Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [20]
- Sự báo ứng của Nghiệp
"Chính Nghiệp dẫn dắt thế gian nầy" --
Atthasalini
Sự báo ứng của Nghiệp là một
tiến trình vô cùng phức tạp mà chỉ có Đức Phật mới có thể am tường
thấu đáo. Để nhận thức phần nào vấn đề khó khăn ấy, ta cần phải
biết lịch trình tiến triển của dòng tư tưởng (citta vithi).
Tâm, hay thức, phần tinh túy của
cái được gọi là chúng sanh, đóng vai trò tối quan trọng trong guồng máy
phức tạp của con người. Chính tâm làm cho ta trong sạch, cũng chính tâm
làm cho ta ô nhiễm. Trong thực tế, tâm là người thù nguy hiểm nhất mà cũng
là người bạn chí thân của con người.
Khi ngủ say, không chiêm bao mộng mị,
tâm của ta ở trong một trạng thái ít nhiều tiêu cực, tương tợ như trạnh
thái tâm của người vừa chết, hay lúc được thọ thai. Danh từ Phật Giáo
gọi loại tâm ấy là Bhavanga, hay yếu tố của đời sống. Bhavanga cũng có
nghĩa là nguyên do tối cần, hay điều kiện tối cần để tồn tại. Phát
sanh và hoại diệt từng khoảnh khắc, luồng Bhavanga trôi chảy như một dòng
suối, luôn luôn biến đổi, không khi nào giống hệt nhau trong hai chập tư
tưởng kế tiếp.
Không phải chỉ lúc ngủ mê không
nằm mộng ta mới có loại tâm Bhavanga, mà lúc thức cũng có. Trong đời sống,
ta có loại tâm ấy nhiều hơn tất cả những loại tâm khác. Do đó
Bhavanga là điều kiện tối cần thiết cho đời sống .
Có vài học giả cho rằng Bhavanga
đồng nghĩa với tiềm thức. Theo Tự Điễn Triết Học [1], tiềm thức là
một ngăn trong tâm mà vài tâm lý gia và triết gia cho rằng ngăn ấy nằm cạnh
phía dưới ngưỡng cửa của thức.
Theo các triết gia tây phương, tiềm
thức và thức cùng tồn tại trong cùng một lúc [2]. Nhưng theo Phật Giáo,
hai loại tâm không thể tồn tại trong cùng một lúc.
Bhavanga không phải là một "hạ
tầng cảnh giới" cũng không như "tâm cao thượng" của F.W.
Myer. Hình như trong tất cả nền triết học Âu Tây, không có khoảng nào
đề cập đến cái gì như Bhavanga.
Bhavanga là yếu tố chánh yếu duy
trì cuộc sống. Danh từ gần Bhavanga nhất có lẽ là "Liên Tục Sinh Tồn",
có nơi gọi là "Luồng Hộ Kiếp", vì nó là điều kiện tất yếu
cho kiếp sống sinh tồn.
Nếu không bị ngoại cảnh xâm nhập,
như lúc ngủ say không mộng mị, thì những chập tư tưởng Bhavanga liên tục
nối tiếp như dòng nước. Khi có một đối tượng xuất hiện - vật chất
hay tinh thần - thí dụ như một hình sắc, thì luồng Bhavanga rung động
trong hai chập tư tưởng, rồi tắt. Lúc luồng Bhavanga vừa tắt thì
"ngũ môn hướng tâm" hay "ngũ khai môn" (pancadvaravajjana)
phát sanh và hoại diệt. Tác động của tâm nầy là hướng về đối tượng,
trong trường hợp nầy đối tượng là hình sắc. Tức thì, nhãn thức
(cakkhu-vinnana) thấy đối tượng, nhưng chưa biết gì. Kế đó là "tiếp
thọ tâm", hay "tâm tiếp thâu" (sampaticchana). Tiếp theo là
"suy đạc tâm" (santirana) quan sát, dò xét đối tượng. Rồi "xác
định tâm" (votthapana) phân biệt, lựa chọn, thu nhận hay loại bỏ. Đến
đây là vai trò của tự do ý trí. Do nơi chập tư tưởng quyết định, phát
sanh tiến trình Javana, một giai đoạn tối quan trọng, vì chính ở giai đoạn
nầy hành động thiện hay bất thiện biểu hiện. Chính Nghiệp được tạo
nên trong giai đoạn nầy.
Nếu quyết định chánh đáng
(yoniso manasikara) thì tạo thiện nghiệp. Nếu quyết định sai lầm (ayoniso
manasikara) thì tạo bất thiện nghiệp. Mặc dầu đối tượng có đáng được
ưa thích hay không, ta vẫn có thể tạo một tiến trình Janava thiện hay bất
thiện theo ý muốn. Thí dụ như khi gặp người thù nghịch, tức nhiên là
sự giận dữ phát sanh ngoài ý muốn của ta. Nhưng bậc thiện trí thức
có thể chế ngự tâm mình, thay vì nổi giận, rải tâm Từ đến người
ấy. Vì lý do đó mà Đức Phật dạy:
- "Làm ác do ta.
