- Kinh Hiền Ngu
- Thích Trung Quán dịch
- Phẩm thứ ba mươi chín
- ĐẠI THÍ TÁT BIỂN
CHÍNH tôi được nghe: Một
thời đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại núi Linh Thứu, với các Tôn
đệ tử, cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỷ Khưu ở đó. Khi ấy đức
Thế Tôn muốn dùng một người Thị Giả.
Các vị Tôn đệ tử đều biết ý
của Ngài như vậy. Khi đó ông Kiều Trần Như mặc áo trễ vai hữu, tới
trước quỳ thẳng chắp tay bạch rằng.
- Kính lạy đức Thế Tôn! Con xin
nguyện suốt đời làm Thị Giả hầu hạ Ngài, cúi xin từ bi hoan hỷ, chấp
thuận cho con được ân triêm công đức!
Phật dạy: - Ông nay tuổi đã già
yếu, việc hầu hạ không nỡ phiền ông!
Ông lễ tạ lui ra. Tiếp đến Ngài
Ma Ha Ca Diếp, Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên, và năm trăm đệ tử
lần lượt ra tác lễ cầu xin làm Thị Giả. Nhưng Phật không cho ai.
Khi đó, Ngài A Nan Luật xem biết ý
Phật muốn dùng ông A Nan, và các bậc đại để tử cũng đều hiểu như
thế.
Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền
Liên đứng dậy lại bên tôi nói sẽ rằng:
- Này ông A Nan! Ý Phật muốn dùng
ông làm Thị Giả đấy! Riêng ông được diễm phúc hơn chúng tôi! Vậy
ông mau mau đứng lên làm lễ bạch Phật xin thân thừa Ngài, để cho toàn
thể Tăng chúng cũng được nhờ ông một phần lớn!
Tôi nghe lời hai Thượng Tọa nói rồi,
chắp tay thưa rằng:
- Kính thưa hai Thượng Tọa! Thế Tôn
đức rộng, tuệ sâu, tôi thân cận hầu hạ sợ sơ xuất phải tội, và
chiêu họa thì sao?
Ngài Xá Lợi Phất nói:
- Chúng tôi xem biết đức Thế Tôn
chú ý đến ông nhiều hơn, vì xét có thể kham năng được, nên Ngài muốn
dùng ông làm Thị Giả!
Tôi thấy hai Thượng Tọa nói như
vậy, chẳng biết làm thế nào! Tôi thưa rằng:
- Dạ! Nếu hai Thượng Tọa, thưa với
Phật cho được ba điều nguyện này, thì tôi xin làm Thị Giả:
- - Áo cũ của đức Thế Tôn xin Ngài đừng cho tôi
dùng.
- - Đức Thế Tôn ăn thừa xin chớ cho tôi ăn.
- - Thờit tiết tiến hiện (Chỉ), tùy tôi lo liệu,
được như thế thì tôi xin làm.
Hai Thượng Tọa đem ý kiến của
tôi lên bạch Phật, Phật bảo rằng:
- Ông A Nan sở dĩ không muốn mặc
áo cũ của ta, là do lòng ông nghĩ xa, sợ các đệ tử sinh tâm hiềm
khích. Vua quan nhân dân cúng Phật, những cái áo quý đẹp, cho rằng ông
tham cầu mà làm Thị Giả. Hai là chuyện không ăn cơm của ta, là lo các đệ
tử sinh lòng như vầy: Trong bát của Như Lai ăn thừa, trăm mùi ngon bổ,
trên đời hiếm có, cho rằng ông tham cầu những món ấy mà thân cận Phật
hay sao? Còn nguyện thứ ba, tự lo lượng thời tiết tiến hiện, là sợ
các đệ tử, và các ngoại đạo lại nạn vấn, trong những thời giờ không
hợp pháp, làm xúc não ta. Song làm Thị Giả, phải xem thời tiết mà dâng
các món ăn cho thích hợp, để lợi ích thân thể Như Lai, mỗi mỗi việc
đều phải có chế độ. Vì thế mà ông nguyện xin ba điều ấy. Nhưng
cũng không cứ gì thời nay ông tự biết thời tiết mà xin thế đâu! Thời
quá khứ ông đã hầu ta, và cũng khéo biết sự tiến hiện (Chỉ) như vậy:
Khi đó Ngài Xá Lợi Phất thưa rằng:
- Kính lạy đức Thế Tôn! Không
hay đời quá khứ, ông A Nan hầu hạ Ngài, khép biết thời tiết, việc ấy
thế nào xin nói cho chúng con được biết nguyên do?
Phật dạy: - Xá Lợi Phất! Ông muốn
biết, hãy để ý nghe, ta sẽ nói cho ông hay!
- Dạ, lạy đức Thế Tôn! Con xin
chú ý nghe!
- Xá Lợi Phất! Đời quá khứ
cách đây tính theo số A Tăng Kỳ có đến vô lượng, thuở đó có một
ông vua nước lớn cai trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, tám mươi ức tụ
lạc, tại Châu Diêm Phù Đề, vua ngự ở thành Bà Lâu Thi Xá. Trong thành
ấy có một người Bà La Môn, có trí thông sáng, nhà vua tôn kính như một
ông thầy, tám vạn bốn ngàn ông vua nước nhỏ đều mến mộ khâm phục,
bốn phương hiến tặng, và thường sai Sứ sang thăm viếng, nói tóm lại cũng
như bầy tôi thờ vua không khác. Nhà giàu ngang với nước, nhưng không có
con để nối nghiệp nên lúc nào ông cũng buồn! Không biết nơi đâu có thể
cầu nguyện được. Bấy giờ ông lên miếu thờ Phạm Thiên "Thiên Đế",
Tứ Vương Ma Hê Thu La và tất cả chư Thiên khác, cầu đạo ròng rã mười
hai năm, do sự cầu nguyện thành kính ấy, nên bà vợ lớn của ông có
thai. Ông cho gọi người về xem trai hay gái; có một thiếu phụ đến xem nói:
- Bà có mang con trai. Ông mừng thầm! Giao cho các cô con gái hầu hạ bà một
cách chăm chỉ cẩn thận, không được làm trái ý.
Đủ tháng sinh được cậu con trai
mình sắc vàng, tóc xanh mượt, trán cao, mũi thẳng, tai dày, mắt sáng, mồm
tươi rộng, nhân tướng đầy đủ, ông vui mừng quá! Cho mời thầy về
coi tướng.
Tướng Sư xem xong nói:
- Cậu đầy đủ phúc đức, thiên
hạ chưa từng có, sau này có thể làm đến Quốc Sư!
Nghe Tướng Sư nói, ông rất hoan
tâm, và nhờ đặt tên giùm. Lệ đặt tên bao giờ cũng y vào hai điều kiện:
- - Tinh tú.
- - Biến điềm lạ.
Tướng Sư hỏi: - Thưa ông! Trong
khi bà có mang cậu bé này, thì có điềm gì lạ không?
