Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [25]
- Thập Nhị Nhân Duyên
"Không thể tìm ra một Tạo Hóa, một Brahma, hay một vị
nào khác, làm chủ vòng luân chuyển của đời sống (Thập Nhị Nhân
Duyên). Chỉ có những hiện tượng diễn tiến tùy duyên!" -- Thanh Tịnh
Đạo
Tiến trình của hiện tượng tái sanh được Đức Phật giải
thích đầy đủ trong Thập Nhị Nhân Duyên (Paticca Samuppada).
Paticca là "bởi vì" hay,"bởi", hay "tùy
thuộc nơi". Samuppada là "phát sanh", hay "khởi đầu".
Chiếu y theo ngữ nguyên, danh từ ấy là "phát sanh bởi vì", hay
"phát sanh tùy thuộc", Paticca Samuppada áp dụng cho trọn công thức
nhân quả gồm tất cả 12 nhân và quả liên quan với nhau, Phạn ngữ gọi
là Paccaya và Paccayuppanna, nhân tạo duyên cho quả trổ sanh. Nên hiểu phương
pháp tương quan của Paticca Samuppada (Thập Nhị Nhân Duyên) như sau:
- Bởi vì có A nên B phát sanh, bởi vì có B nên C phát sanh.
Khi nào không có A tất nhiên không có B. Khi nào không có B thì C cũng không
có. Nói cách khác, cái nầy như vầy thì có cái kia; cái nầy không phải
như vầy thì cái kia không có (imasmim sati, idam hoti; imasmim asati, idam natthi
hoti).
Thập Nhị Nhân Duyên [1] là một bài pháp giảng về tiến
trình của hiện tượng sanh-tử chớ không phải là một lý thuyết triết
học về sự tiến hóa của vũ trụ. Giáo lý nầy chỉ đề cập đến vấn
đề nguồn gốc của vòng sanh tử luân hồi, nguyên nhân của sự đau khổ,
và chỉ nhằm mục đích giúp chúng sanh thoát ra khỏi mọi đau khổ của đời
sống, chớ không tìm giải thích những bí ẩn liên quan đến nguồn gốc cùng
tột của vũ trụ.
Pháp Thập Nhị Nhân Duyên chỉ giải thích "sự phát
sanh của một trạng thái tùy thuộc nơi trạng thái trước kế đó".
[2]
Vô Minh (avijja) - tức không nhận thức chân lý về đau khổ,
nguồn gốc của đau khổ, sự chấm dứt đau khổ, và con đường dẫn đến
sự chấm dứt đau khổ - là nguyên nhân chánh làm động lực thúc đẩy,
chuyển động bánh xe đời sống. Nói cách khác, Vô Minh là không nhận thức
thực tướng của vạn pháp, hay không thấu đáo hiểu biết chân tướng của
chính mình. Chính màng Vô Minh như lớp mây mù bao phủ, che lấp mọi sự hiểu
biết chân chánh (Chánh Kiến).
Đức Phật dạy rằng:
"Vô Minh là lớp ảo kiến mịt mù dày đặc trong ấy
chúng sanh quây quần quanh lộn." [3] (Sutta Nikaya, câu 730).
Đến khi lớp Vô Minh bị phá tan để trở thành tri kiến,
như trường hợp của chư Phật và chư vị A La Hán thì mọi vấn đề nhân
và quả cũng chấm dứt.
