- Kinh Hiền Ngu
- Thích Trung Quán dịch
- Phẩm thứ bốn mươi
ba
- TU ĐẠT LÀM TINH XÁ
CHÍNH tôi được nghe: Một
thời Phật ở thành Vương Xá, tại vườn Trúc.
Khi đó nước Xá Vệ có một ông
quan đại thần tên là Tu Đạt, nhà giàu, lại chăm làm hạnh bố thí, và
hay cứu cấp kẻ nghèo khốn cùng khổ, vì thế nên thời bấy giờ người
gọi ông là: Cấp Cô Độc.
Ông sinh được bảy người con trai
và đã cưới vợ cho sáu cậu. Cậu thứ bảy có đầy đủ phúc đức tài
năng, tướng người tốt đẹp, nên ông yêu quý hơn các cậu kia.
Một hôm có người bạn thân dòng
Bà La Môn đến chơi, ông nói rằng:
- Thưa bác tôi sinh hạ được bảy
cháu trai, đã lập gia đình cho sáu cháu, còn cháu thứ bảy, muốn nhờ
bác, tìm hộ cho cháu, một nơi con nhà thế phiệt có đức hạnh tinh khiết,
nết na hòa nhã, thân tướng xinh đẹp.
- Dạ, việc đó tôi xin giúp bác,
không khó, vì tôi quen biết nhiều.
Hôm ấy ông sang thành Vương Xá,
vào nhà quan Đại Thần tên là Hộ Di khất thực.
Cô con gái ông đưa món ăn cúng
dàng, nhìn thấy con người có đức hạnh và xinh, nên ông hỏi cô rằng:
- Thưa cô, xin lỗi, tôi muốn hỏi
thăm cô một lời có được không?
- Dạ, xin ông cứ việc hỏi, không
sao.
- Dầu tốt lành, hay không tốt
lành cô đừng buồn nhé!
- Dạ ông cứ hỏi!
- Thế này không phải! Cô đã lập
gia đình chưa?
- Thưa ông chưa có, cháu còn
đương ở với ba má cháu.
- Đã có ai bỏ cau chưa à?
- Thưa ông chưa có!
- Quan đại thần hôm nay có nhà
không?
- Thưa ông, ba cháu hôm nay ở nhà!
- Cô thưa với quan lớn, tôi muốn
vào thăm quan, và nói câu chuyện.
Cô vào thưa với quan đại thần rằng:
- Thưa cha, ngoài có người Bà La
Môn, muốn vào gặp cha thưa chuyện?
Ông ra nhà khách, hai người gặp
nhau, hỏi han vui vẻ! Bà La Môn nói:
- Thưa Phụ Tướng! Ngài có biết
ông Tu Đạt làm quan đại thần ở nước Xá Vệ không?
- Thưa, chưa gặp ông lần nào; nhưng
có biết tiếng!
- Thưa, Phụ Tướng! Ông nầy nhà
giàu nhất nước Xá Vệ; được người con trai út, thông minh tuấn tú, sau
này có thể làm lớn, tôi có nhận một lời ông ấy đi kén vợ cho cậu
nhưng đã đi nhiều nơi. Song chưa tìm đâu được người có thể hợp ý,
tình cờ hôm nay vào đây, thấy con gái của Ngài là một người đoan chính
hơn đời.
Vậy tôi xin mối cho con ông Tu Đạt
thì Ngài có vui lòng không?
- Dạ, được lắm tưởng nhà ai,
chứ nhà ông Tu Đạt tôi rất bằng lòng.
Định về báo tin, nhưng gặp người
lái buôn về nước Xá Vệ, nên ông biên thơ gởi cho ông Tu Đạt.
Khi bắt được thư ông vào tâu rằng:
- Tâu Bệ Hạ! Hạ thần có chút việc
bên nước Xá Vệ, xin phép Hoàng Thượng đi ít ngày thu xếp.
- Khanh có việc chi bên đó?
- Tâu Bệ Hạ! Còn thằng cháu thứ
bạy, để sang cưới vợ cho cháu.
- Con nhà ai bên đó?
- Tâu Bệ Hạ! Quan Phụ Tướng Hộ
Di.
- Trẫm mừng cho Khanh! Được lắm!
Ông sắm đủ các lễ vật, mang đi
rất nhiều vàng bạc. Trong khi đi đường gặp ai nghèo đói đều cấp tế
cho họ.
Khi tới nơi, ông Hộ Di ra tiếp
chào mừng vui vẻ! Rồi đưa vào nhà an nghỉ.