- Thưa Ngài! Bà ác nghiệp lắm, ít
lòng nhân, lại không chăm tu phước tuệ gì, từ khi có thai cháu, thì tâm
tính cải đổi, thương xót kẻ nguy nạn, hay giúp đỡ kẻ nghèo đói, chăm
bố thí, không tham lam tích cóp như xưa!
Tướng Sư hoan hỷ nói:
- Đó là trí lý của cậu con trai sử
nhiên như vậy. Tôi xin đặt tên là Ma Ha Sà Ca Phàn (Tàu dịch: Đại Thí).
Sau khi lớn tuổi, ông bà quý lắm!
Làm riêng cho một lâu đài chia làm ba cung, để tùy theo thời tiếc nóng lạnh
của một năm: mùa đông ở cung ấm áp, mùa hạ ở cung mát, mùa xuân mùa
thu ở cung giữa, sự nóng lạnh thuần hòa, cắt đặt những thiếu nữ hầu
hạ, đêm ngày cho cậu vui chơi! Cậu có tính ham học, lại sẵn có trí
thông minh, đọc thuộc mười tám bộ kinh của thế tục, học các kỹ thuật
đều tinh xảo. Một hôm cậu thưa với ông rằng:
- Thưa cha! Con ở trong cung điện này
đã lâu, xin cho con du ngoạn ngoài thôn quê, để xem dân chúng làm ăn.
- Ừ! Con đi chơi, cha cho con đi.
Ông sai người sửa sang đừơng sá,
vảy nước thơm, dựng cờ treo phan đốt hương, một con voi trắng lớn, trên
lưng đặt bành bằng thất bảo phủ vải gấm, teo chuông trang nghiêm cho cậu
cỡi. Những người đi trước gảy các đồ âm nhạc, đánh trống thổi
kèm; đi sau có hàng ngàn người cỡi voi cỡi ngựa theo cậu đi, trên một
con đường lớn bằng phẳng, bầu trời mát mẻ, bóng tinh quang chiếu
thành năm sắc, không khác một ông Chuyển Luân Vương giáng thế. Nhân dân
nô nức ra xem, nhìn không chán mắt, ai nấy đều khen rằng:
- Thực là hiếm có, oai phong vòi vọi,
lẫm liệt như một ông trời Phạm Thiên!
Một lát gặp bọn khất nhi, áo quần
tả tơi, chân đi thất thểu, cầm cái bát vỡ kêu xin một chút món ăn, hoặc
tiền. Đại Thí hỏi:
- Các ngươi tại sao mà khổ cực
như vậy?
- Thưa cậu! Chúng tôi không có cha
mẹ, anh em, vợ con, nghèo khổ không có chỗ nương thân!
Cũng có người nói rằng: - Chúng
tôi mắc bệnh liên miên, không làm ăn gì được, hết lối sinh sống!
Cũng có người nói rằng: - Chúng tội
gặp lúc cơ nguy, gia đình phá tán, nợ nần nhiều quá hết lối làm ăn,
phải hành khất để nuôi thân trốn nợ!
Đại Thí nghe họ nói xong, trong
lòng chua xót, than lòng mà bước đi! Đi được vài dặm, thấy lũ đồ tể
mổ giết súc sinh.
Đại Thí hỏi: - Chao ôi, các ông
làm gì thế?
- Thưa cậu! Tổ Phụ chúng tôi chỉ
làm nghề sát sinh, để nuôi sống gia đình, nay nếu bỏ nghề này thì hết
lối!
Đại Thí than thở rồi bước đi.
Đi một quãng thấy các người cày ruộng: những sá cày lật đất, các
con giun, con dế, con vi trùng chui lên, lại bị những con ếch, con chẫu bắt
ăn; lại thấy những con rắn bắt ếch, bắt chẫu ăn, tiếng kêu thảm thiết;
lại thấy giống chim khổng tước bắt rắn tha lên cành cây ăn.
Đại Thí hỏi: - Đây là họ làm
gì?
- Thưa cậu! Họ cày ruộng để trồng
lúa, đến mùa được thóc ăn và nộp thuế cho nhà Vua.
Đại Thí nghe xong, thương chúng
sinh, than thở trong lòng mà đi. Đi một quãng thấy những người đi săn,
giăng lưới, đặt cạm, giật bẫy, để bắt cầm thú, thấy chúng bị sa
lưới, quằn mình quại thể, dãy dụa hết sức, gào kêu! Sợ hãi! Trông rất
đau lòng.
Đại Thí hỏi: - Các ông làm gì đó?
- Thưa cậu! Chúng tôi chỉ chuyên
nghề đi săn bắn, nếu không làm việc này, thì cũng không có nghề gì
sinh sống!
Đại Thí nghe nói vừa thương, vừa
ngậm ngùi! Rồi bước đi. Đi được một lúc thấy một con sông lớn,
trên những chiếc thuyền lênh đênh, các anh thuyền chài, tung lưới kéo
lên được rất nhiều cá, đổ lên bờ, con dãy, con ngáp, ngổn ngang.
Đại Thí hỏi: - Các ông làm gì thế?
- Thưa cậu! Từ cha ông chúng tôi,
đến chúng tôi không có nghề gì khác, chỉ có nghề bắt cá để sinh sống.
Đại Thí nghe nói, để lòng thương!
Và thầm nghĩ rằng:
- Tất cả người dân vì thiếu thốn
áo mặc cơm ăn, nên tạo những ác nghiệp sát hại chúng sinh, sau chết đọa
xuống Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Bàng Sinh, từ chỗ mê tối lại sa vào chỗ
mê tối hơn, thực đáng thương thay!
Tớiđây Đại Thí bảo với mọi
người rằng:
- Thôi, các ông cho tôi về an nghỉ.
Vì thương đời lầm lạc, tạo áo
nghiệp, nên Đại Thí không lúc nào được vui! Tìm cách để cứu tế chúng
sinh khỏi sự đói thiếu về thể xác lẫn tinh thần, rồi lên thưa với
cha rằng:
- Thưa cha, vừa rồi con đi về các
miền thôn quê, thấy nhân dân vì sự ăn mặc, phải lao hình khổ trí sát
hại muôn sinh để nuôi đời sống, lường gạt dối trá, lẫn nhau, tạo
ác nghiệp ấy sau chết phải đọa vào ba đường ác, con rất thương họ!
Vậy cho con một kho gạo để bố thí cho những kẻ nghèo đói.
- Tùy ý, của cha là của con, ý con
muốn bố thí thì cha cũng vui lòng!
Được cha đồng ý, Đại Thí bá
cáo cho nhân dân rằng:
- Tất cả nhân dân, ai thiếu thốn
về cơm ăn áo mặc, tiền xài; xin lại nhà lấy, tùy theo ý muốn, tôi sẽ
cấp giúp đầy đủ!
