Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [6]
- Kinh Chuyển Pháp
Luân - Bài Pháp Đầu Tiên
- Con đường
cao thượng nhất là Bát Chánh Đạo.
- Chân lý cao thượng nhất
là Tứ Đế.
- Không luyến ái là trạng
thái tâm cao thượng nhất.
- Cao thượng nhất trong
các loài có hai chân là Đấng Toàn Giác. Kinh Pháp Cú.
Lời Giới Thiệu
Dân tộc Ấn Độ thời xưa được
nổi danh là đã un đúc được nhiều vị hiền triết và giáo chủ lỗi lạc,
mỗi vị có một quan kiến khác nhau về đời sống và mục tiêu của đời
sống. Kinh Brahmajala Sutta (Pham Võng) của bộ Digha Nikaya (Trường A Hàm) ghi
nhận tất cả sáu mươi hai chủ thuyết triết học khác nhau nổi bật nhất
thời bấy giờ.
Một quan kiến cực đoan trái ngược
hẳn với các trào lưu tín ngưỡng lúc ấy là thuyết tuyệt diệt, hay đoạn
kiến, của những người chủ trương sống theo vật chất, cũng gọi là
Carvakas, lấy tên của người sáng lập ra chủ thuyết ấy.
Theo chủ thuyết vật chất này của
thời xưa - danh từ Pali và Sanskrit đều gọi là Lokayata - sau khi chết con
người hoàn toàn tiêu diệt, bỏ lại tất cả mọi năng lực phát nguyên
trong đời sống. Theo họ, chết là hết, là chấm dứt tất cả. Chỉ có
thế gian hiện tại là thực tiễn: "Hãy ăn, uống và tận hưởng mọi
lạc thú, vì cái chết đến với tất cả", hình như là lý tưởng của
hệ thống này. Đối với những người này, "đạo đức là một ảo
tưởng, chỉ có khoái lạc là thực tiễn. Chết là mức cuối cùng của đời
sống. Tôn giáo là một thác loạn điên cuồng, một chứng bệnh thần
kinh. Có sự ngờ vực tất cả những gì tốt đẹp, cao cả, trong sạch và
bi mẫn. Lý thuyết của họ chủ trương thỏa mãn dục vọng, lợi kỷ và
thô kệch xác nhận ý chí tục tằn. Không cần phải kiểm soát khát vọng
và bản năng bởi vì đó là phần di sản thiên nhiên của con người."
Một quan kiến khác chủ trương rằng
chỉ có đời sống khắt khe khổ hạnh mới có thể đưa con người đến
giải thoát. Đó là giáo lý thuần túy đạo đức mà những nhà tu khổ hạnh
thời bấy giờ bênh vực một cách mạnh mẽ. Năm vị đạo sĩ theo hầu cận
Bồ Tát trong cuộc chiến đấu để thành đạt Đạo Quả thuộc về thành
phần này.
Trước khi chứng đắc Quả vô thượng,
chính Đức Phật cũng thực hành đúng theo tôn chỉ này và khép mình vào mọi
hình thức khắc khổ. Sau sáu năm chiến đấu một cách phi thường, Ngài
nhận định rằng lối tu khổ hạnh quả thật vô ích. Do đó, Ngài thay đổi
phương pháp, theo Trung Đạo. Năm vị đệ tử thân tín thấy vậy mất hết
niềm tin, bỏ ra đi và nói rằng: "Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) đã trở lại
đời sống xa hoa, đã chấm dứt cố gắng và đã trở về đời sống tiện
nghi phong phú."
Sự bỏ đi bất ngờ này rõ ràng
là một thiếu thốn vật chất quan trọng cho Đức Phật vì trước kia,
năm vị hết lòng hầu cận và chăm lo hỗ trợ Ngài trong mọi cần yếu.
Tuy nhiên Bồ Tát vẫn không sờn lòng. Trái lại, ý chí sắt đá càng vững
mạnh, có thể Ngài càng thỏa thích hơn trong công phu đơn độc chuyên cần
cố gắng. Với lòng nhiệt thành không suy giảm và năng lực phục hồi, Ngài
kiên trì tận lực tinh tấn cho đến lúc thành đạt Chánh Giác, mục tiêu
cứu cánh của Ngài.
Bài
Pháp Đầu Tiên Của Đức Phật
Bài pháp đầu tiên của đức phật
gọi là Dhammacakka. Phạn ngữ này thường được phiên dịch là "Vương
Quốc của Chân Lý", "Vương Quốc của sự Chánh Đáng",
"Bánh Xe Chân Lý". Theo các nhà chú giải, danh từ Dhamma ở đây có
nghĩa là trí tuệ hay sự hiểu biết, và Cakka là thành lập hay củng cố.
Như vậy, Dhammacakka là thành lập, hay củng cố trí tuệ.
Dhammacakkappavattana là "Trình Bày Sự Củng Cố Trí Tuệ". Dhamma cũng
có nghĩa là chân lý và Cakka là bánh xe. Do đó, Dhamma-cakkappavattana là
"Vận Chuyển hay Củng Cố Bánh Xe Chân Lý".
Trong bài Pháp cực kỳ quan trọng
này Đức Phật truyền bá con đường gọi là "Trung Đạo" mà Ngài
đã khám phá, mà cũng là tinh hoa của giáo lý Ngài. Mở đầu bài Pháp, Đức
Phật khuyên năm vị đạo sĩ khổ hạnh nên xa lánh hai lối tu cực đoan là
lợi dưỡng và khổ hạnh vì cả hai không thể dẫn đến trạng thái tuyệt
đối Thanh Bình An Lạc và Toàn Giác. Lợi dưỡng làm chậm trễ tiến bộ
tinh thần. Khổ hạnh làm giảm suy trí thức. Ngài chỉ trích cả hai vì
chính bản thân Ngài đã tích cực sống theo lối cực đoan ấy và kinh nghiệm
rằng cả hai đều không dẫn đến mục tiêu cứu cánh. Rồi Ngài vạch ra
con đường vô cùng thực tiễn, hợp lý và hữu ích. Đây là con đường
duy nhất dẫn đến tình trạng trong sạch hoàn toàn và tuyệt đối giải
thoát.
Lúc ấy Đức
Phật ngự tại vườn Lộc Giả, Isipatana, gần Benares.
