- Kinh Hiền Ngu
- Thích Trung Quán dịch
- Phẩm thứ ba mươi hai
- TỶ KHƯU NI VI DIỆU
CHÍNH tôi được nghe: Một
thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại tinh xá Kỳ Hoàn, sau khi vua Ba Tư Nặc
đã băng hà, Thái Tử Lưu Ly chấp chính, bạo ngược tham tàn, thả voi đạp
chết nhân dân vô kể.
Bấy giờ các con gái trong nhà quý
phái, thấy thế chán đời, rủ nhau đi xuất gia tu đạo để cầu giải tháot
rất đông.
Nhân dân họ thấy các cô hoặc họ
Thích, hoặc các nhà Hầu Tước, là những dòng họ tôn sang bỏ sự vinh
hoa sung sướng, xuất gia tu đạo, cả thảy năm trăm người, nên họ rất
tôn kính, tranh nhau cúng dàng.
Một hôm các cô ấy bàn nhau như vầy:
- Chúng ta tuy được xuất gia, mang
danh là Tỷ Khưu Ni, song đối với Phật Pháp chưa hiểu biết gì; chưa được
uống Pháp Dược, để tiêu những tập chướng Dâm, Nộ, Si từ đời vô
thuỷ. Bây giờ phải đến bà Thâu Lan Nan Đà Tỷ Khưu Ni xin học hỏi, và
để bà truyền pháp Bát kính cho. Các cô cùng nhau đến làm lễ và thưa rằng:
- Kính thưa bà, chúng con không biết
có phúc duyên gì, được hạnh phùng Tam Bảo xuất gia tu đạo, làm Tỷ Khưu
Ni, song đối với giáo lý cao siêu của đức Phật chưa hiểu biết gì,
hôm nay chúng con cả thảy năm trăm người, đến đây cầu xin bà từ bi
thí Pháp Nhũ, cho chúng con được ân triêm công đức!
Bà Thâu Lan Nan Đà nói:
- Các cô sinh trưởng nơi tôn sang,
tôn vinh phú quý, vinh hoa thiếu chi, đương tầm tuổi trẻ, xuất gia học
đạo làm gì cho khổ một đời tươi trẻ! Thôi đem áo bát cho tôi, trở về
lấy chồng, hưởng cuộc đời êm ấm nơi khuê các, cho khoái lạc, tội
chi làm Tỷ Khưu Ni ở nơi chốn chùa chiền khô quạnh, chôn dìm cuộc đời
như đống tro tàn lạnh lẽo!
Các cô nghe bà nói xong, lòng dạ
hoang mang, sa nước mắt tạ lễ lui ra. Trong khi đi bảo nhau rằng:
- Chúng ta muốn thoát khỏi con đường
tình ái, ngu si, mê muội của thế gian, đến đây bà đã không khuyên bảo
lũ ta được gì, lại đem những lời lẽ lôi kéo chúng ta vào nơi hang hầm
miệng sói, trụy lạc đời đời. Vậy chị em ta đến bà Tỷ Khưu Ni Vi Diệu,
cầu bà tế độ.
Năm trăm cô đến chỗ bà Tỷ Khưu
Ni Vi Diệu, cúi đầu lễ sát đất thưa rằng:
- Kính thưa bà, chúng con ở tại tập
tục mê muội, tuy đã đi xuất gia, nhưng tâm ý vẫn còn tham ái, lòng dục
vẫn thường phát khởi như lửa đốt, không cách gì ngăn cản nổi, xin bà
thuyết pháp để giải thoát cái tội căn ấy cho lũ chúng con!
Bà Tỷ Khưu Ni Vi Diệu đáp rằng:
- Trong ba đời: Quá khứ, hiện tại,
vị lai, các cô muốn hỏi gì?
- Dạ! Kính thưa bà, đời quá khứ,
và đời vị lai, còn viễn vọng, chúng con không dám hỏi, xin hỏi bà: Cái
tội thắt chặt của sự dâm dục đời hiện tại, nó xấu hay tốt, nó
hay hay nó dở, có kết quả gì cho mình không? Có lợi ích hay không có lợi
cho tương lai, xin bà giải thích!
