỹ càng và
thận trọng xét đoán để biết rõ điều nào là đúng, điều nào sai.
Ngày nọ, dân xứ Kesaputta, thường
được gọi là người Kalama, bạch với Đức Phật rằng có nhiều vị tu
sĩ và nhiều Bà La Môn đến đây giảng đạo. Người nào cũng khuyến dụ
dân chúng chỉ nên tin giáo lý của mình, không nên tin lời dạy của các vị
tu sĩ khác. Rốt cùng, người dân không còn biết tin ai.
"Đúng như vậy, nầy hỡi người
Kalama, các con hoài nghi là phải, các con ngờ vực là phải. Trong trường hợp
khả nghi thì sự ngờ vực phát sanh".
Đức Phật dạy như vậy và khuyên
nhủ người Kalama như sau -- và đây là những lời khuyên mà người theo chủ
nghĩa duy lý hiện đại có thể áp dụng giống như các vị đạo sĩ hoài
nghi thời xưa:
"Hãy đến đây, người Kalama!
Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghe nói lại (tỷ như nghĩ rằng ta
đã nghe điều nầy từ lâu). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì tập
tục cổ phong truyền lại như thế (tỷ như nghĩ rằng điều nầy đã được
truyền lại từ bao nhiêu thế hệ). Không nên chấp nhận điều gì chỉ
vì có lời đồn đãi như vậy (tỷ như tin lời người khác mà không suy
xét). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy đã được ghi
trong kinh sách. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình đã ức đoán
như vậy. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình suy diễn như vậy.
Không nên chấp nhận điều gì theo bề ngoài. Không nên chấp nhận điều
gì chỉ vì điều ấy hợp với thành kiến của mình. Không nên chấp nhận
điều gì chỉ vì điều ấy hình như có thể chấp nhận được (tỷ như
nghĩ rằng điều nầy phải được chấp nhận). Không nên chấp nhận điều
gì chỉ vì nghĩ rằng vị tu sĩ thốt ra điều nầy ta đã được kính trọng
từ trước (và như vậy, lời nói phải được chấp nhận). [15]
" Tuy nhiên, khi tự các con hiểu
rõ rằng -- những điều nầy không hợp luân lý, những điều nầy đáng
được khiển trách, những điều nầy bị các bậc thiện trí thức cấm
đoán, nếu thực hiện những điều nầy sẽ bị phá sản và phiền muộn
-- thì hẳn các con phải từ bỏ, không nên làm điều ấy.
" Khi tự các con hiểu rõ rằng
-- những điều nầy hợp luân lý, những điều nầy không đáng bị khiển
trách , những điều nầy được các bậc thiện trí thức tán dương, nếu
thực hiện những điều nầy sẽ được an vui hạnh phúc -- thì hẳn các
con phải hành động đúng như vậy". [16]
Phật ngôn nầy được dạy trên
2500 trước đây, nhưng vẫn còn mãnh lực và hiệu năng cho đến thời đại
văn minh của thế kỷ hai mươi. Đức Phật dạy các đệ tử nên tìm chân
lý chớ không nên chỉ nghe qua là tin liền, dù người nói có nhiều uy tín
đi nữa.
Về sau, Kinh Jnanasara-samuccaya lặp lại
lời khuyên nầy với những lời lẽ khác và cho một thí dụ quen thuộc với
đời sống hàng ngày:
- "Tapac chedac ca nikasat svarnam iva panditaih
- Parikshhya blikshavo grahyam madvaco na tu gauravat".
- "Cũng như người thợ bạc sáng suốt thử
vàng bằng cách đốt lên, cắt và cọ xát trên hòn đá để thử vàng,
cùng thế ấy, con chấp nhận những lời của Như Lai sau khi thận trọng xét
đoán chớ không phải chỉ vì tôn kính Như Lai".
Đức Phật khuyên dạy hàng
tín đồ nên tìm chân lý chớ không nên chỉ nghe qua là tin liền, dầu người
nói có nhiều uy tín đi nữa.
