Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [38]
- Con Đường Niết Bàn
(III)
"Tất cả các pháp hữu vi
[1] đều vô thường,
Tất cả các pháp hữu vi đều đau
khổ
Tất cả các pháp, hữu vi và vô vi,
đều vô ngã."
Kinh Pháp Cú
Tuệ Minh Sát (Vipassana)
Khi đã tạm thời chế ngự các
pháp Triền Cái (Nivarana) tức năm chướng ngại tinh thần, tâm hành giả trở
nên trong sạch như mặt kiếng được lau chùi bóng loáng, phản chiếu mọi
sự vật một cách rõ ràng, đúng với sự thật. Tuy nhiên, tâm định chỉ
tạm thời đè nén những tư tưởng bất thiện mà không tận diệt. Các
tâm bất thiện này có thể trồi lên mặt và tái phát một cách bất ngờ,
bất cứ lúc nào.
Giới luật điều hoà hành động và
lời nói. Định kiểm soát tâm. Nhưng chính Tuệ (Panna), giai đoạn cuối cùng,
giúp người có nguyện vọng từ phàm trở nên thánh tận diệt mọi ô nhiễm
mà tâm định tạm thời chế ngự.
Hành giả bắt đầu phát triển
quan kiến trong sạch (ditthi-visuddhi, kiến tịnh) [2] để nhận thấy chân tướng
của vạn pháp. Với tâm an trụ vào một điểm, hành giả phân tách và
quan sát cái gọi là chúng sanh. Sự dò xét và quan sát này cho thấy rằng
cái được gọi là "Ta", cá thể, hay tự ngã, chỉ là sự cấu
thành phức tạp của tâm và cơ thể vật chất, danh và sắc. Cả hai đều
ở trạng thái luôn luôn biến đổi, luôn luôn trôi chảy, như một dòng suối
trường lưu bất tức.
Khi đã có được quan kiến chân
chánh về bản chất thực sự của cái gọi là chúng sanh và hoàn toàn dứt
khoát với mọi ảo tưởng về một linh hồn trường cửu, hành giả cố
tìm những nguyên nhân sanh ra cái "Ta" và nhận định rằng thế
gian này không có sự tự nhiên phát sanh mà không tùy thuộc ở một, hay
nhiều điều kiện, trong hiện tại, hay trong quá khứ. Vạn pháp đều do
duyên sanh. Hành giả nhận định rằng kiếp sống của mình có đây là do
vô minh (avijja), ái dục (tanha), thủ (upadana), và nghiệp (kamma), của kiếp
quá khứ, và vật thực (oja) trong kiếp sống hiện tại. Do năm nguyên nhân
ấy, cái gọi là chúng sanh được cấu tạo. Nguyên nhân quá khứ tạo điều
kiện cho hiện tại, và cùng thế ấy, hiện tại tạo điều kiện cho
tương lai. Chú tâm suy niệm như thế ấy hành giả vượt lên mọi hoài
nghi về quá khứ, hiện tại và tương lai. [3]
Tiếp theo, hành giả suy niệm rằng
tất cả các vật cấu tạo, hay các pháp hữu, vi đều vô thường (anicca),
phải chịu đau khổ (dukkha), và không có một linh hồn trường cửu phải
bất diệt (anatta). Hướng tầm mắt vào bất luận nơi nào, hành giả chỉ
nhìn thấy ba đặc tướng ấy phát rộ rành mạch, rõ ràng, không thể lầm
lẫn. Bây giờ hành giả nhận thức rằng kiếp sống chỉ là một sự
trôi chảy, một di động liên tục, không gián đoạn. Dù ở các cảnh Trời
hay trên quả địa cầu, hành giả không tìm được nơi nào có hạnh phúc
thật sự, bởi vì mỗi hình thức khoái lạc chỉ là bước đầu, mở đường
đến đau khổ. Do đó, cái gì vô thường tất nhiên phải chịu đau khổ,
và nơi nào đau khổ và biến đổi chiếm ưu thế thì không thể có một tự
ngã trường tồn vĩnh cửu.