Quốc dân hay tin ông Đại Thí mở
cuộc bố thí, tất cả những người nghèo khổ, bệnh tật, cô cùng, kéo
nhau đến đông như hội; cũng có người ở xa từ trăm dặm, người hai,
ba trăm ngàn dặm tới, có người từ ba ngàn, năm ngàn dặm tới; kẻ mạnh
cõng người yếu, kẻ sáng dắt người mù, muốn cơm được cơm, muốn áo
được áo, tất cả ai muốn gì cũng được toại ý.
Bố thí trong một thời gian, các
kho ba phần đã hết một, người coi kho đến thưa với ông chủ rằng:
- Thưa ông, cậu Đại Thí ban phát
cho dân các kho tàng ba phần đã hết một. Vua quan khách khứa đi lại còn
đâu mà thết đãi! Ông nghĩ kỹ, kẻo hết rồi lại trách tôi không thưa
trước!
Ông nghĩ như vầy: - Thà để kho không,
chứ không làm trái ý con ta!
Bố thí trong một thời gian nữa
thì ba phần đã hết hai. Người coi kho lại lên thưa với ông rằng:
- Thưa ông chủ! Kho tàng ba phần đã
hết hai, nếu ông không đình chỉ việc bố thí lại, thì không còn cái
gì mà ăn dùng nữa!
Ông nói: - Ta nặng tình yêu con quí
của ta, nên không muốn làm trái ý. Vậy anh có phương tiện gì, giả thác
ra một cách khác, nếu kẻ lại xin làm cho họ ít đến nữa may ra còn
chút nào để dùng chăng!
Anh coi kho được ông cho phép, đóng
luôn cửa lại rồi đi nơi khác.
Vì kho đóng nên những người xin
đều đến chỗ cậu Đại Thí; cậu dẫn họ đến kho, thì anh coi kho đi vắng.
Cậu sai người tìm mãi mới thấy, anh về mở kho cho, nhưng cũng không cho
được bao nhiêu.
Đại Thí thầm nghĩ như vầy:
- Việc đình chỉ bố thí không phải
kẻ giữ kho dám tự quyền, chắc là thừa lệnh của cha ta. Song phép làm
con cũng không nên làm khánh kiệt kho tàng của cha mẹ, vả trong kho bây giờ
cũng không còn được bao nhiêu nữa. Vậy ta phải làm thế nào, có tiền của
cấp tế cho nhân dân, được no nê sung sướng! Mới mãn bổn nguyện bố
thí của ta.
Khi đó Đại Thí hỏi mọi người
rằng:
- Ở thế gian này, làm nghề nghiệp
gì được nhiều tiền của?
Cáo người mách rằng:
- Thưa cậu! Bây giờ chỉ trồng cấy
năm giống thóc thì được nhiều của.
Có người nói rằng:
- Nuôi thú vật bán có thể được
nhiều tiền.
Cũng có người nói:
- Nếu không sợ tai nạn nguy hiểm,
đi xa buôn bán có thể được nhiều tiền của.
Lại có người giới thiệu rằng:
- Thưa cậu! Mọi kế nói trên đều
không kết quả được bao nhiêu, muốn cho tất cả chúng sinh trên cõi Diêm
Phù Đề, được đầy đủ cơm áo mặc, chỉ vào biển tìm châu bảo là một
diệu kế hơn hết!
Đại Thí nói: - Trồng cây, nuôi
thú, đi xa buôn bán, không được lợi mấy, có lẽ vào biển tìm ngọc
châu là một diệu kế hơn. Vậy tôi quyết định đi tìm ngọc châu.
Nói xong lên thưa với cha mẹ rằng:
- Thưa cha mẹ! Con xin ra biển tìm
ngọc châu về cấp tế cho dân, xin cha mẹ vui lòng?
Ông bà lo quá, nói rằng:
- Con ơi! Những người ra biển là
những người nghèo khổ vô kế sinh sống, không hòng đời sống của mình.
Con nghèo khổ chi mà vào biển? Để cha mẹ lo sợ thân mạng của con! Muốn
bố thí, thì trong kho còn bao nhiêu con cứ việc bố thí. Đi biển có nhiều
tai nạn, sóng to, gió lớn, Cá Ma Kiệt, Rồng Độc, Quỷ La Sát, núi, nước
khó mà qua nổi! Con đem thân vào chỗ tai nạn ấy làm chi? Không thể đi
được đâu, thôi đừng giở hơi nữa.
Đại Thí buồn quá! Tự nghĩ như vầy:
- Ta muốn gây một đại nghiệp cho
tương lai, mà tham tiếc thân sống thì sao thành?
Nghĩ xong, phục mình xuống trước
cha mẹ mà thưa rằng:
- Kính lạy Song thân! Nếu Song thân
ngăn chí nguyện của con, không cho con đi biển tìm ngọc châu để cứu dân,
thì con nằm ở đây không đứng lên nữa!
Ông bà nghe câu nói ấy, tâm can
não nhiệt như lửa đốt! Cùng với mọi người khuyên bảo rằng:
- Đương biển xa xôi nhiều hiểm
trở, đi nhiều về ít, con nên nghĩ đến cha mẹ cầu đảo thành kính,
trong mười hai năm ở miếu thần tiên mới có con ngày nay. Bây giờ lớn
khôn lại bỏ cha mẹ đi thì không nên! Dậy đi con, ăn uống để cha mẹ
vui lòng!
Cậu một lòng thưa rằng:
- Cha mẹ cho con đi thì con dậy,
không thì con không dậy!
Cậu nằm mãi đến sáu ngày không
ăn uống, ông bà luôn luôn khuyên bảo, dỗ dành, nhưng cậu quyết định
không dậy, chịu nhịn đói.
Ông bà lo sợ quá! Bàn với nhau rằng:
- Con ta trước sau khăng khăng một
mực không hề thoái tâm. Thôi, ta cũng nhắm mắt cho đi, còn mong có ngày về,
nếu nằm quá bảy ngày chết lại đây, thực là vô ích.
Bàn xong, ông bà đến đỡ cậu dậy,
và nói rằng:
- Thôi, con dậy ăn cơm, rồi cha mẹ
cho con đi.
Đại Thí mừng quá! Đứng dậy đi
ăn cơm, ăn xong, viết bảng cáo thị rằng:
- Tôi đi ra biển tìm ngọc châu, ai
muốn đi thì cùng đi, tôi xin cung cấp đầy đủ hành lý.
Bấy giờ có năm trăm người đồng
ý theo cậu. Giữa hôm lên đường ra đi, cha mẹ, vua, quan, dân chúng, số
ngàn muôn người đưa chân đem tặng lương thực và tiền bạc để ăn
đường. Cuộc tiễn đưa này, rất vui vẻ! Mọi người đều cầu chúc:
"Cậu đi được bình an mau trở về".