Trong kinh Itivuttaka [4], Đức Phật dạy:
"Người đã tiêu trừ ảo kiến và phá tan lớp tối tăm
dầy đặc sẽ không còn thênh thang đi mãi nữa. Đối với người ấy không
còn vấn đề nhân và quả."(Sutta Nikaya, trang 14)
Tùy thuộc nơi Vô Minh, Hành (samkhara) phát sanh. Phạn ngữ
"samkhara" có rất nhiều ý nghĩa. Vì thế ta nên tùy trường hợp mà
định nghĩa danh từ nầy. Ở đây samkhara là những tác ý (cetana) thiện
(kusala), bất thiện (akusala), và không lay chuyển (anenja), tạo nghiệp
(kamma) đưa đi Tái Sanh. Tác ý bất thiện nằm trong 12 loại tâm vương bất
thiện. Tác ý thiện nằm trong 8 loại tâm đẹp (sobhana) và 5 loại tâm thiện
trong thiền Sắc Giới (rupajhana). Tác ý không lay chuyển nằm trong bốn loại
tâm thiện trong thiền Vô Sắc Giới (arupajhana).
Trong Ngũ uẩn, samkhara là danh từ gọi chung 50 trong 52 tâm sở.
Hai tâm sở còn lại là Thọ và Tưởng.
Những tác ý (cetana) của bốn loại thánh đạo tâm
(lokuttara maggacitta), hay tâm siêu thế, được coi như không phải là samkhara
(hành), bởi vì những lọai tâm nầy hướng về sự tận diệt Vô Minh.
Trí tuệ (panna) là thành phần chánh yếu trong các loại
thánh đạo tâm.
Trái lại, trong các loại tâm tại thế, yếu tố quan trọng
là tác ý(cetana).
Tất cả những tư tưởng, lời nói và việc làm, thiện
và bất thiện, đều được bao gồm trong Hành (samkhara). Những hành động
tốt hay xấu - trực tiếp phát sanh từ Vô Minh hay bị Vô Minh gián tiếp
làm động cơ thúc đẩy - đều nhất định phải tạo nghiệp, nghĩa là
có tác động kéo dài thêm cuộc hành trình xa xôi của vòng luân hồi.
Ngược lại, những hành động (bằng thân, khẩu hay ý)
hoàn toàn trong sạch, tuyệt đối không xuất phát từ tham, sân, si, nhất
định phải thoát ra khỏi vòng phiền não của đời sống. Do đó Đức Phật
so sánh Giáo Pháp của Ngài như một chiếc bè mà chúng sanh có thể nương
theo để cố gắng vượt qua đại dương của cuộc sống. Những hành động
của chư Phật và chư vị A La Hán không thể gọi là Hành (samkhara) vì các
Ngài đã hoàn toàn tận diệt Vô Minh.
Vô Minh chiếm một phần quan trọng trong những hành động
bất thiện và vẫn có tiềm tàng ngủ ngầm trong những hành động thiện.
Như vậy cả hai hành động, thiện và bất thiện, đều được coi là bắt
nguồn từ Vô Minh.
Tùy thuộc nơi Hành, tức hành động thiện và bất thiện
trong kiếp vừa qua, "Thức-Tái-Sanh" (patisandhi vinnana), hay Thức-Nối-Liền,
phát sanh trong kiếp kế. Gọi là Thức-Tái-Sanh hay Thức-Nối-Liền vì thức
ấy nối liền kiếp quá khứ với kiếp hiện tại. Chính đây là thức đầu
tiên trong một kiếp sống của chúng sanh. Trong trường hợp là người thì
đó là thức đầu tiên của một chúng sanh khi bà mẹ thọ thai. Hiểu một
cách chính xác, Thức, trong Thập Nhị Nhân Duyên là 19 loại Thức-Tái-Sanh
được mô tả trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Tất cả ba mươi hai loại tâm
quả (vipakacitta) kinh nghiệm trong kiếp sống vừa qua cũng được hàm xúc
trong danh từ ấy.
Bào thai trong bụng mẹ được cấu tạo do sự phối hợp của
thức-tái-sanh với tinh trùng và minh châu của cha mẹ. Trong thức ấy có ngủ
ngầm tất cả những cảm giác đã thọ, những đặc tính và những khuynh
hướng riêng biệt trong dòng đời đã qua của một cá nhân.