Hôm ấy ông Tu Đạt thấy nhà ông
Hộ Di, nhiều người tấp nập, sửa sang nhà cửa, kê giường đặt ghế,
trải chiếu, gối nệm trang nghiêm và thấy nấu nhiều các món ăn ngon lạ,
hỏi rằng:
- Thưa Phụ Tướng, ngày mai có mời
vua quan quý khách, hay có việc chi, mà làm nhiều cỗ bàn như vậy?
- Dạ, thưa không phải, muốn để
cầu phước, nên nhà tôi ngày mai mời Phật và chư Tăng đến nhà cúng
dàng!
Ông Tu Đạt được nghe thấy danh
hiệu Phật và chư Tăng ngạc nhiên quá! Hình như được một điềm gì
hay! Vui vẻ hỏi:
- Thưa Phụ Tướng, Phật là thế
nào, xin nói cho chúng tôi được rõ?
- Ôi! Ngài không biết ư? Phật là
con vua Tịnh Phạn. Tên là Tất Đạt Đa, lúc sơ sinh có ba mươi hai vạn
ông thần; xuống thị vệ và có nhiều thụy ứng khác: Đi bảy bước
trong bốn phương, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất phán:
- Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc
tôn!
Thân sắc vàng, có ba mươi hai tướng
tốt và tám mươi vẻ đẹp, nếu ở tại gia thì làm Kim Luân Vương, cai trị
bốn thiên hạ. Vì thấy chúng sinh có bốn tướng sinh, già, bệnh, chết,
nên Ngài xuất gia, tu khổ hạnh trong sáu năm được nhất thiết trí, hết
kết sử thành Phật, hàng phục được mười tám ức vạn thiên ma ngoại
đạo hiệu là Năng Nhân. Có thập lực, tứ vô úy, thập bát cộng pháp,
quang minh chói sáng, soi suốt ba cõi nên gọi là Phật.
- Dạ, thưa Phụ Tướng! Thế nào gọi
là Tăng, xin nói cho biết?
- Khi Ngài thành Phật rồi, ông vua
cõi Trời Phạm Thiên xuống ân cần cầu thỉnh thuyết pháp. Sau khi nhận lời
mời của ông. Ngài đến nước Ba La Nại tại vườn Lộc Uyển thuyết pháp
nói về tứ chân đế, độ nhóm ông Kiều Trần Như năm người đắc quả
La Hán hết lậu nghiệp đủ sáu thần thông, tứ như ý túc, thất giác,
bát đạo, trên hư không có tám vạn người cõi Trời đắc quả Tu Đà
Hoàn, và vô lượng người phát Bồ Đề tâm. Sau độ cho anh em ông Uất Bệ
Ca Diếp ngàn người, cũng được hết lậu nghiệp thành La Hán quả, thứ
ba độ ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, và tất cả đồ chúng của
các ông ấy cả thảy năm trăm người đều được đắc quả giải thoát,
có thể tác phúc cho nhân gian thiên thượng nên gọi là Tăng.
Tu Đạt nghe nói một việc quý
hóa, vui mừng bủn rủn chân tay một lòng tin kính, mong cho chóng sáng, để
đến yết kiến Phật. Vì lòng thành kính thiết tha có thần cảm ứng,
đương nữa đêm tối mà ông tự thấy ánh sáng tỏ soi khắp mặt đất
như ban ngày, lòng hoan hỷ khôn xiết! Đứng dậy đi sang nước La Duyệt Kỳ
để yết kiến đức Thế Tôn, vừa ra khỏi thành gặp ngôi thiên từ, ông
bước vào làm lễ, tự nhiên quên mất tâm khát vọng Phật lại thấy tối
om, sợ mãnh thú ác quỷ, định trở về thành chờ đợi sáng sẽ đi.
Cũng may ông có người bạn thân,
chết được sinh lên cõi Trời Tứ Thiên Vương, thấy ông hối hận trở về,
liền xuống bảo rằng:
- Cư Sĩ ông chớ hối nữa! Đi yết
kiến Phật được phúc vô biên, ví nay được một trăm cỗ xe chở châu bảo,
không bằng cất chân một bước, đi yết kiến đức Thế Tôn, còn được
lợi gấp muôn ngàn; Cư Sĩ ông đi yết kiến Phật, chớ hối nữa ví như
kiếp này được một trăm con voi chở châu bảo, cũng không bằng rời
chân một bước đi yết kiến đức Thế Tôn còn được lợi ích khôn kể,
Cư Sĩ ông nên đi, chớ hối nữa, chính như ông có được vàng bạc châu
bảo, đầy cõi Diêm Phù Đề chăng nữa, cũng không bằng dời chân một bước
đi yết kiến đức Thế Tôn, còn được lợi trăm muôn ngàn triệu; Cư Sĩ
ông nên đi chớ hối nữa, ví như kiếp nay ông được vàng bạc châu bảo
đầy bốn thiên hạ, cũng không bằng cất chân một bước đi viếng đức
Thế Tôn, còn được lợi ích gấp trăm muôn ngàn triệu kể trên.