Đi chừng vài ngày, tới một bãi
cát rộng mênh mông, mọi người đều lên đó nghỉ, không may gặp bọn cướp
đông quá, biết sức không chống nổi, nên Đại Thí đem tiền của lương
thực cho họ hết rồi lại bắt đầu đi, đi tới một cái thành, gọi là
thành Phóng Bát. Thành này có ông Trưởng Giả tên là Ca Tỳ Lệ dòng Bà
La Môn, ông có cô con gái, mình sắc vàng, tóc xanh như ngọc lưu ly, xinh đẹp
nhất thời, tám vạn bốn ngàn vương tử, ở các nước đến hỏi cô
không ưng.
Đại Thí định đến vay tiền, đứng
ngoài gõ cửa, cô thấy người gọi chạy ra, nhìn cậu, tự nhiên cảm động,
vui mừng; vào nhà thưa với cha rằng:
- Thưa cha! Bên ngoài có người gõ
cửa gọi, người đó chính là chồng con đấy!
Ông Ca Tỳ Lê mở cửa bước ra, thấy
cậu tướng mạo oai nghi phi thường, mừng thầm hỏi rằng:
- Cậu tới đây có việc chi?
- Thưa Trưởng giả! Tôi vì lòng thương
dân đói khát, đi ra biển tìm ngọc châu về phân cấp cho họ, không may
đi nữa đường gặp bọn cướp lấy hết lương thực, muốn phiền Trưởng
Giả cho vay ba ngàn lạng vàng, lúc trở về xin trả!
Ông vui vẻ nói:
- Mời cậu vào chơi, không khó,
tôi xin cho cậu mượn ba ngàn hoặc mười ngàn, nhà tôi cũng sẵn.
Ông vào kho lấy vàng, dắt con gái
đi theo, vừa cười vừa nói:
- Tôi xin tặng số vàng này cho cậu;
đây là con gái tôi, nhiều Vương Tử đến hỏi nhưng tôi không gả. Hôm
nay gặp cậu tôi rất vui lòng! Con gái tôi nó đồng ý kết duyên với cậu.
Vậy cậu có nhận lời nói đây? Xin cho biết.
- Dạ! Thưa Trưởng Giả, hiện nay
tôi đi ra biển, tai nạn nguy hiểm nhiều, có ngày đi không biết có ngày về,
giờ nhận lời với ông, một ngày gần đây bị tai nạn, băng mình trong
biển cả! Sai lời hẹn thì làm thế nào?
- Không sao! Nếu cậu được tốt lành
trở về, thì xin nhận lời hứa!
Ông vui vẻ đưa cho cậu ba ngàn lạng
vàng, và rất nhiều các thực phẩm khác. Cậu cảm ơn ông, rồi từ biệt
lên đường đi.
Đưa vàng về, cậu bảo các người
theo, đi mua thuyền tốt, dày bảy lần ván, để chống đỡ với sóng gió.
Mua thuyền xong, cột bằng bảy cái
dây.
Đại Thí lắc chuông, lớn tiếng
nói:
- Các bạn lắng tai nghe! Chú ý!
Chú ý, đi biển nhiều nguy hiểm, nào hắc phong, quỷ La Sát, ác phong, độc
khí, thuỷ hắc, núi đá, cá Ma Kiệt, tai nạn rất nhiều. Các bạn đi cùng
tôi! Tới đây, ai muốn về, thì ở lại, kẻo đến khi gặp tai nạn, lúc
ấy dầu có hối cũng không được; còn ai vững lòng bền chí, không tiếc
thân mạng, vợ con, anh em, cha mẹ thì đi. Trái lại, nếu được an toàn trở
về, tiền của con cháu bảy đời ăn không hết.
Nói xong, cắt một dây; cứ như thế,
mỗi ngày tuyên bố một lần, lại cắt một dây; bảy ngày cắt hết bảy
dây, thuyền bắt đầu đi, trương buồm thuận gió, thuyền chạy như bay.
Qua một thời gian khá lâu, mới đến
chỗ có nhiều ngọc châu và vàng bạc.
Đại Thí là người tinh anh, học rộng,
biết rành các thứ ngọc châu: thứ nặng, thứ nhẹ, hạng quý, hạng thường,
hình sắc tốt hay xấu, để chỉ bảo cho mọi người lấy, và dặn lấy vừa
phải đừng tham, sợ nặng bị đắm thuyền; nếu lấy ít thì không bõ
công đi.
Anh em chăm chú lấy xong, khi sắp ra
về, Đại Thí không muốn lên thuyền, anh em hỏi:
- Thưa cậu! Các thứ ngọc châu, bảo
vật, chúng tôi lấy cho xuống thuyền đã đầy đủ, mời cậu lên thuyền
đi về!
- Các bạn hãy về trước! Giờ đây
tôi muốn đến điện vua Long Vương, để xin ngọc Như Ý, thì có thể bố
thí cho chúng sinh toàn cõi Diêm Phù Đề được. Tôi cương quyết đi, nếu
không xin được tôi quyết không về!
- Thưa cậu! Chúng tôi nhờ sự mạo
hiểm và cương quyết của cậu mà ra tới đây, lấy được nhiều bảo vật,
châu ngọc, mong được hoàn toàn trở về, bây giờ cậu lại bỏ rơi lũ
chúng tôi mà đi một mình, chúng tôi rất không bằng lòng! Yêu cầu cậu
trở về cùng chúng tôi.
- Thôi, các bạn cứ an tâm, tôi sẽ
cầu nguyện cho các bạn được an lành trở về nước nhà, sung sướng cùng
cha mẹ vợ con, riêng tôi các bạn không lo!
Toàn thể anh em ai cũng buồn! Họ
đều chắp tay, cầu chúc cậu đi được tốt lành, và xin giã biệt trở về.
Buồm đã trương, những chiếc thuyền
từ từ quay mũi. Anh em đứng trên thuyền nhìn cậu mà rớt nước mắt!
Thuyền đã chạy xa xa, bóng mờ mờ
ngoài biển. Đại Thí dâng hương lễ mười phương chư Phật lập thề rằng:
- Kính lạy thập phương Đại Giác
từ bi chứng giám! Con không quản đường xa dặm thẳm, nguy hiểm khó khăn,
vào biển tìm châu để cứu tế quần sinh, qua khỏi nạn đói khát, khốn
khổ! Nguyện đem công đức này, cầu thành Phật, xin dốc một lòng thành
kính, cho lời thề nguyện của con được thành tựu, và những người này
được an lành, về không gặp các tai nạn.
Đại Thí ra đi ngày thứ nhất, nước
ngập đến đầu gối; đi trong bảy ngày nước sâu đến tận mông; đi bảy
ngày nước đến ngang lưng; bảy ngày nữa nước ngập tới cổ; bơi bảy
ngày nữa tới một quả núi. Đại Thí bẻ hai cành cây làm gậy chống, để
leo núi; leo bảy ngày tới ngọn, đi bảy ngày trên đỉnh núi ấy, rồi lại
trở xuống; suốt bảy ngày đến chân núi, tới một ven nước, dưới nước
có hoa sen sắc vàng, lại có các con rắn độc nằm trên hoa, hoặc trên
ngó.
