Phần XI
(51) Kinh
Kandaraka
(52) Kinh Bát thành
(53) Kinh Hữu học
(54) Kinh Potaliya
- (Kandarakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Campa,
trên bờ hồ Gaggara cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Rồi Pessa, con trai người
huấn luyện voi và Du sĩ Kandaraka đi đến chỗ Thế Tôn ở Pessa, con trai người
huấn luyện voi sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Còn du sĩ Kandaraka nói lên với Thế Tôn những lời hỏi thăm, sau khi
nói lên những lời hỏi thăm thân hữu rồi đứng một bên. Du sĩ Kandaraka
đứng một bên, sau khi nhìn quanh chúng Tỷ-kheo đang giữ im lặng, thật im
lặng, liền bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama ! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama ! Chúng Tỷ-kheo này được Tôn giả
Gotama chơn chánh hướng dẫn. Tôn giả Gotama, các vị A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác trong thời quá khứ, không biết quý vị Thế Tôn ấy đã có một
chúng Tỷ-kheo tuyệt diệu như vậy, mà quý vị ấy chơn chánh hướng dẫn,
như nay chúng Tỷ-kheo được Tôn giả Gotama chơn chánh hướng dẫn ? Tôn giả
Gotama, các vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong tương lai, không biết quý vị
Thế Tôn ấy sẽ có một chúng Tỷ-kheo tuyệt diệu như vậy, mà quý vị
ấy sẽ chơn chánh hướng dẫn, như nay chúng Tỷ-kheo được Tôn giả
Gotama chơn chánh hướng dẫn ?
– Thật sự là vậy, này Kandaraka
! Thật sự là vậy, này Kandaraka ! Này Kandaraka, các vị A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác trong thời quá khứ, những vị Thế Tôn ấy đã có một chúng Tỷ-kheo
tuyệt diệu như vậy, mà quý vị ấy chơn chánh hướng dẫn, như nay chúng
Tỷ-kheo được Ta chơn chánh hướng dẫn. Này Kandaraka, các vị A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác trong thời tương lai, những vị Thế Tôn ấy sẽ có một
chúng Tỷ-kheo tuyệt diệu như vậy, mà quý vị ấy chơn chánh hướng dẫn,
như nay chúng Tỷ-kheo được Ta chơn chánh hướng dẫn. Này Kandaraka, trong
chúng Tỷ-kheo này, có những vị Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu đã tận,
tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống,
đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, đã được giải
thoát nhờ chánh trí. Này Kandaraka, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo
là bậc hữu học, giới luật kiên trì, giới hạnh kiên trì, sáng suốt, hạnh
nghiệp sáng suốt, sống với tâm khéo an trú Bốn Niệm xứ. Thế nào là bốn
? Ở đây này Kandaraka, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm tỉnh
giác, chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời; sống quán thọ trên
các cảm thọ, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu
trên đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để
nhiếp phục tham ưu trên đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời.
Được nghe nói vậy, Pessa, con trai
người huấn luyện voi bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn ! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn ! Bốn Niệm xứ này đã được Thế
Tôn khéo trình bày, để chúng sanh được thanh tịnh, để sầu bi được
vượt qua, để khổ ưu được diệt trừ, để chánh lý được thành đạt,
để Niết-bàn được chứng ngộ. Bạch Thế Tôn, chúng con là hàng tại
gia, mặc đồ trắng, thỉnh thoảng chúng con sống khéo an trú tâm vào Bốn
Niệm xứ này. Ở đây, Bạch Thế Tôn, chúng con sống quán thân trên thân,
nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời; chúng
con sống quán thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm,
để nhiếp phục tham ưu trên đời; chúng con sống quán tâm trên tâm, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời; chúng con
sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để nhiếp
phục tham ưu trên đời. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Thật hy hữu
thay, bạch Thế Tôn ! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hiểu được hạnh phúc và sự
bất hạnh của chúng sanh trong khi loài người sống trong sự rối ren như vậy,
trong sự cặn bã như vậy, trong sự xảo quyệt như vậy. Bạch Thế Tôn, rối
ren thay như loài người. Bạch Thế Tôn, cởi mở thay như loài thú vật. Bạch
Thế Tôn, con có thể nhiếp phục con voi, một cách khiến con voi ấy mỗi
khi đi hay đến Campa, liền trình bày mọi sự gian dối, giả dối, xảo
trá, xảo quyệt. Nhưng bạch Thế Tôn, những người đầy tớ của chúng
con, những người phục dịch, những người làm công, thân hành họ làm một
cách, khẩu hành họ làm một cách khác, ý hành họ làm một cách khác nữa.
Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn ! Thế
Tôn biết được hạnh phúc và sự bất hạnh của chúng sanh, trong khi loài
người sống trong sự rối ren như vậy, trong sự cặn bã như vậy, trong sự
xảo quyệt như vậy. Bạch Thế Tôn, rối ren thay như loài người ! Bạch
Thế Tôn, cởi mở thay, như loài thú vật !
– Thật như vậy, này Pessa ! Thật
như vậy, này Pessa ! Này Pessa, rối ren thay, như loài người ! Cởi mở
thay, như loài thú vật ! Này Pessa, có bốn hạng người này có mặt ở
trên đời. Thế nào là bốn? Ở đây, này Pessa, có người tự hành khổ
mình, chuyên tâm tự hành khổ mình. Ở đây, này Pessa, có người hành khổ
người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này Pessa, có người vừa tự
hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên
tâm hành khổ người. Ở đây, này Pessa, lại có người vừa không hành khổ
mình, không chuyên tâm hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không
chuyên tâm hành khổ người. Người ấy không hành khổ mình, không chuyên
tâm hành khổ mình, không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người,
ngay trong hiện tại không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm
giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể. Này Pessa, bốn hạng người này,
hạng người nào, được tâm Ông thích ý nhất ?
– Bạch Thế Tôn, hạng người tự
hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình, hạng người này tâm con không
thích ý. Bạch Thế Tôn, hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ
người, hạng người này tâm con không thích ý. Bạch Thế Tôn, hạng người
vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình, vừa hành khổ người,
chuyên tâm hành khổ người, hạng người này tâm con không thích ý. Bạch
Thế Tôn, hạng người vừa không tự hành khổ mình, không chuyên tâm tự
hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người,
hạng người không tự hành khổ mình không hành khổ người, ngay trong hiện
tại không có tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ,
tự ngã trú vào Phạm thể, hạng người này, tâm con thích ý.
– Này Pessa, vì sao Ông không thích
ý ba hạng người này ?
– Bạch Thế Tôn, hạng người tự
hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình, hạng người này hành khổ mình,
hành hạ mình, trong khi tự ao ước lạc, nhàm chán khổ; do vậy, tâm con
không thích ý hạng người này. Bạch Thế Tôn, hạng người hành khổ người,
chuyên tâm hành khổ người, hạng người này, hành khổ người khác, hành
hạ người khác, trong khi người khác ao ước lạc, nhàm chán khổ; do vậy,
tâm con không thích ý hạng người này. Bạch Thế Tôn, hạng người vừa hành
khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm
hành khổ người, hạng người này hành khổ, hành hạ mình và người khác,
trong khi mình và người khác ao ước lạc, nhàm chán khổ; do vậy, tâm con
không thích ý hạng người này. Nhưng bạch Thế Tôn, người vừa không
hành khổ mình, không chuyên tâm hành khổ mình, vừa không hành khổ người,
không chuyên tâm hành khổ người, hạng người này không hành khổ mình,
không hành khổ người, ngay trong hiện tại không tham dục, tịch tịnh, cảm
thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể; do vậy,
tâm con thích ý hạng người này. Và này, bạch Thế Tôn, chúng con phải
đi, chúng con có nhiều công vụ, có nhiều công việc phải làm.