- Làm cho ta nhơ bẩn do nơi ta.
- Không làm ác do ta.
- Làm cho ta trong sạch cũng do nơi ta.
- Cả hai, nhơ bẩn và trong sạch, chỉ
tùy thuộc nơi ta.
- Không ai khác có thể làm cho ta trong
sạch. [3]"
Dĩ nhiên là trong đời sống,
tư tưởng của ta bị rất nhiều yếu tố bên ngoài chi phối như giới thân
cận, tập tục, lễ nghi v.v... Trong những trường hợp ấy thì tự do ý
trí cũng bị lũng đoạn. Tuy nhiên, dầu ở trường hợp khó khăn nào, ta cũng
có đủ khả năng dùng tự do ý chí vượt qua các áp lực bên ngoài và tạo
những tư tưởng thiện hay bất thiện. Một người thân cận có thể là yếu
tố có nhiều ảnh hưởng, nhưng chính ta phải chịu trách nhiệm về tất
cả các hành động của ta và chỉ có hành động của ta mới theo sát ta
như bóng với hình.
Javana là một Phạn ngữ rất khó
chuyển dịch ra ngôn ngữ khác. Vài học giả dịch là "trực cảm".
Danh từ "xung lực" đôi khi cũng được dùng. Trong quyển sách nầy,
Phạn ngữ Javana được giữ nguyên vẹn.
Theo đúng nguyên căn, Javana có nghĩa
là chạy, bởi vì trong tiến trình tâm, mỗi loại thường phát sanh trong một,
hai, hay ba chập tư tưởng, chỉ có tâm Javana phát sanh liên tiếp trong bảy
chập lúc bình thường và năm chập khi lâm chung, và tất cả bảy chập đều
cùng chung một đối tượng. Những tâm sở phát sanh trong bảy chập tư tưởng
ấy đều giống hệt nhau, nhưng năng lực thì không đồng đều, có chập
mạnh có chập yếu hơn.
Tiến trình tâm (citta vithi), hay lộ
trình tiến triển của một tư tưởng, một thời gain cực nhỏ, chấm dứt
bằng "đăng ký tâm" hay "tâm ghi nhận" (tadalambana) trong hai
chập. Như vậy, trọn lộ trình tư tưởng có tất cả mười bảy chập.
Kinh sách thường diễn tả lịch trình
tiến triển của tâm như sau:
"Người kia nằm dưới gốc cây
xoài, lấy khăn trùm đầu lại, ngủ mê. Một ngọn gió thổi qua làm rung
động nhánh cây và một trái xoài rụng xuống cạnh bên đầu anh chàng
đang ngủ. Anh tung khăn ra và hướng tầm mắt về phía có tiếng động. Thấy
một vật, anh cầm lên, quan sát và nhận ra đó là một trái xoài. Anh hả
miệng cạp ăn, và nuốt cùng với nước miếng. Xong, nằm xuống ngủ lại."
Trong câu truyện, giấc ngủ say là
luồng Bhavanga yên tĩnh trôi chảy. Ngọn gió thoảng qua cây xoài là tâm
"Bhavanga vừa qua" (atiti Bhavanga ). Nhánh cây rung động là tâm
"Bhavanga rung động" (Bhavanga calana). Trái xoài rụng là tâm
"Bhavanga dứt vòng" (Bhavanga upaccheda). Hướng về đối tượng là
"ngũ môn tâm hướng" (pancadvaravajjana). Thấy đối tượng mà chưa
biết gì là "ngũ quan thức" (panca vinnana), trong trường hợp nầy là
nhãn thức. Nhặt lên là "tiếp thọ ". Quan sát là "suy đạc tâm".
Nhận định rằng đó là một trái xoài là "xác định tâm". Chính
sự thưởng thức trái xoài là tiến trình Javana (7 chập), va sự nuốt miếng
xoài, là "đăng ký tâm". Khi ăn xong trái xoài người kia nằm ngủ
lại, là khi trãi qua trọn lộ trình thì tâm trở lại trạng thái Bhavanga.
Tóm lại mỗi lộ trình tư tưởng
chia làm 17 chập: 3 chập Bhavanga, 1 ngũ môn hướng tâm, 1 ngũ quan thức, 1
tiếp thọ tâm, 1 suy đạc tâm, 1 xác định tâm, 7 chập Javana và 2 chập
đăng ký, như sau:
- Chập tâm
- Lộ Trình Tiến Triển Của Một Tư Tưởng
- 1
- Atita Bhavanga
- (Bhavanga vừa qua)
- 2
- Bhavanga Calana
- (Bhavanga rung động)
- 3
- Bhavanga Upaccheda
- (Bhavanga dứt vòng)
- 4
- Pancadvaravajjana
- (Ngũ môn hướng tâm)
- 5
- Panca Vinnana
- (Ngũ quan thức)
- 6
- Sampaticchana
- (Tiếp thọ tâm)
- 7
- Santirana
- (Suy đạc tâm)
- 8
- Votthapana
- (Xác định tâm)
- 9
- Javana
- (Xung lực)
- Tadalambana
- (Đăng ký tâm)
- 17
Trong 7 chập tư tưởng của tiến
trình Javana, chập đầu có năng lực tạo Nghiệp yếu nhất nên trổ quả
trong kiếp hiện tại, gọi là "Hiện Nghiệp" (dittha dhamma vedaniya
kamma, nghiệp có hiệu năng tức khắc trong hiện tại). Nếu không trổ sanh
trong kiếp hiện tại thì quả ấy sẽ tiêu mất, gọi là quả không trổ
sanh, hay "Nghiệp Vô Hiệu Lực" (Ahosi).