Đại Thí thấy vậy, ngồi kết
vòng tròn ngay ngắn, hệ tâm nhiếp niệm, nhập phép quán từ bi tam muội.
Nghĩ tới những con rắn này, do kiếp trước tạo nghiệp sân nộ ghét
ghen, nên đọa sinh ở nơi đây, chịu thân hình độc ác xấu xa. Bởi lòng
từ bi của Đại Thí giao cảm, nên những con rắn đó, được hết nọc đọc.
Đại Thí đứng dậy đi trên những
bông hoa ấy suốt bảy ngày thoát nạn rắn độc, nhìn trước mặt xa xa,
thấy những con quỷ La Sát, vì chúng ngửi thấy hơi người mà tìm lại.
Thấy thế, Đại Thí nhiếp tâm niệm nhập phép Từ Bi quán; nhờ phép
quán ấy, nên các con quỷ tự phát tâm cung kính, vui vẻ tới gần hỏi:
- Bồ tát ở đâu tới đây?
- Thưa Ngài, tôi đi tìm ngọc Như
Ý!
Quỷ vui vẻ, nghĩ như vầy:
- Người này có phúc đức đi đến
chỗ vua Long Vương, nhưng hãy còn xa, làm sao đi nổi? Vậy chúng ta hãy
đưa giúp, qua chỗ nguy hiểm này.
Nghĩ rồi, chúng dùng lực thần của
quỷ, đưa Đại Thí qua bốn trăm do tuần, rồi trở về.
Tới đây, Đại Thí ngắm thẳng
đường đi, thấy một cái thành lớn bằng bạc, sáng quắc như mặt trời.
Đại Thí biết đích thành này của Long Vương, vui vẻ đi thẳng vào, thấy
bên ngoài thành có bảy lần hào nhiễu quanh, trong hào thuần rắn độc coi
rất ghê sợ!
Đại Thí tự nghĩ: - Những con rắn
này lúc tiền sinh, ác tâm nộ hại nhiều, nên nay phải đọa làm rắn, chịu
thân hình cực ác.
Đem lòng từ bi thương xót, thì
các con rắn ấy tự nhiên lẩn mất. Đại Thí đi thẳng vào thành. Ở cổng
thành thấy có hai con rồn cuộn khúc, hai đầu giao nhau, dáng như cánh cửa.
Thấy Đại Thí vào, chúng ngóc đầu nhìn. Đại Thí nhập Từ Bi quán; Rồng
cúi đầu không dám ngó nữa. Đại Thí bước lên đầu Rồng đi vào.
Giữa lúc vua Long Vương đương ngồi
ở điện Thất Bảo, nhìn thấy có người vào lấy làm ngạc nhiên, thầm
nghĩ:
- Thành của ta có bảy lần hào lũy,
trong hào có rất nhiều Rắn độc, ngoài ra lại còn có các loài độc
Long, Quỷ Dạ Xoa; người này làm sao vào được? Chắc họ có đức lớn!
Vua Long Vương phát khởi lòng cung
kính, đón chào hỏi han, mời ngồi giường thất bảo, đem các món ăn ngon
ra thết đãi. Ăn xong, vua Long Vương hỏi rằng:
- Ngài tới đây có chuyện gì cần
thiết không?
- Thưa Long Vương! Nhân dân trên
cõi Diêm Phù Đề, nghèo đói đau khổ! Do cơm ăn, áo mặc mà tạo các nghiệp
ác, như: sát sanh, trộm cắp, nói dối, lừa bịp lẫn nhau, bởi thế chết
đọa vào ba ngả ác. Tôi vì lòng thương! Muốn cứu chúng sinh, nên không
quản đường xa dặm thẳm tới đây yết kiến Đại Vương để xin viên
ngọc Như Ý về cứu giúp dân chúng, mong Đại Vương mở lượng từ bi bố
thí cho!
- Dạ, ngọc Như Ý là một vật
quý nhất, Ngài tới đây cũng là một công phu mạo hiểm quên thân; tôi đâu
dám từ chối, nhưng xin Ngài lưu tâm ở lại đây một tháng; nhận chút
cúng dàng mọn của tôi, và thuyết Pháp cho tôi nghe, thì tôi xin biếu
Ngài!
- Dạ, quý hóa! Đại Vương có
lòng cố lưu, và muốn nghe thuyết Pháp, tôi xin ở nán lại, không dám từ
chối.
Vua Long Vương ngày ngày cúng dàng rất
trịnh trọng, dâng đủ các món ngoan lạ dưới Long cung. Trong giờ ăn, các
nhạc sĩ, vũ nữ, múa hát cúng dàng, gảy những cung đàn rất tuyệt! Ca những
bài hát cực hay!
Đại Thí dùng biện tài vô ngại,
giảng thuyết pháp Tứ Niệm Xứ cho Vua nghe. Hết một tháng, từ biệt lên
đường. Vua Long Vương lấy ngọc Như Ý trong búi tóc ra tặng, và nói rằng:
- Đại Thí có lòng từ bi rộng lớn,
tâm chí mãnh liệt, quyết định thành Phật. Sau khi Ngài được thành Phật.
Tôi xin làm một để tử trí tuệ!
- Quý hóa! Thưa Long Vương, ngọc này
có năng lực thế nào?
- Dạ! Thưa Đại Thí, ngọc này có
năng lực làm mưa trong hai ngàn do tuần vuông bốn mặt; nước mưa ấy hóa
ra những món chúng sinh cần dùng trong đời sống.
Đại Thí hoan hỷ đỡ lấy ngọc,
rồi thầm nghĩ:
- Hạt ngọc này tuy quý thực, nhưng
chỉ có hạn định, chưa cứu tế cho chúng sinh được nhiều, như ý nguyện
của ta đã định.
Vua Long Vương và quần thần, đưa
chân ra ngoài cổng thành; Đại Thí từ tạ bước lên đường. Đi được
ít lâu, tới một cái thành, thuần bằng lưu ly xanh, ngoài thành có bảy lần
hào vây xung quanh, trong hào có rất nhiều rắn độc.
Đại Thí thầm nghĩ như vầy:
- Những con rắn này, lúc tiền sinh
tạo nhiều sân si tật đố, nên phải chịu thân hình xấu ác như vậy.
Nghĩ xong, ngồi ngay nghiêm nhập
phép Từ Bi Quán, vì thương chúng đau khổ. Lòng từ bi lan cảm, làm cho bạt
hết tâm độc của chúng.
Đại Thí đứng dậy, bước lên đầu
những con rắn ấy, đi thẳng vào cổng thành; thấy hai con rồng, mình cuộn
quanh thành, hai đầu giao nhau ở trước cửa, cũng như cách canh gác. Rồng
thấy người, ngóc đầu, nháo mắt, nhìn một cách ác liệt.