Bây giờ, đã chấp nhận rằng
không có đức tin mù quáng trong Phật Giáo, vậy có hay không một hình thức
tôn thờ hay lễ bái tượng Phật hay những thần tượng tương tự?
Người Phật Tử không cầu xin một
ân huệ vật chất hay tinh thần nào khi đảnh lễ tượng Phật, mà chỉ
bày tỏ lòng tôn kính ngưỡng mộ của mình đến lý tưởng siêu việt mà
bức tượng tiêu biểu. Người Phật tử quỳ trước tượng Phật, dâng
bông và dâng hương, không phải dâng đến bức tượng bằng đá, bằng gỗ,
hay bằng giấy, mà là đến Đức Phật mà bức tượng là tượng trưng Ngài.
Dâng bông, quỳ lạy, là biểu hiện
ra bên ngoài niềm tri ân vô hạn sâu kín trong lòng. Cùng lúc ấy người Phật
tử suy gẫm về hồng đức của Đức Thế Tôn và tánh cách vô thường của
vạn pháp, xuyên qua những cánh hoa sớm nở tối tàn. Người Phật tử hiểu
biết tạo cho mình cảm tưởng đang tôn kính quỳ trước mặt Đức Phật
và nhờ đó phát sanh nguồn cảm hứng thúc giục mình noi gương lành trong
sạch của Ngài.
Đề cập đến các pho tượng triết
gia trứ danh, bá tước Kaiserling, viết: "Trên thế gian này tôi không biết
còn cái gì vĩ đại hơn là chân dung của Đức Phật. Đây là sự thể
cách hóa toàn hảo một giá trị tinh thần trong thế gian hữu hình".
Người Phật tử cũng đảnh lễ cây
Bồ Đề, nhưng không phải để tỏ lòng tôn sùng thờ phượng cái cây,
mà xem đó là chỉ tượng trưng của sự giác ngộ. Dầu có nhiều nghi thức
lễ bái trong các buổi lễ, người tín đồ Phật Giáo không tôn sùng Đức
Phật như một thần linh.
Tượng Phật, cây Bồ Đề và các
hình thức lễ bái không phải tuyệt đối cần thiết, nhưng rất hữu
ích, vì giúp người hành lễ tập trung tư tưởng vào đối tượng trong sạch.
Người trí thức thuần thục có thể khỏi phải nhờ đến những phương
tiện ấy để gom tâm quán tưởng và hình dung Đức Phật.
Người Phật tử lễ bái Đức Phật
để bày tỏ lòng tri ân ngưỡng mộ của mình đối với Ngài, nhưng điều
Đức Phật mong muốn không phải là người tín đồ phải phục tùng vâng
lời, mà nghiêm chỉnh thực hành giáo huấn của Ngài.
Trước giờ Đại Niết Bàn của Đức
Phật, nhiều vị đệ tử đến đảnh lễ Ngài. Nhưng có một vị không đến,
ở luôn trong tư thất, chuyên chú hành thiền. Khi câu chuyện được bạch
lại Đức Phật, Ngài cho vời vị tỳ khưu đến và hỏi lý do về sự vắng
mặt này. Vị tỳ khưu bạch rằng:
"Bạch hóa Đức Thế Tôn, con
được biết rằng Đức Thế Tôn sẽ nhập diệt trong ba tháng nữa và con
nghĩ rằng hình thức tôn sùng Ngài tốt đẹp nhất là đắc Quả A La Hán
trước ngày ấy".
Đức Phật ngợi khen thái độ cao
quý của nhà sư chân thành và cần mẫn như sau:
"Lành thay! Lành thay! Ai thương
Như Lai hãy cố gắng noi gương vị tỳ khưu nầy. Người tôn kính Như Lai
nhất là người thực hành đúng Giáo Huấn của Như Lai nhất" [17].
Trong một dịp khác Đức Phật dạy:
"Người nào thấy Giáo Pháp
(Dhamma) là thấy Như Lai". [18]
Một đặc điểm khác nên được
ghi nhận trong nghi lễ tụng niệm Phật Giáo: câu kinh không phải là lời
thỉnh nguyện, cũng không phải là lời cầu xin chuyển đạt một nguyện vọng.