Khi cố tâm chuyên chú hành thiền
như thế ấy, sẽ có một ngày kia, trước sự ngạc nhiên của chính mình,
hành giả chứng kiến một ánh hào quang (obhasa) phát tủa ra từ thân mình.
lúc ấy hành giả thọ cảm trạng thái thoả thích, hạnh phúc và vắng lặng,
trước kia chưa từng bao giờ được biết. Hành giả càng củng cố tâm định
và tinh tấn thêm. Tâm đạo nhiệt thành càng tăng trưởng, tâm niệm toàn
hảo, và Tuệ Minh Soát càng trở nên sâu sắc một cách lạ thường.
Lầm tưởng mức tiến bộ khá cao
ấy là Đạo Quả Thánh, nhất là vì thấy có hào quang, hành giả phát triển
tâm ưa thích trạng thái tinh thần ấy. Nhưng sớm nhận thấy rằng những
hiện tượng mới ấy chỉ làm trở ngại cho những tiến bộ tinh thần mới
ấy, hành giả trau giồi và phát triển "trạng thái trong sạch của sự
hiểu biết" liên quan đến "Con Đường và Không-Phải-Con-Đường".
[4]
Đã nhận thức con đường chân
chánh, hành giả gom tâm quán tưởng vào sự phát sanh (udaya nana, tuệ sanh)
và sự hoại diệt (vaya nana, tuệ diệt) của tất cả các pháp hữu vi.
Trong hai trạng thái sanh và diệt, sự hoại diệt nổi bật chiếm ưu thế
hơn, nên dần dần gây ấn tượng mạnh hơn trong tâm hành giả, bởi vì sự
thay đổi được nhận thấy dĩ nhiên và rõ ràng hơn sự trở thành. Do đó,
hành giả hướng tâm chú niệm của mình về sự phân tán của sự vật
(bhanga nana, tuệ diệt) và nhận định rằng cả hai, danh và sắc, hai thành
phần cấu tạo cá nhân mình luôn luôn ở trong trạng thái đổi thay, trôi
chảy, không thể tồn tại giống hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Bây
giờ, phát sanh đến hành giả sự hiểu biết rằng tất cả những gì bị
phân tán đều là đáng sợ (bhaya nana, tuệ kinh hãi). Toàn thể thế gian
phát hiện trước mắt hành giả như một đống củi đang phừng cháy, một
nguồn hiểm họa. Kế đó là hành giả suy tưởng về tánh chất rách nát,
đổ vỡ và tạm bợ nhất thời (adinava nana, tuệ hiểm nguy) của thế gian
đáng kinh sợ này và có cảm giác nhàm chán nó (nibbida nana, tuệ chán nản)
và nảy sanh ra ý muốn tẩu thoát ra khỏi đó (muncitukamyata nana, tuệ muốn
giải thoát).
Hướng về đối tượng ấy, hành
giả chú tâm niệm trở lại vào ba đặc tánh vô thường, khổ, vô ngã
(patisankha nana, tuệ suy tư) và sau đó phát triển tâm xả chọn vẹn, hoàn
toàn thản nhiên đối với tất cả các pháp hữu vi - không luyến ái cũng
không ghét bỏ, hay bất toại nguyện - đối với bất luận sự việc gì
trên thế gian (sankharupekkha nana, tuệ xả hành).
Chín loại tuệ giác ấy: udaya,
vaya, bhanga, bhaya, adinava, nibbida, muncitukamyata, patisamkha, và upekkha-nanas có
tên chung là "patipada nana dassana visuddhi", trạng thái trong sạch của
sự hiểu biết và trông thấy có liên quan đến Con Đường hay pháp hành,
Đạo Tri Kiến Tịnh, giai đoạn thứ sáu của Con Đường Trong Sạch (Thanh
Tịnh Đạo).