Đại Thí liền nhập quán Đại Bi;
Từ Tâm thông cảm. Rồng gục đầu, biểu lộ một vẻ hiền lành. Đại
Thí tiến bước vào trong.
Vua Long Vương đương ngồi ở điện
Thất Bảo, nhìn thấy có người vào, thầm nghĩ như vầy:
- Quái sao? Ngài thành có bảy lần
hào, nào những Rắn độc, Rồng độc, quỷ Dạ Xoa, khó đi như thế, mà
người này vào đây được? Chắc họ có đức lớn, không phải người
thường!
Nghĩ xong, đứng lên ra đón chào hỏi
han, rất kính cẩn, mời lên bảo điện ngồi tòa thất bảo, đem các món
ngon quý ra thết đãi. Ăn xong, niềm nở nói chuyện, và hỏi:
Ngài ở đâu đến đây, có chuyện
gì cần thiết không?
- Thưa Đại Vương! Tôi ở Châu
Diêm Phù Đề, xuống đây để xin ngài hạt ngọc Như Ý!
- Thưa Ngài, ngọc Như Ý hiếm có lắm!
Nếu Ngài muốn dùng xin ở lại đây hai tháng, giảng thuyết hạnh Bồ Tát
và nhậm chút cúng dàng của chúng tôi.
- Dạ, quý hóa! Nếu Đại Vương có
tâm mến mộ vô thượng Pháp Bảo của chư Phật, việc đó tôi xin thành
kính, giảng giải.
Vua Long Vương sai bày tòa cao, mỗi
ngày hai thời thỉnh thuyết Pháp, và sửa trai nghi cúng dàng rất trịnh trọng.
Đại Thí dùng vô ngại biện tài,
phân biệt nói về "Tứ Thần Túc", hết hai tháng từ biệt ra về.
Vua Long Vương lấy ngọc Như Ý ra tặng
và phát nguyện rằng:
- Đại Thí Từ Tâm phổ tế quần
sinh, quảng đại vô biên, quyết được thành Phật, khi đó tôi nguyện
làm một thần túc đệ tử.
- Dạ, hay lắm! Đại Vương nguyện
như vậy, sẽ được thành tựu! Còn viên ngọc này có năng lực thế nào?
- Thưa Đại Thí! Viên ngọc này có
năng lực làm mưa tất cả các món ăn dùng của chúng sinh, quy vuông bốn
ngàn do tuần?
Đại Thí hoan hỷ, nhận lấy viên
ngọc, rồi tự nghĩ rằng:
- Hòn ngọc này tuy cũng khá nhưng
chưa xứng ý của ta đã định!
Vua Long Vương và quần thần tiễn
chân ra ngoài cổng thành, chờ đi xa mới trở về.
Đại Thí đi chưa được bao lâu,
thấy một cái thành bằng vàng, rất mỹ quan, sáng rực một trăm dặm, tới
gần thấy bảy lần hào vây quanh, trong hào có rất nhiều rắn độc. Đại
Thí thầm nghĩ:
- Những con rắn này, do đời trước
đây tâm ác độc, ghen ghét nộ hại, nên phải chịu thân độc ác như vậy!
Nghĩ xong nhập Từ Tâm ái niệm, đánh
bạt ác tâm rắn độc, chúng nằm rạp xuống, Đại Thí bước lên trên
mà đi, tới cổng, thấy hai con Rồng cuộn khúc quanh thành hai đầu giao
nhau, gác hai bên cổng, thấy người, chúng ngóc cổ trố mắt nhìn một
các ác nghiệt.
Đại Thí liền nhập quán Từ Bi; Rồng
cúi đầu, Ngài bước vào trong cổng.
Lúc đó vua Long Vương đương ngồi
ở bảo điện thấy người vào, ngạc nhiên, thầm nghĩ:
- Ngoài thành có bảy lần hào vây
quanh, nào Rắn độc, Rồng độc, quỷ Dạ Xoa, khó khăn như thế mà sao người
này vào được? Chắc họ có đức lớn!
Nghĩ thế rồi khởi lòng tôn trọng
kính cẩn, bước ra đón tiếp hỏi han, rồi mời Ngài vào điện, ngồi tòa
thất bảo, đem các món ăn ngon quý dưới Long Cung thết đãi rất trịnh trọng.
Ăn xong vua hỏi:
- Ngài ở đâu tới đây? Và có cần
dùng việc gì không?
- Dạ, thưa Đại Vương! Chúng sinh
trên cõi Diêm Phù Đề bạc đức cùng khổ; làm ăn lao lực, đến nỗi sát
hại lẫn nhau, cũng chỉ vì miếng cơm manh áo, hoàn toàn làm mười điều
ác, sau khi chết đọa vào ba đường sá xa xôi, bao lần nguy hiểm! Nghe biết
Đại Vương có hạt ngọc Như Ý, có thể làm cho chúng sinh hết đau khổ,
vì thế tới đây xin Ngài, để cứu tế cho nhân dân.
- Dạ, thưa Đại Thí! Ngọc Như Ý
là một vật quý nhất dưới Hải Tạng, nếu Ngài muốn dùng xin ở lại
đây bốn tháng nhận chút cúng dàng, và giảng giải cho chúng tôi được
biết đạo lý.
- Dạ, như vậy hay lắm! Nếu Đại
Vương muốn nghe giảng thuyết về Chánh Pháp của Như Lai, tôi xin thành thực
cúng dàng Vô Thượng Pháp Bảo!
Vua Long Vương hoan hỷ! Ngày ngày
dâng cúng các món ăn ngon quý dưới Long cung, lại bắt các nhạc sĩ mỗi
ngày hai thời tấu nhạc cúng dàng.
Đại Thí dùng biện tài vô ngại
giảng thuyết chân lý cao siêu.
Nhà vua chăm chỉ nghe pháp, chiều sớm
ban hôm không để mất thời tiết. Các hàng Long và quỷ Dạ Xoa, đến xin
hầu hạ, lúc tiến, khi lui, tự đặt ra thời giờ phụng sự, trong bốn tháng
rất nghiêm kính và hợp phép tắc.
Hết kỳ bốn tháng từ giã ra về.
Vua Long Vương cởi búi tóc lấy hạt ngọc Như Ý cúng dàng và thề nguyện
rằng:
- Đại Thí hoằng thệ vô biên, Từ
Tâm cao cả! Vì thương quần sinh, không quản khó nhọc, sau này quyết được
thành Phật, tôi nguyện làm Thị Giả một đệ tử tổng trì!
- Quý hóa! Đại nguyện của Ngài sẽ
được thành tựu mau chóng, còn năng lực của hòn ngọc này như thế nào?
- Dạ, thưa Đại Thí! Hạt ngọc
này có năng lực, mưa thất bảo xuống tám ngàn do tuần quy vuông bốn mặt.
