Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [33]
- Niết Bàn
"Niết
Bàn là hạnh phúc tối thượng" -- Kinh Pháp Cú
Dẫu người ta có thể viết đầy đủ và rõ ràng như thế
nào, dầu người ta có dùng danh từ bóng bẩy đến đâu để cố gắng mô
tả trạng thái vắng lặng của Niết Bàn, văn tự không thể giúp nhận thức
thế nào là Niết Bàn. Niết Bàn không phải là cái gì có thể miêu tả bằng
giấy trắng mực đen hay nhận thức bằng lý trí. Niết Bàn là pháp siêu
thế (lokuttara dhamma), chỉ có thể chứng ngộ bằng tuệ giác.
Không thể có sự hiểu biết Niết Bàn bằng lý trí thuần
túy, vì Niết Bàn không phải là một vấn đề có thể dùng luận lý để
thấu đạt (atakkavacara). Lời dạy của Đức Phật hoàn toàn hợp lý. Trí
thức có thể lĩnh hội đầy đủ các Phật ngôn. Nhưng Niết Bàn, mục
tiêu cứu cánh của Phật Giáo, vượt ra khỏi phạm vi luận lý. Tuy nhiên,
suy tưởng về các sắc thái tích cực của đời sống,ta sẽ đi tới kết
luận hợp lý rằng, đối chiếu với hiện tượng tùy thế, hữu vi, sanh
khởi tùy duyên, hiện hữu do điều kiện, phải có trạng thái bất tùy thế
mà sự hiện hữu không tùy thuộc điều kiện, vô sanh, bất tử và không
phiền não.
Chú giải Túc sanh truyện (Jataka) có ghi rằng trong kiếp
làm nhà tu sĩ khổ hạnh, Bồ Tát Sumedha có suy niệm như sau:
- "Cũng như, mặc dầu có cảnh khốn khổ đau thương,
- Vẫn có trạng thái an vui hạnh phúc.
- Cùng thế ấy, đã có hiện sinh,
- Tức nhiên phải có bất-hiện-sinh.
- Cũng như mặc dầu có Sức Nóng khó chịu,
- Vẫn có Sức Lạnh dịu dàng mát mẻ.
- Cùng thế ấy đã có sự hiện hữu của ba thứ lửa,
- Tức nhiên phải có Niết Bàn.
- Cũng như, mặc dầu có tội lỗi xấu xa,
- Vẫn có cái tốt cái đẹp.
- Cùng thế ấy, dầu quả thật có sự sanh
- Tức nhiên phải có sự
không-sanh" [1]
Định nghĩa
Danh từ Nam phạn "Nibbana" - Niết Bàn (Bắc phạn:
Nirvana) gồm hai phần: "ni" và "vana". "Ni" là hình
thức phủ định, không; "vana" là dệt, hay ái dục. Ái dục này
xem như sợi dây nối kiếp sống nầy với kiếp sống khác.
"Gọi là Niết Bàn vì Niết Bàn là sự dứt bỏ, sự
tách rời - 'Ni' - ra khỏi ái dục - 'Vana', sự thèm khát nhục dục".
Ngày nào còn bị ái dục hay luyến ái trói buộc thì còn tạo
thêm nghiệp mới, và các nghiệp mới này phải trổ quả dưới một hình
thúc nào,trong vòng sanh-tử, tử-sanh vô cùng tận. Đến khi mọi hình thức
ái dục chấm dứt, năng lực của nghiệp tái tạo cũng dứt, tức nhiên
không còn tạo nghiệp nữa, và ta thành đạt Niết Bàn, thoát ra khỏi vòng
sanh tử triền miên.
Quan niệm giải thoát trong Phật Giáo chính là trạng thái vượt
qua khỏi vòng sanh tử triền miên vô tận, chứ không phải chỉ là sự trốn
thoát ra khỏi tội lỗi, và địa ngục.
Cũng có nơi giải thích Niết Bàn là sự dập tắt lửa
tham (lobha), sân (dosa), và si (moha).
Đức Phật dạy:
"Toàn thể thế gian nằm trong những ngọn lửa. Lửa
gì đã nhúm lên những ngọn lửa ấy? Chính lửa tham, lửa sân, lửa si;
chính lửa sanh, lửa già, lửa chết, lửa phiền não, lửa ta thán, lửa
đau đớn, lửa khổ sở, lửa thất vọng, đã nhúm lên những ngọn lửa
ấy."
Nhận định theo một lối, Niết Bàn là sự dập tắt các
ngọn lửa ấy. Nhưng không phải vì thế mà có thể nói rằng Niết Bàn chỉ
là sự dập tắt các ngọn lửa. Nên phân biệt phương tiện và mục tiêu.