Chập tư tưởng yếu kế đó là chập
thứ 7 của tiến trình Javana. Quả của chập nầy trổ sanh trong kiếp sống
kế liền sau kiếp hiện tại, gọi là "Hậu Nghiệp" (upapaja
vedaniya kamma, nghiệp có hiệu năng liền kế đó). Nghiệp nầy trổ quả kế
tiếp theo, cũng tự nhiên trở nên vô hiệu lực nếu không trổ sanh trong
kiếp kế liền đó.
Quả của 5 chập tư tưởng còn lại,
từ chập 2 đến chập 6 của tiến trình Javana, có thể trổ sanh bất cứ
lúc nào trong vòng luân hồi, từ kiếp kế kiếp hiện tại đến lúc hoàn
toàn giải thoát, gọi là "Nghiệp Vô Hạn Định" (aparapariya
vedaniya kamma, quả trổ sanh trong thời gian vô hạn định).
A. Phân
loại theo Thời gian
Như vậy, theo thời gian, Nghiệp có
thể được phân loại như sau:
1.- Hiện Nghiệp (Dittha dhamma
vedaniya kamma), quả trổ sanh trong kiếp hiện tại.
2.- Hậu Nghiệp (Upapajja vedaniya
kamma), quả trổ sanh trong kiếp kế kiếp hiện tại.
3.- Nghiệp Vô Hạn Định (Aparãpariya
vedaniya kamma), quả trổ sanh không nhất định lúc nào trong thời gian chưa
đắc Quả Niết Bàn.
4.- Nghiệp Vô Hiệu Lực (Ahosi
Kamma).
Những câu chuyện thí dụ:
Hiện nghiệp
a) Quả lành trổ sanh trong kiếp hiện
tại.
Hai vợ chồng kia chỉ có một cái
áo (choàng theo lối người Ấn). Khi chồng có việc đi đâu, mặc áo, thì
vợ phải ở nhà. Nếu vợ đi thì chồng ở nhà. Một ngày kia, chồng đi
nghe Đức Phật thuyết pháp, lấy làm thỏa thích, khởi sanh ý muốn dâng
lên Đức Phật cái áo duy nhất ấy, nhưng lòng luyến ái cố hữu của con
người trỗi dậy, và một cuộc tranh đấu diễn ra bên trong anh. Sau cùng,
tâm bố thí chế ngự lòng luyến ái. Anh hết sức vui mừng, reo lên:
"Ta đã chiến thắng, ta đã chiến thắng", và hành động đúng y sở
nguyện, dâng cái áo lên Đức Phật.
Câu truyện lọt đến tai vua. Đức
vua lấy làm hoan hỷ, truyền lệnh ban cho anh 32 bộ áo. Người chồng có
tâm đạo nhiệt thành ấy lựa ra hai bộ, một bộ cho mình và một bộ cho
vợ, còn lại bao nhiêu dâng hết lên Đức Phật. [4]
b) Quả dữ
trổ sanh kiếp hiện tại.
Một người thợ săn dắt bầy chó
vào rừng kiếm thịt, thấy bên đàng một vị tỳ khưu đang đi khất thực.
Hôm ấy anh đi cả buổi mà không săn được gì, người thợ săn lấy làm
bực tức cho rằng vì gặp vị đạo sĩ giữa đàng, đó là điềm xấu nên
xui xẻo. Lúc trở về lại gặp vị đạo sĩ ấy nữa, người thợ săn nổi
giận xua chó cắn, mặc dù vị tỳ khưu kia hết lời năn nỉ van lơn. Không
còn cách gì khác nữa, vị tỳ khưu bèn trèo lên cây để tránh bầy chó dữ.
Người thợ săn chưa đã nư giận, chạy đến gốc cây, dương cung bắn lên,
nhằm bàn chân vị tỳ khưu. Trong lúc sợ hãi mất bình tỉnh và vô cùng
đau đớn, vị tỳ khưu đánh rơi cái y của mình xuống, chụp lên đầu và
bao trùm lên mình thợ săn. Bầy chó dữ thấy một người đang lúng túng
trong bộ y vàng ngỡ là nhà sư đã té xuống nên áp lại cắn xé chủ
mình. [5]
Hậu Nghiệp: Quả trổ sanh trong kiếp
kế liền, sau kiếp hiện tại.
