Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [4]
- Sau khi Thành Đạo
"Trên thế
gian, không luyến ái là hạnh phúc" -- Udana
Trong buổi sáng, ngay trước ngày
Thành Đạo, lúc Bồ Tát ngồi dưới gốc cây cổ thụ Ajapala gần cội Bồ
Đề, thì có một bà giàu lòng quảng đại tên Sujata thình lình dâng đến
Ngài một vật thực bằng gạo với sữa mà bà đã công khó tự tay tỉ mỉ
làm lấy. Sau khi thọ xong bữa ăn có nhiều chất dinh dưỡng ấy, Đức Phật
nhịn đói luôn suốt bảy tuần nhật. Ngài trải qua thời gian bốn mươi
chín ngày yên lặng để suy niệm, quanh quẩn dưới gốc cây Bồ Đề.
Tuần
Lễ Đầu Tiên
Suốt thời gian bảy ngày đầu tiên
sau khi Thành Đạo Đức Phật ngồi không lay động dưới tàng cây Bồ Đề
[1] để chứng nghiệm Hạnh Phúc Giải Thoát (Vimutti Sukha). Trong đêm cuối
tuần, Ngài xuất thiền và suy niệm về Thập Nhị Nhân Duyên (Paticca
Samuppada) [2] theo chiều xuôi như sau: "Khi có cái này (nguyên nhân), thì
cái này (hậu quả) có. Với sự phát sanh của cái này (nhân), cái này (quả)
phát sanh".
- - Tùy thuộc nơi Vô Minh (avijja), Hành (samkhara),
thiện và bất thiện, phát sanh
- - Tùy thuộc nơi Hành, Thức (vinnana) phát sanh.
- - Tùy thuộc nơi Thức, Danh-Sắc (nama-rupa) phát
sanh.
- - Tùy thuộc nơi Danh-Sắc, Lục Căn (salayatana) phát
sanh.
- - Tùy thuộc nơi Lục Căn, Xúc (phassa) phát sanh.
- - Tùy thuộc nơi Xúc, Thọ (vedana) phát sanh.
- - Tùy thuộc nơi Thọ, Ái (tanha) phát sanh.
- - Tùy thuộc nơi Ái, Thủ (upadana) phát sanh.
- - Tùy thuộc nơi Thủ, Hữu (bhava) phát sanh.
- - Tùy thuộc nơi Hữu có Sanh (jati).
- Tùy thuộc nơi Sanh, phát sanh Bệnh
(jara), Tử (marana), Sầu Não (soka), Ta Thán (parideva), Đau Khổ (dukkha), Buồn
Phiền (domanassa) và Thất Vọng (upayasa).
Toàn thể khối đau khổ phát sanh
như thế ấy.
Lúc bấy giờ đã thấu hiểu ý nghĩa
của điều này, Đức Thế Tôn đọc lên bài kệ hoan hỷ như sau:
"Quả thật vậy, khi các Chân
Lý phát hiện hiển nhiên đến bậc thánh nhân (Brahmana) [3] đã kiên trì cố
gắng và suy niệm thâm sâu, bao nhiêu hoài nghi đều tan biến vì vị này đã
thấu triệt chân lý cùng với các nguyên nhân".
Khoảng canh giữa trong đêm, Đức
Phật suy niệm về Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều ngược như sau: "Khi
nguyên nhân này không còn thì hậu quả này cũng không còn. Với sự chấm
dứt của nhân này, quả này cũng chấm dứt".
- - Với sự chấm dứt của Vô Minh, Hành chấm dứt.
- - Với sự chấm dứt của Hành, Thức chấm dứt.
- - Với sự chấm dứt của Thức, Danh-Sắc chấm dứt.
- - Với sự chấm dứt của Danh-Sắc, Lục Căn chấm
dứt.
- - Với sự chấm dứt của Lục Căn, Xúc chấm dứt.
- - Với sự chấm dứt của Xúc, Thọ chấm dứt.
- - Với sự chấm dứt của Thọ, Ái chấm dứt.
- - Với sự chấm dứt của Ái, Thủ chấm dứt.
- - Với sự chấm dứt của Thủ, Hữu chấm dứt.
- - Với sự chấm dứt của Hữu, Sanh chấm dứt.