- Các cô muốn biết rõ hãy để ý
nghe!
- Dạ chúng con xin chú ý nghe!
- Các cô nên biết! Tất cả trời
người, cho đến vạn vật có hình thức trên vũ trụ này, loài nào cũng
do nghiệp ái dục mà sinh ra; Dâm dục ví một dám lửa cháy dữ dội nó
có thể đốt tiêu hủy núi rừng, cây, cỏ, gỗ, đá cho đến vũ trụ bao
la, kẻ mắc phải dâm dục, cũng như bị giặc vào phá nhà; kẻ đó sẽ đọa
xuống tam đồ ác đạo, không có kỳ hẹn được ra.
Những ai luyến gia nghiệp, đó là
tham sự sum họp ân yêu vui vầy! Vì nhân duyên ấy nên sanh già bệnh chết,
biệt ly, huyễn quan xúc não! Đương yêu nhau bị ly biệt, thương tiếc khóc
than! Luyến ái tổn hại đến tâm can ngất đi sống lại, tâm ý trói buộc
như lao ngục. Tôi vốn là một con nhà dòng Phạm Chí, cha tôi là một người
được tôn quý nhất trong nước. Buổi đó ông Trưởng giả dòng Phạm
Chí, có người con trai xinh đẹp trí óc thông minh. Thấy ta xinh đẹp lại
dòng quý phái, nên ông nói với cha mẹ ta, cưới ta về cho con trai ông. Sau
khi đã thành gia thất, vợ chồng ăn ở với nhau được một đứa con
trai, đã lâu ngày xa cha cách mẹ, lòng nhớ mong không tả xiết? Giữa lúc
ta đang có mang, sợ sinh tử vô thường nên ta, xin phép chồng về nhà thăm
cha mẹ; chồng ta ưng thuận cho đi. Buổi sáng ấy, hai vợ chồng ẵm con
và mang đồ hành lý ra đi, đi chừng được nữa đường trời vừa
sẩm tối, vợ chồng nằm nghỉ dưới gốc cây to, không may lúc canh khuya
ta đau bụng sinh, huyết chảy ra lênh láng, các loài rắn độc, thấy mùi
tanh tìm lại, cắn chết chồng ta! Đương lúc ngủ say! Ta gọi mãi không thấy
trả lời. Trời vừa tảng sáng, cầm tay kéo dậy, thấy lạnh buốt ngay đờ
như cục gỗ, không còn tri giác, xem kỹ biết rằng rắn cắn, thương quá!
Tời ơi! Khổ chi đến nỗi thế này! Khi đó hồn phách ta không biết bay
đâu? Ngất đi mê mết! Thằng nhỏ ngồi bên vừa gọi vừa khóc! Dần dần
tỉnh dậy. Rồi ta cõng thằng nhỏ trên vai, tay ẵm đứa con mới nở, vừa
đi vừa khóc! Qua quãng đường vắng, tới một con sông lớn, nước không
sâu lắm, không có thuyền qua, ta phải để thằng nhỏ trên bờ, ẵm đứa
bé bơi qua sông, sang tới bờ đễ đứa bé bên này, lại ngồi sang đón thằng
nhỏ, không may, thằng nhỏ té xuống sông lúc nào mất, ta lại bơi sang bờ
sông bên này, thì đứa bé mới sinh đã bị hổ tha, chỉ thấy những giọt
máu chảy ròng ròng trên mặt đất, ta buồn khổ quá! Chết ngất đi hồi
mới tỉnh lại. Thơ thẩn một mình bước trên đường đi, vừa được vài
dặm, gặp một người bạn thân của cha ta, ông hỏi rằng:
- Con đi đâu về? Sao bác coi con
nhem nhuốc tiều tụy như vậy?