Có người làm công cho nhà triệu
phú nọ, một người rằm, sau khi làm việc cực nhọc ngoài đồng, chiều
về thấy cả nhà đều thọ bát quan ngày ấy. Mặc dầu chỉ còn có nửa
ngày, anh liền xin thọ giới và nhịn đói buổi chiều. Bất hạnh thay,
sang hôm sau anh qua đời. Nhờ tâm trong sạch nghiêm trì bát quan trai giới,
anh tái sanh lên cõi trời.
Vua Ajatasattu (A Xa Thế), con Vua Bình
Xa Vương (Bimbisara), liền sau khi chết, tái sanh vào cảnh khổ vì mang trọng
tội giết cha.
Nghiệp Vô Hạn Định: Quả trổ
sanh bất cứ lúc nào,từ kiếp kế kiếp hiện tại đến lúc giải thóat
hoàn toàn.
Không ai có thể lẫn thoát ra khỏi
Nghiệp nầy. Chư Phật và chư vị A La Hán cũng không thể tránh khỏi quả
dữ của những Nghiệp đã gieo trong thời dĩ vãng.
Đức A La Hán Moggallana (Mục Kiền
Liên), trong một kiếp quá khứ xa xôi, đã nghe lời người vợ tàn ác âm
mưu ám hại cha mẹ [6]. Do hành động sai lầm ấy, Ngài đã trãi qua một
thời gian lâu trong cảnh khổ và, trong kiếp cuối cùng, bị một bọn cướp
giết chết.
Đức Phật bị vu oan là giết chết
một nữ tu sĩ theo đạo lõa thể. Kinh sách chép rằng sở dĩ Đức Phật
phải chịu tiếng oan như vậy là vì trong một tiền kiếp, Ngài đã thiếu
lễ độ với một vị Độc Giác Phật.
Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) toan giết
Đức Phật, lăn đá từ trên núi cao làm trầy chân Ngài. Kinh sách chép rằng
vào một tiền kiếp xa xôi, Đức Phật đã lỡ tay giết người em khác mẹ
trong một vụ tranh chấp tài sản.
B. Phân loại
theo Tác động
Theo một lối phân loại khác, căn
cứ trên tác động, Nghiệp chia làm bốn:
- 1.- Nghiệp Tái Tạo (Janaka
Kamma)
- 2.- Nghiệp Trợ Duyên (Upatthambhaka
Kamma)
- 3.- Nghiệp Bổ Đồng (Upapidaka Kamma)
- 4.- Nghiệp Tiêu Diệt (Upaghataka
Kamma)
Theo Phật Giáo, chập tư tưởng
cuối cùng của đời sống thật quan trọng, vì trong giờ phút lâm chung,
Nghiệp lành hay dữ có năng lực mạnh nhất tạo điều kiện cho sự tái
sanh liền kế đó. Nghiệp ấy gọi là Nghiệp Tái Tạo (Janaka Kamma).
Cái chết của một chúng sanh chỉ
là sự "sự gián đoạn tạm thời của một hiện tượng tạm thời".
Mặc dầu thể xác hiện tại hoại diệt nhưng một hình thể khác sẽ
phát sanh thích ứng tùy theo tư tưởng mạnh nhất trong giờ lâm chung, và
hình thể sau nầy không hoàn toàn giống hình thể trước mà cũng không tuyệt
đối khác. Thể xác tan rã, nhưng luồng Nghiệp lực vẫn tồn tại. Tiến
trình tư tưởng cuối cùng ấy, gọi là "Nghiệp Tái Tạo", quyết
định cảnh giới của kiếp sống tới.
Thông thường, tiến trình tư tưởng
cuối cùng của một người tùy thuộc nơi phẩm hạnh của người ấy
trong đời sống. Tuy nhiên, cũng có trường hợp đặc biệt mà ngoại cảnh
tạo cơ hội thuận lợi hay bất lợi, làm cho một người tốt có thể có
những tư tưởng xấu, hay người xấu có những tư tưởng tốt lúc thở hơi
cuối cùng. Chính chập tư tưởng cuối cùng ấy tạo điều kiện cho sự tái
sanh trong kiếp kế. Trong trường hợp nầy phẩm hạnh của người kia trong
đời sống không đem lại ảnh hưởng nào cho sự tái sanh. Nhưng, như vậy
không có nghĩa là quả phải có của những hành động trong quá khứ đã
tiêu tan mất. Quả ấy sẽ trổ sanh đúng lúc và tương xứng với nhân đã
gieo.
Những biến đổi bất ngờ trong lúc
tái sanh giải thích vì sao có những đứa con hung dữ, xấu xa, trong một
gia đình lương thiện và những người hiền lành đạo đức sanh trưởng
trong một gia đình hư hèn tàn ác.
Nghiệp Tái Tạo cũng có thể bị
Nghiệp quá khứ chen vào để trợ lực hay để làm suy nhược và ngăn trở.
Những ảnh hưởng và duy trì gọi là "Nghiệp Trợ Duyên"
(Upatthambhaka Kamma).
Những ảnh hưởng làm suy nhược và
ngăn trở gọi là "Nghiệp Bổ Đồng" (Upapidaka Kamma).