Năm vị đạo sĩ thông minh xuất
chúng -- đã cùng chung sống với Bồ Tát ròng rã sáu năm dài -- là năm chúng
sanh duy nhất trong cảnh người lúc ấy được thính Pháp. Kinh sách ghi rằng
có rất đông những chúng sanh vô hình, như chư Thiên và chư Phạm Thiên, cũng
thừa cơ hội vàng ngọc này đến nghe. Người Phật tử tin rằng ngoài thế
gian này, còn có chúng sanh ở những cảnh giới khác, và cơ thể vật chất
(sắc) của những chúng sanh ấy tế nhị đến đỗi mắt người không thể
trông thấy, và tin rằng lúc bấy giờ chư Thiên và chư Phạm Thiên có thể
nhân cơ hội hy hữu, đến nghe bài Pháp đầu tiên của Đức Phật. Tuy nhiên
bài Pháp rõ ràng hướng về năm đạo sĩ.
Mở đầu, Đức Phật dạy nên
lánh xa hai cực đoan. Chính câu Phật ngôn là:
"Có hai cực đoan (anta) mà người
xuất gia (pabbajitena) không nên nương nhờ".
Đức Phật đặc biệt nhấn mạnh
hai danh từ "anta", là mức tột cùng, điều thái quá, cực điểm
hay cực đoan, và "pabbajita" là người từ bỏ thế gian, ly gia cắt
ái, người xuất gia.
Đúng theo danh từ mà Đức Phật dùng,
một cực đoan là liên tục luyến ái, mãi mãi lăn trôi theo nhục dục ngũ
trần (kamasukhallikanuyoga). Đức Phật mô tả cực đoan này là thấp hèn,
thô bỉ, phàm tục, không xứng phẩm hạnh của bậc thánh nhân và vô bổ.
Không nên lầm hiểu rằng như thế
có nghĩa là Đức Phật mong muốn cho tất cả tín đồ từ bỏ mọi thú
vui vật chất và rút vào rừng sâu vắng vẻ, không thọ hưởng đời sống.
Ngài không đến đỗi hẹp hòi như thế.
Dầu người say đắm nhục dục có
ảo kiến thế nào, đối với ai biết điềm tĩnh suy tư, khoái lạc vật
chất quả thật là ngắn ngủi, không khi nào được thỏa mãn trọn vẹn
và chỉ đưa đến hậu quả bất hạnh. Đề cập đến hạnh phúc trần
gian, Đức Phật dạy rằng thâu thập tài sản và hưởng thọ tài sản đã
thâu thập, là hai nguồn vui thích của người tại gia cư sĩ. Tuy nhiên, bậc
xuất gia chân chánh không tìm thích thú trong việc chạy theo những khoái lạc
tạm bợ nhất thời ấy. Đôi khi người ta lấy làm ngạc nhiên, không hiểu
vì sao người tu hành lại xa lánh mình. Nguồn hạnh phúc của một hạng người
có thể là tiếng chuông báo động cho những người khác, và đối với hạng
người này chỉ có sự xuất gia, từ khước và xa lánh thế tục là hạnh
phúc.
Trái hẳn với lợi dưỡng, cực
đoan kia là một nỗ lực kiên trì trong lối tu khổ hạnh
(attakilamathanuyoga). Phê bình cực đoan này -- mà người thường không thể
thực hành được -- Đức Phật dạy rằng đây là một phương pháp đau khổ,
không xứng phẩm hạnh của bậc thánh nhân, và vô bổ. Khác với cực
đoan kia mà Ngài mô tả là thấp hèn, thô bỉ và phàm tục. Sự loại bỏ
ba danh từ trên thật đáng ghi nhận. Thế thường, chỉ có những đạo sĩ
thành thật quyết tâm từ bỏ mọi luyến ái về nhục dục ngũ trần mới
khép mình vào kỷ cương đau khổ này để thành đạt sự giải thoát trọn
vẹn ra khỏi những phiền não của đời sống. Đức Phật đã tự bản
thân kinh nghiệm lối tu đau khổ ấy. Ngài miêu tả nó là vô ích, làm gia
tăng đau khổ thay vì suy giảm.
Chư Phật và chư vị A Là Hán được
gọi là Ariya, có nghĩa là những bậc Cao Quý, Thánh Thiện. Như vậy, danh từ
thấp hèn (Anariya, hạ liệt, nghịch nghĩa với Ariya) có thể được phân
giải là không phải phẩm hạnh của chư Phật và chư vị A Là Hán, những
người đã vượt lên khỏi mọi dục vọng .
Attha là sự tốt đẹp cùng tột, Cực
Thiện, đối với người Phật tử, đó là Niết Bàn , sự thoát ly toàn vẹn
ra khỏi mọi phiền lụy. Vậy danh từ vô bổ (anatthasamhita) có thể được
phân giải là "không dẫn đến Cực Thiện, Giải Thoát".
Trước tiên, Đức Phật rọi rõ vấn
đề và làm sáng tỏ các ý niệm sai lầm của những người đang lắng
nghe Ngài giảng. Đến khi tâm sôi động của các vị này đã trở nên sẵn
sàng để lãnh hội, Đức Phật mới thuật lại kinh nghiệm bản thân của
Ngài về hai cực đoan này.
Đức Phật dạy rằng Ngài (Như
Lai) nhận thức được điểm sai lầm của hai cực đoan này nên theo con
đường ở khoảng giữa - Trung Đạo. Đạo, hay con đường mới này đó
chính Ngài đã khám phá. Đức Phật gọi hệ thống mới mẻ này là
Majjhima Patipada, Trung Đạo.
Để thuyết phục năm vị đệ tử
nên chú tâm đến con đường mới này, Ngài giảng về những lợi ích của
nó. Không giống như hai cực đoan, con đường ở khoảng giữa này đem lại
giác ngộ tinh thần và trí tuệ minh mẫn, thấy được thực tướng của sự
vật. Khi tinh thần lắng dịu được sáng tỏ và trí tuệ được khai thông
thì mọi sự vật đều hiện ra trong bối cảnh thật sự của nó.
Hơn nữa, không giống như hai cực
đoan nói trên, chỉ khích động dục vọng, Trung Đạo này chế ngự mọi
thèm khát vật chất và do đó, dẫn đến bốn Thánh Đạo, thấu triệt Tứ
Diệu Đế, và sau cùng chứng ngộ mục tiêu tối hậu, Niết Bàn.
Bây giờ, "Trung Đạo" là
con đường như thế nào?