Thức-tái-sanh được coi là tinh khiết [5] vì không bắt nguồn
từ tham, sân, si [6], cũng không xuất phát từ không-tham, không-sân,
không-si [7].
Danh-Sắc (nama-rupa) phát sanh cùng một lúc với thức-tái-sanh.
Hành và Thức (samkhara và vinnana) thuộc về hai kiếp, quá
khứ và hiện tại, của một chúng sanh. Thức và Danh-Sắc trái lại, cùng
phát sanh trong một kiếp sống.
Danh từ kép Danh-Sắc (nama-rupa) gồm hai hợp tổ:
"Danh" (nama), phần vô hình, và "Sắc" (rupa), phần hữu
hình, của một chúng sanh. Ta nên phân biệt Danh-Sắc trong trường hợp
"Danh" riêng biệt và "Sắc" riêng biệt, và trường hợp
"Danh-Sắc" hợp chung. Trong cảnh Vô Sắc Giới (arupa), chỉ có Danh
mà không có Sắc. Trong cảnh giới Vô Tưởng Thiên (asanna), chỉ có Sắc
mà không có Danh. Trong Dục Giới (kamma) và Sắc Giới (rupa), cả Danh và Sắc
đồng phát sanh một lượt, cùng một lúc.
Danh ở đây là ba Uẩn: Thọ, Tưởng và Hành, cả ba cùng
phát sanh một lượt với "thức-tái-sanh".
Sắc là ba lần "mười-thành-phần":
1. "mười-thành-phần" của thân,
2. "mười-thành-phần" của giống (nam nữ), và
3. "mười-thành-phần" của ý căn, cũng cùng khởi
sanh một lượt với thức-tái-sanh, do nghiệp quá khứ tạo nên.
Mười thành phần của thân gồm có bốn nguyên tố gọi
là Tứ Đại:
1. Nguyên tố có đặc tánh duỗi ra (pathavi), đất;
2. Nguyên tố có đặc tánh làm dính liền, hay kết hợp lại
(apo), nước;
3. Nguyên tố có đặc tánh làm nóng (tejo), lửa;
4. Nguyên tố có đặc tánh là chuyển động (vajo), gió;
Và sáu chuyển hóa (upada rupa) của bốn nguyên tố ấy là;
5. Màu sắc (vanna)
6. Mùi(gandha)
7. Vị (rasa)
8. Bản chất dinh dưỡng (oja)
9. Sinh khí (jivitindriya) và
10. Thân (kaya)
Mười-thành-phần của giống và mười-thành-phần của ý
căn gồm 9 thành phần đầu (tức từ nguyên tố một đến nguyên tố 9),
và thứ 10 là giống (nam hay nữ), hoặc ý căn (vatthu), tức căn cứ, hay
nơi mà từ đó tâm phát sanh.
Như vậy ta thấy hiển nhiên rằng ngay từ lúc bà mẹ thọ
thai, chúng sanh đã có nam tanh hay nữ tánh rồi. Và chính nghiệp quá khứ
là nguyên nhân.
Phạn ngữ "kaya" ở đây có nghĩa là phần nhạy,
khả năng "xúc" của thân (pasada).
Về giống (nam tánh hay nữ tánh), ngay lúc bà mẹ thọ thai,
tuy chưa nở nang đầy đủ để hiển lộ ra hình thức, những khả năng trở
thành nam hay nữ vẫn còn tiềm tàng. Cũng như ý căn, căn nguyên xuất phát
ra ý, hay nơi trú ngụ, trụ sở của ý mà ta giả định là tim hay não, chưa
hình thành lúc thọ thai. Tuy nhiên khả năng trở thành của ý căn vẫn còn
tiềm tàng.