Theo định luật Nghiệp Báo, khả năng
trổ quả của Nghiệp Tái Tạo cũng có thể bị một Nghiệp quá khứ
khác, nghịch chiều và mạnh hơn, hoàn toàn tiêu diệt một cách bất ngờ,
cũng như một chướng ngại vật chận đứng sức tiến của một làn tên
bay đến là rơi mũi tên xuống đất. Ảnh hưởng phản nghịch ấy gọi là
"Nghiệp Tiêu Diệt" (Upaghataka Kamma). Nghiệp nầy mạnh hơn hai Nghiệp
trên vì chẳng những gây trở ngại mà còn tiêu diệt hoàn toàn năng lực
của một Nghiệp khác.
Trường hợp của Devadatta (Đề Bà
Đạt Đa) được sanh trưởng trong hoàng tộc. Nghiệp Trợ Duyên giúp Ngài
trưởng thành trong hoàn cảnh tiện nghi, sung túc. Đến khi manh tâm chia rẽ
Tăng Già, tạo Nghiệp Bổ Đồng, do Nghiệp nầy Ngài bị trục xuất ra khỏi
Giáo Hội và phải chịu nhục nhã. Sau cùng, Nghiệp Tiêu Diệt dẫn ông
vào khổ cảnh.
C. Phân loại theo Báo ứng
Căn cứ trên khả năng báo ứng
(vipakadanavasena), Nghiệp có thể phân làm bốn loại:
1.- Trọng Nghiệp (Garuka Kamma ),
2.- Cận Tử Nghiệp (Asanna Kamma ),
3.- Thường Nghiệp (Acinna Kamma ),
4.- Tích Trữ Nghiệp (Katatta Kamma ).
Loại Nghiệp đầu tiên là "Trọng
Nghiệp" (Garuka Kamma ), có nghĩa là hành động trọng yếu, nghiêm trọng,
một cái Nghiệp nặng, vì nó chắc chắn trổ quả trong kiếp hiện tại
hay kế tiếp, sau kiếp hiện tại. Nếu là một Trọng Nghiệp thuộc về loại
"thiện "thì đó là kết quả của thiền (Jhana). Người đắc tứ
Thiền Sắc Giới chẳng hạn thì hưởng quả vị của Thiền ấy ngay trong
kiếp hiện tại hay trong kế tiếp.
Nếu là một Trọng Nghiệp thuộc về
loại "bất thiện", thì đó là hậu quả của năm tội ác,
Anantariya Kamma, Ngũ Nghịch Đại Tội, tức là: giết cha, giết mẹ, giết một
vị A La Hán, gây thương tích cho Đức Phật, và gây chia rẽ Tăng Già.
Đức Phật có lưu ý hàng đệ tử
rằng nếu không phạm tội giết cha thì Vua Ajatasattu (A Xà Thế) đã đắc
quả Tu Đà Hườn rồi. Trong trường hợp nầy Trọng Nghiệp bất thiện
được gây ra trước, và ngăn cản tiến bộ tinh thần về sau.
Nếu không có một Trọng Nghiệp
làm điều kiện cho sự tái sanh trong kiếp kế liền đó, thì "Cận Tử
Nghiệp"(Asanna Kamma ) là nghiệp dắt dẫn đi thọ sanh. Cận Tử Nghiệp
là hành vi cuối cùng, hay hành vi nào mà chập tư tưởng cuối cùng nhớ đến
trước khi lâm chung. Vì lẽ ấy, trong các xứ Phật Giáo thường có tập tục
nhắc nhở người sắp lìa trần những hành vi tốt đẹp của họ trong đời
sống, giúp đỡ, khuyến khích họ tạo một vài nghiệp lành ngay trước giờ
lâm chung như đọc kinh, niệm Phật, bố thí v.v...
Đôi khi người xấu có thể chết
một cách yên ổn và tái sanh vào cảnh giới hữu phúc nếu họ được may
mắn hồi nhớ lại, hoặc làm một điều thiện trong giờ phút cuối cùng.
Như vậy không có nghĩa là người ấy - dầu tái sanh trong nhàn cảnh -
tránh khỏi quả dữ của nhân ác đã gieo trong quá khứ.
Mặc khác, một người lành có thể
thọ sanh trong cảnh khổ vì bất thình lình trong giờ phút cuối cùng lại
có một hành vi hay tư tưởng bất thiện. Trong trường hợp nầy cũng vậy,
nhân lành đã gieo sẽ trổ quả đúng lúc, nhưng vì có chập tư tưởng bất
thiện cuối cùng, người ấy phải chịu tái sanh trong cảnh khổ.
Loại nghiệp thứ ba là 'Thường
Nghiệp" (Acinna Kamma). Thường Nghiệp là hành động hằng ngày, những
việc làm mà ta thường lập đi lập lại, hay thường nhắc nhở, nhớ đến,
và ưa thích hơn hết. Những thói quen, lành hay dữ, dần dần trở thành bản
chất và ít nhiều uốn nắn tâm tánh con người. Trong khi nhàn rỗi tâm thường
duyên theo những tư tưởng, những hành vi quen thuộc một cách tự nhiên, lắm
khi vô ý thức. Cùng một thế ấy, trong giờ phút lâm chung, trừ khi bị một
ảnh hưởng nào mạnh hơn, ta thường nhớ lại những hành vi và tư tưởng
quen thuộc. Như bác sĩ thì nhớ bệnh nhân, giáo sư thì nhớ cử tọa
v.v...