- Thưa bác! Hôm qua vợ chồng nhà
con ẵm cháu về thăm cha mẹ, đêm qua không may chồng con bị rắn cắn chết,
sáng hôm nay mất hai đứa cháu: Một đứa lăn xuống sông, một đứa bị
hổ tha, thực là đau khổ cho con quá!
- Ôi thế ư! Hôm qua nhà con bị
phát hỏa, cha mẹ con, và cả nhà con đều bị chết hết rồi, còn gì đau
khổ hơn cho con nữa!
Nghe xong như sét đánh bên tai, ta
ngã lăn ra đất, chết ngất đi hồi lâu mới tỉnh lại! Hết khóc lại
than, thực là một sự vô cùng thảm khốc! Ông ấy thương ta đau khổ!
Đưa ta về nhà nuôi nấng coi ta như con đẻ.
Qua thời gian lâu, ta dần dần
nguôi cơn đau khổ, nơi đó có người con trai, cũng dòng Phạm Chí, thấy
ta xinh đẹp, cậy người mối lái, muốn cùng ta kết bạn trăm năm. Thôi cũng
liều nhắm mắt đưa chân, thử xem cuộc thế xoay vần đến đâu? Ta cùng
người ấy kết duyên với nhau, thấm thoát đã có mang mãn tháng nọ ngày
tới kỳ hoa nở, hôm đó giữa lúc canh khuya, ta đau bụng sanh, thì chồng của
ta đi ăn uống nhậu nhẹt, hay cờ bạc ở đâu về, gõ cửa gọi, giữa giờ
phút sanh cháu nhỏ, nên không ra mở cửa được, anh chàng tức giận phá cửa
vào, đánh đập liên hồi, ta kêu van và nói:
- Thưa anh, em đương đau bụnh sanh,
chứ không phải lười hay khinh mà không ra mở cửa cho anh! Kẻ vũ phu nổi
giận giết tươi đứa con của ta mới sanh, rồi bắt ta phải ăn sống đứa
con ấy. Ta không chịu ăn, vì đánh đau quá! Nên ta nhắm mắt ăn liều, ăn
xong tự hối hận trong lòng: "Đời mình bạc phúc, gặp kẻ bất
nhân". Sáng ngày hôm sau, bỏ nhà ấy đi đến nước Ba La Nại, ngồi
ở ngoài thành, con trai ông Trưởng giả tại đây mới chết vợ, hàng
ngày ra viếng mộ ở ngoài thành, thấy ta anh hỏi:
- Cô ở đâu tới, tại sao ngồi một
mình ở đây?
Khi đó ta nói thật những chuyện
như trên cho anh nghe, anh bảo ta rằng:
- Cô cùng tôi vào nơi quán uống nước!
Khi ngồi chơi uống nước chuyện
trò vui vẻ, anh hỏi:
- Bây giờ có người muốn kết duyên
cùng cô, vậy cô có đồng ý không?
- Thưa anh, em thấy ngán lắm! Vui
không được bao nhiêu, mà sự khổ đưa lại dồn dập, kẻ hiền lương không
gặp, gặp kẻ bất nhân, lại gây thêm phần đau khổ.
- Đời ở một mình sao?
- Em không ở một mình, nhưng nếu
gặp hiền nhân, có đạo đức có học vấn.
- Thôi cô ơi! Nói gần nói xa chẳng
qua nói thật, chính tôi con trai ông Trưởng giả thành này vừa mới chế vợ,
thấy cô là người hiền đức, muốn làm bạn trăm năm cô nghĩ sao?
Ta thấy có vẻ tướng hiền hòa, lại
dòng quý phái, nên đồng ý kết duyên cùng anh. Nhưng cũng không may cho ta,
vợ chồng ăn ở với nhau chưa được ba năm, anh mắc bệnh chết.