Đức Phật giải đáp: "Đó là
Bát Chánh Đạo", con đường có tám chi và Ngài kể ra tám yếu tố ấy
trong bài kinh Chuyển Pháp Luân.
Yếu tố đầu tiên là Chánh Kiến,
điểm then chốt của Phật Giáo. Đức Phật khởi đầu bằng Chánh Kiến,
sự hiểu biết chân chính để phá tan mọi hoài nghi của năm vị đạo sĩ
và hướng dẫn các vị ấy vào con đường chánh. Chánh Kiến đề cập đến
sự hiểu biết thực tướng của chính mình và dẫn đến Chánh Tư Duy, suy
niệm chân chánh về đức hạnh không luyến ái hay khước từ, xuất gia
(nekkhamma samkappa), tâm từ (avyapada samkappa), và tánh ôn hòa (avihimsa
samkappa), những đặc điểm đối nghịch với lòng vị kỷ, ác ý và tánh
hung bạo. Chánh Ngữ, có lời nói chân chánh, Chánh Nghiệp, tạo nghiệp
chân chánh, và Chánh Mạng, nuôi mạng chân chánh, là ba yếu tố để toàn
thiện giới đức. Yếu tố thứ sáu là Chánh Tinh Tấn, nỗ lực chân
chánh, có liên quan đến công phu diệt trừ những trạng thái tâm xấu và
phát triển những tâm trạng tốt. Công trình tự thanh lọc có thể được
hoàn tất viên mãn bằng cách thận trọng nhìn trở lại vào bên trong
chính mình. Do đó Chánh Niệm, yếu tố thứ bảy, quả thật là thiết yếu.
Tinh Tấn phối hợp với Niệm, tạo nên Chánh Định, tức tâm an trụ vào
một điểm duy nhất, nhất điểm tâm, là yếu tố thứ tám. Tâm an trụ giống
như mặt kiếng được lau chùi bóng láng và mọi vật đều phản ảnh rõ
ràng trung thực, không bị méo mó, không lu mờ.
Mở đầu bài Pháp bằng hai cực
đoan và con đường "Trung Đạo" mà Ngài khám phá, Đức Phật giảng
tiếp Tứ Diệu Đế, bốn Chân Lý Thâm Diệu, với nhiều chi tiết.
Phạn ngữ Sacca, là chân lý, cái
gì thực sự có. Danh từ Bắc Phạn (Sanskrit) tương đương là Satya, một sự
kiện không còn tranh luận nữa. Đức Phật kể ra bốn Chân Lý như vậy, và
bốn Chân Lý này (Tứ Đế) là nền tảng của giáo lý nhà Phật, mật thiết
liên quan đến cái gọi là chúng sanh. do đó, Phật Giáo lấy nhân bản làm
trung tâm, lấy con người làm trụ cột, trái ngược với những tôn giáo lấy
thần linh làm trung tâm. Phật Giáo hướng nội, không hướng ngoại. Dầu
chư Phật có xuất hiện trên thế gian hay không, những Chân Lý ấy vẫn hiện
hữu và một vị Phật chỉ khám phá ra nó bằng cách trực nhận, và truyền
dạy lại cho người thế gian còn bị màn vô minh che lấp. Chân lý là sự
thật vĩnh cửu, bất đi bất dịch và không thể bị thời gian biến đổi.
Đức Phật một mình chứng ngộ những Chân Lý này chớ không có sự hỗ
trợ nào của ai khác, và Ngài đã ghi nhận rõ ràng trong bài kinh Chuyển
Pháp Luân: "Đối với các pháp trước kia chưa từng được nghe, nhãn
quan, tri kiến, trí tuệ, giác tuệ, minh sát tuệ, và ánh sáng, phát sanh đến
Như Lai." Những danh từ này rõ thật có ý nghĩa vì nó chứng tỏ đặc
tánh nguyên thủy của Giáo Pháp mới mẻ mà Ngài đã tìm ra. Do đó không
thể chứng minh được giả thuyết chủ trương rằng Phật Giáo là một mức
độ trưởng thành tự nhiên của Ấn Độ Giáo, mặc dầu quả thật có
nhiều điểm tương đồng giữa hai tôn giáo.
Danh từ Pali gọi những Chân Lý
này là Ariya Saccani (những chân lý thánh thiện, hay Thánh Đế), vì đây là
những Chân Lý được tìm ra do Đức Phật, là bậc Thánh nhân (Ariya) vĩ đại
nhất, hoàn toàn trong sạch và đã thanh lọc trọn vẹn mọi nhiễm ô.
Thánh Đế đầu tiên (Khổ Đế) đề
cập đến Dukkha - một Phạn ngữ khó phiên dịch được một cách chính
xác - mà ta thường gọi là đau khổ. Đứng về phương diện cảm giác,
"du" là khó, "kha" là chịu đựng, "dukkha" là cái
gì làm cho khó chịu đựng. Hiểu như một chân lý trừu tượng,
"Du" là cái gì đáng khinh miệt, không đáng bám níu. "Kha"
là hư vô, rỗng không. Thế gian nằm trong biển khổ và như vậy là đáng
khinh miệt, ghê tởm, không đáng cho ta bám níu. Thế gian là một ảo ảnh,
không có chi là thực tế, do đó thế gian là hư vô, rỗng không. Vậy,
Dukkha là hư vô, không đáng cho ta bám níu.
Hạng người thường chỉ thấy lớp
ngoài của sự vật. Nhưng bậc thánh nhân nhận ra chân tướng của vạn pháp.
Đối với bậc thánh nhân (ariya) đời
sống là đau khổ, không thể sống mà không chịu khổ, vì các Ngài thấy
rằng không thể có hạnh phúc thật sự, vững bền, trong một thế gian huyền
ảo, tạm bợ, chỉ có thể làm cho nhân loại thất vọng.
Mọi người đều phải chịu cảnh
sanh (jati), và do đó, già (jara), bệnh (vyadhi) và cuối cùng chết (marana).
Không ai có thể tránh khỏi bốn nguồn đau khổ ấy.
Điều mong ước mà không được thành
tựu cũng là khổ. Thế thường, ta không muốn sống chung với những vật
hay những vật mình không ưa mà cũng không muốn xa lìa những vật hay những
người thân yêu. Nhưng, điều thiết tha mong mỏi không phải lúc nào cũng
được thành tựu như ý muốn. Trái lại, những cảnh ngộ nghịch lòng hay
những điều ít mong mỏi nhất, lắm khi đến với ta một cách đột ngột.