Ông Tu Đạt nghe nói, vui vẻ, cảm
mến đức Thế Tôn, tự nhiên u tối băng tiêu, ánh bình minh tỏa soi trên
đại địa như ban ngày, sung sướng đi yết kiến đức Thế Tôn.
Phật biết ông có duyên lành từ
lâu kiếp nên Ngài ra ngoài đi kinh hành để ông gặp. Tu Đạt, đằng xa nhìn
thấy đức Thế Tôn, thân sáng như quả núi vàng, oai nghi đĩnh đạc, tôn
nghiêm lẫm liệt, tuy thấy Ngài nhưng ông không biết, vì chưa từng được
gặp, tới nơi hỏi rằng:
- Thưa Ngài, đức Thế Tôn ở nơi
nào xin làm ơn chỉ hộ?
Phật nói:
- Cư Sĩ ông hãy ngồi tạm chơi.
Khi ấy ông Tịnh Cư Thiên ở xa
ngó thấy ông Tu Đạt gặp đức Thế Tôn mà không biết lễ bái viếng thăm,
ông bèn hóa ra bốn người đi tới, cúi đầu lễ dưới chân, nhiễu về
bên hữu ba vòng rồi lui ngồi về một phía.
Ông Tu Đạt thấy thế cũng bắt
chước lễ bái như mấy người kia, rồi lui ngồi về một bên.
Khi đó đức Thế Tôn, giảng phép
Tứ Diệu Đế, khổ, không, vô thường.
Ông Tu Đạt nghe xong, đắc quả Tu
Đà Hoàn vui mừng! Như người đói được ăn, khát được uống, cũng như
lụa Bạch Điệp nhuộm các sắc. Ông quỳ chắp tay thưa rằng:
- Kính lạy đức Thế Tôn! Trong
thành Xá Vệ, những người nghe pháp, chóng giác ngộ như con có được nhiều
không? Cúi xin ngài chỉ giáo cho?
Phật dạy: "Trong thành Xá Vệ
đối với sự nghe pháp mau hiểu ngộ, không được một người thứ hai
như khanh, phần nhiều kẻ tà kiến khó được người tin theo chánh
giáo".
- Kính lạy đức Thế Tôn! Con nguyện
xin Ngài sang nước Xá Vệ thuyết pháp để khiến cho nhân dân biết bỏ
tà quy chính!
Phật nói: - Ngài xuất gia phải xa
nơi thế tục, làm thế nào có một tinh xá, thì mới tiện nghi cho việc giảng
diễn Chánh Pháp!
- Dạ, kính lạy đức Thế Tôn! Con
xin về làm Tinh Xá, cúi xin ngài hứa khả cho?
- Muốn cho lợi ích chúng sinh, và
gây phúc cho chính mình, ông nên gắng sức, công đức vô lượng!
Ông lễ tạ lui ra, về nhà lo việc
cưới vợ cho con xong đâu đấy, lại sang nước La Duyệt Kỳ bạch Phật rằng:
- Kính lạy đức Thế Tôn! Con về
bản quốc lập Tinh Xá, nhưng không biết phương pháp làm thế nào? Kính
xin Ngài cho một vị Sa Môn sang chỉ bảo cách thức?
Ngài nghĩ như vầy: "Nước Xá
Vệ nguyên những kẻ Bà La Môn tin theo tà giáo, ai là người hàng phục nổi!
Chỉ có ông Xá Lợi Phất trước là dòng Bà La Môn. Cũng có chút đỉnh thông
minh và phép thần túc, sai đi có lẽ đắc lực".
Phật gọi ông Xá Lợi Phất bảo rằng:
- Xá Lợi Phất! Ông Tu Đạt muốn
cho hưng long ngôi Tam Bảo, đưa dắt chúng sinh cải tà quy chính, nên ông định
lập tinh xá tại nưới Xá Vệ, mời ta về thuyết pháp, nhưng không biết
cách thức làm. Vậy ông sang đó, góp sức với ông ấy xây cất tinh xá
cho ta!
- Dạ! Lạy đức Thế Tôn con xin phụng
giáo!
Ông Tu Đạt hỏi Ngài Xá Lợi Phất
rằng:
- Kính thưa Tôn Giả! Đức Thế Tôn
đi bộ mỗi ngày được mấy dặm?
Đức Thế Tôn đi mỗi ngày được
nữa do tuần; cũng bằng vua Chuyển Luân Thánh Vương.
Bắt đầu từ thành Vương Xá, cứ
cách hai mươi dặm ông làm một Khách Xá (nhà nghỉ chân) cho tới nước Xá
Vệ.