Khi đạt đến mức độ tinh thần
này, hành giả chọn một trong ba loại đặc tướng, vô thường, khổ, vô
ngã, cái nào thích hợp nhất với mình và gia công khai triển tuệ giác
theo chiều hướng ấy cho đến ngày vẻ vang tươi sáng mà hành giả thành
tựu mục tiêu cuối cùng - Đạo Quả Niết Bàn. [5]
"Cũng như người đi trong đêm
tối nhờ trời chớp, nhìn thấy quang cảnh quanh mình rồi giữ lại hình
ảnh ấy trước mắt một lúc lâu. Cũng thế ấy, do cái chớp bật sáng
lên của tuệ giác, hành giả nhoáng chứng ngộ Niết Bàn một cách rõ
ràng và hình ảnh ấy lưu lại trong tâm, không còn phai mờ nữa." [6]
Người đã thành tựu Niết Bàn lần
đầu tiên được gọi là Tu Đà Huờn (Sotapanana, Nhập Lưu), có nghĩa là
người bước vào dòng suối chảy đến Niết Bàn lần đầu tiên.
Dòng suối là Bát Chánh Đạo.
1) Vị Tu Đà Huờn (Sotapanna) không
còn là người phàm tại thế (puthujjana) nữa. Ngài đã là bậc Thánh Nhân
(Ariya).
Khi bước vào dòng suối, vị Tu Đà
Huờn đã tận diệt ba Thằng Thúc (Samyojana), tức là ba trong mười dây
trói buộc cột chúng sanh vào cuộc phiêu lưu vô tận, sanh tử triền miên
trong vòng luân hồi. Ba dây trói buộc ấy là:
a. Sakkaya-ditthi = sati + kaye + ditthi -
Thân Kiến.
Theo đúng nghĩa là quan kiến trong
khi có một nhóm hay một hợp tổ tồn tại. Ở đây, danh từ Kaya ám chỉ
năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Tin rằng có một thực thể
không biến đổi, một linh hồn trường cửu, trong khi đó chỉ là một sự
cấu thành phức tạp của những uẩn tâm-vật-lý, được gọi là
Sakkaya-dithi. Kinh Dhammasangani (trong Vi Diệu Pháp) kể ra hai mươi loại lý
thuyết khác nhau về linh hồn. Sakkaya-ditthi, thường được phiên dịch là
ảo kiến về cái ta, hay thân kiến, lý thuyết về bản ngã hay ảo ảnh của
bản ngã luận.
b.. Vicikiccha - Hoài Nghi. Có sự
hoài nghi về:
1. Đức Phật, 2. Giáo Pháp, 3. Giáo
Hội Tăng Già, 4. Giới Luật, 5. Quá Khứ, 6. Vị Lai, 7. Cả Hai, Quá Khứ
và Vị Lai, và 8. Thập Nhị Nhân Duyên (Paticca Samuppada).
c. Silabbataparamasa - Giới Cấm Thủ.
Tin tưởng vào những nghi thức và
lễ cúng (sai lầm). Kinh Dhammasangani giải thích điểm này như sau:
"Có giáo lý của những vị tu
sĩ và những vị Bà La Môn, ngoài giáo lý này (tức ngoài Phật Giáo), dạy
rằng có thể tự thanh lọc bằng cách giữ giới hay bằng nghi thức cúng tế
hay bằng cả hai, nghiêm trì giới luật và theo đúng nghi thức cúng tế."
Để tận diệt bảy Thằng Thúc
còn lại, vị Tu Đà Huờn còn phải tái sanh nhiều lắm là bảy lần. Niềm
tin nơi Đức Phật, Giáo Pháp và Giáo Hội Tăng Già của các Ngài thật
hoàn toàn vững chắc. Bất luận trong trường hợp nào và không vì lý do
gì, các Ngài còn vi phạm năm giới căn bản. Các Ngài không còn tái sanh
vào cảnh khổ.