Sau cùng là "Nghiệp Tích Trữ"(Katatta
Kamma ), bao gồm tất cả những trường hợp không có kể trong ba loại nghiệp
trên. Những trường hợp nào không nằm trong ba loại nghiệp kể trên gom
chung lại thành một loại: Nghiệp Tích Trữ. Nghiệp nầy giống như cái vốn
dự trữ của một cá nhân.
D. Phân loại theo Cảnh giới
Lối phân loại cuối cùng căn cứ
trên những cảnh giới mà quả có thể trổ sanh. Theo lối nầy quả có thể
chia làm bốn:
- 1.- Những hành động bất thiện
(akusala) tạo quả trổ sanh trong Dục Giới (kamaloka),
- 2.- Những hành động thiện (kusala),
tạo quả tái sanh trong Dục Giới,
- 3.- Những hành động thiện, tạo quả
tái sanh trong Sắc Giới (rupaloka), và
- 4.- Những hành động thiện, tạo quả
tái sanh trong Vô Sắc Giới (arupaloka).
Những Hành Động Bất Thiện
Tạo Quả Trổ Sanh Trong Dục Giới
Có mười hành động bất thiện, tạo
nghiệp dữ. Trong 10 hành động ấy,
- Ba biểu hiện bằng việc làm
(thân nghiệp ) là: sát sanh (panatipata), trộm cắp (adinnadana), và tà dâm
(kamesu micchacara)
- Bốn biểu hiện bằng lời nói
(khẫu nghiệp) là: nói dối (musavada), nói đâm thọc (pisunavaca), nói lời
thô lỗ cộc cằn (pharusavaca), nói nhảm nhí vô ích (samphappalapa).
- Ba biểu hiện bằng tư tưởng (ý
nghiệp ) là: tham lam (abhijjha), sân hận (vyapada), và tà kiến (micchaditthi).
Sát sanh là cố ý giết chết một
chúng sanh. Trong Phạn ngữ Panatipata, "pana" có nghĩa là đời sống
tâm-vật-lý của một chúng sanh. Xem thường đời sống, tiêu diệt, cắt
đứt, ngăn chặn sức tiến của năng lực một đời sống, không để nó
tiếp tục trôi chảy là panatipata.
"Pana" có nghĩa là cái gì
đó có hơi thở. Do đó tất cả những động vật - gồm cả loài thú - đều
được xem là "pana". Cây cỏ không có phần tinh thần, tuy nhiên giới
luật hàng xuất gia không cho các vị tu sĩ xâm phạm đến đời sống của
cỏ cây. Giới nầy không áp dụng cho người cư sĩ.
Có năm chi tạo nghiệp sát sanh: 1.-
Có một chúng sanh; 2.- Biết rằng đó là một chúng sanh; 3.- Ý muốn giết;
4.- Cố gắng để giết; 5.- Chính hành động giết chết.
Nghiệp bất thiện được gây nên
do hành động sát sanh nặng hay nhẹ tùy tánh cách quan trọng của chúng
sanh bị giết, lành hay dữ, lớn hay nhỏ v.v... Giết một bậc vĩ nhân hiền
đức hay một con thú to lớn tạo nghiệp nặng hay là giết một tên sát
nhân hung dữ hay một sinh vật bé nhỏ, vì sự cố gắng để thực hiện hành
động sát sanh và tai hại gây ra quan trọng hơn. Quả dữ của nghiệp sát
sanh là mạng yểu, bệnh hoạn, buồn rầu, đau khổ vì nạn chia ly và lo sợ.
Có năm chi tạo nghiệp trộm cắp:
1.- Có một vật thuộc sở hữu của người khác; 2.- Biết như vậy; 3.- Có
ý muốn đoạt vật ấy làm sở hữu của mình; 4.- Cố gắng trộm cắp;
5.- Chính hành động trộm cắp. Quả đương nhiên của nghiệp trộm cắp
là nghèo nàn, khốn khổ, thất vọng và làm thân nô lệ.
Có bốn chi tạo nghiệp tà dâm là:
1.- Ý nghĩ muốn thỏa mãn nhục dục; 2.- Cố gắng tiếp theo; 3.-Tìm phương
tiện để đạt mục tiêu; 4.- Chính hành động tà dâm. Quả đương nhiên
của nghiệp tà dâm là có nhiều kẻ thù, đời sống gia đình (giữa vợ
và chồng) không có hạnh phúc, tái sanh làm đàn bà hay người bán nam bán
nữ.