Luật ấy, "nếu vợ chết thì
chồng được phép lấy vợ khác, nhưng nếu chồng chết thì chôn theo cả
vợ". Như thế, ta cũng bị chôn luôn với chồng một huyệt! Nhưng ta
chưa chết hẳn, tối hôm đó tụi cướp đến đào mả để lấy những
trang vật vàng bạc của ta, anh tướng cướp thấy ta xinh đẹp bắt về làm
vợ, anh giặc này chưa được bao ngày, bị họ bắt được chém mất đầu,
bọn bộ hạ của anh cướp lấy xác mang về bắt ta đem chôn sống cùng
anh giặc một thể. Vừa được ba ngày các con hổ bới mả định ăn thịt,
trời tang tảng sáng chúng thấy người đi chợ đông, bỏ chạy, nhân thế
ta dùn mả lên, ngồi than một mình rằng:
- Chẳng biết kiếp trước ta làm tội
gì, mà nay gặp nhiều tai nạn như vậy? Chết đi sống lại mấy lần, làm
thân nữ nhi thực là tội nghiệp. Xét rằng: Muôn vàn các bạn gái khác,
chồng con cũng chẳng qua dưới ách nô lệ, của tâm hồn mê muội ngu si,
không biết nhận thức một hạnh trong sáng thanh cao, bước lên con đường
chân chính, tìm hiểu chân lý, tu hành cho thoát khỏi nơi phàm tục! Đó cũng
chỉ vì nghiệp tham ái vô minh che tối, khi mới biế nhận thức con người,
đã ngăm ngăm trong đáy lòng toan tính những đường duyên nợ, chịu chết
nơi sào huyệt của dục vọng cám dỗ, vì thế mới chìm đắm nơi biển cả
sinh tử luân hồi, ta sực nhớ rằng: Trước đây có người họ Thích xuất
gai tu đạo, nay đã thành Phật, vậy đến đó để nương thân cho thoát khổ.
Đứng dậy bước đi, dạ đói thân đau, đường xa nhiều hiểm trở, vừa
đi vừa hỏi thăm, đến nơi rừng Kỳ Hoàn trời vừasẩm tối, xa xa nhìn
thấy đức Như Lai sáng rực như quả núi vàng, oai phong lẫm liệt, đầy vẻ
từ bi, sung sướng quá! Ta quỳ xuống một lòng thành kính hướng về Ngài,
tha thiết ân cần cầu tế độ. Ngài đến tận nơi, khi đó hình thể ta
lõa lồ ngồi dưới đất, thẹn hổ phải lấy tay che vú, Phật sai Ngài A
Nan đem cho ta tấm áo, ta tới trước đức Thế Tôn cúi đầu lễ dưới chân,
và trình bày những thống khổ vừa qua và xin xuất gia tu đạo.
Ngài sai ông A Nan đem ta giao cho bà
Đại Ái Đạo dạy bảo, theo lời dạy bà thọ giới Tỷ Khưu, rồi bảo
ta pháp "Tứ Đế" là Khổ, Tập, Diệt, Đạo, Vô Thường, Vô Ngã.
Ta chăm chỉ tu hành chẳng bao lâu
đã chúng được đạo quả, hiểu biết đời quá khứ, và đời vị lai,
coi thấy những tội ta đã tạo từ đời quá khứ, nên phải chịu ác báo
không sai một tí nào!
- Kính thưa bà, đời quá khứ bà
phạm tội gì, đời này bị quả báo như vậy? Xin bà nói cho chúng con được
rõ?
- Muốn biết các cô hãy để ý
nghe!
- Dạ, chúng con xin chú ý nghe!
- Đời ấy cách đây đã quá lâu,
thuở đó có ông Trưởng giả nhà giàu, nhưng không có con, sau ông lấy một
người vợ lẽ; vì có sắc đẹp nên ông mến lắm! Hai người với tình
yêu khắng khít, chẳng bao lâu sinh được đứa con trai; từ đó ông lại
càng đằm thắm hơn xưa, thấy thế người vợ cả thầm nghĩ như vầy:
- Công ta khó nhọc, làm ăn chắt bóp
nên được giàu có, sau này đứa con vợ lẽ nó hưởng tất, thật là luống
công vô ích cho ta, chi bằng ta giết quách nó đi là xong!