2) Từ đây hành giả, bây giờ là
bậc thánh nhân, đã nhoáng chứng Niết Bàn từ xa, càng quyết tâm gia
công, tiến bộ nhanh chóng, kiện toàn Tuệ Giác, thành tựu Đạo Quả Tư
Đà Hàm (Sakadagami), tầng nhì trong bốn tầng thánh, bằng cách làm suy giảm
hai Thằng Thúc là tham dục hay lòng tham duyên theo Dục Giới (kamaraga) và bất
toại nguyện (patigha). Danh từ "Sakadagami" có nghĩa là Nhứt Lai. Gọi
vị Tư Đà Hàm là Nhứt Lai vì Ngài còn tái sanh trong cảnh người chỉ một
lần nữa thôi, nếu trong kiếp hiện tiền Ngài chưa đắc được Đạo Quả
A La Hán. Nên ghi nhận rằng vị Thánh Nhân đắc được tầng thứ nhì chỉ
có thể làm suy giảm sức trói buộc chặt chẽ của hai Thằng Thúc đã cột
trói Ngài từ quá khứ vô tận. Đôi khi các Ngài cũng còn phải bận rộn
với một vài tư tưởng luyến ái và sân hận, nhưng ở mức độ rất thấp.
3) Chí đến khi thành đạt tầng thánh
thứ ba, A Na Hàm (Anagami, Bất Lai), hành giả mới trọn vẹn tận diệt hai
Thằng Thúc ấy. Kể từ đó, Ngài không còn tái sanh vào cảnh người hay các
cảnh trời Dục Giới nữa vì đã hoàn toàn tận diệt mọi ham muốn thoả
mản vật chất của Dục Giới.
Sau khi viên tịch ở đây, Ngài tái
sanh vào cảnh giới Vô Phiên Thiên (Suddhavasa, cảnh giới hoàn toàn tinh khiết),
một cảnh giới thích hợp với các vị A Na Hàm. Ngài sẽ chứng đắc Đạo
Quả A La Hán và sống hết tuổi thọ trong cảnh giới này. Một người cư
sĩ Đắc Quả A Na Hàm sẽ sống độc thân.
4) Bậc Thánh Nhân A Na Hàm cố gắn
thành tựu bước tiến cuối cùng để tận diệt năm Thằng Thúc còn lại
là: luyến ái những cảnh Sắc Giới (Ruparaga), luyến ái những cảnh Vô Sắc
Giới (Aruparaga), ngã mạn (mana), phóng dật (uddhacca) và vô minh (avijja), và
đắc Quả A La Hán, mức đến cuối cùng.
Những vị Tu Đà Huờn, Tư Đà Hàm
và A Na Hàm được gọi là Sekhas (ta thường dịch là "bậc hữu học",
trong ý nghĩa là những vị "còn phải học thêm nữa"), bởi vì
các Ngài còn cần phải tu luyện thêm nữa mới đến mức tuyệt đỉnh.
Chư vị A La Hán được gọi là Asekhas (thông thường được gọi là
"bậc vô học") vì các Ngài không còn phải học hành thêm.
Một vị A La Hán (đúng theo căn
nguyên của danh từ Arahant, là bậc xứng đáng thọ lãnh vật cúng dường,
-ng Cúng) không còn tái sanh nữa vì Ngài không còn tạo nghiệp mới. Mầm
giống tái tạo đã bị tận diệt.
Vị A La Hán nhận thức rằng tất
cả những điều kiện phải làm đã làm xong, gánh nặng phiền não đã
được đặt xuống và tất cả những hình thức ái dục, tất cả những
mức độ vô minh đều hoàn toàn được tiêu diệt, loại trừ. Vị hành giả
hữu phước ấy bấy giờ đã đến mức tột đỉnh, cao hơn tất cả các
cảnh Trời, hoàn toàn dứt bỏ mọi tham vọng và mọi ô nhiễm của thế
gian, và chứng nghiệm hạnh phúc vô cùng cao thượng mà ngôn ngữ trần
gian phàm tục không thể mô tả - hạnh phúc Niết Bàn.
Tuy nhiên, ngày nào còn mang cơ thể
vật chất này, một vị A La Hán vẫn còn phải chịu đau đớn về vật chất.