– Này Pessa, Ông hãy làm những gì
Ông nghĩ là hợp thời.
Rồi Pessa, con trai người huấn luyện
voi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Rồi Thế Tôn, sau khi Pessa, con trai
người huấn luyện voi ra đi không được bao lâu, liền nói với các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, Pessa, con trai
người huấn luyện voi là bậc có trí; Pessa, con trai người huấn luyện
voi là người có đại trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, nếu Pessa, con trai người
huấn luyện voi ngồi thêm một chút nữa, cho đến khi Ta phân tích rộng
rãi hơn bốn hạng người này, thời anh ta sẽ thâu đạt được nhiều lợi
ích. Tuy vậy, này các Tỷ-kheo, Pessa, con trai người huấn luyện voi như vậy
cũng đã thâu đạt được nhiều lợi ích.
– Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời.
Bạch Thiện Thệ, nay đã đến thời để Thế Tôn phân tích rộng rãi hơn
bốn hạng người này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
– Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe
và khéo léo tác ý, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau:
– Này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình ? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
có người sống lõa thể sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch,
đi khất thực không chịu bước tới, đi khất thực không chịu đứng một
chỗ, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn dành riêng, không
nhận mời đi ăn, không nhận từ nơi miệng nồi, không nhận từ nơi miệng
chảo, không nhận tại ngưỡng cửa, không nhận giữa những cây gậy,
không nhận giữa những cối giã gạo, không nhận từ hai người đang ăn,
không nhận từ người đàn bà có thai, không nhận từ người đàn bà
đang cho con bú, không nhận từ người đàn bà đang giao cấu người đàn
ông, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận tại chỗ có chó đứng, không
nhận tại chỗ có ruồi bu, không ăn cá, ăn thịt, không uống rượu nấu,
rượu men. Vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, hay chỉ nhận ăn một miếng,
hay vị ấy chỉ nhận ăn tại hai nhà, hay chỉ nhận ăn hai miếng... hay vị
ấy chỉ nhận ăn bảy nhà, hay vị ấy chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy
nuôi sống chỉ với một bát, nuôi sống chỉ với hai bát,... nuôi sống chỉ
với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa,... bảy
ngày một bữa. Như vậy vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn uống cho đến
nửa tháng mới ăn một lần. Vị ấy chỉ ăn cỏ hoang, ăn lúa tắc, ăn lúa
hoang, ăn da vụn, ăn rong nước, ăn bột tấm, ăn váng gạo, ăn bột vừng,
ăn cỏ hay ăn phân bò. Vị ấy ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái
cây rụng để sống. Vị ấy mặc vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với
các vải khác, mặc vải tẩm liệm rồi quăng đi, mặc vải phấn tảo y, mặc
vỏ cây tirita làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc áo bện bằng từng mảnh
da con sơn dương đen, mặc áo bằng cỏ cát tường, mặc áo vỏ cây, mặc
áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng
đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cừu. Vị ấy là người sống nhổ
râu tóc, là người chuyên sống theo hạnh nhổ râu tóc, là người theo hạnh
thường đứng, từ bỏ chỗ ngồi, là người ngồi chõ hỏ, chuyên sống
theo hạnh ngồi chõ hỏ, một cách tinh tấn, là người dùng gai làm giường,
thường ngủ nằm trên giường gai, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh
xuống nước tắm (để gột sạch tội lỗi). Như vậy dưới nhiều hình
thức, vị ấy sống tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, được gọi là hạng người tự hành khổ mình, chuyên
tâm hành khổ mình.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người ? Ở đây, các Tỷ-kheo,
có người giết trâu bò, là người giết heo, là người giết vịt, săn thú,
là thợ săn, thợ đánh cá, ăn trộm, người xử tử các người ăn trộm,
cai ngục và những người làm các nghề độc ác khác. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
được gọi là hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người vừa hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ
người, chuyên tâm hành khổ người ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
làm vua, thuộc giai cấp Sát-đế-lỵ, đã làm lễ quán đảnh, hay một Bà-la-môn
triệu phú. Vị này cho xây dựng một giảng đường mới về phía Đông
thành phố, cạo bỏ râu tóc, đắp áo da thô, toàn thân bôi thục tô và dầu,
gãi lưng với một sừng nai, đi vào giảng đường với người vợ chính
và một Bà-la-môn tế tự. Rồi vị ấy nằm xuống dưới đất trống
trơn chỉ có lát cỏ. Vị vua sống với sữa từ vú một con bò cái, có
con bò con cùng một mầu sắc; bà vợ chính sống với sữa từ vú thứ
hai; và vị Bà-la-môn tế tự sống với sữa từ vú thứ ba. Sữa từ vú
thứ tư dùng để tế lửa. Còn con nghé con thì sống với đồ còn lại. Vị
vua nói như sau: "Hãy giết một số bò đực để tế lễ, hãy giết một
số nghé đực để tế lễ, hãy giết một số nghé cái để tế lễ, hãy
giết một số dê để tế lễ, hãy giết một số cừu để tế lễ, hãy
chặt một số cây để làm cột tế lễ, hãy thâu lượm một số cỏ
dabbha để làm chỗ tế lễ. Và những người nô tỳ, những người phục
vụ, những người làm công, những người này vì sợ đòn gậy, vì sợ
nguy hiểm, với mặt tràn đầy nước mắt, khóc lóc làm các công việc. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là hạng người vừa tự hành khổ
mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành
khổ người. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người vừa không tự
hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người,
không chuyên tâm hành khổ người, hạng người này không tự hành khổ
mình, không hành khổ người, hiện tại sống không tham dục, tịch tịnh,
cảm thấy mát lạnh, cảm thấy lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể. Ở
đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh
Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi riêng tự chứng
ngộ với thượng trí, thế giới này là Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên
giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên
bố điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện, đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy
đủ thanh tịnh. Người gia trưởng hay con người gia trưởng, hay một người
sanh ở giai cấp (hạ tiện) nghe pháp ấy, sau khi nghe pháp, người ấy sanh
lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, người ấy suy nghĩ:
"Đời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những
bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật không dễ
gì cho một người sống ở gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn
toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên
cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình". Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ, hay bỏ
tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, hay bỏ bà con quyến thuộc lớn,
cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình.
Vị ấy xuất gia như vậy, hành
trì các học giới và hạnh sống các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, tránh xa
sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết xấu hổ, sợ hãi, có lòng từ, sống
thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Vị ấy
từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ mong những vật
đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Vị ấy từ bỏ đời
sống không Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly, tránh
xa dâm dục hạ liệt. Vị ấy từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật,
liên hệ đến sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời.
Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ
này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này; nghe
điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chuyện
chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy sống hòa hợp những kẻ
ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thích thú
trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.