Những trường hợp nghịch cảnh tương tợ trở thành không thể chịu đựng
nổi và đau khổ đến đỗi vài người yếu tánh và kém hiểu biết phải
nghĩ đến quyên sinh cuộc đời, tưởng chừng như chết là giải quyết
được mọi vấn đề đau khổ.
Hạnh phúc thật sự nằm bên trong
chúng ta, và không thể được định nghĩa bằng những danh từ như tài sản,
sự nghiệp, quyền lực, danh vọng, hay chinh phục, xâm lăng. Nếu những điều
kể trên được thâu thập bằng bạo lực, cường quyền hay một cách bất
công, hoặc hướng sai chiều, hay nhìn với tâm luyến ái, nó sẽ trở
thành nguyên nhân sanh đau khổ hay phiền muộn.
Một người thông thường, trung bình,
chỉ biết thọ hưởng dục lạc, và cho đó là cao thượng, là hạnh phúc
duy nhất. Trong sự thỏa mãn nhục dục, chắc chắn có hạnh phúc nhất thời
khi mong chờ, khi thọ hưởng, và khi hồi nhớ các thú vui ấy. Nhưng nó chỉ
là tạm bợ và huyền ảo. Theo Đức Phật, không luyến ái (viragata), hay vươn
mình vượt qua khỏi những khoái lạc vật chất là hạnh phúc cao thượng
hơn.
Tóm tắt, chính cơ thể được cấu
tạo này (pancupadanakkandha, do ngũ uẩn phối hợp) là nguyên nhân sanh đau khổ.
Có ba loại ái dục. Đầu tiên,
hình thức ái dục thô kịch nhất là luyến ái theo nhục dục ngũ trần
(kamatanha). Thứ nhì là luyến ái đời sống (bhavatanha), và thứ ba là luyến
ái theo trạng thái vô sanh (vibhavatanha). Theo các bản chú giải thì hai loại
ái dục sau là luyến ái những khoái lạc vật chất có liên quan đến niềm
tin rằng vạn vật là trường tồn vĩnh cửu (sassataditthi, thường kiến) và
luyến ái có liên quan đến sự tin tưởng rằng sau kiếp sống này là hư
vô, không còn gì hết (ucchedaditthi, đoạn kiến). Bhavatanha cũng có nghĩa là
luyến ái trong Sắc Giới và Vibhavatanha là luyến ái trong Vô Sắc Giới,
vì Aruparaga (ham muốn đeo níu theo Vô Sắc Giới) cũng được xem là hai thằng
thúc (samyojana, dây trói buộc, cột chúng sanh vào vòng luân hồi).
Ái dục là một năng lực tinh thần
vô cùng hùng mạnh, luôn luôn ngủ ngầm trong mỗi người và là nguyên
nhân chánh của phần lớn các điều bất hạnh trong đời. Chính ái dục,
thô kịch hay vi tế, làm cho ta bám víu vào đời sống và do đó, dẫn dắt
ta mãi mãi phiêu bạt trong vòng luân hồi.
Những hình thức thô kịch nhất của
ái dục được giảm suy phần nào khi đắc Quả Tư Đà Hàm (Nhất Lai), tầng
nhì trong các tầng thánh, và chỉ được diệt trừ khi đắc Quả A Na Hàm
(Bất Lai), tầng thánh thứ ba. Những hình thức ái dục tế nhị được tận
diệt trọn vẹn khi thành đạt Đạo Quả A La Hán.
Hiểu biết Chân Chánh Chân Lý đầu
tiên (Khổ Đế) dẫn đến tận diệt (pahatabba) ái dục. Rồi Chân Lý thứ
nhì (Tập Đế) đề cập đến thái độ tinh thần của một người bình
thường đối với ngũ trần. Chân Lý thứ ba (Diệt Đế) là có sự chấm
dứt trọn vẹn mọi hình thức đau khổ, tức Niết Bàn, mục tiêu cứu
cánh của người Phật tử. Niết Bàn có thể được thành tựu trong chính
kiếp sống hiện tiền, bằng cách tận diệt mọi hình thức ái dục. Niết
Bàn phải được thấu triệt (sacchikatabba) do nhãn quan tinh thần, bằng
cách chấm dứt mọi luyến ái với thế gian bên ngoài.
Khổ Đế - tùy thuộc nơi cái gọi
là chúng sanh và những sắc thái khác nhau của đời sống - phải được
thận trọng nhận thức, phân tách và quan sát (parinneyya). Sự quan sát này
dẫn đến tri kiến thích đáng thực tướng của chính ta.
Nguyên nhân của đau khổ là ái dục,
hay luyến ái (tanha). Đó là Tập Đế, Chân Lý Thâm Diệu thứ nhì.
Kinh Pháp Cú ghi:
"Do ái dục sanh phiền muộn. Do
ái dục sanh lo sợ. Người đã hoàn toàn chấm dứt ái dục không còn phiền
muộn, càng ít lo sợ". (câu 216)
Đức Phật dạy rằng ái dục dẫn
đến sanh-tử, tử-sanh, triền miên, mãi mãi (ponobhavika, dẫn đến tái
sanh). Phạn ngữ này rất đáng được ghi nhận vì có vài học giả cho rằng
Đức Phật không hề dạy thuyết tái sanh. Tập Đế gián tiếp đề cập
đến đời sống quá khứ, hiện tại và vị lai.
Diệt Đế, Chân Lý Thâm Diệu thứ
ba, phải được chứng ngộ bằng cách phát triển (bhavetabba) Bát Chánh Đạo
(Ariyatthangika magga, Bát Thánh Đạo). Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất
dẫn ngay đến Đạo Quả Niết Bàn và cũng là Chân Lý Thâm Diệu cuối
cùng - Đạo Đế - trong Tứ Diệu Đế.
Sau khi đã giảng giải Tứ Diệu Đế
một cách tỉ mỉ và rành mạch, Đức Phật kết luận bài Pháp với những
lời mạnh mẽ sau đây: "Hỡi nầy các Tỳ Khưu, ngày nào mà tri kiến
tuyệt đối như thực của Như Lai về Tứ Đế dưới ba sắc thái và mười
hai phương thức [1], chưa được hoàn toàn sáng tỏ thì, cho đến chừng
ấy, Như Lai không xác nhận rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác (anuttara sammasambodhi).