Ta có thể ghi rằng các vị A Na
Hàm hay A La Hán nào đã phát triển Thiền Sắc Giới và Vô Sắc Giới (Rupa
và Arupa Jhana), ngay trong kiếp sống này có thể chứng nghiệm hạnh phúc Niết
Bàn liên tục trong bảy ngày. Danh từ Pali goị là Nirodha Samapatti - Diệt Thọ
Tưởng Định hay Đại Định [7]. Trong trạng thái này, vị Thánh Nhân hoàn
toàn không thọ cảm đau đớn gì hết và mọi sanh hoạt tinh thần đều
ngưng. Luồng tâm tạm thời ngừng trôi chảy.
Về sự khác biệt giữa người nhập
Nirodha Samapatti, Diệt Thọ Tưởng Định, và người chết, sách Thanh Tịnh
Đạo (Visuddhi Magga) dạy rằng:
"Trong xác chết, chẳng những mọi
năng lực của cơ thể như hơi thở, tiếng nói, tâm đều ngưng động và
yên lặng, mà mọi sự sống cũng đều chấm dứt. Hơi nóng không còn và
giác quan cũng hết nhạy cảm. Trong khi ấy, bên trong vị tỳ khưu nhập Diệt
Thọ Tưởng Định, sự sống, hơi nóng vẫn còn và giác quan vẫn sáng suốt
mặc dù hơi thở, sự quan sát và tri giác đều ngưng động và yên lặng."
[8]
Thep Phật Giáo, trong ngôn ngữ ước
định thông thường, ta nói đó là hình thức hạnh phúc cao thượng nhất
có thể có được trong kiếp sống này.
Tại sao, đã đắc Quả Niết Bàn,
một vị A La Hán còn tiếp tục sống trong kiếp người?
Là bởi vì cái nghiệp lực tạo
điều kiện cho Ngài tái sanh trong kiếp sống hiện tiền chưa chấm dứt.
Để lặp lạilời của Schopenhauer, cũng giống như cái bánh xe mà anh thợ
lò gốm quay để uốn nắn món độ Khi nắn xong, giở tay ra, bánh xe vẫn
còn quay cho đến lúc hết trớn.
Hoặc nữa, để ghi lại một hình
ảnh mà kinh sách chúng ta thường dùng, cũng như một cái nhánh mà ta chặt
lìa khỏi thân cây. Nhánh không còn trổ ra thêm lá tươi hay hoa quả nữa,
vì không còn tiếp nhận mủ từ trong thân cây, nhưng lá và hoa đã sẵn
có trên cành vẫn tồn tại thêm một thời gian.
Vị A La Hán tiếp tục sống cho đến
hết kiếp sống hiện tiền, nhưng không tạo nên nghiệp mới và không hề
quan tâm đến sự chết.
Ngài sẽ nói như Đức Sariputta (Xá
Lợi Phất):
"Ta không quan ngại đến cái chết
hay sự sống,
Ta sẽ trải cái thể xác phù du
này xuống trong tức khắc
Với tâm sáng suốt và thức tỉnh,
hoàn toàn kiểm soát.
Ta không hững hờ với ý tưởng về
sự chết, cũng không
Thích thú trong sự sống. Ta chờ
thì giờ.
Như người làm thuê đã hoàn tất
công việc." [9]
Sau khi vị A La Hán nhập diệt
Như ngọn lửa trước gió có thể
tắt mà ta không thể ghi nhận xem ngọn lửa ấy đi về đâu, cùng thế ấy,
Đức Phật dạy, một vị A La Hán thoát ra khỏi danh-sắc, tâm và vật chất,
rồi mất, ta không thể ghi nhận Ngài đi đâu.
Như vậy, vị A La Hán chỉ biến mất
đi đâu hay quả thật Ngài không còn nữa?
Kinh Nipata dạy rằng người đã biến
"mất" thì không còn hình thể để cho ta nói rằng người ấy
"còn'. Khi tất cả những điều kiện đều chấm dứt thì tất cả mọi
vấn đề để chấm dứt như vậy.