Khi về tới nhà hai người an nghỉ
vài ngày cho mạnh sức, rồi đi tìm đất làm Tịnh Xá. Hai ông đi khắp
nước không tìm được nơi nào chỉ có khu vườn của Thái Tử Kỳ Đà bằng
phẳng rộng rãi mát mẻ, cây cối tốt tươi có thể đắc xứ sở. Ngài
Xá Lợi Phất bảo ông Tu Đạt rằng:
- Chỉ có khu vườn này làm được,
không gần thành thị, và cũng không xa, nếu xa chư Tăng đi khất thực khó;
gần thì huyên náo, sợ phế bỏ sự hành đạo.
- Thưa Thái Tử, tôi có một việc
muốn phiền Thái Tử được không.
- Ngài có việc gì; nếu có thể
tôi xin giúp.
- Thưa Thái Tử! Vườn đất nhà
tôi rất nhiều, nhưng không dùng được khu nào để làm Tịnh Xá, mời Phật
về nước ta thuyết pháp, giáo hóa cho nhân dân, nhận thấy khu vườn của
Thái Tử nơi rộng rãi mát mẻ, muốn mua lại khu vườn ấy, để kiến tạo
Tịnh Xá, Thái Tử có vui lòng không?
Thái Tử cười nói: - Tôi có thiếu
thốn gì mà phải bán, để lúc thư nhàn ra hóng mát chỉ tiêu dao ý chí!
Tu Đạt ân cần nói đến hai ba lần.
Bất đắc dĩ Thái Tử, nói một giá rất đắt, để ông về nhà cho yên
chuyện.
- Vâng, nếu Đại Thần muốn mua thì
đem vàng lát khắp mặt đất không hở một chỗ nào thì tôi bán!
- Dạ! Thái Tử lấy từng ấy tôi
cũng xin trả!
Thái Tử nói: - Tôi nói đùa vậy
chứ bán làm sao được!
Tu Đạt nói: - Ngài làm Thái Tử
không thể nói dối được. Nói dối sau này Ngài trị dân làm sao?
Ông Tu Đạt định tâm nếu thái tử
không bán, thì kiện. Vì thế ông Tịnh Cư Thiên, sợ các quan xử thiên lệch,
nên hiện thân xuống nói với Thái Tử rằng:
- Phép làm Thái Tử không được nói
dối: Ngài đã hứa thì không nên sai lời!
Thái Tử nghe có lý đáp lời rằng:
- Phải! Tôi vui lòng bán cho Đại
Thần đấy!
Tu Đạt vui vẻ, về nhà lập tức
sai gia nhân, đưa voi chở vàng đến, chỉ trong tám mươi khoảnh khắc đã
lát vàng khắp mặt đất, riêng còn đám gốc cây chưa lát xong.
Tu Đạt thầm nghĩ: "Đám gốc
cây này, chẳng còn bao nhiêu, ta cứ lát hết!"
Thái Tử Kỳ Đà, nghĩ như vầy:
- Đức Phật phải là người thế
nào cho nên ông này, mới khinh của như thế; chắc rằng cúng Ngài có phúc
đức lớn, vậy ta cũng nên cầu phước.
Nghĩ xong ngăn lại nói rằng:
- Thôi! Ông đừng cho lấy vàng đến
nữa! Vườn là thuộc ông, còn cây tôi xin dâng Phật làm Tinh Xá.
Thấy Thái Tử đã phát tâm kính mộ
Phật. Ông Tu Đạt rất vui lòng! Về nhà đặt công tác xây cất.
Đoạn này bọn Lục Sư nghe biết
ông Tu Đạt xây cất Tịnh Xá, để mời Phật về thuyết pháp, lên tâu
vua rằng:
- Tâu Bệ Hạ! Trưởng giả Tu Đạt
mua rừng Kỳ Hoàn, làm Tinh Xá mời Sa Môn Cồ Đàm về giảng đạo, xin Bệ
Hạ cho chúng tôi đấu phép: nếu Sa Môn thắng thì cho làm; nếu chúng tôi
thắng thì không cho làm. Hiện nay đồ chúng của Sa Môn Cồ Đàm ở thành
Xá Vệ chúng tôi ở tại đây.
Nhà vua triệu ông Tu Đạt vào cung
hỏi:
- Tu Đạt, Lục Sư nói Khanh mua rừng
Kỳ Hoàn làm Tinh Xá, để mời Sa Môn Cồ Đàm về giảng đạo phải không?
- Dạ! Tâu Bệ Hạ! Việc đó có thực,
xin Bệ Hạ thứ lỗi cho!