Vị ấy từ bỏ nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời
nói dịu hiền, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng
nhiều người; vị ấy nói những lời nói như vậy. Vị ấy từ bỏ lời
nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói chân thật,
nói có ý nghĩa, nói pháp, nói luật, nói những lời đáng được gìn giữ,
những lời hợp thời, hợp lý có mạch lạc hệ thống, có ích lợi. Vị
ấy từ bỏ không làm hại đến các hạt giống và các loại cây cỏ,
dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ các món ăn phi thời; từ
bỏ không đi xem múa, hát, nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ không dùng
vòng hoa, hương liệu, dầu thoa, trang sức, và các thời trang; từ bỏ
không dùng giường cao và giường lớn; từ bỏ không nhận vàng và bạc; từ
bỏ không nhận các hạt sống; từ bỏ không nhận thịt sống, từ bỏ
không nhận đàn bà con gái; từ bỏ không nhận nô tỳ gái và trai; từ bỏ
không nhận cừu và dê; từ bỏ không nhận gia cầm và heo; từ bỏ không
nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; từ bỏ không nhận ruộng nương đất
đai; từ bỏ không dùng người làm môi giới hoặc tự mình làm môi giới;
từ bỏ không buôn bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và
đo lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ
không làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp
phá. Vị ấy sống biết đủ, bằng lòng với tấm y để che thân với đồ
ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình
bát). Như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh, cũng vậy, Tỷ-kheo
bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng,
đi tại chỗ nào cũng mang theo. Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, nội
tâm hưởng lạc thọ không khuyết phạm. Khi mắt thấy sắc, vị ấy không
nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì,
vì con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện
pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự các nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt,
thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi
nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ
tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, những nguyên nhân gì, vì ý căn
không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi
lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ
trì ý căn. Vị ấy thành tựu Thánh hộ trì các căn này nội tâm hưởng lạc
thọ không uế nhiễm. Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi
nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh
giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống,
nhai, nuốt đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác;
khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.
Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn
này, thành tựu Thánh hộ trì các căn này, thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh
giác này, lựa một trú xứ thanh vắng, như khu rừng, gốc cây, khe núi,
hang đá, bãi tha ma, lùm cây ngoài trời, đống rơm. Sau khi ăn xong và đi khất
thực trở về, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, và
an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ dục tham ở đời, sống với
tâm thoát ly dục tham, gột rửa tâm hết dục tham. Từ bỏ sân hận, vị
ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng
sanh hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị
ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh
sáng chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ
trạo cử, hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột
rửa tâm hết trạo cử, hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi
nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với
thiện pháp.
Vị ấy sau khi từ bỏ năm triền cái
này, các pháp làm tâm cấu uế, làm trí tuệ trở thành yếu ớt, vị ấy
ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc do dục sanh, với tầm với tứ. Vị ấy diệt tầm và tứ,
chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không
tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh
giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc
trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Vị ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ
ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc,
xả niệm thanh tịnh.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững
chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến túc mạng trí. Vị
ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời,
bốn đời, năm đời, hai mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một
trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều
thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này,
dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ
khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi tại chỗ
kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này,
dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ
khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại
chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy vị ấy nhớ đến những
đời sống quá khứ, cũng với các nét đại cương và các chi tiết.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững
chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến sanh tử trí của
chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống
và chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri rõ rằng chúng sanh người hạ liệt
kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh
đều do hạnh nghiệp của họ. Vị ấy nghĩ rằng: "Thật sự những vị
chúng sanh này thành tựu những ác hạnh về thân, thành tựu những ác hạnh
về lời nói, thành tựu những ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh,
theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân
hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn
những vị chúng sanh này thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu
những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý,
không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh
kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các
thiện thú, Thiên giới, trên đời này. Như vậy, vị ấy với thiên nhãn
thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ
tri rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ
thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững
chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến lậu tận trí. Vị
ấy tuệ tri như thật: "Đây là Khổ", tuệ tri như thật: "Đây
là Khổ tập", tuệ tri như thật: "Đây là Khổ diệt", tuệ
tri như thật: "Đây là con Đường đưa đến khổ diệt" tuệ tri
như thật: "Đây là những lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Đây
là nguyên nhân của các lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Đây là sự
diệt trừ các lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Đây là con Đường
đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc" Nhờ biết như vậy, thấy
như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi
vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy khởi lên sự hiểu
biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, phạm
hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại, không có trở
lui đời sống này nữa".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, được
gọi là hạng người vừa không tự hành khổ mình, không chuyên tâm hành
khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người.
Vị ấy không tự hành khổ mình, không hành khổ người, ngay trong hiện tại
không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm thấy lạc thọ, tự
ngã trú vào Phạm thể.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Ananda trú ở
Vesali (Tỳ-xá-ly), tại (Trúc Lâm Ấp). Lúc bấy giờ gia chủ Dasama, người
ở thành Atthaka đến tại Pataliputta (Ba-la-lị phất Thành) có công việc. Rồi
gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka đi đến Kukkutarama (Kê Viên), đến một
Tỷ-kheo, đảnh lễ vị này, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống
một bên, gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka thưa với Tỷ-kheo ấy:
– Bạch Tôn giả, Tôn giả Ananda
nay an trú ở đâu ? Chúng con muốn gặp Tôn giả Ananda.
– Này Gia chủ, Tôn giả Ananda nay
ở Vesali, tại ấp Beluvagamaka.
Rồi gia chủ Dasama, người ở thành
Atthaka, sau khi làm xong công việc ở Pataliputta, liền đi đến Vesali, ấp
Beluvagamaka, đến Tôn giả Ananda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi
ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, gia chủ Dasama người
ở thành Atthaka thưa với Tôn giả Ananda:
– Bạch Tôn giả Ananda, có pháp độc
nhất gì do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác tuyên bố, nếu có Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần
sống hành trì pháp ấy, thời tâm chưa giải thoát của vị ấy được giải
thoát, hay các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, hay
pháp an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt
?
– Này Gia chủ, có pháp độc nhất,
do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên
bố. Nếu có Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành
trì pháp ấy, thời tâm chưa giải thoát của vị ấy được giải thoát,
và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô
thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng
đạt.
– Bạch Tôn giả Ananda, pháp độc
nhất ấy là gì, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác tuyên bố, nếu có Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm,
tinh cần, sống hành trì pháp ấy, thời tâm chưa giải thoát của vị ấy
được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn
trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt
được chứng đạt ?
– Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo
ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Vị ấy suy tư và được biết:
"Sơ Thiền này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì
là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu
sự đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu
hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp
này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử,
được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui
đời này. Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Tri
Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, nên Tỷ-kheo
nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành trì pháp ấy, thời
tâm vị ấy chưa giải thoát được giải thoát, và các lậu hoặc chưa
được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các
ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, vị Tỷ-kheo
diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc
do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm, vị ấy suy tư và
được biết: "Thiền thứ hai này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành.
Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy
là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn
trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ,
do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm
hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy,
khỏi phải trở lui đời này. Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất do
Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố.
Nếu Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành trì
pháp ấy, thời tâm vị ấy chưa giải thoát được giải thoát, và các lậu
hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an
ổn khỏi các ách phược chưa chứng đạt được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly
hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà bậc Thánh
gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Vị ấy suy tư
và được biết: "Thiền thứ ba này là pháp hữu vi, do suy tư tác
thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật
ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây,
đoạn trừ được các lậu hoặc... chưa chứng đạt, được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo xả
lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ
tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy suy tư và được
biết: "Thiền thứ tư này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự
vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành thời sự vật ấy là vô thường,
chịu sự đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được
các lậu hoặc... chưa chứng đạt, được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo an
trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ; cũng vậy phương thứ
hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp
thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên
giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô
biên, không hận, không sân. Vị ấy suy tư và được biết: "Từ tâm
giải thoát này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là
pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự
đoạn diệt". Vị ấy do vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu
hoặc... chưa chứng đạt, được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo an
trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi... Với tâm câu hữu với
hỷ... với tâm câu hữu với xả; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy
phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới,
trên dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị
ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên,
không hận, không sân. Vị ấy suy tư và được biết: "Xả tâm giải
thoát này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, Phàm sự việc gì là pháp hữu
vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn
diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc...
chưa chứng đạt, được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt
lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối
với dị tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng
và trú Không vô biên xứ. Vị này suy tư và được biết: "Không vô
biên xứ định này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì
là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu
sự đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu
hoặc... chưa chứng đạt, được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt
lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô biên", chứng
và trú Thức vô biên xứ. Vị này suy tư và được biết: "Thức vô
biên xứ này là pháp hữu vi do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp
hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn
diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ các lậu hoặc.... chưa
chứng đạt, được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt
lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật gì", chứng
và trú Vô sở hữu xứ. Vị này suy tư và được biết: "Vô sở hữu
xứ định này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là
pháp hữu vi, do suy tư tác thành thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự
đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu
hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp
này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử,
được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui
đời này. Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn bậc Tri
Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Nếu Tỷ-kheo
nào, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành trì pháp ấy, thời
tâm vị ấy chưa giải thoát, được giải thoát, và các lậu hoặc chưa
được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, pháp vô thượng an ổn khỏi các
ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt.
