- Kinh Hiền Ngu
- Thích Trung Quán dịch
- Phẩm thứ ba mươi
- NI - ĐỀ
CHÍNH tôi được
nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn của ông Cấp Cô
Độc, và rặng cây của Thái Tử Kỳ Đà.
Bấy giờ trong thành Xá Vệ người
ở đông đúc, chỗ cư xử chật hẹp, nhà xí ít, đi đại tiểu tiện phần
nhiều phải ra ngoài thành, những nhà giàu sang họ đi vào trong một cái
bô, đậy nắp cẩn thận, mướn người xách ra ngoại thành đổ.
Khi đó có ông Ni Đề nhà nghèo,
hàng ngày sinh sống bằng nghề đổ phân thuê. Đức Thế Tôn luôn luôn nghĩ
đến chúng sinh có duyên, kẻ nên độ trước thì độ trước, kẻ nên độ
sau thì độ sau, cũng như cây kia nở hoa trước, thì kết quả trước, cây
này nở hoa sau, thì kết quả sau, tùy theo những chúng sinh căn lành đã thục,
hoặc sớm hoặc muộn đều được độ cả. Ngài biết ông Ni Đề căn lành
đã thục, nghiệp chướng đã tiêu, nên một hôm tôi theo Ngài vào thành để
cứu ông ra con đường giải thoát.
Khi đức Thế Tôn và tôi tới đầu
phố, thì ông Ni Đề gánh hai cái thúng phân đi đổ, ông nhìn thấy Phật
trong lòng tủi hổ, quẹo đi ra con đường khác để lánh mặt, vừa ra khỏi
đường, bỗng nhiên gặp Phật, sợ quá! Tẻ ra lối khác, tâm ý lộn xộn,
đập thùng vào bờ tường gạch, phẩn bắn đầy người, ông ngồi thụp
xuống và không dám nhìn Phật.
Đức Thế Tôn tới gần an ủi và
nói rằng:
- Ni Đề, muốn theo ta xuất gia tu
đạo cho thoát khỏi các nỗi đau khổ không?
- Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn!
Ngài là dòng Kim Luân Vương, các đệ tử của Ngài là những quý nhân, con
là kẻ hạ tiện hèn hạ, đâu dám xuất gia đồng hàng cùng các đệ tử
của Ngài được!
- Ni Đề! Nghe ta nói: pháp của ta
thanh tịnh nhiệm mầu, cũng ví như nước sạch có thể tẩy trừ được tất
cả cấu uế nhơ bẩn, cũng như đống lửa cháy lớn có thể đốt tiêu mọi
vật, mặc dù vật lớn hay nhỏ, cứng hay mềm, tốt hay xấu, đã bỏ vào
thì thành tro than hết, pháp của ta cũng thế, rộng rãi vô biên, giàu
nghèo, sang hèn, trai gái, nếu ai muốn tu ta sẽ độ hết.
Ông Ni Đề nghe Phật nói xong, lòng
tin chắc chắn, phục xuống lạy và thưa rằng:
- Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn!
Ngài đã giàu lòng thương đến con, vậy cúi xin Ngài cho con được nhập
đạo tu hành.
Thấy ông bẩn thỉu quá, Phật sai
tôi đưa ông ra sông tắm, và cho ông một tấm áo mới, mặc về tịnh xá
Kỳ Hoàn, Phật thuyết pháp cho ông nghe như sau:
- Sinh tử là đau khổ phải nên sợ!
Niết Bàn là pháp an vui lâu kiếp bất diệt, phải nên kính.
Ông nghe Phật thuyết pháp xong hốt
nhiên giác ngộ, chứng được sơ quả, chắp tay lễ kính thọ giáo làm Sa
Môn.
Phật nói: - Thiện Lai Tỷ Khưu!
Ngài nói dứt lời, tóc của ông rụng
hết, áo Cà Sa thấy mặc tại mình.
Phật dạy: - Ni Đề! Ông nên biết:
Sắc thân năm ấm nầy là khổ, những ác nghiệp gây ra từ mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý, tập họp ở tâm thức nên đoạn nó đi. Diệt phải nên
chứng, đạo phải nên tu.
Nghe Phật nói xong, tự nhiên giác
ngộ, dứt hết lậu độ cho ông Ni Đề, ai cũng lắc đầu lè lưỡi có ý
khinh bỉ, nói cùng nhau rằng:
- Ông Ni Đề là người đổ phân
thuê, đứng vào hàng hạ tiện, tại sao Phật lại độ cho ông ấy đi xuất
gia. Lũ ta lễ bái làm sao? Thỉnh Phật và Tăng đến cúng dàng không mời kẻ
đó! Lúc làm trai nghi họ lại ngồi bẩn giường nhà ta.
Họ xôn xao đồn khắp trong thành,
ai ai cũng nghe biết, sau đến tai vua, vua nghe thấy cũng không hoan hỉ tâm,
thầm nghĩ rằng:
- Ta phải can thiệp việc này, nếu
để Phật độ những người nghèo hèn xuất gia thì khi cúng dàng lễ bái
không tiện.
Nghĩ xong lên xe đi đến rừng Kỳ
Hoàn, khi tới cửa rừng, vua dừng chân đứng nghỉ, nhìn thấy một vị sư
ngồi trên tảng đá lớn vá áo, ở dưới có bảy trăm người cõi trời
dâng hoa cúng dàng, lễ kính, đi nhiễu xung quanh, nhà vua tới gần thưa rằng:
- Kính thưa Tôn Giả! Tôi muốn vào
yết kiến Phật xin ngài vào thông bạch cho.
- Phải! Bệ Hạ để tôi vào thưa
trước giùm.