Kinh Udana giải thích điểm phức tạp
này như sau:
"Như những tia lửa nóng văng tủa
tung ra khi anh thợ rèn đập vào cục sắt đỏ. Từng đớm một phát lên,
tủa ra, rồi tắt.
Và không ai biết nó đi về đâu.
Cũng dường thế ấy, những vị đã
hoàn tất Đạo Quả Giải Thoát.
Đã vượt qua trận lụt tham ái.
Đã thành tựu hạnh vphúc ắng lặng,
các Ngài không lưu lại vết dấu nào." [10]
Về vấn đề này, bộ Majjhima
Nikaya, Trung A Hàm cũng có ghi lại giai thoại lý thú sau đây: [11]
"Một vị đạo sĩ du phương hành
khất tên Vacchagotta đến yết kiến Đức Phật và hỏi: "Này Đạo Sĩ
Cồ Đàm, một vị tỳ khưu đã giải thoát sẽ tái sanh đi đâu?" Lẽ
dĩ nhiên vị đạo sĩ muốn ám chỉ người đã đắc Quả A La Hán.
"Này Vaccha, nói rằng người
ấy tái sanh thì không đúng.
- Vậy người ấy không tái sanh?
- Nói rằng người ấy không tái
sanh thì không đúng.
- Này Đạo sĩ Cồ Đàm, vậy người
ấy vừa tái sanh vừa không tái sanh?
- Nói rằng người ấy vừa tái
sanh vừa không tái sanh là không đúng.
- Vậy người ấy không tái sanh mà
cũng không tái sanh?
- Này Vaccha, nói người ấy không
tái sanh mà cũng không không tái sanh cũng không đúng."
Trước những câu giải đáp thoáng
nghe hình như không vững ấy, Vaccha lấy làm bối rối và trong tâm trạng mập
mờ ấy, vị đạo sĩ du khất than:
"Này Đạo sĩ Cồ Đàm, quả thật
tôi hết biết gì nữa vấn đề này, và thấy càng rối trí!
"Đủ rồi, Vaccha, không nên rối
trí và không biết gì nữa. Này Vaccha, giáo lý này thật uyên thâm, bí hiểm,
và khó hiểu, tốt đẹp, thật tốt đẹp và không thể thấu hiểu bằng
cách luận lý suông, tế nhị và chỉ có bậc thiện trí mới thấu đạt.
Đây là một giáo lý mà Vaccha khó lãnh hội vì Vaccha trưởng thành trong một
giáo phái khác, trong niềm tin khác, trong tín ngưỡng khác, trong kỷ cương
khác và ngồi dưới chân một đạo sư khác.
"Do đó, hỡi Vaccha, Như Lai sẽ
nêu lên đây những câu hỏi và Vaccha hãy giải đáp theo ý mình. Này
Vaccha, nếu có lửa đang cháy trước mặt, Vaccha có ý thức rằng lửa
đang cháy trước mặt mình không?
- Nếu lửa cháy trước mặt tôi,
tôi sẽ ý thức được rằng lửa đang cháy trước mặt tôi.
- Nếu có người hỏi do đâu lửa
cháy thì Vaccha giải đáp thế nào?
- Tôi sẽ đáp rằng do nhiên liệu,
cỏ và cây khô mà lửa cháy trước mặt tôi.
- Nếu lửa trước mặt Vaccha tắt,
Vaccha có ý thức rằng lửa trước mặt Vaccha tắt không?
- Nếu lửa trước mặt tôi tắt,
tôi sẽ ý thức rằng lửa trước mặt tôi tắt.
- Nếu có người hỏi ngọn lửa tắt
rồi đi về ngã nào? Hướng Đông hay hướng Tây, Nam hay Bắc? Vaccha sẽ giải
đáp thế nào?
- Câu hỏi đặt như thế không đúng,
hỡi Sa Môn Cồ Đàm, bởi vì lửa cháy do nhiên liệu, cỏ và cây khô. Khi
nhiên liệu hết, không còn nhiên liệu nữa, không còn gì nuôi ngọn lửa nữa,
ta nói rằng ngọn lửa tắt.