Dầu ta có bỏ hết thì giờ để cầu xin cũng không được gì. Đức Phật
không khi nào và không thể nào ban bố những ân huệ cho người cầu nguyện.
Để được cứu rỗi người Phật tử không nên cầu nguyện mà phải nhận
lãnh trách nhiệm, cố gắng trau giồi đức hạnh, kiên trì tu tập để tự
thanh lọc và thành tựu giải thoát. Không nên lệ thuộc người khác mà phải
nương nhờ nơi mình, tự mình cố gắng. Đức Phật dạy:
"Tumhechi kiccam atappam akkhatar
tathagata"
"Các con phải cố gắng, các đấng
Như Lai chỉ là những vị thầy" [19].
Chẳng những cầu nguyện, van xin,
là vô ích mà đó còn là thái độ nô lệ tinh thần. Thay vì đọc kinh cầu
nguyện [20], Đức Phật khuyên nên cố gắng hành thiền để ghép mình vào
kỷ luật, tự kiểm soát, tự thanh lọc tâm, và giác ngộ. Thiền tập là
liều thuốc bổ cho cả tâm lẫn trí.
Trong Phật Giáo không có Thần Linh
vạn năng, bắt buộc tín đồ phải sợ hãi cúi đầu vâng lệnh. Phật
Giáo phủ nhận sự hiện hữu của một oai lực siêu thế, quan niệm như
chúng sanh toàn năng hay có năng lực vô cùng tận. Không có tánh cách thần
khải, không có người truyền đạt tin tức và những lời sám của một
Thần Linh từ đâu trên cao ban xuống đến cho con người. Do đó người Phật
Tử không quỳ lụy phục tùng một oai lực siêu nhiên cầm quyền thưởng
phạt và kiểm sóat định mạng. Bởi vì không tin nơi thiên khải Thần
Linh. Phật Giáo không đòi hỏi độc quyền nắm chân lý và không bài xích
bất cứ tôn giáo nào khác. "Tánh thiên chấp là kẻ thù tệ hại nhất
của tôn giáo".
Với đức tánh rộng lượng khoan
dung của Ngài, Đức Phật hằng khuyên hàng môn đệ không nên giận dữ, bất
mãn, hay không vui lòng , nếu có ai nói xấu Ngài, Giáo Pháp của Ngài hay
Giáo Hội mà Ngài sáng lập. Đức Phật dạy:
"Nếu các con giận dữ, bất
mãn, hay không vui lòng, chẳng những các con tự đặt mình vào chỗ hiểm
nguy có thể mất cả nền tảng đạo đức tinh thần mà các con còn không
thể xét đoán đúng mức lời chỉ trích có giá trị hay không".
Quả thật là sáng suốt! Để trả
lời những điều chỉ trích bất công, vô căn cứ, Đức Phật dạy:
"Cũng như người kia ngửa mặt
phun nước miếng lên trời. Nước miếng không hẳn làm dơ trời, mà chỉ
rơi xuống người ấy".
Phật Giáo không ban hành những tín
điều buộc người tín đồ phải nhắm mắt tin theo, không có giáo điều
buộc phải chấp nhận trước khi suy nghĩ, không có nghi thức dị đoan vô
lý và lễ tiết bắt buộc phải thực hành, không có hiến tế và không
có ép xác khổ hạnh để gội rửa tâm.
Như vậy, một cách chính xác,
không thể gọi Phật Giáo là một tôn giáo bởi vì đây không phải là một
hệ thống tín ngưỡng và lễ bái. Phật Giáo cũng không phải là hành động
hay hình thức biểu hiện ra ngoài tỏ rằng con người chấp nhận sự hiện
hữu của một hay nhiều Thần Linh có năng lực chi phối định mạng mình
và mình có phận sự vâng lệnh, phục vụ và tôn sùng
Karl Marx nói: "Tôn giáo là linh
hồn của những điều kiện không có linh hồn, là trái tim của thế gian
không có tim, là nha phiến của dân chúng".