Khi được nghe nói vậy, Gia chủ
Dasama, người ở thành Atthaka bạch Tôn giả Ananda:
– Bạch Tôn giả Ananda, như người
tìm một kho tàng cất dấu, trong một lúc tìm được mười một kho tàng cất
dấu. Cũng vậy, bạch Tôn giả, con đi tìm một pháp môn bất tử mà được
nghe một lần mười một pháp môn bất tử. Bạch Tôn giả, như ngôi nhà
người ta có đến mười một cửa, khi ngôi nhà bị cháy, thì chỉ do một
cửa người ta cũng có thể thoát ra một cách an toàn. Cũng vậy, bạch Tôn
giả, chỉ với một cửa bất tử trong mười một cửa bất tử này, con
có thể đạt được sự an toàn cho con. Bạch Tôn giả, đệ tử các ngoại
đạo này sẽ tìm cầu tiền của cúng dường cho vị thầy của mình, sao
con lại không cúng dường cho Tôn giả Ananda.
Rồi gia chủ Dasama, người ở thành
Atthaka cho mời họp Tỷ-kheo Tăng ở Pataliputta và Vesali, tự tay mời ăn và
làm cho thỏa mãn với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, tặng
cho mỗi Tỷ-kheo, mỗi vị một cặp y, tặng cho Tôn giả Ananda ba y và xây
dựng một Tăng xá trị giá năm trăm đồng tiền vàng (hay có năm trăm
Tăng phòng) cho Tôn giả Ananda.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn sống giữa các
Sakka, (Thích-ca), thành Kapilavatthu, tại tinh xá Nigrodha. Lúc bấy giờ, một
ngôi giảng đường mới được dựng lên không bao lâu cho các Sakya ở
Kapilavatthu, và chưa được một Sa-môn, Bà-la-môn, hay một người nào đến
ở. Rồi các Sakya ở Kapilavatthu đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Các Sakya ở Kapilavatthu đang ngồi
một bên, bạch Thế Tôn:
– Ở đây, bạch Thế Tôn, có một
ngôi giảng đường mới, được dựng lên không bao lâu cho các Sakya ở
Kapilavatthu, và chưa được một Sa-môn, Bà-la-môn, hay một người nào đến
ở. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy dùng nhà giảng đường ấy trước tiên,
rồi các Sakya ở Kapilavatthu sẽ dùng sau, và như vậy các vị Sakya ở
Kapilavatthu sẽ hưởng hạnh phúc, an lạc lâu dài.
Thế Tôn im lặng nhận lời. Các vị
Sakya ở Kapilavatthu, sau khi được biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi
đi đến ngôi giảng đường, sau khi đến, cho lấy nệm trải khắp giảng
đường, sắp đặt chỗ ngồi, đặt ghè nước, treo đèn dầu, rồi đi đến
chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
Các Sakya ở Kapilavatthu đứng một bên, bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, ngôi giảng đường
đã được trải nệm tất cả, các chỗ ngồi đã được sắp đặt, ghè
nước đã được đặt sẵn, đèn dầu đã được treo lên. Bạch Thế
Tôn, Thế Tôn hãy làm những gì Thế Tôn nghĩ là hợp thời.
Rồi Thế Tôn đắp y, cầm y bát,
cùng với chúng Tỷ-kheo Tăng đi đến giảng đường, sau khi đến Ngài rửa
chân, bước vào ngôi giảng đường và ngồi xuống, dựa vào cột ở giữa,
mặt hướng phía Đông. Chúng Tỷ-kheo Tăng, sau khi rửa chân, bước vào giảng
đường, ngồi dựa vào bức tường phía Tây, mặt hướng về phía Đông,
với Thế Tôn ngồi trước họ. Các Sakya ở thành Kapilavatthu cũng rửa chân,
bước vào ngôi giảng đường, rồi ngồi xuống dựa vào bức tường phía
Đông, mặt hướng phía Tây, với Thế Tôn ngồi trước mặt. Rồi Thế Tôn
cho đến quá nửa đêm, thuyết pháp, khai thị, khích lệ, làm cho phấn khởi,
làm cho hoan hỷ các Sakya ở Kapilavatthu, rồi nói với Tôn giả Ananda:
– Này Ananda, hãy giảng hữu học
đạo cho các Sakya ở Kapilavatthu, Ta bị đau lưng. Ta sẽ nằm nghỉ.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn trải đại y gấp bốn lại, nằm xuống phía bên hông bên hữu
như dáng nằm con sư tử chân gác trên chân với nhau, chánh niệm tỉnh
giác, hướng niệm đến lúc ngồi dậy lại.