- - Với sự chấm dứt của Sanh, Bệnh, Tử, Sầu
Não, Ta Thán, Đau Khổ, Buồn Phiền và Thất Vọng chấm dứt.
Như thế ấy, toàn thể khối đau
khổ chấm dứt.
Lúc bấy giờ đã thấu hiểu ý nghĩa
của điều này, Đức Thế Tôn đọc lên bài kệ hoan hỷ như sau:
"Quả thật vậy, khi các Chân
Lý phát hiện hiển nhiên đến bậc thánh nhân (Brahmana) đã kiên trì cố gắng
và suy niệm thâm sâu, bao nhiêu hoài nghi đều tan biến vì vị này đã thấu
triệt sự tận diệt các nguyên nhân".
Đến canh ba, Đức Thế Tôn suy niệm
về pháp "Tùy Thuộc Phát Sanh" theo chiều xuôi và chiều ngược
như sau: "Khi nhân này có, thì quả này có. Với sự phát sanh của nhân
này, quả này phát sanh. khi nhân này không có thì quả này không có. Với sự
chấm dứt này, quả này chấm dứt."
- Tùy thuộc nơi Vô Minh, Hành phát
sanh v.v...
Như thế ấy, toàn thể khối đau
khổ phát sanh.
- Với sự chấm dứt của Vô Minh,
Hành chấm dứt v.v...
Như thế ấy, toàn thể khối đau
khổ chấm dứt.
Lúc bấy giờ đã thấu hiểu ý nghĩa
của điều này, Đức Thế Tôn đọc lên bài kệ hoan hỷ như sau:
"Quả thật vậy, khi các Chân
Lý phát hiện hiển nhiên đến bậc thánh nhân (Brahmana) đã kiên trì cố gắng
và suy niệm thâm sâu, thì Ngài vững vàng phá tan vây cánh cửa của Ma Vương
cũng như ánh sáng thái dương phá tan đêm tối và rọi sáng bầu trời".
Tuần
Thứ Nhì
Tuần lễ thứ nhì trải qua một
cách bình thản, nhưng trong sự yên lặng ấy Đức Phật đã ban truyền cho
thế gian một bài học luân lý quan trọng. Để tỏ lòng tri ân sâu xa đối
với cây Bồ Đề vô tri vô giác đã che mưa đỡ nắng cho Ngài suốt thời
gian chiến đấu để thanh đạt Đạo Quả, Ngài đứng cách một khoảng xa
để chăm chú nhìn cây Bồ Đề trọn một tuần không nháy mắt. [4]
Noi theo gương lành cao quý và để
kỷ niệm sự thành công vẻ vang, hàng tín đồ của Đức Phật đến ngày
nay vẫn còn tôn kính, chẳng những chính cây ấy mà đến các cây con,
cháu của cây ấy. [5]
Tuần
Thứ Ba
Vì Đức Phật không rời nơi trú
ngụ mà vẫn còn quanh quẩn ở cội Bồ Đề nên chư Thiên lúc bấy giờ
còn nghi ngờ, không biết Ngài đã đắc Quả Phật chưa. Đức Phật đọc
được tư tưởng ấy, dùng oai lực thần thông tạo một "đường kinh
hành quý báu" (ratana camkamana) và đi lên đi xuống thiền hành suốt trọn
tuần.
Tuần
Thứ Tư
Trong tuần lễ thứ tư, Đức Phật
ngự trong "bảo cung" (ratanaghara, cái phòng bằng ngọc, trong ý nghĩa
"cái phòng quý báu") để suy niệm về những điểm phức tạp của
Vi Diệu Pháp (Abhidhamma, giáo lý cao siêu) [6]. Kinh sách ghi nhận rằng khi
Ngài suy tưởng về lý Nhân Quả Tương Quan (Patthana), bộ khái luận thứ bảy
của Tạng Vi Diệu Pháp, tâm và thân Ngài trở nên hoàn toàn tinh khiết và
do đó phát tủa ra một vầng hào quang sáu màu [7].
Tuần
Thứ Năm
Trong tuần thứ năm, Đức Phật ngồi
dưới cội Ajapala trứ danh, chứng nghiệm Hạnh Phúc Giải Thoát (vimutti
sukha). Vào cuối tuần, khi Ngài xuất ra khỏi trạng thái siêu thế ấy có
một vị Bà-la-môn ngã mạn (huhumka jakita) đến gần chào hỏi theo lễ nghi
rồi nói: "Này Tôn Giả Gotama (Cồ Đàm), đứng về phương diện nào
ta trở thành một thánh nhân (Brahmana) và những điều kiện nào làm cho ta
trở thành thánh nhân?"