Đại Thí hoan hỷ nhận ngọc rồi
tự nghĩ rằng:
- Đất Diêm Phù Đề này rộng bảy
ngàn do tuần, công năng hạt ngọc này tám ngàn do tuần, như vậy mới đạt
được nguyện vọng của ta!
Tất cả ba hạt ngọc đem gói vào
góc vạt áo. Cảm tạ Long Vương lên đường. Vua và quần thần đưa chân
ra khỏi cổng thành.
Đại Thí đi khỏi thành xa xa, để
hạt ngọc trên bàn tay khấn rằng:
- Nếu thực hạt ngọc Như Ý, xin
cho tôi bay được lên hư không!
Khấn xong, rướn mình bay lên hư không
tựa như chim cắt. Một lát bay qua biển, tới bãi, xuống nghỉ.
Tới đây, Đại Thí nằm ngủ trên
bải cát; bãi này có mấy con Rồng biết rằng Đại Thí đi xin ngọc của
vua Long Vương về, chúng khởi tâm tham; thừa cơ Đại Thí ngủ cởi trộm,
lặn xuống bể mất.
Đại Thí thấy động, mở choàng mắt
ra, nhìn không thấy người, mất ba viên ngọc, nghĩ như vầy:
- Ở đây làm gì có người, mất
ba viên ngọc này, chỉ có những con Rồng lấy của ta thôi! Ta mất bao
công trình lao khổ mới được, đem về cứu chúng sinh cho mãn nguyện bố
thí của ta; lũ bây lấy của ta, ta thề nếu không lấy lại được, quyết
định không về, ta sẽ tát cho hết nước để bắt lũ bay, đầu chết
cũng cam tâm, chứ chẳng chịu về không!
Vừa đi vừa nói trên bãi biển, bắt
được cái mai rừa.
Ông Thần Biển hiện lên nói rằng:
- Biển này sâu ba trăm ba mươi sáu
muôn dặm, dầu cho tất cả toàn cõi Diêm Phù Đề tát cũng không thể cạn
nổi, huống một mình ông tát gì được?
Đáp: - Ông nên biết: ai cương quyết
làm việc gì, thì việc ấy sẽ thành công. Tôi đi tìm hạt ngọc Như Ý,
để giúp ích cho nhân loại, khó đến như thế, mà tôi cương quyết không
lui chí hướng, để cầu thành Phật, thì việc tát bể đã lấy gì khó hơn.
Khi đó có một người ở cõi Trời
Tịnh Cư, thấy Đại Thí nhất thân nhất ý với bao công trình khó nhọc,
để cứu tế chúng sinh, bị Rồng ăn cắp ngọc, ông gọi một số đông
người ẩn hình đến giúp việc tát biển.
Cứ mỗi khi Đại Thí múc nước,
thì các ông ấy lấy áo cõi Trời, nhúng xuống biển, rồi lại đem áo vắt
nước đi nơi khác. Cứ mỗi lần Đại Thí múc nước như vậy, thì nước
biển cạn đi bốn mươi dặm; hai lần múc, cạn tám mươi dặm; ba lần múc
cạn một trăm hai mươi dặm.
Thấy cạn nước nhiều quá, mấy
con Rồng ăn cắp sợ hãi! Lên tận nơi nói rằng:
- Thôi! Thôi! Đại Thí đừng múc nước
nữa! Đại Thí dùng hạt ngọc này để làm gì?
- Dùng để cứu cấp cho tất cả
chúng sinh, Châu Diêm Phù Đề!
- Theo như lời Đại Thí nói; thì
chúng tôi ở trong biển này nhiều lắm, sao Ngài không cho chúng tôi, lại lấy
đi?
- Trong biển này tuy có chúng sinh,
nhưng không bị đau khổ như chúng sinh Châu Diêm Phù Đề, vì miếng ăn
manh mặc mà sát hại lẫn nhau, lừa bịp, dối trá lẫn nhau, tạo đủ mười
điều ác, chết đọa xuống tam đồ ác đạo, ta muốn cho họ hiểu được
Pháp ấy, nên xuống đây xin ngọc, trước cho họ ăn mặc đầy đủ, sau
cho họ tu theo mười điều lành (Thập Thiện).
Rồng nghe xong, đem ba hạt ngọc
Như Ý trả lại.
Khi đó ông Thần Biển thấy Ngài
tinh tiến cứng rắn như vậy, đối trước Ngài lập thệ nguyện rằng:
- Đại Thí tinh tiến như thế, quyết
định được thành Phật, khi đó tôi nguyện làm một tinh tiến đệ tử!
Nhận hạt châu rồi bay lên hư không,
một lát gặp các người cùng đi với mình, đáp xuống. Các người đó
nhìn thấy Đại Thí vừa ngạc nhiên vừa vui mừng! Hỏi rằng:
- Cậu ở đâu tới đây? Thật là
vô cùng sung sướng, hôm nay lại gặp được ông bạn chí thân.
Nói xong tay bắt mặt mừng, cùng
nhau về tới nước Phóng Bát.
Ông Ca Tỳ Lê được tin Đại Thí
ra biển tốt lành trở về, vui vẻ ra đón chào hỏi han niềm nở, rồi mời
tất cả về đãi ăn.
Ăn xong nói chuyện những công việc
hành lộ vừa qua, rất là vui vẻ! Đại Thí đưa ngọc Như Ý chỉ vào các
kho tàng, thì những kho tàng nhà ông đều đầy dẫy vàng bạc ngọc ngà,
trân bảo. Mọi người đều tắc lưỡi khen lạ!
Ông Ca Tỳ Lê trang điểm cho con gái
đẹp đẽ, trước rửa tay, sau dắt con gái giao cho Đại Thí!
Khi ra về, ông cho năm trăm người
kỹ nữ có đủ tài năng, và năm trăm bạch tượng theo hầu con gái.
Đại Thí giao cho các bạn cỡi voi
lên đường về nước nhà; hôm ấy cuộc tiễn chân rất là náo nhiệt! Rất
vui vẻ! Tiếng hay đồn khắp muôn phương.
Từ khi Đại Thí đi, cha mẹ ở nhà,
quá thương, khóc nhớ! Đêm ngày sầu khổ! Đến nỗi lòa cả đôi mắt.
Đại Thí ra lễ cha mẹ, và hỏi
han sức khỏe, cùng các công việc nhà.
Ông bà mừng quá! Vì lòa không
nhìn thấy con, lấy tay xoa đầu vuốt mặt một cách nồng nhiệt, nói rằng:
- Con nỡ bỏ cha mẹ đi xa xôi từ
bấy đến nay, để cha mẹ ở nhà thương nhớ. Vậy con vào biển được
những bảo vật gì?
- Dạ, thưa cha! Con xin vua Long
Vương được hạt ngọc Như Ý, cha cầm thử xem có quý không?