Phật Giáo không phải là một tôn
giáo như vậy, bởi vì những quốc gia Phật Giáo đã vươn mình trưởng thành
từ trong tổ ấm Phật Giáo, và những tiến bộ văn hóa hiện đại của các
quốc gia ấy phần lớn là do ảnh hưởng của giáo lý nhà Phật.
Dầu sao, nếu hiểu rằng tôn giáo
là giáo lý nhìn vào đời sống sâu hơn là lớp vỏ bên ngoài, giáo lý
nhìn ngay vào bên trong đời sống, thay vì chỉ nhìn trên mặt, giáo lý cung
hiến cho con người một thái độ sống phù hợp với "cái nhìn sâu xa
ấy, giáo lý giúp cho những ai cố gắng, có thể đối phó mạnh mẽ với
kiếp sinh tồn và trực diện cái chết một cách bình tĩnh và yên lành
[21]", hay một hệ thống giúp giải thoát ra khỏi những hình thức đau
khổ của đời sống, thì chắc chắn Phật Giáo là tôn giáo của các tôn
giáo.
Phật
Giáo và Luân Lý
Giáo lý của Đức Phật có phần
luân lý tuyệt hảo dành cho cả bậc xuất gia lẫn hàng cư sĩ. Tuy nhiên,
Phật giáo không phải chỉ là một hệ thống giáo huấn về luân lý thông
thường.
Giới (Sila), hay luân lý, chỉ là
giai đoạn sơ khởi, là phương tiện nhằm đưa đến mục tiêu, chớ không
phải chính nó là mục tiêu. Mặc dầu "giới" là tuyệt đối cần
thiết, nếp sống đạo hạnh riêng rẽ không thể dẫn đến giải thoát
hay hoàn toàn trong sạch. Vượt lên khỏi giới là Trí tuệ (panna).
Nền tảng của Phật Giáo là Giới.
Tuệ là đỉnh tối cao. Giới với Tuệ đối với hành giả như cặp cánh
đối với loài chim. Với người, trí tuệ như mắt, giới như chân. Một
trong những danh hiệu của Đức Phật là "Vijjacarana sampano" - Minh Hạnh
Túc - người đầy đủ trí tuệ và đạo hạnh.
Trong Tứ Diệu Đế, nền tảng của
Phật Giáo, ba đế đầu tiên là phần triết lý, đế cuối cùng là phần
luân lý căn cứ trên triết lý ấy.
Luân lý Phật Giáo không đặt nền
tảng trên những lời dạy thần khải khả nghi, do một thần linh truyền lại
dưới hình thức sám truyền, cũng không phải là sáng tác khéo léo của một
bộ óc kỹ xảo, mà là những quy tắc hợp lý và thực tiễn, căn cứ trên
những sự kiện có thể kiểm chứng và trong kinh nghiệm cá nhân. Theo giáo
sư Max Muller, quy tắc Phật Giáo là một trong những quy tắc toàn hảo nhất
trên thế gian.
Giáo sư Rhys Davids nói: "Dầu
là Phật Tử hay không Phật Tử, tôi nghiên cứu từng hệ thống tôn giáo
lớn trên thế gian, và trong tất cả, tôi không tìm thấy trong tôn giáo
nào có cái gì cao đẹp và toàn vẹn hơn Bát Chánh Đạo của Đức Phật.
Tôi chỉ còn có một việc làm là thu xếp nếp sống cho phù hợp với con
đường ấy".
Theo Phật Giáo, có những hành động
tốt và sấu, có những hành động không tốt cũng không xấu, và những
hành động có khuynh hướng chấm dứt mọi hành động. Hành động tốt rất
cần thiết để giải thoát, nhưng một khi thành tựu mục tiêu tối thượng
rồi thì hành giả đã vượt ra ngoài cái tốt và cái xấu.
Đức Phật dạy [22]:
"Những pháp chân chánh (dhamma),
hay thiện pháp, con cũng nên từ bỏ. Càng phải loại bỏ hơn nữa, những
pháp không chân chánh (adhamma), hay bất thiện pháp".