"Khi tri kiến tuyệt đối như
thực của Như Lai về Tứ Đế trở nên hoàn toàn sáng tỏ, chỉ đến chừng
ấy, Như Lai mới xác nhận rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh
Đảng Chánh Giác.
"Và lúc ấy phát sanh tri kiến
và tuệ giác: Tâm của Như Lai đã hoàn toàn giải thoát một cách vững chắc,
không còn lay chuyển, và đây là kiếp sống cuối cùng, không còn đời sống
nào khác nữa."
Khi thời Pháp chấm dứt, Kondanna
(Kiều Trần Như), vị đệ tử cao niên nhất trong năm vị, thấu triệt Giáo
Pháp và đắc Quả Tu Đà Hườn, tầng đầu tiên trong bốn tầng Thánh.
Ngài chứng ngộ rằng cái gì đã có sinh ra tức phải hoại diệt - Yam
kinci samudayadhammam sabbam tam nirodha-dhammam.
Lúc Đức Phật chuyển Pháp Luân,
chư Thiên trên quả địa cầu hoan hô:
"Pháp Luân này quả thật tuyệt
diệu! Không có sa môn, bà la môn, chư Thiên, Ma Vương hay Phạm Thiên nào
trên thế gian có thể giảng được. Đức Thế Tôn đã vận chuyển Pháp
Luân trong vườn Lộc Giả, tại Isipatana, gần Benares (Ba La Nại)."
Nghe vậy chư Thiên và chư Phạm Thiên
trong tất cả các cảnh giới khác của đồng thanh hoan hô.
Một hào quang rực rỡ phát chiếu
rọi sáng thế gian, tỏ hơn hào quang của chư Thiên nhiều.
Ánh sáng của Giáo Pháp làm tỏ rạng
toàn thể dân gian và đem trạng thái thanh bình an lạc và hạnh phúc đến
cho tất cả chúng sanh.
- Bài Pháp Đầu Tiên Của
Đức Phật
- Dhammacakkappavattana Sutta (Kinh Chuyển Pháp Luân )
Lúc ấy tôi có nghe như thế này:
Một thời nọ, lúc Đức Thế Tôn
ngự tại vườn Lộc Giả [2], xứ Isipatana [3], gần Benares, Ngài dạy năm vị
tỳ khưu như sau:
"Hỡi nầy các Tỳ Khưu, có hai
cực đoan (anta) mà hàng xuất gia (pabbajitena) phải tránh:
1.- Sự dể duôi trong dục lạc -
là thấp hèn, thô bỉ, phàm tục, không xứng phẩm hạnh của bậc thánh
nhân, và vô ích.
2.- Sự thiết tha gắn bó trong lối
tu khổ hạnh - là đau khổ, không xứng phẩm hạnh của bậc thánh nhân,
và vô ích.
Từ bỏ cả hai cực đoan ấy, Như
Lai [4] đã chứng ngộ "Trung Đạo" (Majjhima Patipada), là con đường
đem lại nhãn quan (cakkhu) và tri kiến (nana) và đưa đến an tịnh
(vupasamaya) [5], trí tuệ cao siêu (abhinnaya) [6], giác ngộ (sambhodhaya) [7], và
Niết Bàn.
"Hởi nầy các Tỳ Khưu, con
đường Trung Đạo mà Như Lai đã chứng ngộ, con đường đem lại nhãn
quan, tri kiến và đưa đến an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ và Niết
Bàn là gì?
Đó chính là Bát Chánh Đạo (con
đường có tám chi) - là Chánh Kiến (samma ditthi), Chánh Tư Duy (samma
samkappa), Chánh Ngữ (samma vaca), Chánh Nghiệp (samma kammanta), Chánh Mạng
(samma ajiva), Chánh Tinh Tấn (samma vayama), Chánh Niệm (samma sati), và Chánh Định
(samma samadhi). Hỡi này các Tỳ Khưu, đó là "Trung Đạo" mà Như
Lai đã chứng ngộ".
(Đức Phật giảng tiếp):
"Hỡi này các Tỳ Khưu, bây giờ,
đây là Chân Lý Thâm Diệu về sự Khổ (dukkha-ariya-sacca, Khổ thánh đế):
"Sanh là khổ, già là khổ, bệnh
là khổ, chết là khổ, sống chung với người mình không ưa thích là khổ,
xa lìa những người thân yêu là khổ, mong muốn mà không được là khổ,
tóm lại, chấp thân ngũ uẩn là khổ." [8]
Bây giờ, hỡi này các Tỳ Khưu, đây
là Chân Lý Thâm Diệu về Nguồn Gốc của Đau Khổ
(dukkha-samudaya-ariyasacca, Tập khổ thánh đế). Chính Ái Dục là nguyên nhân
đưa đến sự tái sanh (ponobhavika).
Ái, hợp với tâm thiết tha khao
khát, bám níu cái này hay cái kia (đời sống). Chính là Ái, đeo níu theo nhục
dục ngũ trần (kamatanha), ái đeo níu theo sự sinh tồn (bhavatanha, sanh ái,
luyến ái với ý tưởng cho rằng vạn vật là trường tồn vĩnh cửu), và
ái, đeo níu theo sự không sinh tồn (vibhavatanha, vô sanh ái, luyến ái với
ý tưởng cho rằng sau cái chết là hư vô).
Bây giờ, hỡi này các Tỳ Khưu, đây
là Chân Lý Thâm Diệu về Sự Diệt Khổ (dukkha-nirodha-ariyasacca, Diệt khổ
thánh đế). Đó là xa lánh trọn vẹn và tận diệt chính tâm ái dục ấy.
Đó là sự rời bỏ, sự từ khước, sự thoát ly và sự tách rời ra khỏi
tâm ái dục.
Bây giờ, hỡi này các Tỳ Khưu, đây
là Chân Lý Thâm Diệu về Con Đường dẫn đến sự Diệt Khổ
(dukkha-nirodha-gamini-patipada-ariya-sacca, Đạo diệt khổ thánh đế).