Rồi Tôn giả Ananda nói với Sakya
Mahanama:
– Ở đây, này Mahanama, vị Thánh
đệ tử, thành tựu giới hạnh, hộ trì các căn, biết tiết độ trong ăn
uống, chú tâm cảnh giác, thành tựu bảy diệu pháp, hiện tại lạc trú bốn
Thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không
mệt nhọc, chứng đắc không phí sức. Và này Mahanama, thế nào là vị
Thánh đệ tử thành tựu giới hạnh ? Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ
tử có giới hạnh, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn
Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ
nhặt, thọ lãnh và tu học các học pháp. Này Mahanama, như vậy là vị
Thánh đệ tử thành tựu giới hạnh. Và này Mahanama, thế nào là vị
Thánh đệ tử hộ trì các căn ? Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử,
khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì vì nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ưu, các
ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ
trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi
hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy
không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên
nhân gì vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ưu, các ác, bất thiện
pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thiệt hành
sự hộ trì ý căn. Này Mahanama, như vậy là vị Thánh đệ tử hộ trì
các căn. Và này Mahanama, thế nào là vị Thánh đệ tử biết tiết độ
trong ăn uống ? Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử chơn chánh giác
sát, thọ dụng món ăn, không phải để vui đùa, không phải để đam mê,
không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, chỉ để
thân này được duy trì, được bảo dưỡng, khỏi bị gia hại, để chấp
trì Phạm hạnh, nghĩ rằng: "Như vậy ta diệt trừ các cảm thọ cũ và
không cho khởi lên các cảm thọ mới; và ta sẽ không phạm lỗi lầm, sống
được an ổn". Này Mahanama, như vậy là vị Thánh đệ tử biết tiết
độ trong sự ăn uống. Và này Mahanama, thế nào là vị Thánh đệ tử chú
tâm cảnh giác ? Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử ban ngày trong khi
đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại
pháp, ban đêm trong canh một, trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột
sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp, ban đêm trong canh giữa, vị
này nằm xuống phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, chân gác
trên chân với nhau, chánh niệm tỉnh giác, hướng niệm đến lúc ngồi dậy
lại. Ban đêm trong canh cuối, khi đã thức dậy, trong khi đi kinh hành và
trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp. Này
Mahanama, như vậy là vị Thánh đệ tử chú tâm cảnh giác. Và này Mahanama,
thế nào là vị Thánh đệ tử thành tựu bảy diệu pháp ? Ở đây, này
Mahanama, vị Thánh đệ tử có lòng tin, có lòng tin ở sự giác ngộ của
Như Lai: Ngài là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vị này có lòng tàm, tự xấu hổ vì thân ác hạnh,
khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, tự xấu hổ vì thành tựu ác, bất thiện
pháp. Vị này có lòng quý, tự sợ hãi vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh,
ý ác hạnh, tự sợ hãi vì thành tựu ác, bất thiện pháp. Vị này là vị
đa văn, nhớ nghĩ những điều đã nghe, tích tụ những điều đã nghe. Những
pháp nào, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, nói lên phạm
hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp như vậy, vị ấy nghe nhiều,
thọ trì, đọc tụng bằng lời, được ý suy tư, được chánh kiến thể
nhập. Vị ấy sống tinh cần tinh tấn, trừ bỏ các pháp bất thiện,
thành tựu các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối
với các thiện pháp. Vị ấy có niệm, thành tựu niệm tuệ tối thắng,
nhớ lại, nhớ lại nhiều lần những gì đã làm từ lâu, đã nói từ
lâu. Vị ấy có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, thành tựu
Thánh thể nhập đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau. Này Mahanama, như
vậy vị Thánh đệ tử thành tựu bảy diệu pháp. Và này, Mahanama, thế
nào là vị Thánh đệ tử hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng
tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc
không phí sức ? Ở đây, này Mahanama, (vị ấy) ly dục, ly bất thiện
pháp, chứng và trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có
tầm, có tứ. Diệt tầ⭠và tứ, vị ấy chứng và trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất
tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các
bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, vị ấy chứng và trú Thiền thứ
ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, vị ấy chứng và
trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này
Mahanama, như vậy là vị Thánh đệ tử hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc
tăng thượng tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc,
chứng đắc không phí sức.
Này Mahanama, khi một vị Thánh đệ
tử thành tựu giới hạnh như vậy, hộ trì các căn như vậy, biết tiết
độ trong ăn uống như vậy, chú tâm cảnh giác như vậy, đầy đủ bảy
diệu pháp như vậy, hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm,
chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không
phí sức như vậy, này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy được gọi là đang
đi trên con đường hữu học, có trứng không bị hư hoại, có khả năng
phá vỡ, có khả năng giác ngộ, có khả năng chứng đạt vô thượng an
ổn khỏi các ách phược. Này Mahanama, ví như có tám, có mười hay có mười
hai trứng gà, được gà mái khéo ấp ngồi, khéo ấp nóng, khéo ấp dưỡng;
dầu cho con gà mái ấy không khởi lên ý muốn: "Mong rằng, các con gà
con của ta, sau khi phá vỡ vỏ trứng với móng chân, hay với mỏ của
chúng, thoát ra ngoài một cách an toàn". Những con gà con ấy, sau khi
phá vỡ vỏ trứng với móng chân hay mỏ của chúng, có thể thoát ra ngoài
một cách an toàn. Cũng vậy, này Mahanama khi một vị Thánh đệ tử, thành
tựu giới hạnh như vậy, hộ trì các căn như vậy, biết tiết độ trong
ăn uống như vậy, chú tâm cảnh giác như vậy, đầy đủ bảy diệu pháp
như vậy, hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng
đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức
như vậy, này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy được gọi là đang đi trên
con đường hữu học, có trứng không bị hư hoại, có khả năng phá vỡ,
có khả năng giác ngộ, có khả năng chứng đạt vô thượng an ổn khỏi các
ách phược. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy, khi chứng được vô thượng
xả niệm thanh tịnh này, nhớ đến các đời sống quá khứ sai biệt, như
một đời, hai đời... (như trên)... nhớ đến nhiều đời sống quá khứ
cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Đây là sự phá vỡ thứ
nhất của con gà con ra khỏi vỏ trứng. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy,
khi chứng được vô thượng xả niệm thanh tịnh này, với thiên nhãn thuần
tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng,
chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người
may mắn kẻ bất hạnh.. (như trên)... đều do hạnh nghiệp của chúng. Đây
là sự phá vỡ thứ hai của con gà con ra khỏi vỏ trứng. Này Mahanama, vị
Thánh đệ tử ấy, khi chứng được vô thượng xả niệm thanh tịnh này,
với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự mình ngay trong hiện tại với thắng
trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát. Đây là sự phá vỡ thứ ba của con gà con ra khỏi
vỏ trứng.
Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào
thành tựu giới hạnh, như vậy thuộc về hạnh đức của vị ấy. Này
Mahanama, vị Thánh đệ tử nào hộ trì các căn, như vậy thuộc về hạnh
đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào có tiết độ trong
ăn uống, như vậy thuộc về hạnh đức của vị ấy. Này Mahanama, vị
Thánh đệ tử nào chú tâm cảnh giác, như vậy thuộc về hạnh đức của
vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào đầy đủ bảy diệu pháp, như
vậy thuộc về hạnh đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào
hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không
khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đă飍 không phí sức, như vậy thuộc về hạnh đức của vị
ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào, nhớ đến các đời sống quá khứ
sai biệt, như một đời, hai đời... (như trên)... cùng với các nét đại
cương và các chi tiết như vậy thuộc về trí đức của vị ấy. Này
Mahanama, vị Thánh đệ tử nào với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy
sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ
liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất
hạnh... (như trên)... đều do hạnh nghiệp của chúng, như vậy thuộc về
trí đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào với sự đoạn
tận các lậu hoặc, tự mình ngay trong hiện tại với thắng trí chứng ngộ,
chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát, như vậy thuộc về trí đức của vị ấy. Như vậy, này Mahanama, vị
Thánh đệ tử được gọi là minh cụ túc, hạnh cụ túc, minh hạnh cụ
túc. Này Mahanama, Phạm thiên Sanankumara (Thường Đồng Hình Phạm thiên) có
nói bài kệ như sau:
- Chúng sanh tin giai cấp
- Vương tộc là tối thượng.
- Vị minh hạnh cụ túc,
- Tối thắng ở Nhơn Thiên.
Này Mahanama, bài kệ ấy được Phạm
thiên Sanankumara khéo hát, không phải vụng hát, khéo nói, không phải vụng
nói, có ý nghĩa, không phải vô nghĩa, và được Thế Tôn ấn khả.
Rồi Thế Tôn ngồi dậy, nói với
Tôn giả Ananda:
– Lành thay, lành thay Ananda ! Thật
lành thay, này Ananda, người đã giảng hữu học đạo cho các Sakka (Thích tử)
ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ).
Tôn giả Ananda thuyết giảng như vậy,
bậc Đạo Sư ấn khả. Các vị Sakka ở Kapilavatthu hoan hỷ tín thọ lời
Tôn giả Ananda dạy.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại
Anguttarapa. Apana là một thị trấn của Anguttarapa. Rồi Thế Tôn buổi sáng
đắp y, cầm y bát, vào Apana để khất thực. Sau khi đi khất thực, ăn
xong, trên con đường khất thực trở về, Thế Tôn đi đến một khu rừng
để nghỉ trưa. Sau khi đi sâu vào khu rừng ấy, Ngài ngồi dưới một gốc
cây. Gia chủ Potaliya, toàn thân mặc đồ đầy đủ, mang dù, đi dép, ngao
du tản bộ khắp mọi nơi, và đi đến khu rừng ấy. Sau khi đi sâu vào
(khu rừng), gia chủ Potaliya, đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến nói lên với
Thế Tôn những lời hỏi thăm, sau khi nói lên những lời hỏi thăm, thân hữu
rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với Gia chủ Potaliya đang đứng một bên:
– Này Gia chủ, có các chỗ ngồi.