Để trả lời, Đức Phật đọc lên
bài kệ:
"Người kia đã xa lánh mọi điều
xấu xa tội lỗi, không còn ngã mạn (huhumka), đã thanh lọc mọi ô nhiễm,
thu thúc lục căn, thông suốt các pháp học và đã chân chánh sống đời
phạm hạnh thiêng liêng, người ấy được coi là thánh nhân (Brahmana). Đối
với người ấy không còn có sự bồng bột, dầu ở nơi nào trên thế
gian." [8]
Theo bản Chú giải Túc Sanh Truyện,
cũng trong tuần lễ này, ba người con gái của Ma Vương - Tanha, Arati và
Raga [9] - cố gắng lấy nhan sắc quyến rũ Đức Phật, nhưng thất bại.
Tuần
Thứ Sáu
Từ cây Ajapala Đức Phật sang qua cây
Mucalinda và ngự tại đây một tuần lễ để chứng nghiệm Hạnh Phúc Giải
Thoát. Bỗng nhiên có một trận mưa to kéo đến. Trời sẫm tối dưới lớp
mây đen nghịt và gió lạnh thổi suốt nhiều ngày.
Vào lúc ấy Mucalinda, mãng xà vương,
từ ổ chun ra, uốn mình quấn xung quanh Đức Phật bảy vòng và lấy cái mỏ
to che trên đầu Ngài. Nhờ vậy mà mưa to gió lớn không động đến thân
Đức Phật. Đến cuối ngày thứ bảy, thấy trời quang mây tạnh trở lại,
Mucalinda tháo mình trở ra và bỏ hình rắn, hiện thành một thanh niên, chấp
tay đứng trước mặt Đức Phật. Đức Phật đọc bài kệ như sau:
"Đối với hạng người tri túc,
đối với người đã nghe và đã thấy chân lý thì sống ẩn dật là hạnh
phúc. Trên thế gian, người có tâm lành, có thiện chí, người biết tự
kiềm chế, thu thúc lục căn đối với tất cả chúng sanh là hạnh phúc.
Không luyến người ái, vượt lên khỏi dục vọng là hạnh phúc. Phá tan
được thành kiến 'ngã chấp' quả thật là hạnh phúc tối thượng."
Tuần
Thứ Bảy
Vào tuần thứ bảy, Đức Phật bước
sang cội cây Rajayatana và ở đó chứng nghiệm Quả Phúc Giải Thoát.
Một
Trong Những Phật Ngôn Đầu Tiên
- "Xuyên qua nhiều kiếp sống trong vòng luân hồi,
Như Lai thênh thang đi, đi mãi.
- Như Lai mãi đi tìm mà không gặp, Như Lai đi tìm
người thợ cất cái nhà này.
- Lặp đi lặp lại đời sống quả thật là phiền
muộn.
- Này hỡi người thợ làm nhà,
- Như Lai đi tìm được ngươi.
- Từ đây ngươi không còn cất nhà cho Như Lai nữa.
- Tất cả sườn nhà đều gãy,
- Cây đòn dong của ngươi dựng lên cũng bị phá
tan.
- Như Lai đã chứng nghiệm Quả Vô Sanh Bất Diệt
và Như Lai đã tận diệt mọi Ái Dục". [10]
Vừa lúc bình minh, vào ngày Ngài chứng
đắc Quả Vô Thượng, Đức Phật đọc lên bài kệ hoan hỷ này, mô tả sự
chiến thắng tinh thần vô cùng vẻ vang rực rỡ.
Đức Phật nhìn nhận cuộc đi thênh
thang bất định trong nhiều kiếp sống quá khứ đầy khổ đau phiền lụy.
Đây cũng là sự kiện hiển nhiên,
chứng minh niềm tin nơi thuyết tái sanh.
Ngài phải đi bất định và do đó
phải chịu khổ đau, bởi vì chưa tìm ra người đã xây dựng cái nhà, tức
cơ thể vật chất này.