Có bốn chi tạo nghiệp nói dối:
1.- Có sự giả dối (không chân thật) trong lời nói; 2.- Ý muốn làm người
khác hiểu sai sự thật; 3.- Thốt ra lời; 4.- Tạo sự hiểu biết sai lạc
cho người khác. Quả đương nhiên của nghiệp nói dối là bị mắng chửi
nhục mạ, tánh tình đê tiện, không ai tín nhiệm và miệng thúi.
Có bốn chi tạo nghiệp nói đâm thọc:
1.- Có những người sẽ là nạn nhân của sự chia rẽ; 2.- Ý muốn phân ly
những người ấy hay muốn lấy lòng một người; 3.- Cố gắng thực hiện
tình trạng phân ly; 4.- Thốt ra lời nói đâm thọc. Quả của nghiệp nói
đâm thọc là bị chia rẽ với bạn bè.
Có ba chi để tạo nghiệp nói thô
lỗ: 1.- Một người khác; 2.- Tư tưởng sân hận; 3.- Thốt ra lời thô lỗ.
Quả của nghiệp nói thô lỗ là không làm gì ai cũng bị ghét, tiếng nói
khàn khàn.
Có hai chi tạo nghiệp nói nhảm:
1.-Ý muốn nói chuyện nhảm nhí; 2.- Thốt ra lời nói nhảm. Quả của nghiệp
nói nhảm là thân thể không nở nang đều (có một bộ phận nào trong
mình yếu kém), lời nói không rõ ràng minh bạch làm cho người ta không
tin.
Có hai chi tạo nghiệp tham lam: 1.- Vật
sở hữu của người khác; 2.- Tâm thèm muốn, ước mong được làm chủ vật
ấy. Quả của nghiệp tham lam là không được mãn nguyện.
Có hai chi để tạo nghiệp sân hận:
1.- Một người khác; 2.- Tư tưởng muốn tạo phiền não cho người đó. Quả
của nghiệp sân hận là thân hình xấu xa, nhiều bệnh hoạn và bẩm tánh
khó thương.
Tà kiến là thấy sự vật không đúng,
hiểu biết sai lầm, tin rằng không có quả báo.
Có hai chi để tạo nghiệp tà kiến:
1.- Nhìn sự vật một cách sai lầm; 2.- Khư khư cố chấp quan niệm sai lầm
ấy. Hậu quả đương nhiên của tà kiến là: ham muốn thấp hèn, thiếu
trí tuệ, kém thông minh, bệnh hoạn kinh niên và có những tư tưởng đáng
chê trách.
Theo Phật Giáo có 10 loại tà kiến:
1.- Tin rằng không có gì gọi là
"để bát"(dinnam). Câu nầy hàm ý là để bát chư Tăng không đem lại
lợi ích gì.
2.- Tin rằng không có gì là
"cúng đường"(ittham), hay
3.- "dâng tặng"(hutam). Nơi
đây cũng vậy hai câu nầy có nghĩa là để bát cúng dường Đức Phật và
chư Tăng, bố thí vật thực và dâng tặng vật dụng đến những người cần
món ấy không đem lại lợi ích gì.
4.- Tin rằng không có nhân quả.
Hành động thiện hay bất thiện đều không gây hậu quả nào.
5.- Tin rằng không có gì gọi là
"thế gian nầy", hay
6.- "Thế gian tới", tức những
người sanh ở đây không chấp nhận có kiếp quá khứ và những người
ở đây không chấp nhận một đời sống vị lai.
7.- Tin rằng không có "mẹ",
hay "cha". Hai câu nầy ngụ ý rằng đối xử với cha mẹ như thế
nào cũng không đem lại hậu quả gì.
9.- Tin rằng không có chúng sanh chết
và tái sanh.
10.- Tin rằng không có những bậc
tu sĩ xa lánh chốn phồn hoa đô hội, tìm nơi vắng vẻ để hành thiền
và những bậc thiện trí thức, đức độ cao cả, đạo hạnh trang nghiêm
đã chứng đạt Đạo Quả (ám chỉ chư Phật và chư vị A La Hán ).
Nghiệp Lành Tạo Quả Trổ Sanh
Trong Lục Giới
Có 10 loại hành động tốt tạo
nghiệp lành (kusalakamma) trổ quả trong Dục Giới là:
- 1.- Bố thí (dana) hay là lòng quảng đại rộng rãi;
- 2.- Trì Giới (sila);
- 3.- Tham thiền (bhavana);
- 4.- Lễ bái (apacayana), biết trọng người đáng
kính;
- 5.- Phục vụ (veyyavacca);
- 6.- Hồi hướng phước báu (pattidana);
- 7.- Hoan hỷ với phước báu của người khác
(anumodana), tâm Hỷ;
- 8.- Nghe Pháp (dhamma savana);
- 9.- Hoằng Pháp (dhamma desana); và
- 10.- Củng cố chánh kiến của mình
(ditthijjukamma).
Đôi khi thiện nghiệp thứ bẩy
được chia làm hai: "tán dương phước báu của người khác"
(pasamsa) được thêm vào cùng "hoan hỷ với phước báu của người khác"
(anumodana). Điểm thứ 10, chánh kiến cũng được chia làm hai là qui y Tam Bảo(tisarana)
và niệm (anussati).
