- Kinh Hiền Ngu
- Thích Trung Quán dịch
- Phẩm thứ ba mươi mốt
- ĐẠI KIẾP TÂN NINH
CHÍNH tôi được nghe: Một
thời Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc, cây của Thái Tử
Kỳ Đà.
Về phương nam nước Xá Vệ có một
nước tên là Kim Địa, ông vua đó tên là Kiếp Tàn Ninh, con trai ông tên
là Đại Kiếp Tân Ninh. Trí óc thông sáng sức lực khỏe mạnh, sau khi nhà
vua băng hà, Thái Tử Đại Kiếp Tân Ninh lên nối ngôi, thống trị ba vạn
sáu nước, quân lính rất nhiều, thiên hạ vô địch, tiếng anh hùng đã lừng
lẫy bốn phương. Nhưng xứ Trung Quốc họ không tùng phục.
Bấy giờ có một người lái buôn
đến nước Kim Địa buôn bán, đem dâng vua bốn thứ lụa Bạch Điệp rất
tốt. Vua nhận rồi hỏi rằng:
- Vật này mua ở xứ nào?
- Tâu Bệ Hạ! Mua ở Trung Quốc!
- Trung Quốc tên chi?
- Tâu Bệ Hạ! Tên là La Duyệt Kỳ,
Xá Vệ, và còn nhiều nước khác nữa.
- Các vua xứ Trung Quốc, tại sao
không đem lụa này dâng ta?
- Tâu Bệ Hạ, đối với lực lượng
họ cũng chẳng kém gì nên họ không dâng!
Vua Kim Địa thầm nghĩ như vầy:
- Thế lực của ta có thể toàn thu
được thiên hạ về một mối, họ không chịu thần phục ta, ta sẽ cử
đại hùng binh sang đánh!
Nghĩ xong hỏi lái buôn rằng:
- Các nước xứ Trung Quốc, nước
nào lớn hơn và hùng mạnh hơn?
- Tâu Bệ Hạ, nước Xá Vệ lớn
nhất, và hùng mạnh nhất!
Nhà vua nói:
- Tốt lắm, Trẫm nhận lẽ này cho
anh, và cho anh ra!
- Dạ! Tâu Bệ Hạ, con xin cáo lui.
Nhà vua thảo tờ chiếu chỉ, sai người
mang sang cho vua Ba Tư Nặc như sau:
- Ba Tư Nặc! Ông nên biết: Nước
ta hùng mạnh khắp cõi Diêm Phù Đề đều biết, Khanh tuyệt giao với ta;
Ta sai người mang chiếu chỉ này, bảo cho Khanh biết: Nếu Khanh đương nằm
nghe thấy chiếu chỉ của ta đến, thì phải ngồi dậy ngay! Nếu đương
ngồi phải đứng dậy ngay! Nếu đương ăn phải nhổ ra ngay! Nếu đương
tắm phải quấn tóc lại ngay! Nếu đương đứng phải chạy đến đỡ lấy
ngay, sau bảy ngày nữa sẽ biết ta! Nếu không theo đúng lời nói đây, ta
sẽ đem đại hùng binh sang tiêu diệt nước của nhà người!
Vua Ba Tư Nặc tiếp được tờ chiếu
chỉ vua Kim Địa, sợ toát mồ hôi! Bối rối không biết nghĩ sao liền đi
cầu Phật giải quyết.
Bạch Phật rằng: - Kính lạy đức
Thế Tôn! Vua Kim Địa cậy sức hùng mạnh, hẹn bảy ngày nữa đem binh
sang đánh, con vừa nhận được thơ. Cúi xin đức Thế Tôn đoán cho!
Phật dạy: - Nhà vua không lo! Về bảo
sứ giả rằng: Ta cũng có một ông Đại Vương nước lớn, ông đó theo Phật
giáo, cũng gần đây, vậy nhà ngươi mang tờ chiếu này đến cho Đại
Vương ta coi!
Sứ giả đi cùng vua Ba Tư Nặc đến
rừng Kỳ Hoàn.
Đức Thế Tôn tự biến ra vua Chuyển
Luân, sai ông Mục Kiền Liên làm một vị đại tướng cầm quân, cơ nào
đội ấy rất hùng mạnh, biến rừng Kỳ Hoàn ra một cái thành lớn, bằng
thất bảo, chung quanh thành có bảy lần hào lũy, thành có bảy lần hàng
cây cũng bằng thấy bảo, dưới hào có hoa sen, đủ các sắc, quang minh
sáng sủa, các cung điện trong thành thuần bằng thất bảo. Vua Chuyển
Luân ngồi trên bảo điện tôn nghiêm đáng sợ.