Về điểm nầy nên ghi nhận rằng Đức Phật không có chỉ
rỏ nhất định phần nào trong thân là ý căn. Vào thời Ngài còn tại tiền,
phần đông chủ trương, như kinh Upanishads, rằng tim là căn nguyên xuất
phát ra ý. Trong kinh Patthana, Nhân Quả Tương Quan, khi đề cập đến căn
ý, Đức Phật dùng những danh từ gián tiếp như "yam rupam nissaya - tùy
thuộc nơi phần vật chất ấy", mà không chỉ rõ phần vật chất ấy
có phải là tim hay não. Tuy nhiên những nhà chú giải, như Đức Buddhaghosa
và Anurudha, quả quyết rằng ý căn là tim. Nên biết rằng Đức Phật không
chấp nhận cũng không bác bỏ chủ trương phổ thông thời bấy giờ cho rằng
ý căn là tim.
Trong thời ký thai ghén, Lục Căn (salayatana) của thai bào dần
dần phát triển từ những hiện tượng tâm-vật-lý gồm tiềm lực vi tế
vô tận trở thành guồng máy lục căn vô cùng phức tạp. Rất giản dị
lúc ban sơ, guồng máy con người dần dần trở thành vô cùng phức tạp.
Những máy móc thường thì trái lại, phức tạp lúc mới phát minh rồi dần
dần trở nên giản dị, đến đổi lắm khi chỉ dùng sức của một ngón
tay cũng đủ làm chuyểu động một bộ máy vĩ đại. Guồng máy lục căn
của con người vận chuyển tự nhiên một cách tự động, gần như máy
móc, không cần phải có một tác nhân nào tương tợ như một linh hồn để
điều khiển. Mỗi căn (nhãn, nhĩ, tỷ, nhiệt, thân, ý) đều có những đối
tượng và những sinh hoạt riêng biệt. Mỗi đối tượng của lục căn, tức
lục trần-sắc, thinh, hương vị, xúc, pháp - tiếp xúc với mỗi căn liên
hệ, làm phát sanh một loại "thức" . Như sắc tiếp xúc với nhãn
làm phát sanh nhãn thức, thinh xúc với nhĩ làm phát sanh nhĩ thức v.v... Điểm
giao hợp liên quan của ba yếu tố "căn" (giác quan), "trần"
(đối tượng của giác quan), và "thức" là Xúc (phassa). Xúc hoàn
toàn khách quan.
Đức Phật dạy:
"Vì có mắt (nhãn) và hình thể ( sắc) nên nhãn thức
phát sanh, xúc là điểm giao hợp của ba yếu tố ấy. Vì có tai (nhĩ) và
âm thanh (thinh) nên nhĩ thức phát sanh. Vì có mũi (tỷ) và mùi (hương ) nên
tỷ thức phát sanh. Vì có lưỡi (thiệt) và vị (vị) nên thiệt thức
phát sanh. Vì có thân (thân) và vật có thể sờ đụng (xúc) nên thân thức
phát sanh. Vì có tâm (ý) và đối tượng của tâm (pháp) nên ý thức phát
sanh. Điểm giao hợp của ba yếu tố ấy là Xúc (phassa). [8]
Vậy nên hiểu rằng sự đụng chạm suông không phải là
xúc (phassa), vì muốn có xúc (phassa) phải có đủ ba yếu tố: đối tượng,
giác quan và thức (na sangatimatto eva phasso).
Tùy thuộc nơi Xúc, Thọ (vevada) phát sanh.
Một cách chính xác, chính Thọ cảm giác một đối tượng
ấy tiếp xúc với giác quan. Chính Thọ thâu nhận quả lành hay quả dữ của
những hành động trong hiện tại hay trong quá khứ. Ngoài tâm sở Thọ
không có một linh hồn hay một bản ngã nào thọ hưởng quả lành hay gặt
hái quả dữ.
Trong tất cả những loại tâm vương đều có tâm sở Thọ.