- Chúng xin ta đấu phép với đệ tử
của Sa Môn: nếu thắng được chúng thì cho làm, nếu thua thì không được
làm. Khanh nghĩ sao?
- Tâu Bệ Hạ! Việc đó để Hạ
Thần về hỏi xem, nếu đệ tử của Sa Môn vui lòng đấu, thì Hạ Thần
xin tâu sau!
Tu Đạt hết vui, vừa lo vừa buồn!
Sớm ngày mai ông Xá Lợi Phất mặc
áo cầm bát đến nhà, thấy ông có vẻ buồn liền hỏi rằng:
- Hôm nay coi ông có vẻ buồn! Hay
việc chi cản trở chăng?
- Thưa Tôn Giả! Việc làm Tịnh Xá
không biết có thành không? Vì thế nên tôi buồn!
- Có việc chi mà ông sợ không
thành?
- Thưa Tôn Giả bọn Lục Sư lên
tâu vua, xin đấu phép với Tôn Giả; nếu Tôn Giả thắng thì cho làm, nếu
thua chúng thì không được làm. Bọn chúng xuất gia, tu học đã lâu năm,
pháp thuật cao cường khó người địch nổi, tôi không biết Tôn Giả có
thắng được không, nên từ qua đến nay cứ tư lự mãi!
- Không sao! Ông cứ yên tâm, dầu
cho bọn chúng nhiều như tre gỗ khắp mặt đất, cũng không có thể làm động
nổi trên cái lông chân của tôi, muốn đấu thì đấu, tôi hẹp chi!
Tu Đạt mừng quá! Tắm rửa sạch
sẽ, mặc áo tề chỉnh lên tâu vua rằng:
- Tâu Bệ Hạ! Hạ Thần về hỏi
đệ tử của Sa Môn vui lòng đấu với Lục Sư, xin Bệ Hạ thông cáo!
Nhà vua gọi Lục Sư lên nói rằng:
- Trẫm đã hỏi đệ tử của Sa Môn
rồi! Họ bằng lòng đấu phép, các ông sửa soạn đi, ta cho phép sau bảy
ngày nữa sẽ đấu.
- Dạ! Tâu Bệ Hạ, để thông cáo
cho quốc dân biết đến xem.
- Được tuỳ ý!
Nước Xá Vệ có mười tám ức người,
luật đánh trống hội họp như sau: nếu nhân dân nghe thấy đánh trống đồng,
thì số mười hai ức người lại họp; nếu nghe thấy đánh trống bạc,
thì mười bốn ức người lại họp tất cả. Khi tới ngày đấu phép họ
đánh trống vàng.
Nhà vua sắc lệnh cho dân sửa sang
nơi thí vàng, treo cờ, dựng biểu ngữ, bày tòa đặt ghế trang nghiêm. Vua
quan dân chúng ra trước; vua ngồi trên, các quan ngồi dưới, dân chúng đứng
vây quanh. Lục Sư đồ chúng có hai ức người tới sau, thứ tự ngồi yên
tĩnh. Ông Tu Đạt cũng bày một tòa cao đẹp để dành riêng cho Ngài Xá Lợi
Phất.
Giữa lúc đó Ngài Xá Lợi Phất
đương ngồi thiền dưới gốc cây, sáu căn vắng lặng, du chơi các thiền
định, vô chướng ngại, thầm nghĩ như vầy:
- Đại hội này chúng tập thói tà
Kiền Đà Lâu, kiêu ngạo tự cao tự đại cũng như lối cỏ rác, ta biết
lấy đức gì để hóa phục họ?
Nghĩ thế rồi xuất định đứng lên
dùng tam đức, và lập thệ rằng:
- Nếu tôi trong vô số kiếp đã tu
từ hiếu với cha mẹ, kính trọng Sa Môn, Bà La Môn, xin cho tôi mới tới hội,
thì tất cả đại chúng đều phải đứng dậy tác lễ!
Khi đó Lục Sư thấy người đến
đã đông đủ mà ông Xá Lợi Phất chưa đến, lên tâu vua rằng:
- Tâu Bệ Hạ! Sa Môn đệ tử biết
không có tài, đánh bạo nói đấu, giờ đây thấy dân chúng đến đông đảo,
chắc sợ không lại!
Vua gọi ông Tu Đạt hỏi rằng:
- Tu Đạt, để tử của Thầy khanh
nhận lời đấu phép, tại sao giờ chưa tới?
- Dạ, Tâu Bệ Hạ để hạ thần về
tìm.
Ông Tu Đạt về nơi Ngài ngự, quỳ
bạch rằng:
- Kính bạch Đại Đức Tôn Giả!
Vua quan dân chúng, và bọn Lục Sư đã tới đông đủ, xin Ngài ra hội.