Định kế như vậy rồi lấy một
cái kim dài, chờ lúc vắng người, cấm ngập vào giữa đỉnh đầu đứa
bé. Cách ít ngày đứa trẻ ấy chết, vợ nhỏ thương con khóc suốt ngày
đêm không ngớt tiếng! Rồi tự nghĩ rằng:
- Con ta không ốm không đau, tự nhiên
mà chết, chắc rằng chị cả giết nó đây!
- Hỏi: - Con tôi có tội gì, mà chị
nỡ giết nó?
Vợ lớn đáp: - Ô hay! Cô nói
quàng nói điên như vậy? Tôi thề rằng nếu tôi giết con cô, thì đời đời
chồng tôi bị rắn cắn chết, có con thì bị nước ngập hổ tha, lang bắt,
còn thân tôi sẽ bị chôn sống, và tôi tự ăn thịt con tôi, cha mẹ và cả
nhà tôi sẽ vị chết cháy trong đống lửa. Các cô nên biết người vợ lớn
của ông Trưởng giả thuở đó chính là tiền thân của ta; vì ta không biết
tin tội phúc báo ứng, ác tâm giết đứa con trai của người vợ bé ngày
đó, rồi lại tự thề như vậy, cho nên kiếp này chịu lấy quả báo đau
khổ, cũng đúng như lời thề ngày xưa không khác.
- Kính thưa bà! Bà tu công đức gì,
kiếp này được gặp Phật và đắc đạo giải thoát, xin bà nói cho chúng
con được biết?
- Các cô để ý nghe: Đời quá khứ
đã xa xưa, ở nước Ba La Nại có một quả núi lớn gọi là Tiên Sơn,
trong núi có nhiều những vị Bích Chi Phật, Thanh Văn và ngoại đạo thần
tiên. Khi đó có vị Duyên Giác vào thành khất thực bà Trưởng giả thành
ấy hoan hỷ cúng dàng, Ngài dùng cơm xong bay lên hư không hiện ra các phép
thần biến. Thấy thế bà Trưởng giả chắp tay cung kính, hướng lên Ngài
mà khấn rằng:
- Kính lạy Đức Tôn Giả! Xin cho
con đời sau cũng được đắc đạo như Ngài!
- Các cô nên biết: Bà Trưởng Giả
ngày đó, chính là tiền thân của ta, vì sự thành kính cúng dàng vị
Thánh Tăng, và phát nguyện nên đời nay được gặp Phật, đắc quả La Hán!
Thân ta bây giờ tuy đắc quả La Hán nhưng thường thường bị đau nhói một
cái từ đầu xuống chân không khác chi cái kim đâm đau thấu tận xương!
Như thế đó, tội báo mặc dầu cho lâu kiếp đến đâu cũng không thể
xóa nhòa được.
Năm trăm Ni Cô nghe bà kể lại lịch
kiếp tiền sinh như vậy, ai nấy trong lòng run sợ, tự quan sát cái căn bản
của dâm dục, cũng như một đám lửa cháy hừng, tâm tham dục mất hẳn.
Coi những nỗi đau khổ của thế gian, khác chi lao ngục, trần cấu tự
nhiên tiêu hết, tâm ý sáng tỏ, hiểu thấu đạo mầu. Bình tĩnh thâm
tâm, nhập định Diệt Tận, thành ngôi La Hán, khi xuất định thưa với bà
Vi Diệu rằng:
- Thưa bà, chúng con bị triền miên
với lòng dâm dục không gỡ nổi, hôm nay nhờ ơn bà đã được giải thoát.
Phật khen bà Vi Diệu rằng:
- Quý hóa, bà Vi Diệu thuyết pháp
lợi mình lợi người, chính là đệ tử của Tam thế chư Phật!
Các cô, và đại chúng dự thính ai
nấy đều hoan hỷ tạ lễ mà lui.