Ở đây, dập tắt các ngọn lửa tham, sân và si, chỉ là phương tiện để
đi đến Niết Bàn.
Niết
Bàn có phải là hư vô không?
Nếu chỉ vì ngũ quan không thể cảm nhận được mà ta quả
quyết rằng Niết Bàn là hư vô, là không không, không có gì hết, thì cũng
phi lý như người mù kết luận rằng trong đời không có ánh sáng, chỉ
vì không bao giờ anh ta thấy ánh sáng. Trong ngụ ngôn "Rùa và Cá"
được nhiều người biết, cá chỉ biết có nước nên khi nói với rùa,
cá dõng dạc kết luận rằng không có đất, bởi vì có những câu hỏi của
cá đều được rùa trả lời là "không".
Thuở xưa có một con cá. Cá chỉ biết trong nước và
không biết gì ngoại trừ nước. Một hôm, cá mải mê bơi lội trong ao đầm
quen thuộc như mọi hôm thì gặp lại chị Rùa. Hỏi ra thì hèn lâu rùa đi
dạo trên đất liền. Cá hỏi: "Chào chị rùa, chị đi đâu mà hèn
lâu tôi không gặp?"
- Này chị cá, chào chị. Hôm rày tôi đi một vòng lên
trên đất khô. Rùa trả lời.
- Đất khô à! Cá lấy làm ngạc nhiên. Chị nói đất khô,
vậy đất khô là gì? Đất làm sao khô được? Tôi chưa bao giờ thấy cái
gì mà khô. Đất khô chắc là không có gì hết.
Bẩm tánh ôn hòa, Rùa nhỏ nhẹ đáp:
- Được, tốt lắm, nếu chị muốn nghĩ như vậy cũng tốt.
Không ai ngăn cản chị đâu. Tuy nhiên, chỗ mà tôi đi mấy hôm rày đất
khô thật.
- Nầy chị rùa, đâu chị nói rõ lại coi. Đất khô mà chị
nói ra làm sao, giống như cái gì? Nó có ẩm ướt không?
- Không, đất khô không ẩm ướt.
- Đất khô có mát mẻ và êm dịu, dễ chịu không?
- Không, đất khô không mát mẻ và êm dịu dễ chịu.
- Đất khô trong suốt và ánh sáng rọi xuyên qua được không?
- Không, đất khô không trong suốt và ánh sáng không rọi
xuyên qua được.
- Đất khô có mềm mại và dịu dàng để mình bơi lội
trong ấy không?
- Không, đất khô không mềm mại dịu dàng, và mình không
thể bơi lội trong lòng đất.
- Đất có di chuyển và trôi chảy thành dòng không?
- Không, đất không di chuyển và trôi chảy thành dòng.
- Đất có nổi sóng và tan ra thành bọt kông? Cá rất bực
mình với loạt câu trả lời "không, không, ..." của rùa.
- Không, đất không nổi sóng. Rùa thành thật trả lời.
Cá bỗng nhiên lộ vẻ hân hoan của người đắc thắng và
vang lên:
- Thấy chưa, thật quả như tôi đã nói chớ gì nữa! Tôi
đã bảo rằng đất khô của chị là hư vô, không có gì hết. Tôi hỏi
và chị đã xác nhận rằng đất khô và không ẩm ướt, không mát mẻ,
không êm dịu và không trong suốt, và ánh sáng không rọi xuyên qua được,
không mềm mại và dễ chịu để mình có hể bơi lội trong ấy, đất
cũng không di chuyển và trôi thành dòng, cũng không nổi sóng và cũng không
tan rã thành bọt. Không phải gì hết thì có phải là hư vô không?
Rùa đáp:
- Được, tốt lắm. Nầy chị cá, nếu chị quả quyết rằng
đất là hư vô, không có gì hết, thì chị cứ tiếp tục nghĩ như thế.
Thật ra, người nào đã biết nước và đất liền rồi sẽ nói rằng chị
chỉ là con cá dại dột, vì chị quả quyết rằng cái gì mà chị không biết
là không có gì hết, hư vô. Nói là hư vô bởi vì chị không bao giờ biết.
Đến đây, rùa bỏ cá ở lại một mình với ao đầm nhỏ
bé, quay đầu lội đi và suy tưởng đến một cuộc viễn du khác trên đất
khô, nơi mà cá tưởng tượng là hư vô...