Sứ Giả vào tới thành, nhìn thấy
vua Chuyển Luân, lẫm liệt như ông Thiên Đế Thích trên cung trời Đao Lợi,
tâm hồn kinh ngạc, sợ hãi! Thầm nghĩ như vầy:
- Vua Kim Địa vô cố lại
chiêu cái họa vào thân!
Vừa run, vừa sợ! Không biết tính
cách gì nói cho tiện, quỳ xuống dâng lá thơ thưa rằng:
- Kính tâu Đại Vương! Con là sứ
thần của vua Kim Địa, tuân mạng dâng bức thơ này lên Đại Vương!
Vua Chuyển Luân, vất tờ thơ ấy
xuống, đất, đạp lên trên nói:
- Ta làm một ông Đại Vương thống
trị bốn thiên hạ, chúa nhà ngươi điên cuồng sao dám vô lễ, về ngay bảo
cho chúa nhà ngươi biết rằng: Mau mau lại đây triều cống nước ta,
đương nằm nghe thấy lời của ta đến, phải ngồi dậy ngay! Đương đứng
phải bước lại ngay! Hẹn bảy ngày nữa phải đến! Nếu trái lệnh ta,
khi chịu chết đừng có hối hận!
- Dạ muôn tâu Đại Vương! Hạ thần
xin phụng mạng!
Sứ Giả về nước nhà! Tâu vua Kim
Địa những lời nói trên, và trình bày thế lực cho nghe. Kim Địa nghe
xong núng thế, tự trách mình đã quá kiêu ngạo, rồi thảo thơ đi mời các
vua nước nhỏ đến, để điyết kiến vua Chuyển Luân (Phật).
Song hãy còn ngờ sai sứ đến tâu
rằng:
- Tâu Bệ Hạ! Tiểu Vương Kim Đại
phái hạ thần đến đây, kêu với Bệ Hạ đưa ba vạn sáu ngàn vua các nước
đến yết kiến, hay đi một nữa, xin cho hạ thần được rõ?
- Đại Vương đáp: "Cho để lại
một nữa, tới đây một nữa?"
Sứ Giả về tâu rằng:
- Tâu Bệ Hạ! Đại Vương cho để
lại một nữa, sang một nữa!
Vua Kim Địa sửa soạn binh nhung đầy
đủ lương thực, và đưa một vạn tám ngàn vua nước nhỏ sang. Tới nơi
thấy thành quách trang nghiêm thuần bằng thất bảo, quân đội hùng mạnh,
vua Chuyển Luân như ông trời Đế Thích, oai phong lẫm liệt, cảm giới
không khác thiên cung. Song lại nghĩ như vầy:
Đức tướng và cảnh giới tuy hơn,
nhưng lực lượng chưa chắc đã hơn ta.
- Vua Chuyển Luân biết ý nghĩ của
ông như vậy, sai quân lấy cung cho vua Kim Địa giương thử. Kim Địa cầm
cung giương không nổi.
Thấy giương không nổi, vua Chuyển
Luân cầm lấy cung giương lên như bỡn, rồi Ngài trao cho Kim Địa bắn thử,
nhưng bắn không nổi.
Vua Chuyển Luân cầm lấy cung, bắn
tiếng kêu, làm chấn động ba ngàn thế giới, lại bắn thêm một phát nữa,
hóa ra năm mũi tên, các đầu tên đều tảo ra vô số quang minh, trên đầu
tia sáng đều có các hoa sen lớn, to như vành bánh xe, trên mỗi một hoa, đều
có một ông Chuyển Luân Vương ngồi tòa thất bảo, ngọc nữ đông đủ.
Những tia sáng của hoa làm đoạt ánh sáng mặt trời, mặt trăng, trong ba
ngàn cõi, hào quang ấy làm cho tất cả chúng sinh trong năm thú được lợi
ích.
Trên các cõi trời, những người
được thấy ánh hào quang, và được nghe thuyết pháp, thân tâm họ đều
được thanh tịnh an vui! Rồi có người đắc quả thứ hai, hoặc thứ ba;
cũng có người phát tâm cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, dự
vào ngôi bất thoái.