Hành động liên quan đến tham
(lobha), sân (dosa) và si (moha) là bất thiện pháp. Hành động liên quan đến
không tham (alobha), không sân (adosa) và trí tuệ (panna) là thiện pháp.
Hành động của một vị A La Hán,
người đã tận diệt mọi ô nhiễm, không còn liên quan đến luân lý, bởi
vì Ngài đã vượt ra ngoài cái tốt và cái xấu. Như vậy không có nghĩa là
Ngài thụ động. Một vị A La Hán vẫn tích cực họat động. Nhưng hành
động của Ngài hoàn toàn vị tha, hướng về sự trợ giúp kẻ khác đi trên
con đường mà chính Ngài đã trải qua. Hành động ấy không có khả năng
sáng tạo và khác với hành động của người thường, không gây phản ứng,
không tạo nghiệp. Phạn ngữ gọi hành động như vậy là Kiriya (cơ năng,
hay hành). Đã là vàng y thì không còn làm cho nó "y" hơn nữa.
Những trạng thái tâm (tâm sở) của
bốn loại tâm siêu thế: Sotapatti (Tu Đà Hườn), Sakadagami (Tư Đà Hàm),
Anagami (A Na Hàm) và Arahatta (A La Hán),mặc dầu là thiện (kusala) không có
khuynh hướng tạo nghiệp mới, trái lại, có chiều hướng chấm dứt dần
dần dòng nghiệp. Trong các loại tâm siêu thế, yếu tố trí tuệ (panna)
là quan trọng hơn tất cả, và trí tuệ có chiều hướng tiêu diệt nghiệp
căn. Trong các loại tâm tại thế, tác ý (cetana) - có chiều hướng tạo
nghiệp - là quan trọng.
Vậy, theo Phật Giáo, tiêu chuẩn của
luân lý là gì?
Câu giải đáp nằm trong lời Đức
Phật dạy Rahula (La Hầu La):
"Nếu có điều nào con muốn
làm, nầy hỡi Rahula (La Hầu La), hãy nghĩ như vầy: Điều này có hại cho
ta hay cho kẻ khác hay điều nầy có hại cho kẻ khác và cho ta. Vậy, đó
là một hành động xấu, sẽ đem lại sự đau khổ. Con phải hết sức cố
gắng tránh làm điều ấy".
"Nếu có điều nào con muốn
làm, nầy hỡi Rahula (La Hầu La), hãy nghĩ như vầy: Điều nầy không có hại
cho ta, không có hại cho ai khác, hay điều nầy không có hại cho ai khác và
cho ta. Vậy, đó là hành động tốt, sẽ đem lại hạnh phúc. Hành động
ấy, con phải làm, và lặp đi lặp lại nhiều lần [23]".
Trong vấn đề luân lý, người Phật
tử phải luôn luôn nghĩ đến mình và kẻ khác, luôn cả loài thú.
Trong Kinh Từ Bi (Kanariya Metta Sutta)
Đức Phật dạy:
"Cũng như người mẹ hiền hết
lòng bảo bọc đứa con duy nhất của mình, dầu có phải hiểm nguy đến tánh
mạng đi nữa, cùng thế ấy, ta hãy luyện tâm Từ vô lượng vô biên, bao
trùm tất cả chúng sanh".
Kinh Pháp Cú ghi:
"Tất cả đều sợ hình phạt.
Tất cả đều quý trọng đời sống. Hãy lấy bụng ta suy bụng người, không
nên sát hại, cũng không nên làm tổn thương. [24]"
Muốn hiểu rõ nền luân lý đặc
biệt cao thượng của người Phật tử thuần thành, ta nên đọc cẩn thận
các quyển kinh sau đây: Dhammapada, Sigalovada Sutta, Vyagghapajja Sutta, Mangala
Sutta, Metta Sutta, Parabhava Sutta, Vasala Sutta, Dhammika Sutta, v.v...
Về phương diện luân lý, đó là
những lời dạy vô cùng cao đẹp, nhưng cũng chỉ là bước đầu, chớ không
phải là mục tiêu của Phật Giáo.