Trong kiếp sống cuối cùng, giữa
khung cảnh cô đơn tịch mịch của rừng thiêng, lúc đi sâu vào công trình
hành thiền mà Ngài đã dày công trau dồi từ xa xôi trong quá khứ, trải
qua cuộc hành trình bất định, Ngài khám phá ra anh thợ cất nhà hàng mong
mỏi muốn biết.
Anh thợ này không ở đâu ngoài,
mà ẩn tàng sâu kín bên trong Ngài. Đó là ái dục, sự tự tạo, một
thành phần tinh thần luôn luôn ngủ ngầm bên trong tất cả mọi người.
Ái dục xuất phát bằng cách nào thì không thể biết.
Cái gì ta tạo ra ắt ta có thể
tiêu diệt. Vị kiến trúc sư đã tìm ra anh thợ cất nhà, tức đã tận diệt
ái dục, khi đắc Quả A La Hán, mà ý nghĩa được bao hàm trong những danh
từ "chấm dứt ái dục".
Cái sườn của căn nhà tự tạo
ấy là những ô nhiễm (kilesas) như tham (lobha), sân (dosa), si (moha), ngã mạn
(mana), tà kiến (ditthi), hoài nghi (vicikiccha), dã dượi (thina), phóng dật
(uddhacca), không hổ thẹn tội lỗi, những hành động bất thiện (ahirika),
không ghê sợ hậu quả của hành động bất thiện (anottappa).
Cây đòn dong chịu đựng cái sườn
nhà là vô minh, căn nguyên xuất phát mọi dục vọng.
Phá vỡ được cây đòn dong vô
minh bằng trí tuệ là đã làm sập được căn nhà.
Sườn và đòn dong là vật liệu
mà anh thợ dùng để xây cất cái nhà không đáng cho ta ham muốn. Nếu hết
vật liệu, tức nhiên anh thợ không còn cất nhà được nữa.
Khi nhà đã bị phá vỡ tan tành
thì cái tâm mà trong câu chuyện không được đề cập đến, đã đạt đến
trạng thái vô vi, Vô Sanh Bất Diệt, Niết Bàn.
Tất cả những gì còn tại thế đều
phải bị bỏ lại phía sau và chỉ còn có trạng thái siêu thế, Niết
Bàn.
Chú thích
[1] Bồ Đề là cội cây trứ danh
thuộc loại Pipal, tại Buddha Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng), miền Bắc xứ Ấn
Độ, đã che mưa đỡ nắng cho Đức Phật trong khi Ngài chiến đấu để
thành đạt Đạo Quả.
[2] Xem Chương 25.
[3] Brahmin là một danh từ có nghĩa
"người có học kinh Phệ Đà", hàm ý người tu sĩ Bà La Môn. Đôi
khi Đức Phật dùng danh từ này với nghĩa "người đã xa lánh mọi điều
xấu xa tội lỗi", một thánh nhân. Trong sách này, danh từ
"Brahmana" được dùng để chỉ một thánh nhân, và danh từ
"Brahmin" có nghĩa là một người thuộc giai cấp Bà La Môn.
[4] Về sau, chính nơi Đức Phật đứng
trọn một tuần lễ để nhìn cây Bồ Đề, vua Asoka (A Dục) có dựng lên
một bảo tháp kỷ niệm gọi là Animisalocana Cetiya, đến nay vẫn còn.
[5] Một nhánh, chiết từ phiá tay mặt
của cây Bồ Đề nguyên thủy này được Ni sư Sanghamitta Theri đem từ Ấn
Độ sang Tích Lan (Sri Lanka) và Vua Devanampiyatissa trồng tại Anuradhapura, cố
đô xứ Tích Lan. Cây này vẫn còn sum suê tươi tốt.
[6] Vì lẽ ấy, nơi này được gọi
là Ratanaghara, bảo cung.
[7] Sáu màu là: xanh dương (nila), vàng
(pita), đỏ (lohita), trắng (odata), cam (manjettha) và thứ sáu là năm màu pha
lẫn (pabhassara).
[8] Udana, trang 1.
[9] ba người này không thể là ba dục
vọng vì việc này xảy ra sau khi Đức Phật đã Đắc Quả, nghĩa là đã tận
diệt mọi dục vọng.
[10] Bài kệ hoan hỷ trứ danh này
chỉ thấy trong Dhammapada (Kinh Pháp Cú), câu 153-154.