- Cũng đúng như vậy, tất cả những
hình thể (sắc), cảm giác (thọ), tri giác (tưởng), sinh hoạt tinh thần (hành),
và thức đã bị dứt bỏ, diệt tận gốc rễ, giống như ta bứng gốc một
cây kè và không còn gì có thể đâm chồi lên nữa, tắt hẳn.
Vị Thánh Nhân, này Vaccha, đã vứt
bỏ được cái gọi là thân ngũ uẩn này, thật cao siêu, không thể đo lường
được, mênh mông như đại hải. Nói rằng vị ấy tái sanh là không đúng.
Nói rằng vị ấy không tái sanh cũng không đúng, mà nói rằng vị ấy
không tái sanh cũng không không tái sanh cũng không đúng."
Ta không thể nói rằng vị A La Hán
tái sanh, vì mọi khát vọng tạo điều kiện cho sự tái sanh đều bị tận
diệt. Ta cũng không thể nói rằng vị A La Hán tan biến, mất tiêu, trở
thành hư vô, không còn gì hết, at tại, vì không có cái gì để tiêu mất,
tở thành hư vô.
Một khoa học gia, Robert Oppenheimer
viết:
"Nếu hỏi rằng vị trí của
điện tử có ở nguyên một chỗ không, ta phải trả lời "không".
Nếu hỏi điện tử có ngừng nghỉ không, ta phải trả lời
"không". Nếu hỏi điện tử có di động không, ta phải trả lời
"không".
"Đức Phật cũng giải đáp như
vậy, khi có người hỏi về hiện trạng của con người sau khi chết [12].
Nhưng đó không phải là những câu trả lời quen thuộc trong truyền thống
khoa học của những thế kỷ mười bảy, mười tám."
Vậy ta có thể kết luận chắc chắn
rằng Niết Bàn được thành đạt bằng cách hoàn toàn chấm dứt mọi ô
nhiễm (kilesa). Nhưng bản chất thật sự của pháp Cao Thượng (Dhamma) ấy
không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ.
Về phương diện siêu hình, Niết
Bàn là hoàn toàn giải thoát ra khỏi mọi đau khổ. Về phương diện tâm
lý, Niết Bàn là tận diệt "Tự Ngã". Về phương diện luân lý,
Niết Bàn là sự tận diệt tham, sân, si.
Chú
thích
[1] Pháp hữu vi: những vật và những
hiện tượng phát sanh do điều kiện. Những vật cấu tạo, tùy thế, chỉ
hiện hữu nhờ có duyên sanh.
[2] Kiến Tịnh là giai đoạn thứ
ba của con đường trong sạch (Visuddhi-magga,Thanh Tịnh Đạo).
[3] Kankhavitaranavisuddhi: Đoạn Nghi Tịnh,
giai đoạn thứ tư của Con Đường Trong Sạch (Thanh Tịnh Đạo, Visuddhi
magga).
[4] Maggamaggananadassanavisudhi: Đạo
Phi Đạo Tri Kiến Tịnh, giai đoạn thứ năm của Thanh Tịnh Đạo.
[5] Tuệ giác trong Con Đường siêu
thế nầy có tên là Nanadassana visudhi, Tri Kiến Tịnh, giai đoạn thứ bảy
của Thanh Tịnh Đạo.
[6] Dr Dhalke.
[7] Nirodha-Samapatti, đúng nghĩa là
"thành đạt sự chấm dứt". Xem "A Manual of Abhihamma", tác
giả Narada, trang 227 và 435.
[8] The Path of Purity, Thanh Tịnh Đạo,
phần 11, trang 872.
[9] Psalm of the Brethen, trang 346.
[10] Woodward, Verses of Uplift, trang
114.
[11] Kinh Aggivacchagotta, Majjhima
Nikaya, kinh số 72.
[12 ] Lẽ dĩ nhiên, ở đây tác giả
ám chỉ của người đã đắc Quả A La Hán.