Đó là Bát Chánh Đạo: Chánh Kiến,
Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm
và Chánh Định
-I-
(1) "Đây là Khổ Thánh Đế"
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ,
minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(2) "Khổ Thánh Đế này phải
được nhận thức (parinneya)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ,
minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(3) "Khổ Thánh Đế này đã
được nhận thức (parinnata)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ,
minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
-II-
(1) "Đây là Tập Khổ Thánh Đế."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ,
minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(2) "Tập Khổ Thánh Đế này phải
được tận diệt (pahatabba)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ,
minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(3) "Tập Khổ Thánh Đế này đã
được tận diệt (pahinam)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ,
minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
-III-
(1) "Đây là Diệt Khổ Thánh Đế."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ,
minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(2) "Diệt Khổ Thánh Đế này
phải được chứng ngộ (sacchikatabba)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ,
minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(3) "Diệt Khổ Thánh Đế này
đã được chứng ngộ (sacchikatam)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ,
minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
-IV-
(1) "Đây là Đạo Diệt Khổ Thánh
Đế"
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ,
minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(2) "Đạo Diệt Khổ Thánh Đế
này phải được phát triển (bhavetabbam)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ,
minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(3) "Đạo Diệt Khổ Thánh Đế
này đã được phát triển (bhavitam)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối
với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ,
minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(Để kết luận thời Pháp, Đức
Phật dạy):
"Hỡi này các Tỳ Khưu, ngày
nào mà tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế,
dưới ba sắc thái và mười hai phương thức [9] chưa được hoàn toàn
sáng tỏ thì, cho đến chừng ấy, Như Lai không xác nhận trước thế gian
gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng sa môn, bà la môn,
Trời và người, rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác (anuttaram samma-sambodhim).
Đến khi, hỡi này các Tỳ Khưu,
tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới
ba sắc thái và mười hai phương thức, đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ, chỉ
đến chừng ấy, Như Lai mới xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma
Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng sa môn, bà la môn, Trời và người, rằng
Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
Và lúc ấy tri kiến và tuệ giác
phát sanh đến Như Lai (nanadassana). Tâm của Như Lai đã hoàn toàn giải
thoát một cách vững chắc, không còn lay chuyển, và đây là kiếp sống cuối
cùng, không còn kiếp sinh tồn nào khác nữa." [10]
Đức Phật giảng như thế ấy và
các vị tỳ khưu lấy làm hoan hỷ tán dương lời dạy của Đức Thế Tôn.
Khi Đức Phật giảng xong thời Pháp,
pháp nhãn (Dhammacakkhu) [11] của Ngài Kondanna (Kiều Trần Như) không còn vướng
bụi, hết bợn nhơ, (và Ngài thấy rằng) "cái gì đã có sanh tức phải
hoại diệt."
Lúc Đức Thế Tôn chuyển Pháp
Luân, chư Thiên trên quả địa cầu hoan hô: "Pháp Luân này quả thật
tuyệt diệu! Không có sa môn, bà la môn, chư Thiên, Ma Vương hay Phạm Thiên
nào trên thế gian có thể giảng được. Đức Thế Tôn đã vận chuyển
Pháp Luân này trong vườn Lộc Giã, tại Isipatana, gần Benares (Ba La Nại)."
Nghe như vậy, chư Thiên ở các cung
Trời Tứ Đại Thiên Vương, Đạo Lợi, Dạ Ma, Đấu Xuất Đà, Hoá Lạc
Thiên, Tha Hoá Tự Tại, và chư Phạm Thiên ở cõi Phạm Chúng Thiên, Brahma
Purohita, Đại Phạm Thiên, Thiều Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên, Quang Âm
Thiên, Thiều Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên Biến Tịnh Thiên, Quảng Quả
Thiên, Vô Tưởng Thiên, Vô Phiên Thiên, và chư Phạm Thiên ở cảnh giới
hoàn toàn tinh khiết, cảnh giới trường cửu, thanh tịnh, đẹp đẽ, quang
đãng và tối thượng, cũng đồng thanh hoan hô.
Chính ngay trong lúc ấy, trong khoảnh
khắc ấy, tiếng hoan hô thấu đến cảnh Phạm Thiên. Mười ngàn thế giới
ấy đều chuyển động, lung lay và rung chuyển mạnh mẽ.
Một hào quang rực rỡ phát chiếu,
rọi sáng thế gian, sáng tỏ hơn hào quang của chư Thiên nhiều. Đức Thế
Tôn nói: "Kondanna quả đã chứng ngộ, Kondannna quả đã chứng ngộ".
Do đó Ngài Kondannna có tên là
Annata Kondannna.
-oOo-
Vài
Nhận Xét về Kinh Chuyển Pháp Luân
1. Phật Giáo căn cứ trên kinh nghiệm
bản thân. như vậy, Phật Giáo hợp lý, không phải là một lý thuyết chỉ
dựa trên suy niệm và luận lý suông.
2. Đức Phật tránh xa những hệ thống
tư tưởng có thế lực thời bấy giờ và trình bày một "Trung Đạo",
hoàn toàn do Ngài tìm ra chớ không dựa vào lập luận của ai.
3. Phật Giáo là một con đường
hay Đạo (magga).
4. Kiến thức thích hợp với lý
trí là điểm then chốt của Phật Giáo.
5. Đức tin mù quáng bị loại trừ,
không còn chỗ đứng trong Phật Giáo.
6. Phật Giáo nhấn mạnh tầm quan
trọng của sự thực hành, thay vì chú trọng đến tín ngưỡng và giáo điều.
Tin tưởng suông vào giáo điều không thể dẫn đến giải thoát.
7. Nghi thức và cúng tế, được
xem là quan trọng trong kinh Phệ Đà (Veda), không có vai trò trong Phật Giáo.
8. Không có Thần Linh để con người
phải khép nép kính sợ.
9. Không có giai cấp trung gian giữa
người và Thần Linh để con người phải rụt rè.
10. Giới (sila), Định (samadhi), Tuệ
(panna) là chánh yếu để thành tựu mục tiêu - Niết Bàn.
11. Nền tảng của Phật Giáo là bốn
Chân Lý (Tứ Diệu Đế) có thể kiểm nhận bằng kinh nghiệm.
12. Tứ Diệu Đế dính liền với
con người.
13. Bốn Chân Lý ấy do chính Đức
Phật khám phá và Ngài đã tìm ra một mình, không nhờ ai. Chính câu Phật
ngôn là: "Bốn Chân Lý này chưa từng được nghe".
14. Đã là Chân Lý thì không thể
biến đổi với thời gian.