Những chúng sinh ở đạo người
được thấy hào quang, và nghe tiếng thuyết pháp, ai nấy đều vui mừng!
Sau có người đắc nhị quả hoặc tam quả, cũng có người phát tâm xuất
gia, và phát tâm cầu đạo vô thượng Bồ Đề, dự vào ngôi bất thoái.
Trong loài ngạ quỷ được thấy hào
quang này và nghe tiếng thuyết pháp, đều tiêu hết nghiệp, thân tâm an lạc,
nhiệt não tiêu tan, phát sinh tâm tôn kính Đức Phật, họ đều được giải
thoát loài ngạ quỷ, sinh lên thiên đường hoặc sinh cõi nhân gian.
Loài súc sinh được gặp ánh quang
minh này, lòng tham dục, sân si tự nhiên tiêu diệt, sinh lòng tôn kính Đức
Phật, đều thoát khỏi loài súc sinh, hóa sinh về cõi người cõi trời.
Những người trong địa ngục, được
gặp ánh quang minh này, kẻ rét được ấm áp, kẻ nóng được mát mẻ, kẻ
đau khổ được an lành, thân tâm vui sướng kính mến Phật, liền thoát
khoải địa ngục sinh về cõi người, cõi trời.
Đại Kiếp Tân Ninh và các ông vua
thuộc xứ Kim Địa, thấy phép thần biến như vậy, vui sướng, tôn kính,
cảm phục, sợ hãi vua Chuyển Luân có thần biến và đức độ vô biên,
ngay lúc ấy tâm của các ông vua đều giũ hết mọi trần cấu Đắc Pháp
Nhãn Tịnh.
Đức Phật thấy các ông đã chuyển
tâm quy hướng, nên Ngài thu nhiếp thần lực, hiện lại nguyên hình, các
đệ tử vây quanh trước sau.
Kim Địa và các ông vua thấy Phật,
oai đức phi thường thần thông hiển hách, sinh tâm cung kính, cùng nhau quỳ
thẳng chắp tay bạch Phật rằng:
- Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng
con tuy làm nhân chúa, còn mê muội chịu ách luân hồi sinh tử, muốn trút
bỏ kiến thức hẹp hòi của chúng sinh, ràng buộc, cúi xin ngài từ bi cho
xuất gia học đạo!
Đức Phật khen ngợi! Và nói lên rằng:
- Thiện Lai Tỷ Khưu!
Nói dứt lời râu tóc các ông đều
rụng hết, áo Cà Sa thấy mặc tại mình, nghe Phật thuyết pháp được hết
lậu nghiệp thành ngôi La Hán.
Thấy thế, tôi (A Nan) tới trước
quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:
- Kính lạy đức Thế Tôn! Vua Kim
Địa, trước tu hạnh gì, nay được làm nhân chúa, lại được gặp Thế
Tôn, đắc quả La Hán cúi xin nói cho chúng con, và chúng sinh đời vị lai
được rõ?
Phật dạy: - A Nan, tất cả chúng
sinh do tạo, công đức lành đời trước mà được hưởng quả báo tốt
đời này. Đây cũng một thời quá khứ sau, Phật Ca Diếp nhập Niết Bàn,
có một ông Trưởng giả, bỏ tiền ra xây tháp, làm chùa, và các phòng
xá, cúng dàng chư Tăng, nào áo mặc, thuốc thang giường tòa, các món ăn,
sau khi ông chết trải qua lâu năm, chùa tháp hư hỏng và các món ăn cũng
không còn nữa, nên các sư phải đi xứ khác. Con ông ta đi xuất gia làm Tỷ
Khưu, trở về nhà thấy thế, ra khuyến hóa nhân dân, tu sửa chùa tháp, đặt
các giường tòa, và các đồ ăn dùng cúng dàng chư Tăng đầy đủ, rồi
phát nguyện rằng:
- Nguyện công đức này, đời mai
sau cho con được phú quý tràng thọ, gặp Phật nghe pháp và đắc đạo quả!
A Nan ông nên biết, con Trưởng giả
ở thời đó, chính là vua Kim Địa tên là Đại Kiếp Tân Ninh, còn những
người dân góp tiền của chúng dàng, nay là một vạn tám ngàn các ông vua
nước nhỏ bây giờ.
Nghe Phật nói xong ai nấy vui vẻ!
Phát tâm cầu đạo tu phúc, tuân theo lời vàng ngọc, tạ lễ lui ra.