Theo một lối hiểu, Phật Giáo
không phải là một triết lý. Theo một lối hiểu khác, Phật Giáo là triết
lý của các triết lý. Theo một lối hiểu, Phật Giáo không phải là một
tôn giáo. Theo một lối hiểu khác, Phật Giáo là tôn giáo của các tôn
giáo.
Phật
giáo là gì?
Phật Giáo không phải là một con
đường siêu hình, cũng không phải là một con đường nghi thức.
Phật Giáo không phải là một chủ
nghĩa hoài nghi, cũng không độc đoán.
Phật Giáo không chủ trương rằng
đời sống là trường tồn vĩnh cửu, vô thủy vô chung, (thường kiến),
cũng không chủ trương rằng sau kiếp sống nầy không còn gì nữa, chết
là hết (đoạn kiến).
Phật Giáo không dạy lối sống khổ
hạnh, cũng không giáo truyền lối sống lợi dưỡng.
Phật Giáo không bi quan, không lạc
quan, nhưng thực tiễn.
Phật Giáo không tuyệt đối tại
thế, cũng không hoàn toàn siêu thế.
Phật Giáo là con đường giác ngộ
duy nhất.
Danh từ Phạn Ngữ gọi Phật Pháp
là Dhamma. Đúng căn nguyên, Dhamma có nghĩa là nâng đỡ, hay giữ lại (nâng
đỡ người hành động đúng theo quy tắc, hay giữ lại, không để cho người
hành động đúng theo quy tắc phải rơi vào những trạng thái đau khổ).
Dhamma, Giáo Pháp, là cái gì thật sự
là vậy, là thực tướng, Dhamma là giáo lý của thực tế. Dhamma là phương
tiện để giải thoát ra khỏi mọi hình thức khổ đau. Dhamma chính là sự
giải thoát.
Dầu chư Phật có ra đời hay không,
Dhamma (Giáo Pháp) vẫn tồn tại vĩnh cửu. Dhamma (Giáo Pháp) luôn luôn bị
che lấp trước cặp mắt vô minh của con người, cho đến lúc có một vị
Phật ra đời, chứng ngộ và truyền bá lại cho thế gian.
"Dầu chư Phật có thị hiện
trên thế gian hay không, nầy các Tỳ Khưu, có một sự kiện, một nguyên tắc
nhất định, một định luật thiên nhiên, là tất cả các vật cấu tạo
đều Vô thường (Anicca), Khổ (Dukkha) và tất cả đều không có linh hồn
trường cửu (Vô ngã, Anatta). Như Lai đã chứng ngộ và thấu triệt điều
ấy. Như Lai quảng bá, truyền dạy, tuyên bố, xác định, phân tách và chỉ
dẫn rành mạch rằng tất cả các vật cấu tạo (hữu lậu) đều vô thường,
khổ và vô ngã [25]".
Trong bộ Majjhima Nikaya (Trung A Hàm),
Đức Phật dạy:
"Như Lai chỉ dạy một điều:
đau khổ và sự chấm dứt mọi đau khổ [26] ".
Đó là giáo lý của thực tế.
Kinh Udana dạy:
"Nầy hỡi Tỳ Khưu, cũng như
nước của đại dương hùng dũng chỉ có một vị là vị mặn của muối,
Giáo pháp chỉ có một vị là Giải Thoát (Vimutti) [27]".
Đó là phương tiện giải thoát.
Giáo pháp cao thượng không phải
là cái gì ở ngoài ta, mà hoàn toàn tùy thuộc nơi ta và chỉ do ta chứng
ngộ. Do đó Đức Phật dạy:
"Attadipa viharatha
attapatisarana".
"Hãy ẩn náu nơi chính ta như một
hải đảo, xem chính ta là chỗ nương tựa". [28]
Chú thích
[1] Xem Mahavamsa Translation, trang
14-50.
[2] Xem Mahavamsa Translation, trang
19-50.
[3] Một ấp nằm vào bên trong đảo
Tích Lan, độ 30 cây số cách Kandy. Ngôi chùa cất trong đá này đến nay vẫn
còn là nơi hành hương của chư Phật tử đến từ Tích Lan.