Câu chuyện lý thú nầy ngụ ý tuy rằng đã có sống trong
nước và trên khô, rùa không giải thích cho cá bản chất thật sự của
đất vì cá chỉ biết nước mà cá cũng không thể nhận thức được thế
nào là đất liền, vì chỉ biết có nước thôi. Cũng thế ấy, tuy chư vị
A La Hán đã từng biết thế nào là thời gian và trạng thái siêu thế là
sao, nhưng các ngài không thể dùng ngôn ngữ của thế gian để mô tả trạng
thái siêu thế mà người tại thế cũng không thể nhận thức trạng thái
siêu thế là sao, bằng sự hiểu biết của thế gian.
Niết Bàn là hư vô, tức nhiên Niết Bàn phải trùng hợp với
không gian (akasa). Cả hai, Niết Bàn và không gian, đều vĩnh cửu và không
biến đổi. Không gian là vĩnh cửu vì nó là hư vô. Thật ra, Niết Bàn ở
ngoài không gian và thời gian. Về sự khác biệt không gian và Niết Bàn ta
có thể tóm tắt rằng, không gian là Không, nhưng Niết Bàn là Có.
Khi đề cập đến những cảnh giới khác nhau mà chúng sanh
có thể sanh vào, Đức Phật có nhắc đến cảnh "Vô Sở Hữu Xứ"
(akincannayatana), cảnh giới có quan niệm về hư không.
Niết Bàn là một Đạo Quả. Có thể chứng ngộ Niết Bàn
như một đối tượng tinh thần (vatthudhamma). Sự kiện nầy rõ ràng chứng
tỏ rằng Niết Bàn không phải là một trạng thái hư vô. Nếu Niết Bàn
là hư vô, Đức Phật đã không mô tả bằng những danh từ như "Vô Tận"(Ananta),
"Bất Tùy Thể" (Asamkhata), "Vô Song" (Anupameya), "Tối Thượng"
(Anuttara), "Tối Cao" (Para), "Vượt Ra Ngoài" (Pàra), "Chỗ
Nương Tựa Tối Thượng" (Paràyana), "Châu Toàn" (Tana), "An
Toàn" (Khema), "Hạnh Phúc" (Siva), "Duy Nhất" (Kevala),
"Bất Khả Diệt" (Akkhara), "Tuyệt Đối Trong Sạch"
(Visuddha), "Siêu Thế" (Lokuttara), "Vĩnh Cửu" (Amata), "Giải
Thoát" (Mutti),"Vắng Lặng" (Santi) v.v...
Trong kinh Udana và Itivuttka, Đức Phật đề cập đến Niết
Bàn như sau:
- "Nầy chư tỳ khưu, có một trạng thái không sanh
(ajata), không khởi phát (abhuta), không được cấu tạo (akata) và không tùy
thế (asamkara). Nếu không có trạng thái không sanh, không khởi phát, không
cấu tạo, và không tùy thế, ắt không thể có lối thoát cho cái có sanh,
có khởi phát, có cấu tạo, và tùy thế (hữu vi).
Do sự kiện có trạng thái không sanh, không khởi phát,
không cấu tạo, và không tùy thế, nên mới có lối thoát cho cái có sanh,
có khởi phát, có cấu tạo, và tùy thế". [2]
Kinh Itivuttaka ghi:
"Cái có sanh, trở thành, khởi phát, được cấu tạo,
và như thế là không bền vững, trái lại phải chịu sanh
và tử.
Một sự cấu thành, một ổ bệnh hoạn, mỏng manh.
Một sự sống nhờ vật thực, một sự trở thành,
Không đáng để cho ta thích thú trong đó chút nào.
Thoát ra ngoài trạng thái ấy, dẫn đến thực tế,
ngoài phạm vi luận lý, bền vững.
Không sanh, không khởi phát, không phiền não.
Con đường không ô nhiễm.
Con đường chấm dứt mọi thống khổ, thoát khỏi lo âu.
Để đến vắng lặng và hạnh phúc." [3]
Vậy, Niết Bàn không phải là hư vô. Cũng không phải chỉ
là một sự chấm dứt. Niết Bàn không phải là thế nào thì ta có thể
nói một cách quả quyết. Nhưng nếu mô tả chính xác Niết Bàn là thế
nào thì ngôn ngữ của thế gian không thể thích hợp, vì Niết Bàn là tuyệt
đối, duy nhất, phải tự mình chứng ngộ (paccatam veditabbo).
Hữu
Dư Niết Bàn và Vô Dư Niết Bàn
Khi đề cập đến Niết Bàn, kinh sách thường nhắc đến
Vô Dư và Hữu Dư Niết Bàn (Anupadisesa và Sopadisesa Nibbana Dhatu). [4]
Trên thực tế, không phải có hai loại Niết Bàn mà có hai
hình thức Đạo Quả Niết Bàn. Hai danh từ khác nhau để chỉ hai hình thức
chứng nghiệm: một trước khi chết và một sau.