Ngài Xá Lợi Phất lấy áo mặc tề
chỉnh, tấm Ni Sư Đàn vắt vai bên tả đi ung dung đĩnh đạc, như Sư Tử
Vương tới nơi. Tất cả vua quan dân chúng, Lục Sư, nhìn thấy oai phong của
Ngài đáng sợ; thốt nhiên toàn thể đứng lên, lễ Ngài như giã gạo, chẳng
khác chi một cơn gió mạnh thổi lướt trên làn cỏ lau.
Ngài thăng tòa ngồi nghiễm nhiên
như núi Tu Di. Bọn Lục Sư có một người tên là Lao Độ Sai, pháp thuật
giỏi nhất, trước mặt đại chúng đọc chú, hóa ra một cây to lớn che rợp
cả đại hội, cành lá xanh tươi, hoa quả tốt đẹp, mọi người đều vỗ
tay reo, hoan hô thần biến của Lao Độ Sai!
Ngài Xá Lợi Phất dùng thần lực
hóa thành cơn gió lốc, đập gẫy tan cây ấy ra như vi trần. Đại chúng
đều vỗ tay hô lớn, thần biến của Ngài Xá Lợi Phất giỏi, Lao Độ
Sai kém!
Lao Độ Sai đọc chú hóa ra một
cái ao, bốn bề đều bằng thất bảo, trong ao có rất nhiều hoa. Đại hội
đều vỗ tay khen tài!
Ngài Xá Lợi Phất hóa ra con bạch
tượng sáu ngà, trên mỗi ngà có bảy ao sen, trên mỗi hoa sen có bảy người
ngọc nữ. Bạch tượng từ từ đi đến ao của Lao Độ Sai hóa, thả voi
hút hết nước. Đại hội đều vỗ tay khen thần thông Ngài Xá Lợi Phất
giỏi!
Lao Độ Sai lại hóa ra một quả
núi trang nghiêm bằng thất bảo có suối nước chảy, cây cối um tùm, hoa
quả tốt tươi. Đại chúng đều vỗ tay reo!
Ngài Xá Lợi Phất hóa ra rất nhiều
các vị Kim Cương lực sĩ, đứng xa cầm chày chỉ, tự nhiên núi ấy tan
bay ra như bụi nhỏ. Đại chúng đều vỗ tay khen Ngài Xá Lợi Phất giỏi!
Lao Độ Sai hóa ra một con rồng mười
đầu bay trên không gian, mưa các thứ châu bảo xuống, và làm sấm chớp dữ
dội. Đại chúng đều kinh sợ, và hoan hô giỏi!
Ngài Xá Lợi Phất liền hóa ra một
con chim Kỳ Súy Điểu, lấy chân bắt rồng xé nát bỏ mồm nuốt chửng.
Đại chúng vỗ tay kêu như pháo nổ, hoan hô thần biến của Ngài Xá Lợi
Phất đại thắng!
Lao Độ Sai hóa ra một con trâu
thân thể lớn, béo tốt khỏe mạnh, chân to móng sắc, quỳ dưới đất kêu
rống mấy tiếng rất dữ dội, rồi chồm nhảy lại trước mặt Ngài Xá
Lợi Phất.
Ngài Xá Lợi Phất hóa ra một con Sư
Tử, lấy chân móc họng trâu rồi xé nát ra ăn hết. Đại chúng đều vỗ
tay reo. Khen Ngài Xá Lợi Phất thắng, Lao Độ Sai bại.
Lao Độ Sai biến thân thành con quỷ
Dạ Xoa cao lớn, trên đầu lửa cháy dữ dội, mắt đỏ như huyết, bốn
răng khóe dài nhọn mọc chìa ra ngoài, mồm phun ra lửa, chồm nhảy rất
ghê sợ!
Ngài Xá Lợi Phất tự hóa thân
làm ông Tì Sa Môn Thiên Vương, quỷ Dạ Xoa sợ hãi chạy trốn, bị bốn
bên lửa cháy vây như một bức thành, hết lối tẩu thoát, chỉ nơi Ngài
Xá Lợi Phất mát mẻ.
Đến đây Lao Độ Sai chịu khuất
phục, năm thê gieo xuống đất cúi đầu xin tha mệnh, nhưng vì bị nhục
quá nên lửa ở quả tim, phát ra cháy thiêu mất thân thể. Khi đó tất cả
đại chúng, đều vỗ tay kêu như sấm! Vui mừng! Và hoan hô Ngài Xá Lợi
Phất đại thắng.