Nói xong rẽ qua hòn đá đi vào
trong bạch Phật rằng:
- Kính lạy đức Thế Tôn! Vua Ba Tư
Nặc ở ngoài cửa rừng muốn xin vào yết kiến đức Thế Tôn.
Phật nói: - Ni Đề hãy dùng đạo
lực đi ra nói rằng: Ta cho vào.
Ông Ni Đề từ tảng đá lớn ấy
bước ra cũng như người nhô khỏi mặt nước không có vướng vít gì, bảo
nhà vua rằng:
- Thưa Bệ Hạ! Tôi đã thưa với
Phật, xin ngài cứ việc đi vào.
Vua Ba Tư Nặc thầm nghĩ như vầy:
- Việc ta định hỏi trước, hãy
khoan, ta sẽ hỏi Phật, vị Tỷ Khưu này ở đâu tới đây có thần lực
cao siêu, hơn nữa lại được các người cõi trời kính phục cúng dàng như
vậy?
Khi tới nơi cúi đầu dưới chân
Phật, đi ngang về bên hữu ba vòng, lui đứng về một bên bạch Phật rằng:
- Kính lạy đức Thế Tôn! Bên
ngoài cửa rừng có một vị Tỷ Khưu, thần lực cao siêu đi vào trong hòn
đá cũng như người đi dưới nước, đá vẫn không nứt vỡ, họ tên gì,
và ở đâu tới đây xin nói cho con được biết?
Phật dạy: - Đó là một người hèn
hạ nhất ở trong nước nhà vua đấy, tên là Ni Đề hàng ngày đi đổ phân
thuê, tôi thương tình độ cho xuất gia tu học, chưa được bao lâu đã
thành Thánh quả, hôm nay nhà vua đến đây cũng định hỏi tôi việc đó!
Nghe Phật nói thế nhà vua tàm quý,
tự bỏ hết tâm kiêu mạn, nhân thế Phật nói rằng:
- Phàm con người ở trên đời, tôn,
ty, sang, hèn, giàu, nghèo, khổ, vui, cũng do tạo ác nghiệp, hay thiện nghiệp
đời quá khứ. Người nhận từ đạo đức, khiêm nhượng, kính trên nhường
dưới, đó là bậc quý nhân, kẻ hung ác tàn bạo, ương ngạnh, kiêu ngông
vô lễ độ, không phân phải trái thiện ác là kẻ hạ ngu tiểu nhân.
- Kính lạy đức Thế Tôn! Bậc Đại
Thánh xuất thế! Cứu tế cho muôn loài đến những người hạ tiện, đê
hèn còn cứu khổ ban vui, không bỏ sót từng lớp người nào, nếu có
duyên lành. Ông Ni Đề tại nhân duyên gì phải sinh nơi hạ tiện? Làm
phúc gì được gặp Thế Tôn? Hơn nữa lại được chứng quả La Hán cúi
xin từ bi chỉ thị.
- Nhà vua nghe cho kỹ, tôi sẽ nói
rõ nguyên nhân cho biết.
- Dạ! Lạy đức Thế Tôn! Con xin
chú ý nghe, cúi xin chỉ giáo.
Đây cũng một câu truyện đời quá
khứ, thời đức Phật Ca Diếp giáng thế độ sinh, sau khi Ngài vào Niết
Bàn, có mười vạn vị Tăng cùng ở với nhau một Tùng Lâm. Hôm ấy vị
Sa Môn chủ Tùng Lâm mắc bệnh phải uống thuốc hạ, ông cậy thế làm một
vị chủ không chịu đi ra nhà cầu, mua một cái bình bằng bạc mạ vàng,
đi đại tiểu tiện vào trong, rồi bắt một người đệ tử đem ra ngoài
đổ. Song người đệ tử ấy đã đắc quả Tu Đà Hoàn.
Bởi thế! Vì không có tâm khiêm nhường,
không phân biệt được người hay kẻ dở, cậy mình có thế lực, giữ việc
Tăng chúng, gặp chút bệnh nhẹ lười biếng không chịu đi, sai vị Thánh
nhân đổ phân cho mình. Vì nhân duyên ấy bị lưu lãng trong vòng sinh tử,
thường phải làm kẻ hạ tiện trong năn trăm đời, đi đổ phân thuê, cho
đến ngày nay không thôi. Cũng do công đức xuất gia trì giới, nên gặp ta
cứu thoát. Nhà vua nên biết ông chủ Tùng Lâm thuở đó, nay là Tỷ Khưu
Ni Đề đấy.
- Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn quý
hóa thay, Ngài xuất thế thực là hiếm có, làm lợi ích cho không biết lượng
nào chúng sinh đau khổ.
- Quý hóa! Như thế đấy, ông nói
cũng phải, chúng sinh luân chuyển trong ba cõi không có định, người tích
thiện tu nhân, được sinh vào nhà tôn quý, kẻ tạo ác phóng túng vô lễ
độ, phải sinh nơi hèn hạ.
Nghe Phật nói! Nhà vua rất vui mừng
bỏ hết tâm kiêu mạn, khinh người, đứng lên quỳ thẳng ôm lấy chân
ông Ni Đề lễ lạy, và cầu xin ông xá tội.
Đức Thế Tôn nhân vì ông thuyết
pháp nói về luận "Bố Thí", Luật "Trì Giới", luận
"Sinh Thiên". Kẻ tà dâm phạm dục là hạnh bất chính, đoạn dục
là hạnh an vui.
Bấy giờ tất cả mọi người dự
thính, ai nấy đều vui mừng, tự thệ bỏ tâm kiêu ngạo tuân lời Phật dạy,
tu hành tạ lễ mà lui.