Nếu Ông muốn, hãy ngồi xuống.
Nghe nói vậy, gia chủ Potaliya nghĩ
rằng: "Sa-môn Gotama gọi ta với danh từ Gia chủ", nên phẫn nộ
không hoan hỷ và đứng im. Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Gia chủ
Potaliya:
– Này Gia chủ, có các chỗ ngồi.
Nếu Ông muốn, hãy ngồi xuống.
Lần thứ hai, gia chủ Potaliya nghĩ
rằng: "Sa-môn Gotama gọi ta với danh từ Gia chủ", nên phẫn nộ,
không hoan hỷ và đứng im. Lần thứ ba, Thế Tôn nói với gia chủ Potaliya:
– Này Gia chủ, có các chỗ ngồi.
Nếu Ông muốn, hãy ngồi xuống.
Nghe nói vậy, gia chủ Potaliya nghĩ
rằng: "Sa-môn Gotama gọi ta với danh từ Gia chủ", nên phẫn nộ,
không hoan hỷ, nói với Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama, thật không
thích đáng, không hợp lẽ, Tôn giả gọi tôi là Gia chủ.
– Này Gia chủ, nhưng hình dung của
Ông, tướng mạo của ông, hình tướng của Ông giống như một gia chủ.
– Nhưng Tôn giả Gotama, tất cả
nghiệp vụ đã được tôi từ bỏ, tất cả tục sự đã được tôi đoạn
tận.
– Nhưng này Gia chủ, như thế nào
tất cả nghiệp vụ đã được Ông từ bỏ, tất cả tục sự đã được
Ông đoạn tận ?
– Ở đây, này Tôn giả Gotama,
tài sản, ngũ cốc, hay vàng bạc, tất cả đều giao cho các con tôi thừa hưởng.
Ở đây, tôi không khuyên bảo, tôi không can gián; tôi sống với tối thiểu
đồ ăn, đồ mặc. Như vậy, này Tôn giả Gotama, tất cả nghiệp vụ được
tôi từ bỏ, tất cả tục sự được tôi đoạn tận.
– Này Gia chủ, sự đoạn tận các
tục sự mà Ông nói khác với sự đoạn tận các tục sự trong giới luật
của bậc Thánh.
– Bạch Thế Tôn, như thế nào là
sự đoạn tận các tục sự trong giới luật của bậc Thánh ? Bạch Thế
Tôn, lành thay, nếu Thế Tôn thuyết pháp cho tôi về sự đoạn tận các tục
sự trong giới luật của bậc Thánh.
– Này Gia chủ, hãy nghe và khéo
tác ý, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Gia chủ Potaliya vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Này Gia chủ. tám pháp này đưa
đến sự đoạn tận các tục sự trong giới luật bậc Thánh. Thế nào là
tám ? Y cứ không sát sanh, sát sanh cần phải từ bỏ. Y cứ không lấy của
không cho, lấy của không cho cần phải từ bỏ. Y cứ lời chân thật, nói
láo cần phải từ bỏ. Y cứ không nói hai lưỡi, nói hai lưỡi cần phải
từ bỏ. Y cứ không tham dục, tham dục cần phải từ bỏ. Y cứ không hủy
báng sân hận, hủy báng sân hận cần phải từ bỏ. Y cứ không phẫn
não, phẫn não cần phải từ bỏ. Y cứ không quá mạn, quá mạn cần phải
từ bỏ. Này Gia chủ, tám pháp này được nói một cách vắn tắt, không
được giải thích rộng rãi, đưa đến sự đoạn tận các tục sự trong
giới luật bậc Thánh.
– Bạch Thế Tôn tám pháp này được
Thế Tôn nói một cách vắn tắt, không được giải thích rộng rãi, đưa
đến sự đoạn tận các tục sự trong giới luật bậc Thánh. Bạch Thế
Tôn, lành thay nếu Thế Tôn vì lòng thương tưởng, giải thích rộng rãi
tám pháp này.
– Này Gia chủ, vậy Ông hãy nghe
và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Gia chủ Potaliya vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Khi được nói: "Y cứ không
sát sanh, sát sanh cần phải từ bỏ", do duyên gì, lời nói như vậy
được nói lên ? Ở đây, này gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
"Do nhơn những kiết sử nào ta có thể sát sanh, ta đoạn tận, thành tựu
sự từ bỏ của các kiết sử ấy. Nếu ta sát sanh, không những ta tự
trách mắng ta vì duyên sát sanh, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ
khiển trách ta vì duyên sát sanh; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ
chờ đợi ta, vì duyên sát sanh. Thật là một kiết sử, thật là một triền
cái, chính sự sát sanh này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não nào có
thể khởi lên, do duyên sát sanh, đối với vị đã từ bỏ sát sanh, những
lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa". "Y cứ
không sát sanh cần phải từ bỏ", do duyên như vậy, lời nói như vậy
được nói lên.
Khi được nói: "Y cứ không lấy
của không cho, lấy của không cho cần phải từ bỏ", do duyên gì, lời
nói như vậy được nói lên ? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy
nghĩ như sau: "Do nhơn những kiết sử nào ta có thể lấy của không
cho, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta lấy của
không cho, không những ta tự trách mắng ta vì duyên lấy của không cho,
các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên lấy của
không cho; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì
duyên lấy của không cho. Thật là một kiết sử, thật là một triền
cái, chính sự lấy của không cho này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt
não nào có thể khởi lên do duyên lấy của không cho, đối với vị đã từ
bỏ lấy của không cho, những lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không
còn nữa". "Y cứ không lấy của không cho, lấy của không cho cần
phải từ bỏ", do duyên như vậy, lời nói như vậy được nói lên.
Khi được nói: "Y cứ lời
chân thật, nói láo cần phải từ bỏ", do duyên gì, lời nói như vậy
được nói lên ? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
"Do nhơn những kiết sử nào, ta có thể nói láo, ta đoạn tận, thành
tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta nói láo, không những ta tự
trách mắng ta vì duyên nói láo, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ
khiển trách ta vì duyên nói láo; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ
chờ đợi ta, vì duyên nói láo. Thật là một kiết sử, thật là một triền
cái, chính nói láo này. Những lậu hoặc phiền lao nhiệt não có thể khởi
lên, do duyên nói láo, đối với vị đã từ bỏ nói láo, những lậu hoặc
phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa". "Y cứ lời chân thật
nói láo cần phải từ bỏ", do duyên như vậy, lời nói như vậy được
nói lên.
Khi được nói: "Y cứ không
nói hai lưỡi, nói hai lưỡi cần phải từ bỏ", do duyên gì, lời nói
như vậy được nói lên ? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy
nghĩ như sau: "Do nhơn những kiết sử nào, ta có thể nói hai lưỡi, ta
đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta nói hai lưỡi,
không những ta tự trách mắng ta vì duyên nói hai lưỡi, các bậc có trí,
sau khi tìm hiểu cũng khiển trách ta vì duyên nói hai lưỡi, và sau khi thân
hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta vì duyên nói hai lưỡi. Thật là
một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự nói hai lưỡi này. Những
lậu hoặc, phiền lao nhiệt não có thể khởi lên do duyên nói hai lưỡi,
đối với vị đã từ bỏ nói hai lưỡi, những lậu hoặc phiền lao nhiệt
não như vậy không còn nữa". "Y cứ không nói hai lưỡi, nói hai lưỡi
cần phải từ bỏ", do duyên như vậy, lời nói như vậy được nói
lên.