Muốn cho toàn thể vua quan, dân
chúng, cải tà quy chính, biết tôn sùng ngôi Tam Bảo, nên Ngài bay lên hư
không, hiện ra bốn oai nghi: đi đứng nằm ngồi trên hư không, trên mình
phun ra nước, dưới mình phun ra lửa, ẩn bên đông, hiện bên tây, nhô
bên nam, hiện bên bắc; hoặc hiện thân to lớn chật hư không, rồi thu
hình lại rất nhỏ; hoặc biến ra trăm ngàn muôn ức thân, xong lại hợp
nhất; đương trên không hốt nhiên ở dưới đất; hoặc đi trên mặt nước,
cũng như người đi trên đất, biến hiện rất nhiều phép thần túc, lại
về ngồi trên bảo tọa như cũ.
Tất cả đại chúng từ vua đến dân,
nhìn thấy phép thần vô ngại, ai nấy đều kính phúc, phát tâm tín kính
ngôi Tam Bảo.
Ngài thấy họ đã phát tâm chuyển
hướng theo Phật, nên Ngài nói về tội phúc báo ứng, nhân duyên sinh
Pháp. Nghe xong có người đắc quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, cho đến quả
A La Hán. Còn ba ức đồ chúng của Lục Sư, quay đầu về theo Ngài, làm đệ
tử xuất gia, tất cả cúi đầu tạ lễ lui ra, rồi giải tán.
Cách mấy bữa sau, Ngài và ông Tu
Đạt, đo đất tại khu vườn Kỳ Hoàn, mỗi người cầm một đầu dây,
thấy Ngài mỉm cười! Ông hỏi:
- Tôn Giả cười gì?
- Tôi cùng ông cầm dây đo, vừa hết
một vòng vườn này, thì cung điện ở trên sáu cõi trời đã làm xong! Vì
thế mà tôi cười!
- Vì lý do gì Tôn Giả cười?
- Vì ông làm Tinh Xá cúng Phật nên
phúc của ông được ở các cung điện cõi trời, hiện ra nhanh như vậy! Tôi
sẽ cho ông mượn đạo nhãn mà coi!
Ông Tu Đạt nhờ đạo nhãn, nhìn
thấy những cung điện rất trang nghiêm đẹp đẽ, giành riêng cho mình
trên sáu cõi trời, thưa rằng:
- Kính thưa Tôn Giả trong sáu cõi
này; cõi nào vui hơn nhất.
- Ba cõi dưới đam hoang về sắc dục
nhiều, đến cõi thứ tư, là những người ít dục biết đủ, thường có
những Bồ Tát nhất sinh bổ xứ sinh tới, tiếng thuyết pháp không lúc
nào ngớt. Trên, còn hai cõi nữa, chúng sinh ở đấy có tính kiêu mạn dậc
lạc; buông lung lu bù.
- Kính thưa Tôn Giả! Nếu vậy, đời
sau con nguyện sinh lên cõi thứ tư!
Ông nguyện xong, các cung điện kia
đều diệt hết, mà chỉ nhìn thấy cung điện cõi thứ tư, yên nhiên
không biến động, bắt đầu đo, ông nhìn thấy Ngài có sắc buồn! Bèn hỏi:
- Tôn Giả, tại sao Ngài có vẻ buồn?
- Trưởng giả có nhìn thấy đàn
kiến này không?
- Dạ, thưa Tôn Giả, có nhìn thấy!
- Trưởng giả, vì chưa có đạo nhãn,
nên không biết nguyên uỷ đám kiến này. Đời quá khứ cũng ở khu đất
này, ông làm Tinh Xá cúng dàng đức Phật Tỳ Bà Thi, thì đàn kiến này
nó ở đây! Đến đời đức Phật Thi Khí, ông cũng làm Tinh Xá ở khu đất
này cúng Phật, đàn kiến này nó cũng sinh ở đây! Đến đời đức Phật
Tỳ Xá Phú ông cũng làm Tinh Xá ở khu đất này cúng Phật, thì đàn kiến
này nó cũng sinh đây! Đến đời đức Phật Câu Lưu Tôn ông cũng làm Tinh
Xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến này nó cũng sinh ở đây! Cho đến
nay đã chín mươi mốt kiếp, còn phải làm thân con kiến không thôi, biết
ngày nào giải thoát? Ông nên coi sinh tử đọa lạc lâu dài như thế, đã
mấy ai biết sợ mà cầu giải thoát, cho nên con người có trí phải biết
bớt bỏ lòng tham dục si mê mà tu đạo làm thiết yếu.
Tu Đạt nghe xong rơi lệ chứa chan!
Thương mình và thương chúng sinh; mê đường lạc nẻo, tham chút vinh lạc
nhơ bẩn của thế gian, đến nỗi bỏ thân này, thụ thân kia, lộn vòng
xoay trong các thú!