Đạo Quả Niết Bàn có thể thành tựu trong kiếp sống hiện
tại. Không có điểm nào trong toàn thể Giáo Lý của Đức Phật dạy rằng
mục tiêu cứu cánh chỉ có thể thành đạt sau khi chết. Đây là sự khác
biệt giữa quan niệm về Niết Bàn của người Phật tử và quan niệm của
người không phải Phật tử, về một cảnh trời vĩnh cửu, chỉ có thể
đạt được sau kiếp sống.
Khi Đạo Quả Niết Bàn được thành tựu trong kiếp sống
hiện tiền nghĩa là trong lúc còn mang thân ngũ uẩn, thì gọi là "Hữu
Dư Niết Bàn" (Sopadisesa Nibbana Dhatu).
Lúc bỏ xác thân , vị A La Hán đạt Đại Niết Bàn, không
còn vật chất, chừng ấy gọi là "Vô Dư Niết Bàn" (Anupadisesa
Nibbana Dhatu).
Một vị phật hay một vị A La Hán, lúc còn tại tiền thọ
hưởng Hửu Dư Niết Bàn, và không còn tạo nghiệp mới nữa. Nhưng những
nhân lành hay dữ đã tạo trong dĩ vãng vẫn còn trổ quả tới lúc danh và
sắc tan rã.
Trong kinh Itivuttaka, Đức Phật dạy:
"Có hai hình thức chứng nghiệm Niết Bàn là chứng
nghiệm Niết Bàn trong lúc còn mang thân và chứng nghiệm Niết Bàn lúc
không còn thân.
"Nầy chư Tỳ khưu, chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc
còn mang thân là gì? Là nơi đây, nầy chư Tỳ khưu, một thầy Tỳ khưu đắc
Quả A La Hán, đã tận diệt mọi ô nhiễm, đã sống đời sống thiêng
liêng cao thượng, đã làm những việc cần phải làm, đã bỏ gánh nặng
xuống, đã thành đạt mục tiêu, đã tận diệt mọi trói buộc của đời
sống, một thầy Tỳ khưu hiểu biết chân chánh và đã được giải thoát.
Ngũ quan của thầy vẫn còn, và vì chưa xa lìa hẳn ngũ quan, thầy còn thọ
hưởng những quả lành và gặt hái những quả dữ. Sự chấm dứt tham,
sân, si, của thầy tỳ khưu ấy gọi là chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc
còn mang thân ngũ uẩn".
"Nầy chư Tỳ khưu, chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc
không còn thân ngũ uẩn là gì?
"Nơi đây, nầy chư Tỳ khưu, một thầy tỳ khưu đắc
Quả A La Hán, đã tận diệt mọi ô nhiễm, đã sống đời sống thiêng
liêng cao thượng, đã làm những việc cần phải làm, đã bỏ gánh nặng
xuống, đã thành đạt mục tiêu, đã tận diệt mọi trói buộc của đời
sống, một thầy Tỳ khưu hiểu biết chân chánh và đã được giải thoát.
Trong chính kiếp sống ấy, thầy không còn thích thú với những cảm giác
của thân nữa, thầy mát mẻ. Đó là chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc
không còn thân ngũ uẩn." [5]
Chú thích
[1] Warren, Buddhism in Translations, trang 6.
[2] Theo bản Chú giải, bốn danh từ đó đồng nghĩa. Ajata
có nghĩa là phát sanh mà không tùy thuộc nguyên nhân hay điều kiện
(hetupaccaya). Abhuta (sát nghĩa là "không trở thành") có nghĩa là
không phát sanh. Bởi không phát sanh từ một nguyên nhân, và không trở
thành, tức nhiên không cấu tạo (akata). Trở thành và phát sanh là đặc tánh
của những vật tùy thế -- hiện hữu do nguyên nhân hay điều kiện, tùy
duyên -- như tâm và vật chất, danh và sắc. Niết Bàn trái lại, không tùy
thuộc nguyên nhân hay điều kiện để có, là bất tùy thế (asamkhata).
Xem Woodward, Verses of Uplift, trang 98 - "As it was said",
trang 142.
[3] Woodward, "As it was said", trang 142
[4] Sa = với; upadi = ngũ uẩn, tức danh sắc; sesa = còn lại.
Ngũ uẩn được gọi là "upadi" bởi vì bị ái dục và vô minh bám
chặt.
[5] Bởi vì vị ấy không còn tái sanh.