Nếu tính như thế ấy thì mười
thiện nghiệp trở thành mười hai.
Đức khoan dung quảng đại hay
"Tâm Bố Thí" tạo quả dưới hình thức được nhiều của cải,
sự nghiệp. "Trì Giới" đem lại sự tái sanh trong gia tộc quý
phái và hoàn cảnh an lành hạnh phúc. "Tham Thiền" đưa đến sự tái
sanh trong Sắc Giới và Vô Sắc Giới và nâng đỡ, đưa hành giả đến giác
ngộ và giải thoát. Quả của sự "Hồi Hướng Phước Báu" là
được một đời sống sung túc, dồi dào phong phú. "Hoan Hỷ với phước
báu của người khác" đem lại trạng thái an vui, bất luận trong cảnh
giới nào. "Nghe Pháp" và "Hoằng Pháp" đem lại trí tuệ.
"Kính Trọng Người Đáng Kính"là nhân tạo quả được có thân bằng
quyến thuộc quý phái thượng lưu. "PhụcVụ" tạo quả dưới hình
thức có nhiều người theo hầu hạ và giúp đỡ. "Tán Dương Hành Động
của kẻ khác" đem lại hậu quả là được nhiều người khen tặng.
"Quy Y Tam Bảo" sớm chấm dứt phiền não. "Niệm" đem lại
hạnh phúc dưới nhiều hình thức.
Thiện Nghiệp Tạo Quả Có Thể Trổ
Sanh Trong Sắc Giới
Sau đây là năm tầng thiền Sắc Giới
(Rupa Jhanas) [7] hoàn toàn thuộc về tâm:
1.- Tâm thiện của sơ thiền, gồm:
tầm (vitakka), sát (vicara), phỉ (piti), lạc (sukha), và trụ (ekaggata).
2.- Tâm thiện của nhị thiền gồm:
sát, phỉ, lạc, trụ.
3.- Tâm thiện của tam thiền gồm:
phỉ, lạc, trụ.
4.- Tâm thiện của tứ thiền gồm:
lạc và trụ, và
5.- Tâm thiện của ngũ thiền gồm:
xả (upekkha) và trụ.
Mỗi tầng trong năm tầng thiền ấy
đều là nhân tạo quả tương xứng cho hành giả thọ hưởng trong cảnh sắc
giới, sau khi từ bỏ xác thân nầy.
Thiện Nghiệp
Tạo Quả Trổ Sanh Trong Vô Sắc Giới
Có bốn tầng Thiền Vô Sắc tạo
quả cho hành giả thọ hưởng trong những cảnh trời Vô Sắc:
1.- Tâm thiện đeo níu trạng thái
"không vô biên thiên"(Akasanancayatana).
2.- Tâm thiện đeo níu trạng thái
"thức vô biên thiên" (Vinnanancayatana)
3.- Tâm thiện đeo níu trạng thái
"vô sở hữu thiên"(Akincannacayatana).
4.- Tâm thiện đeo níu trạng thái
"phi tưởng, phi phi tưởng thiên"(Nevasanna nasannayatana). [8]
Chú thích
[1] Dictionary of Philosophy.
[2] Theo triết học Phật Giáo,
không lúc nào không có một loại tâm đang đeo níu một đối tượng, vật
chất hay tinh thần. Nói cách khác, tâm luôn luôn có đối tượng. Đối tượng
của tâm có thể là vật chất như tiếng động, hình sắc hay tinh thần như
một tư tưởng, tâm Từ chẳng hạn. Mỗi chập tư tưởng phát sanh rồi hoại
diệt và, trước khi diệt, tạo điều kiện cho chập tư tưởng kế tiếp
phát sanh. Sự tồn tại của một chập tư tưởng như vậy nhanh đến độ
giác quan của con người khó có thể ý thức được. Những nhà chú giải
ghi nhận rằng trong thời gian một cái nhoáng, có hằng tỷ tỷ chập tư
tưởng phát sanh và hoại diệt.
[3] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 165.
[4] Buddhist Legends -
Dhammapadatthakatha, phần 2, tr. 262.
[5] Buddhist Legends, trang 282.
[6] Theo một vài quyển sách, chính
ông đã giết mẹ.
[7] Theo Vi Diệu Pháp Toát Yếu,
Abhidhammatha Sangaha, Thiền Sắc Giới (Rupa Jhana) có năm tầng, nhưng sách
Visuddhi Magga, Thanh Tịnh Đạo, chỉ nêu lên bốn tầng. Không có nhiều
khác biệt giữa hai lối giải thích. Theo Vi Diệu Pháp, mỗi tầng Thiền
(Jhana) tương ứng với một chi thiền (tầm, sát, phỉ, lạc, trụ). Trong
sách Thanh Tịnh Đạo tầnh nhị thiền không còn hai chi tầm, sát nữa mࠣhỉ
gồm ba chi thiền: phỉ, lạc, trụ.
[8] Để có thêm chi tiết, xem
"A Manual of Abhidhamma", tác giả Narada Thera, trang 43-56.