Đo đất xong bắt đầu xây cất
Tinh Xá, làm riêng một lầu gác bằng gỗ chiên đàn cúng Phật, nơi biệt
cư cúng Tăng, làm hai mươi khu, gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị, để
hiệp lệnh riêng. Làm xong ông tự nghĩ rằng:
- Dầu sao mình cũng là một kẻ hạ
thần của nhà vua, nếu cứ tự do mời Phật, sợ có chướng ngại hoặc
vua không hài lòng, vậy ta tâu vua xem ý thế nào?
- Tâu Bệ Hạ! Hạ thần làm Tinh
Xá, để mời Phật về nước nhà, giảng đạo, cho dân chúng bớt bỏ
lòng bạo ngược tham tàn, tu theo chánh giáo, ngõ hầu quốc gia được an lạc
thái bình. Cúi xin Bệ Hạ, cho sứ đi mời Phật, hạ thần được đội
ơn vạn bội!
Nhà vua nghe nói rất hợp ý mình,
liền sai người sang thành Vương Xá mời Phật và chư Tăng. Tuân lệnh, Sứ
sang Vương Xá, vào yết kiến Phật, cúi đầu làm lễ thưa rằng:
- Kính lạy đức Thế Tôn! Chúa
công con và hạ thần Tu Đạt, cho con tới đây câu thỉnh Thế Tôn hạ cố
quang lâm sang nước Xá Vệ, để tuyên đương chánh pháp, cho quần sinh được
ân triêm đức hóa, cúi xin Ngài từ bi hoan hỷ! Cho chúa con và hạ thần Tu
Đạt được ăn mày công đức!
Phật dạy: - Quý hóa! Chúa khanh và
hạ thần Tu Đạt muốn cho quốc dân được an vui sung sướng trên cõi
nhân thiên, mãi mãi, ta hứa một ngày gần đây sẽ đến.
Sứ thần tạ lễ lui ra!
Đức Thế Tôn sau khi nhận lời mời
của nhà vua, muốn cho chánh pháp chóng soi tỏ lòng người, nên đầu tiên
Ngài phóng Đại Quang Minh ở trên đỉnh đầu, làm chấn động thiên địa,
khắp nước Xá Vệ mọi người đều biết oai thần của ngài.
Khi đi sang nước Xá Vệ có rất
nhiều đệ tử theo hầu, tới khách xá, Ngài cùng đại chúng vào nghỉ
chân. Trong lúc đi đường, Ngài cũng giáo hóa được rất nhiều người
quy y Tam Bảo. Dần dần tới nước, Quốc Vương quần thần nhân dân, mang
hương ra đón, người đông như hội, ai nấy đều lễ sát đất, như một
làn gió thổi lướt trên đám cỏ lau, thực là một buổi vô cùng vui vẻ!
Ngựa xe chật đường, người đi như nước chảy. Nơi tiếp Ngài, một khu
đất cao sạch mát mẻ, quy vuông năm ngàn mẫu, trang trí tôn nghiêm, treo cờ,
dựng biểu ngữ, phướn lọng rợp trời. Đức Phật tới nơi ngồi trên bảo
tọa oai nghiêm phóng Đại Quang Minh chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới,
ngón chân bấm xuống đất làm chuyển động hoàn cầu, các nhạc tự
nhiên vang động, không người điều khiển. Nhờ đức hóa của Phật, kẻ
mù được sáng con mắt; kẻ điếc được nghe rõ; kẻ câm ngọng được nói
năng; kẻ còng được ngay thẳng, nói tóm lại tất cả toàn quốc đều hết
tật bệnh đau khổ. Nhân dân lớn nhỏ trai gái trẻ già đều vui mừng hớn
hở chen nhau đến lễ Phật.
Khi đó, đức Phật tùy theo căn khí
mà thuyết pháp cho họ nghe. Cũng như ông thầy thuốc, tuỳ theo bệnh nhân
mà cho thuốc, những người có phúc duyên nhiều, nghe pháp chóng được chứng
đạo; có người chứng quả Tu Đà Hoàn; Tư Đà Hàm; A Na Hàm; cho đến quả
A La Hán; cũng có người gây nhân Bích Chi Phật, cũng có người phát tâm cầu
đạo vô thượng Bồ Đề.
Khi đó Phật bảo tôi (A Nan) rằng:
- Vuờn này thuộc ông Cấp Cô Độc,
cây thuộc Thái Tử Kỳ Đà, hai người chung sức làm Tinh Xá. Vậy nên đề
rằng: Cây của Thái Tử Kỳ Đà, vườn của ông Cấp Cô Độc, lưu truyền
cho hậu thế.
Đức Phật dạy thế, tôi xin phụng
mạng, rồi đó mọi người đều cúi đầu, lễ Phật lui ra.