Đại khái có ba loại Thọ là: thọ lạc (somanassa) hay cảm giác vui, hạnh
phúc; thọ khổ (domanassa) hay cảm giác buồn, phiền não; và thọ vô ký
(adukkhamasukha), không hạnh phúc cũng không phiền não. Hợp với cảm giác
đau đớn (dukkha) và sung sướng (sukha) về vật chất, thì có tất cả năm
loại cảm giác (thọ). Thọ vô ký, không vui sướng, hạnh phúc, cũng không
đau khổ, phiền não, còn có tên là upekkha mà ta không nên lầm lẫn với
tâm xả, hay trạng thái tâm bình thản.
Theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), chỉ có cảm giác đau đớn
trong một loại tâm vương, và chỉ có một cảm giác sung sướng trong một
loại tâm vương khác. Hai loại tâm vương có liên quan đến cảm giác phiền
não. Ngoài ra, trong tám mươi lăm loại tâm vương (89 - 4 = 85) còn lại, đều
có cảm giác hạnh phúc hay vô ký.
Nên ghi nhận rằng Đạo Quả Niết Bàn là hạnh phúc không
có liên quan gì đến Thọ (vedana). Đức Phật dạy rằng Đạo Quả Niết Bàn
là hạnh phúc cao thượng nhất trong các hạnh phúc, nhưng đó không phải
là trạng thái thọ hưởng những cảm giác sung sướng hay hạnh phúc.
Đạo Quả Niết Bàn là hạnh phúc giải thoát ra khỏi mọi
hình thức đau khổ.
Tùy thuộc nơi Thọ, Ái phát sanh. Cũng như Vô Minh, Ái hay Dục
(tanha) rất quan trọng. Luyến ái, khao khát, bám níu, là một vài danh từ
thường dùng để phiên dịch Phạn ngữ "tanha".
Có ba loại ái dục là:
1. Ái Dục duyên theo nhục dục ngũ trần( kammatanha).
2. Ái Dục duyên theo những khoái lạc vật chất có liên
quan đến chủ trương thường kiến (bhava tanha). Trong lúc thọ hưởng,
nghĩ rằng vạn vật là trường tồn vĩnh cửu, và những khoái lạc nầy sẽ
mãi mãi tồn tại.
3. Ái Dục duyên theo những khoái lạc vật chất có liên
quan đến chủ trương đoạn kiến (vibhava tanha). Trong lúc thọ hưởng,
nghĩ rằng tất cả đều tiêu diệt sau khi chết. Chết là hết.
Bhava-tanha có khi được giải thích là sự luyến ái đeo níu
trong Sắc Giới, và Vibhava-tanha là sự luyến ái đeo níu trong Vô Sắc Giới.
Hai Phạn ngữ ấy thường được dịch là ái dục đeo níu theo sự sống
và ái dục đeo níu theo sự không-sống, không-sinh-tồn. [9]
Có sáu loại ái dục liên quan đến lục trần (sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp). Nếu tính có sáu ái dục liên quan đến lục căn và
sáu ái dục liên quan đến lục trần thì tất cả là mười hai. Nếu tính
luôn ái dục trong quá khứ , hiện tại, và tương lai thì có tất cả 36.
Và nếu tính cả ba loại ái dục kể trên thí có 108.
Đối với người thường trong thế gian, loại aí dục đeo
níu theo nhục dục ngũ trần phát triển một cách rất là tự nhiên. Chế
ngự sự khao khát của lục căn thật khó khăn vô cùng. Hai yếu tố quan trọng
và hùng mạnh nhất trong Thập Nhị Nhân Duyên là Vô Minh và Ái Dục, hai
nguyên nhân chánh làm chuyển động bánh xe luân hồi. Vô Minh là nguyên
nhân trong quá khứ, tạo điều kiện cho hiện tại, tạo điều kiện cho
tương lai. Ái Dục là nguyên nhân trong hiện tại, tạo điều kiện cho
tương lai.
Tùy thuộc nơi Ái, phát sanh Thủ (Upadana), cố bám lấy vật
ham muốn. Thủ là Ái Dục tăng trưởng đến mức cao độ. Ái Dục như đi
mò trong đêm tối để lấy trộm một vật. Thủ như chính sự trộm cắp.