[4] Trong quyển Buddhaghosuppatti, tiểu
sử của nhà chú giải chứ danh Buddhaghosa, có ghi nếu chất lại thành đống,
Tam Tạng Kinh chép trên lá buôn sẽ to hơn sáu thớt voi.
[5] Xem Legacy of India, do G.T Garrat xuất
bản, trang 10 và 11.
[6] Chú giải về quyển kinh này,
bà Rhys Davids viết: "Hạnh phúc thay, các làng mạc và gia tộc nằm dài
theo sông Hằng (Ganges), nơi mà dân chúng đã hấp thụ sâu xa tánh chất ôn
hòa của tình huynh đệ và tinh thần công minh chánh trực cao quý, xuyên qua
những ngôn từ mộc mạc và giản dị." (Xem Dialogues of the Buddha, phần
III, trang 168).
[7] Tác giả của tập này là Đức
Moggaliputta Tissa dưới thời vua Asoka (Apadana Dục). Chính Ngài Tissa chủ tọa
cuộc Kết Tập Tam Tạng lần thứ ba.
[8] Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm, tập
5, trang 437-438. Kindred Sayings, Trang 370.
[9] Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, số
22.
[10] William Durrant, The History of
Philosophy, trang 2.
[11] Webb, History of Philosophy, trang 2.
[12] Một triết học hiểu như một
hệ thống tri thức luận đem lại lời giải đáp đầy đủ cho câu hỏi:
đời sống là gì? Phật Giáo không phải vậy. (Dr. Dahlke, Buddhism, trang 25).
[13] Dr. Dahlke, Buddhism, trang 1.
[14] Người Phật tử thường (còn
phàm nhân) vẫn bước theo chân Đức Phật, nhưng chưa thật sự chứng ngộ
Giáo Pháp.
[15] Phần giải thích nằm trong dấu
ngoặc trên đây được trình bầy hợp theo bản chú giải và chú giải
các bản chú giải. Nguyên văn tiếng Pali là: "Etha tumhe Kalama. Ma
anussavena, ma paramparaya, ma itikiraya, ma pitasampadanena, ma takkahetu, ma nayahetu,
ma akara-parivitakkena, ma ditthinijjhanakkhantiya, ma bhabbarupataya, ma samano no garu
ti."
[16] Angutara Nikaya , Tăng Nhứt A Hàm
, tập 1, trang 189. Kindred Sayings, phần 1, trang 171-172.
[17] Xem Buddhist Legends, trang 249-250.
[18] Samyutta, Tạp A Hàm, tập 3,
trang 129.
[19] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 276.
[20] "Cầu nguyện là một hành
động mà tôi chân thành thú nhận là tôi không có xu hướng theo."
Canon B.H. Streeter, trong quyển Modern Churchman, tháng 9 năm 1924, trang 347.
"Tôi không hiểu vì sao người
ta vẫn tiếp tục cầu nguyện, ít ra người ta cũng phải biết chắc rằng
có một lỗ tai đang nghe". Rev. C. Beard, trong quyển Reformation, trang 419.
Sri Radhakrishnan ("Gautama The
Buddha") viết: "Những lời vái van cầu nguyện có tánh cách là một
sự thông cảm riêng tư, một sự mặc cả với thần linh. Đối tượng mà
nó tìm là những tham vọng trần tục đang thiêu đốt ý thúc về bản
ngã. Đàng khác, hành thiền là tự mình sửa đổi lấy mình."
[21] Silacava. Xem Ceylon Daily News, số
đặc biệt Vesak, tháng 4-1939.
[22] Majjhima Nikaya, Trung A hàm, bài
kinh số 22.
[23] Majjhima Nikaya, Trung A Hàm,
Rahulovada sutta, số 61.
[24] Dhammapada, Pháp Cú Kinh, câu 129.
[25] Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm,
phần 1, trang 286.
[26] Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, tập
I, trang 140, số 22.
[27] Trang 67.
[28] Maha Parinibbana Sutta, Kinh Đại
Niết Bàn, Trường A-hàm, Kinh 16.