15. Khổ Đế, chân lý đầu tiên,
đề cập đến những thành phần cấu tạo bản ngã, hay cái được gọi là
cá nhân, và những giai đoạn khác nhau trong đời sống. Các thành phần
này cần phải được phân tách, xem xét tỉ mỉ và quan sát. Sự quan sát
này dẫn đến hiểu biết mình một cách chân chính.
16. Thấu triệt Chân Lý thứ nhất
(Khổ Đế) một cách hợp lý đưa đến tận diệt nguyên nhân của Khổ,
Chân Lý thứ nhì. Đế này đề cập đến thái độ tâm lý của một người
thông thường đối với ngoại cảnh.
17. Chân Lý thứ nhì (Tập Đế) có
liên quan đến một năng lực hùng hậu luôn luôn ngủ ngầm bên trong mỗi
người.
18. Chính năng lực tinh thần hùng hậu
ấy - ái dục - là nguyên nhân đưa đến tất cả những điều bất hạnh
trong đời sống.
19. Tập Đế đề cập một cách
gián tiếp đến những kiếp sống quá khứ, hiện tại và tương ai.
20. Như vậy, sự hiện hữu của
chuỗi dài những kiếp sinh tồn đã được Đức Phật biện minh.
21. Do đó, lý nghiệp báo, một hệ
luận của thuyết tái sanh, cùng một lúc, cũng được bao hàm đề cập đến.
22. Hai Chân Lý đầu tiên là tại
thế, thuộc về thế gian (lokiya). Chân Lý thứ ba - chấm dứt đau khổ - mặc
dầu tùy thuộc nơi ta, là siêu thế (lokuttara) và vượt hẳn ra ngoài phạm
vì luân lý.
23. Đế thứ ba - thuần túy là sự
tự giác - là một pháp (dhamma) phải được thấu triệt bằng nhãn quan
tinh thần (sacchikatabba).
24. Chân Lý này - Diệt Đế - phải
được chứng ngộ bằng sự siêu thoát hoàn toàn. Đây không phải là trường
hợp từ khước những trần cảnh bên ngoài, mà là dứt bỏ mọi luyến
ái ở bên trong đối với thế gian bên ngoài.
25. Diệt Đế được thành tựu bằng
cách tận diệt trọn vẹn mọi luyến ái. Nhưng phải ghi nhận rằng nếu
chỉ có một việc là tận diệt năng lực tinh thần ấy (luyến ái) thì
không đủ để chứng ngộ Niết Bàn, Chân Lý thứ ba, vì như thế, Niết Bàn
sẽ có nghĩa là hư vô. Tuy nhiên, đạo Quả phải được thành đạt bằng
cách tận diệt năng lực ấy vì chính nó trói buộc chúng sanh vào thế
gian (tam giới: Dục, Sắc và Vô Sắc Giới).
26. Niết Bàn không phải được tạo
nên (uppadetabba) mà phải được đạt đến (pattaba). Niết Bàn có thể được
thành tựu ngay trong kiếp sống hiện tại này. Như vậy, có thể hiểu rằng
mặc dầu tái sanh là giáo lý chánh yếu trong Phật Giáo, mục tiêu cứu
cánh của Phật Giáo là chấm dứt tái sanh - không tùy thuộc ở tương lai,
vì có thể thành tựu trong kiếp sống hiện tiền.
27. Đế thứ ba phải được thành
tựu bằng cách trau dồi và phát triển đế thứ tư.
28. Để tận diệt một năng lực hùng
mạnh (ái dục) cần phải vận dụng và phát triển tám yếu tố công hiệu
(Bát Chánh Đạo).
29. Tất cả tám yếu tố đều thuộc
về tinh thần.
30. Tám năng lực tinh thần hùng mạnh
và có tánh cách thiện, phải được tập trung để đánh đổ một năng lực
bất thiện dai dẳng ngủ ngầm bên trong ta.
31. Tuyệt đối tinh khiết, hoàn
toàn thoát ra khỏi mọi tiến trình sanh tử triền miên, một cái tâm không
còn vướng chút ô nhiễm, trạng thái bất diệt (amata), là những phước lành
đi kèm theo cuộc chiến thắng vĩ đại này.
32. Có phải chăng sự giải thoát
này là hoàn hảo hay tuyệt đối tinh khiết?
Quan điểm sau cùng là thích đáng hơn.
33. Trong mỗi trường hợp, có thể
nêu lên một câu hỏi: Hoàn hảo là gì? Tuyệt đối tinh khiết là gì?
Không có một chúng sanh hay một thực
thể thuần nhất và trường tồn trong Phật Giáo mà chỉ có một luồng
tâm xem như một dòng nước luôn luôn trôi chảy.
Như vậy, đúng hơn, ta phải nói rằng
luồng tâm đã được thanh lọc, trở nên hoàn toàn tinh khiết bằng cách tận
diệt và loại trừ mọi ô nhiễm.
- Bài Pháp Thứ Nhì
- Anattalakkhana Sutta (Kinh Vô Ngã Tướng)
[12]
Một thời nọ, lúc Đức Thế Tôn
ngự tại vườn Lộc Giả, xứ Isipitana, gần Benares (Ba La Nại). Ngài mở lời
dạy nhóm năm vị Tỳ Khưu: "Này hỡi các Tỳ Khưu".
"Bạch Hóa Đức Thế Tôn",
năm vị trả lời.
Rồi Đức Phật truyền dạy như
sau:
"Hỡi các Tỳ Khưu, sắc (rupa)
là vô ngã (anatta, không có một linh hồn trường cửu). Hỡi các Tỳ Khưu,
nếu trong đó có linh hồn [13], thì sắc này không phải chịu đau khổ. 'Sắc
này phải như thế này hay sắc này phải không như thế kia' trường hợp
tương tự có thể xảy ra. Nhưng vì sắc này không có linh hồn nên còn phải
chịu khổ đau và không thể có trường hợp (ra lệnh): 'Phải như thế này
hay phải không như thế kia'.
"Cùng một thế ấy, thọ
(vedana), tưởng (sanna), hành (samkhara) và thức (vinnana) [14] đều vô ngã.
"Vậy, chư Tỳ Khưu nghĩ thế nào,
sắc này thường còn hay vô thường?
- Bạch Đức Thế Tôn, là vô thường
(anicca).
- Cái gì vô thường là khổ đau
hay hạnh phúc?
- Bạch Đức Thế Tôn, là khổ
(dukkha).