Khi được nói: "Y cứ không
tham dục, tham dục cần phải từ bỏ", do duyên gì, lời nói như vậy
được nói lên ? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
"Do nhơn những kiết sử nào, ta có thể có tham dục, ta đoạn tận, thành
tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta tham dục, không những ta tự
trách mắng ta vì duyên tham dục, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu cũng khiển
trách ta vì duyên tham dục; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ
đợi ta vì duyên tham dục. Thật là một kiết sử, thật là một triền
cái, chính sự tham dục này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não có thể
khởi lên do duyên tham dục, đối với vị đã từ bỏ tham dục, các lậu
hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa". "Y cứ không
tham dục, tham dục cần phải từ bỏ", do duyên như vậy, lời nói như
vậy được nói lên.
Khi được nói: "Y cứ không hủy
báng sân hận, hủy báng sân hận cần được từ bỏ", do duyên gì, lời
nói như vậy được nói lên ? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy
nghĩ như sau: "Do nhơn những kiết sử nào ta có thể hủy báng sân hận,
ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta hủy báng
sân hận, không những ta tự trách mắng ta vì duyên hủy báng, các bậc có
trí, sau khi tìm hiểu, cũng khiển trách ta vì duyên hủy báng sân hận; và
sau khi thân hoại mạng chung ác thú sẽ chờ đợi ta vì duyên hủy báng
sân hận. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự hủy
báng sân hận này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não có thể khởi
lên do duyên hủy báng sân hận, đối với vị đã từ bỏ hủy báng sân hận
các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa". "Y cứ
không hủy báng sân hận, hủy báng sân hận cần phải từ bỏ", do
duyên như vậy, lời nói như vậy được nói lên.
Khi được nói: "Y cứ không phẫn
não, phẫn não cần được từ bỏ", do duyên gì, lời nói như vậy
được nói lên ? Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Do
nhơn những kiết sử nào ta có thể có phẫn não, ta đoạn tận, thành tựu
sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta có phẫn não, không những ta tự
trách mắng ta vì duyên phẫn não, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng
khiển trách ta vì duyên phẫn não; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú
sẽ chờ đợi ta vì duyên phẫn não. Thật là một kiết sử, thật là một
triền cái, chính sự phẫn nào này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não
có thể khởi lên do duyên phẫn não, đối với vị đã từ bỏ phẫn não,
các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa". "Y cứ
không phẫn não, phẫn não cần được từ bỏ", do duyên như vậy, lời
nói như vậy được nói lên.
Khi được nói: "Y cứ không
quá mạn, quá mạn cần được từ bỏ", do duyên gì, lời nói như vậy
được nói lên ? Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Do
nhơn những kiết sử nào ta có quá mạn, ta đoạn tận, thành tựu sự từ
bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta có quá mạn, không những ta tự trách mắng
ta vì duyên quá mạn, các bậc có trí sau khi tìm hiểu, cũng khiển trách ta
vì duyên quá mạn; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi
ta, vì duyên quá mạn. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái,
chính sự quá mạn này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não có thể khởi
lên do duyên quá mạn, đối với vị đã từ bỏ quá mạn, các lậu hoặc
phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa". "Y cứ không quá mạn,
quá mạn cần phải từ bỏ", do duyên như vậy, lời nói như vậy được
nói lên.
Này Gia chủ, tám pháp được nói
lên vắn tắt và được giải thích rộng rãi này, đưa đến sự đoạn tận
các tục sự trong giới luật bậc Thánh, nhưng thật sự chưa phải là sự
đoạn tận toàn diện, toàn bộ và toàn mặt tất cả tục sự trong giới
luật bậc Thánh.
– Bạch Thế Tôn, như thế nào là
sự đoạn tận toàn diện, toàn bộ và toàn mặt tất cả tục sự trong giới
luật bậc Thánh ? Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết pháp cho
con như thế nào là sự đoạn tận toàn diện, toàn bộ, toàn mặt tất cả
tục sự trong giới luật bậc Thánh.
– Này Gia chủ, vậy Ông hãy nghe
và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Gia chủ Potaliya vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Này Gia chủ, ví như có con chó
đói lả, suy nhược, đi đến một lò thịt giết bò. Ở đây, có người
giết bò thiện xảo hay người đệ tử quăng cho nó một khúc xương, khéo
lóc, tận lóc, không có thịt, chỉ có dính máu. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế
nào ? Con chó ấy, khi gặm khúc xương ấy, khéo lóc, tận lóc, không có thịt,
chỉ có dính máu có thể đoạn trừ được đói lả suy nhược của nó
không?
– Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy
? Với khúc xương khéo lóc, tận lóc, không có thịt, chỉ có dính máu ấy,
bạch Thế Tôn, con chó kia chỉ có mệt nhọc khốn khổ mà thôi.
– Cũng vậy, này Gia chủ, vị
Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Thế Tôn đã nói, dục được ví như
khúc xương, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn".
Sau khi thấy như chân như vậy với chánh trí tuệ, sau khi từ bỏ loại xả
thuộc loại đa chủng, y cứ đa chủng, đối với loại xả thuộc loại nhứt
chủng, y cứ nhất chủng, ở đây, mọi chấp thủ đối với thế vật
được đoạn trừ hoàn toàn, không có dư tàn, vị ấy tu tập loại xả như
vậy.
Này Gia chủ, ví như con chim kên,
con chim diều hâu, hay con chim ưng giành được miếng thịt liền bay bổng lên;
các con chim kên khác, chim diều hâu khác, hay chim ưng khác bay đuổi theo,
đuổi sát theo giành giựt xé nát miếng thịt ấy. Này Gia chủ, Ông nghĩ
thế nào ? Nếu con chim kên, chim diều hâu hay chim ưng ấy không vứt bỏ
ngay miếng thịt ấy, nó có thể do nhân duyên ấy, đi đến chết hay đi đến
khổ gần như chết không ?
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này Gia chủ, vị
Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Thế Tôn đã nói, dục được ví như
miếng thịt, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn".
Sau khi thấy như chân như vậy, với chánh trí tuệ, sau khi từ bỏ loại xả
thuộc loại đa chủng, y cứ đa chủng, đối với loại xả thuộc loại nhứt
chủng, y cứ nhứt chủng, ở đây mọi chấp thủ đối với thế vật được
đoạn trừ hoàn toàn, không có dư tàn, vị ấy tu tập loại xả như vậy.
Này Gia chủ, ví như một người cầm
một bó đuốc cỏ đang cháy rực đi ngược gió. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế
nào, nếu người ấy không vứt bỏ ngay bó đuốc ấy, bó đuốc cỏ đang
cháy rực ấy có thể đốt cháy tay, hay đốt cháy cánh tay, hay đốt cháy
một thân phần của người ấy, người ấy có thể do nhân duyên ấy, đi
đến chết, hay đi đến khổ gần như chết không ?
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này Gia chủ, vị
Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Thế Tôn đã nói, dục được ví như
bó đuốc cỏ, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn".
Sau khi thấy như chân như vậy... (như trên)... với chánh trí tuệ, vị ấy
tu tập loại xả như vậy.
Này Gia chủ, ví như một hố than hừng,
sâu hơn thân người, đầy những than hừng, cháy không thành ngọn, cháy
không thành khói, và một người đi đến muốn sống, muốn không chết, muốn
lạc, né tránh khổ. Nhưng có hai nhà lực sĩ, nắm chặt hai cánh tay người
ấy và lôi người ấy đến hố than hừng. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào
? Người ấy có co rúm thân, vật qua vật lại phía này phía kia không ?