Nguyên nhân của Thủ là cả hai, luyến ái và lầm lạc. Do Thủ phát sanh
ý thức sai lầm"Tôi" và "Của tôi".
Thủ có bốn: nhục dục, tà kiến, thân kiến và chủ trương
sai lầm cho rằng có một linh hồn trường cửu.
Thân kiến và chủ trương lầm lạc về linh hồn trường cửu
cũng được coi là tà kiến.
Tùy thuộc nơi Thủ, Hữu (Bhava) phát sanh. Theo căn nguyên của
danh từ, bhava có nghĩa là "đang trở thành". Hữu (bhava) là cả
hai, hành động tạo nghiệp (kammabhava) thiện và bất thiện (tiến trình
tích cực của sự trở thành), và những cảnh giới của chúng sanh (tiến
trình tiêu cực của sự trở thành). Có sự khác biệt tế nhị giữa Hành
(samkhara) và Hữu (kammabhava). Hành là hành động trong quá khứ. Hữu là
hành động trong hiện tại. Cả hai đều là hành động tạo nghiệp. hữu
(kammabhava) tạo điều kiện cho sự tái sanh sắp đến.
Tùy thuộc nơi Hữu có sự Sanh (jati) trong kiếp kế. Một
cách chính xác, Sanh là sự khởi phát của những hiện tượng tâm-vật-lý
(khandanam patubhavo).
Lão và Tử (Jaramarana) là hậu quả hiển nhiên của Sanh.
Quả phát sanh vì có nhân. Vậy, nếu không có Nhân tức
không có Quả. Nếu Nhân chấm dứt, tức nhiên Quả cũng chấm dứt.
Vấn đề được rỏ ràng hơn nếu ta suy nghiệm Thập Nhị
Nhân Duyên theo chiều ngược như thế nầy:
Lão và Tử chỉ có thể hiện hữu trong một cơ thể tâm-vật-lý,
tức trong một guồng máy lục căn. Một cơ thể tương tợ cần phải được
"sanh" ra. Mà Sanh là hậu quả dĩ nhiên của nghiệp quá khứ (tức
những hành động trong thời gian trước đó), phát sanh do Thủ và Ái tạo
duyên. Ái chỉ phát sanh khi có Thọ, và Thọ là hậu quả của sự xúc chạm
giữa Lục Căn và Lục Trần.
Như vậy, tức phải có Lục Căn. Mà không thể có Lục Căn
nếu không có Danh-Sắc, tâm và cơ thể vật chất. Tâm phát sanh do Thức
Tái-sanh tạo duyên. Thức Tái-sanh do sinh hoạt tâm linh trong quá khứ
(Hành), và Hành bắt nguồn từ Vô Minh, nghĩa là không nhận thức được
thực tướng của vạn hữu.
Toàn thể phương thức có thể tóm tắt như sau:
Tùy thuộc nơi Vô Minh phát sanh Hành.
Tùy thuộc nơi Hành phát sanh Thức.
Tùy thuộc nơi Thức phát sanh Danh-Sắc
Tùy thuộc nơi Danh-Sắc phát sanh Lục Căn.
Tùy thuộc nơi Lục Căn phát sanh Xúc.
Tùy thuộc nơi Xúc phát sanh Thọ.
Tùy thuộc nơi Thọ phát sanh Ái.
Tùy thuộc nơi Ái phát sanh Thủ.
Tùy thuộc nơi Thủ phát sanh Hữu.
Tùy thuộc nơi Hữu có Sanh.
Tùy thuộc nơi Sanh có Lão, Tử, Sầu Muộn, Ta Thán, Đau Khổ,
Buồn Rầu, và Thất Vọng.
Đó là trọn vẹn các yếu tố cấu thành đau khổ.
Tận diệt Vô Minh dẫn đến chấm dứt Hành.