- Vậy, có hợp lý chăng nếu nghĩ
đến cái gì vô thường, khổ và tạm bợ với ý tưởng: 'Cái này của
tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi?' [15]
- Bạch Đức Thế Tôn, chắc chắn
là không hợp lý.
- Cùng thế ấy, này hỡi các Tỳ
Khưu, thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường và khổ. Vậy có hợp
lý chăng nếu nghĩ đến những gì vô thường, khổ và tạm bợ với ý tưởng:
'Cái này của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi?'
- Bạch Đức Thế Tôn, chắc chắn
là không hợp lý.
- Như vậy, này hỡi các Tỳ Khưu,
tất cả các sắc, dầu ở quá khứ, hiện tại hay tương lai, ở bên trong
hay ở ngoại cảnh, thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay cao thượng, xa hay gần,
phải được nhận thức với tri kiến chân chánh theo thực tướng của nó:
'Cái này không phải của tôi (n'etam mama). Đây không phải là tôi (n'eso
h'amasmi), cái này không phải là tự ngã của tôi (na me so atta)'.
Tất cả thọ, tưởng, hành, thức,
dầu ở quá khứ, hiện tại hay vị lai, ở bên trong hay ở ngoại cảnh,
thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay cao thượng, xa hay gần, đều phải được
nhận thức với tri kiến chân chánh theo thực tướng của nó: 'Cái này
không phải của tôi, đây không phải là tôi, cái này không phải tự ngã
của tôi'.
"Bậc Thánh đệ tử thông suốt
pháp học thấy vậy thì nhàm chán sắc, thọ, tưởng, hành, thức - dứt bỏ,
không luyến ái những gì không đáng được ưa thích và do sự dứt bỏ
ấy, giải thoát. Rồi tri kiến trở nên sáng tỏ: 'Ta đã giải thoát'. Vị
ấy thấu hiểu rằng dòng sanh tử đã chấm dứt, đời sống phạm hạnh
đã được thành tựu, những điều cần phải làm đã được hoàn tất
viên mãn, không còn trở lại trạng thái này nữa.
"Đức Thế Tôn giảng giải như
vậy, và các vị Tỳ Khưu lấy làm hoan hỷ, tán dương lời dạy của Ngài".
Khi Đức Phật thuyết xong thời Pháp,
tâm của năm vị Tỳ Khưu đều trở nên hoàn toàn trong sạch, không còn
chút ô nhiễm. [16]
Chú thích
[1] Ba sắc thái là: a. Tri kiến về
Tứ Đế (Sacca-nana), b. Tri kiến có liên quan đến cơ năng của Tứ Đế
(Kicca-nana) và, c. Tri kiến rằng cơ năng của mỗi đế đã được thành tựu
(Kata-nana). Mỗi đế có ba sắc thái. Vậy, bốn đế gồm tất cả mười
hai phương thức.
[2] Mahavagga tr. 10, Samyutta Nikaya (Tạp
A-Hàm), tập V, trang 420
[3] Hiện nay là Saranath, nơi mà
trong một tiền kiếp, Đức Thế Tôn đã hy sinh mạng sống để cứu một
con thỏ cái đang lâm nạn cùng với một con thỏ con chưa sanh. Trong kiếp sống
ấy Bồ Tát có tên là Saranganatha, người bảo vệ loài nai, do đó tên hiện
tại của nơi này là Sarnath.
[4] "Người đã đến như thế
ấy" hay "Người đã đi như thế ấy". Đức Phật thường dùng
hình dung từ này để tự xưng.
[5] Chế ngự dục vọng.
[6] Chứng ngộ Tứ Diệu Đế.
[7] Thành đạt bốn Đạo và bốn
Quả.
[8] Pancupadanakkhandha (panca + upadana +
khandha). Theo Phật Giáo, cái được gọi là chúng sanh gồm năm nhóm, hay năm
uẩn, là Sắc (Rupa, vật chất), Thọ (Vedana), Tưởng (Sanna) , Hành (Sankhara)
và Thức (Vinnana). Đó là năm thành phần tâm-vật-lý cấu tạo một chúng
sanh. Sắc gồm những năng lực và đặc tánh. Tâm gồm những trạng thái
tâm (cetasikas, tâm sở). Có tất cả năm mươi hai tâm sở. Trong năm mươi
hai tâm sở ấy Thọ (Vedana) và Tưởng (Sanna) được kể như hai nhóm riêng
biệt. Năm mươi tâm sở còn lại được gọi chung là Hành (Sankhara)
[9] Có bốn Đế. Mỗi Đế có ba sắc
thái. Vậy tất cả (3x4) là mười hai phương thức.
[10] Ám chỉ A-La-Hán Quả
(Arahatta-phala).
[11] Dhammacakkhu - pháp nhãn - có nghĩa
là một trong ba thánh Đạo, Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, và A Na Hàm. Lúc ấy
ngài Kiều Trần Như đắc quả Tu Đà Hườn. Về sau các vị kia cũng đắc
Tu Đà Hườn như vậy .
[12] Mahavagga tr.13, Samyutta Nikaya, Tạp
A-Hàm, phần iii, tr. 66
[13] Một thực thể thường còn,
không biến đổi tạo nên do một vị Thần Linh hay phát xuất từ một đại
hồn (Paramatma, tinh hoa của Thần Linh).
[14] Cái được gọi là chúng sanh gồm
năm uẩn. Ngoài năm uẩn ấy không có chúng sanh. Nếu bỏ năm uẩn ra, sẽ
không còn gì tồn tại. Không có linh hồn hay bản ngã trong một uẩn riêng
lẻ, không có linh hồn trong năm uẩn hợp lại, mà linh hồn cũng không có
ngoài năm uẩn ấy. Đức Phật giảng giải giống như đoạn trên khi đề
cập đến thọ, tưởng, hành, thức và cho thấy rằng không có một linh hồn
hay bản ngã trong uẩn nào. Ở đây bản dịch thâu gọn lại.
[15] Vì bị ái dục (tanha) che lấp,
ta suy tưởng sai lầm: "đây là của tôi". Bị ngã mạn (mana), che lấp
ta suy tưởng: "đây là tôi". Bị tà kiến (miccha ditthi) che lấp, ta
suy tưởng: "đây là tự ngã của tôi". Đó là ba quan niệm sai lầm
(mannana).
[16] Đó là: tất cả năm vị đều
đắc Quả A-La-Hán