– Bạch Thế Tôn, có. Vì sao vậy
? Bạch Thế Tôn, vì người ấy biết: "Nếu ta rơi vào hố than hừng
này, do nhân duyên này, ta sẽ đi đến chết hay đau khổ gần như chết.
– Cũng vậy, này cư sĩ, vị Thánh
đệ tử suy nghĩ như sau: "Thế Tôn đã nói, dục được ví như hố
than hừng, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn".
Sau khi thấy như chân như vậy với chánh trí tuệ... (như trên)... vị ấy
tu tập loại xả như vậy.
Này Gia chủ, ví như có người nằm
mộng, thấy vườn khả ái, rừng núi khả ái, đất đai khả ái, ao hồ khả
ái; khi tỉnh dậy, người ấy không thấy gì cả. Cũng vậy, này Gia chủ,
vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Thế Tôn đã nói, dục được ví
như một cơn mộng, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn".
Sau khi thấy như chân như vậy với chánh trí tuệ,... (như trên)... vị ấy
tu tập loại xả như vậy.
Này Gia chủ, ví như có người mượn
tài vật cho mượn, xe cộ xứng đáng bậc sang trọng, các đồ châu báu
trang sức mỹ diệu, và với những đồ vật vay mượn ấy, người ấy đi
vào chợ phố, được (tôn trọng) đi trước, được nhiều người vây
quanh, và quần chúng thấy người ấy bèn nói: "Người này thật sự
giàu sang, và người giàu sang hưởng thọ tài vật như vậy". Nhưng những
người chủ thấy người kia ở chỗ nào liền lấy lui những vật sở hữu
của mình. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào ? Có phải sự (trá hình) dị
tính của người kia được chấm dứt ở đây?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Vì
sao vậy ? Bạch Thế Tôn, vì những người chủ lấy lui những vật sở hữu
của mình.
– Cũng vậy, này Gia chủ, vị
Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Thế Tôn đã nói, dục được ví như
tài vật vay mượn, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn".
Sau khi thấy như chân như vậy với chánh trí tuệ... (như trên)... vị ấy
tu tập loại xả như vậy.
Này Gia chủ, ví như gần thôn làng
hay gần thị tứ có một nhóm rừng, ở đấy, có một cây đầy những trái
chín, nhưng không có trái nào rơi xuống đất. Rồi một người đi đến,
ước mong trái cây, tìm cầu trái cây, đi khắp đó đây để tìm trái
cây. Người ấy đi sâu vào ngôi rừng ấy, thấy cây ấy đầy những trái
chín. Người ấy có thể nghĩ như sau: "Cây này đầy những trái chín
nhưng không có trái nào rơi xuống đất, nhưng ta biết leo cây. Vậy ta hãy
leo lên cây ấy ăn cho thỏa thích và bọc đầy áo (để đem về). Rồi
người ấy leo lên cây ấy, ăn cho thỏa thích và bọc đầy áo (để đem về).
Rồi một người thứ hai đi đến, ước mong trái cây, tìm cầu trái cây,
đi khắp đó đây để tìm trái cây, và tay mang một búa sắc bén. Người
này đi sâu vào ngôi rừng ấy, thấy cây ấy đầy những trái chín. Người
này có thể nghĩ như sau: "Cây này đầy những trái chín, nhưng không
có trái nào rơi xuống đất. Nhưng ta không biết leo cây. Vậy ta hãy chặt
cây này tận gốc, ăn cho thỏa thích, và bọc đầy áo (để đem về)".
Rồi người này chặt cây ấy tận gốc. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào ?
Nếu người kia không leo xuống thật mau, thời cây ấy khi rơi đổ xuống,
sẽ làm cho người thứ nhất, hoặc bị gãy tay, hoặc bị gãy chân, hoặc
bị gãy một phần thân nào. Và do nhân duyên ấy, sẽ bị chết hay đi đến
đau khổ gần như chết.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này Gia chủ, vị
Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Thế Tôn đã nói, dục được ví như
cây có trái, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn".
Sau khi thấy như chân như vậy với trí tuệ, sau khi từ bỏ loại xả thuộc
loại đa chủng, y cứ đa chủng, đối với loại xả thuộc loại nhứt chủng,
y cứ nhứt chủng, ở đây mọi chấp thủ đối với thế vật được đoạn
trừ hoàn toàn, không có dư tàn, vị ấy tu tập loại xả như vậy.
Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử ấy,
sau khi thành tựu xả niệm thanh tịnh vô thượng này, nhớ đến các đời
sống trước, như một đời, hai đời, ba đời... (như trên)... Vị ấy nhớ
đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi
tiết. Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử ấy sau khi thành tựu xả niệm thanh
tịnh vô thượng này, với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống
và chết của chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ
thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh.. (như trên)... đều do hạnh nghiệp
của chúng. Này Gia chủ vị Thánh đệ tử ấy, sau khi thành tựu xả niệm
thanh tịnh vô thượng này, và với các lậu hoặc được đoạn trừ, vị
này với thượng trí, tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong
hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Này Gia chủ, cho đến như vậy là
sự đoạn tận toàn diện, toàn bộ và toàn mặt tất cả sự tục sự
trong giới luật bậc Thánh. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào ? Ông có thấy
ở nơi Ông một sự đoạn tận tục sự như vậy, giống như sự đoạn tận
toàn diện, toàn bộ và toàn mặt tất cả tục sự trong giới luật bậc
Thánh ?
– Bạch Thế Tôn, con là ai mà có
thể có sự đoạn tận toàn diện, toàn bộ và toàn mặt tất cả tục sự
trong giới luật bậc Thánh ? Bạch Thế Tôn, con còn rất xa với sự đoạn
tận toàn diện, toàn bộ và toàn mặt, tất cả tục sự trong giới luật
bậc Thánh. Bạch Thế Tôn, xưa kia, đối với các vị Du sĩ không phải
thù thắng, chúng con xem là thù thắng; dầu họ không thù thắng, chúng con
cúng dường các món ăn thù thắng; dầu họ không thù thắng, chúng con mời
họ ở trong những trú xứ thù thắng, Bạch Thế Tôn, còn đối với các Tỷ-kheo
thù thắng, chúng con xem là không thù thắng; dầu các vị ấy thù thắng,
chúng con cúng dường các món ăn không thù thắng; dầu các vị ấy thù thắng,
chúng con mời các vị ấy ở trong các trú xứ không thù thắng. Nhưng nay,
bạch Thế Tôn, đối với các Du sĩ không thù thắng, chúng con sẽ biết
là không thù thắng; vì họ không thù thắng, chúng con sẽ cúng dường các
món ăn không thù thắng,; vì họ không thù thắng chúng con sẽ mời họ ở
trong các trú xứ không thù thắng. Còn đối với các Tỷ-kheo thù thắng,
chúng con sẽ biết các vị ấy là thù thắng; vì các vị ấy thù thắng,
chúng con sẽ cúng dường các món ăn thù thắng; vì các vị ấy thù thắng,
chúng con sẽ mời các vị ấy ở trong các trú xứ thù thắng. Bạch Thế
Tôn, Thế Tôn thật sự đã gợi ở nơi con lòng ái kính Sa-môn đối với
các vị Sa-môn, lòng tịnh tín Sa-môn đối với các Sa-môn, lòng tôn kính
Sa-môn đối với các Sa-môn. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Thật vi diệu
thay, bạch Thế Tôn ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã
xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị
lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể
thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện
trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và
quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử; từ nay trở
đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.