Ông đỡ lấy rồi nói rằng:
- Hòn đá này trong kho của nhà ta,
nào có thiếu chi; thế mà con liều thân hoại thể, trải bao tân khổ nơi
biển cả với ba đào hiểm trở, lấy về đây làm gì?
Đại Thí cầm hạt châu chỉ vào mắt
ông bà, tự nhiên cặp mắt trông sáng hơn xưa, cũng như một cơn gió thổi
tan mây khói, bóng bình minh sáng giữa không gian. Ông bà được cặp mắt sáng
tinh, cảm niệm lực oai thần của hạt ngọc châu vô biên công đức! Rồi
nói:
- Quý hóa! Con tuy chịu đau khổ
nhưng cũng không luống cống.
Đại Thí lại dâng hạt châu lên
nguyện rằng:
- Nguyện xin tòa ngồi của cha mẹ
tôi biến thành tòa Thất Bảo vào có tán Thất Bảo che trên!
Nguyện xong liền được như ý
ngay.
Lại nguyện rằng: - Nguyện cho kho
tàng của cha mẹ tôi, và vua quan, dân chúng đầy chật vàng bạc, của
báu!
Nguyện xong, tất cả toàn quốc từ
vua chí dân, nhà nào cũng có rất nhiều vàng, bạc, ngọc, ngà của cải.
Thấy thế ai cũng ngạc nhiên và
vui mừng!
Sau thời gian này, Đại Thí sai người
cỡi voi đi tám ngàn dặm báo cáo cho toàn thể quốc dân biết rằng:
- Cậu Đại Thí ra biển được tốt
lành trở về, sau bảy ngày nữa, ngọc Như Ý sẽ mưa xuống tất cả áo mặc,
thức ăn uống, tuỳ theo ai muốn dùng gì cũng được như ý.
Nhưng nhân dân trai giới thanh tịnh
và thành kính mới được hưởng phúc vô biên ấy!
Đến ngày thứ bảy, Đại Thí tắm
gội sạch sẽ, mặc áo mới; rồi đi đến một khu đất bằng phẳng cao rộng,
để hạt ngọc Như Ý trên đầu ngọn phướn cao, tay cầm lư hương nguyện
rằng:
- Tất cả chúng sinh trong cõi Diêm
Phù Đề bần cùng tân khổ, tôi muốn cứu họ khỏi sự thiếu thốn, nếu
thực là ngọc Như Ý, thì xin lần lượt, mưa xuống những món cần về đời
sống của chúng sinh!
Lời cầu nguyện vừa xong, bốn phương
mây kéo râm mát, một làn gió thổi mạnh làm tiêu tan tất cả những vật
nhơ bẩn trên mặt đất, sau mưa qua một lượt cho sạch bụi, rồi bay xuống
các món ăn ngon lành, tiếp tục năm thứ thóc rơi đầy mặt đất, quần
áo, lụa vải, vàng bạc khắp nhân gian đầy dẫy.
Từ đây toàn cõi Diêm Phù Đề, nhà
nào cũng đầy kho vàng bạc, lưu ly, kim cương, thức ăn, áo mặc thừa
thãi.
Vì nhiều quá, nên bấy giờ họ
coi vàng bạc, kim cương như đất đá, vô giá trị.
Đại Thí thấy dân đã đầy đủ
các nguyện vọng, bèn sai người đi báo cáo cho toàn cõi Diêm Phù Đề biết
rằng:
- Tất cả dân chúng trước đây, bị
thiếu thốn về áo mặc thức ăn uống, châu bảo, vì thế sát hại lẫn
nhau, thấy lợi quên nghĩa, không e dè tội phúc, chết đọa vào tam đồ
ác đạo, cũng như người từ chỗ tối, lại đi vô chỗ tối thêm, đày
đọa tội khổ nhiều kiếp lâu dài. Tôi thường thương xót không người
cứu tế, vì thế mà tôi quên mình dấn thân nơi biển cả, trải bao sự
khó khăn gian hiểm lấy được viện ngọc Như Ý, về cung cấp cho toàn thể
quốc dân đầy đủ sung sướng! Giờ đây tôi mong tất cả nhân dân, gắng
sức tu mười điều lành, giữ gìn thân, miệng, ý và có nhân từ, hiếu
thảo, chớ nên phóng túng mới mong thoát khỏi ba đường ác, đời đời
được sinh Nhân Thiên, phú quý tự tại tu chứng đạo Bồ Đề.
Sau viết thư cho vua quan các nước
khuyên dân tu theo pháp Thập Thiện, ngoài ra còn dùng nhiều phương tiện dìu
dắt chúng sinh, cải tà quy chính, bỏ ác làm lành.
Thuở đó tất cả nhân dân, trên
Châu Diêm Phù Đề, được nhờ ơn Đại Thí đầy đủ về vật chất, với
tinh thần khuyên tu Thập Thiện. Họ nghĩ không biết lấy gì đền đáp ơn
cao cả ấy; họ chỉ biết tuân theo lời giáo hóa tu Thập Thiện, và
chuyên rèn luyện lòng từ bi khiêm nhượng, giữ gìn thân, miệng, ý thanh tịnh,
để trả ơn ông Đại Thí. Sau khi mạng chung đều được sinh về các tầng
Trời cả.
Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:
- Xá Lợi Phất! Ông nên biết: ông
Ni Câu Lư Đà thuở đó, chính là cha ta (Tinh Phạn), bà sinh Đại Thí đó,
nay là mẹ của ta (Ma Gia), còn ông Đại Thí chính là thiền thân của ta;
ông vua Long Vương ở thành bằng bạc, nay là ông Xá Lợi Phất; vua Long Vương
ở thành lưu ly nay là ông Mục Kiền Liên; ông Long Vương ở thành bằng
vàng, nay là ông A Nan; ông Thần Bể nay là ông Ly Việt.
Ông A Nan khi đó làm Long Vương thết
đãi ta một cách khiêm kính, khéo biết thời nghi, ngày nay cũng muốn hầu
ta, cho đú鮧 thời tiết; ông ưng được ba
nguyện ấy, là tùy ý muốn của ông.
Tôi rất hoan hỷ, khi đức Phật nói
lại thuở tiền sinh, nên tôi liền đứng dậy, tới trước quỳ thẳng, chắp
tay bạch rằng:
- Kính lạy đức Thế Tôn! Con xin
thân hành thọ làm Thị Giả, cúi xin Ngài từ bi hứa khả cho!
Tất cả mọi người lúc đó ai nấy
đều cảm niệm ơn đức lớn lao của Phật đã quên mình vì chúng sinh, rồi
ngồi ngay nghiệm suy xét pháp Tứ Đế. Sau có người đắc quả Tu Đà
Hoàn, cho đến quả A La Hán, cũng có người đắc nhân Bích Chi Phật, cũng
có người phát tâm cầu đạo Vô Thượng Bồ Đề, có người dự ngôi Bất
Thoát, tất cả đều vui mừng tạ lễ mà lui.