Chấm dứt Hành dẫn đến chấm dứt Thức.
Chấm dứt Thức dẫn đến chấm dứt Danh-Sắc.
Chấm dứt Danh-Sắc dẫn đến chấm dứt Lục Căn.
Chấm dứt Lục Căn dẫn đến chấm dứt Xúc.
Chấm dứt Xúc dẫn đến chấm dứt Thọ.
Chấm dứt Thọ dẫn đến chấm dứt Ái.
Chấm dứt Ái dẫn đến chấm dứt Thủ.
Chấm dứt Thủ dẫn đến chấm dứt Hữu.
Chấm dứt Hữu dẫn đến chấm dứt Sanh.
Chấm dứt Sanh dẫn đến chấm dứt Lão, Tử, Sầu Muộn,
Ta Thán, Đau Khổ, Buồn Rầu, và Thất Vọng.
Đó là chấm dứt hậu quả của các yếu tố cấu thành
Đau Khổ.
Hai yếu tố đầu tiên của Thập Nhị Nhân Duyên (Vô Minh,
Hành) thuộc về quá khứ. Tám yếu tố giữa thuộc về hiện tại. Và hai
yếu tố cuối cùng thuộc về vị lai.
Cả hai, Hành (samkhara), thiện và bất thiện, và Hữu
(bhava), đều được xem là nghiệp (kamma). Vô Minh (avijja), Ái (tanha) và Thủ
(upadana) là khát vọng hay ô nhiễm (kilesa). Thức, Danh-Sắc, Lục Căn, Xúc,
Thọ, Sanh, Lão, Tử đều là quả (vipaka).
Như vậy Vô Minh, Hành, Ái,Thủ và Hữu là năm nguyên nhân
trong quá khứ tạo duyên (điều kiện) cho năm quả trong hiện tại là Thức,
Danh-Sắc, Lục Căn, Xúc và Thọ phát sanh. Cùng thế ấy Ái, Thủ, Hữu, Vô
Minh và Hạnh trong hiện tại tạo duyên cho năm quả kế trên phát sanh trong
tương lai.
Tiến trình Nhân và Quả liên tục diễn tiến vô cùng tận.
Không thể nhận ra khởi điểm của tiến trình ấy vì ta không quan niệm
được lúc nào trong dòng thời gian vô tận, luồng sống của ta không bị
màng Vô Minh bao phủ. Tuy nhiên, giờ phút nào mà trí tuệ thay thế Vô Minh
và luồng sống chứng nghiệm được bản chất của Niết Bàn (Nibbana
dhatu) thì, chỉ đến chừng ấy, tiến trình sanh tử mới chấm dứt.
"Chính Vô Minh dẫn dắt ta đi vòng quanh ảm đạm
Rầy đây mai đó của chuỗi dài sanh-tử, tử-sanh vô cùng
tận." [10]
Chú thích
[1] Pháp Thập Nhị Nhân Duyên cũng được gọi là Thập Nhị
Nhân Duyên Khởi hay Tùy Thuộc Phát Sanh .
[2] Tabbhavabhavibhavakaramatta - Abhidhammattha Sangaha. Xem "A
Manual of Abhidhamma" của tác giả Narada Thera, trang 360.
[3] Sutta Nikaya, câu 730.
[4] Suuta Nipatta, trang 14.
[5] "Thức nầy là tinh khiết", pabhassaram idam cittam,
Đức Phật dạy như vậy trong Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, tập 1, trang
10. Theo chú giải, Đức Phật nói vậy khi đề cập đến thức-tái-sanh.
[6] Trong trường hợp "Quả Vô Nhân" (Ahetuka vipaka).
[7] Trong trường hợp "Quả Vô Nhân"(Sahetuka vipaka).
[8] Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm, phần ii, trang 70. Kindred
Sayings, phần ii, trang 50.
[9] Xem Chương 6.
[10] Chalmers, "Buddha's Teachings", câu 729-730.