...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Kinh Trung bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
Phần IX
(39) Đại kinh Xóm ngựa
(40) Tiểu kinh Xóm ngựa
(41) Kinh Saleyyaka
(42) Kinh Veranjaka
(43) Đại kinh Phương quảng
(44) Tiểu kinh Phương quảng
- 39. ĐẠI KINH
XÓM NGỰA [^]
- (Mahassapurasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Anga (Ương-
già), tại một xã ấp của dân chúng Anga, tên là Assapura. Lúc bấy
giờ Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
Này các Tỷ-kheo.
Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói
như sau:
Sa-môn! Sa-môn! Này các Tỷ-kheo, dân chúng biết
các Ông là vậy. Và nếu các Ông được hỏi: "Các Ông là
ai!" Các Ông phải tự nhận: "Chúng tôi là Sa-môn". Này
các Tỷ-kheo, các Ông đã được danh xưng như vậy, đã tự nhận
là như vậy, thì này, các Tỷ-kheo, các Ông phải tự tu tập như sau:
"Chúng ta sẽ thọ trì và thực hành những pháp tác thành
Sa-môn, những pháp tác thành Bà-la-môn. Như vậy, danh xưng này củ
húng ta mới chân chánh và sự tự nhận này củ húng ta mới như
thật. Và những đồ cúng dường mà chúng ta thọ hưởng như y
phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh mới có
được kết quả lớn, lợi ích lớn cho chúng ta. Và chúng ta xuất
gia không thành vô dụng, có kết quả, có thành tích".
Này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp tác thành
Sa-môn, và các pháp tác thành Bà-la-môn? "Chúng ta sẽ thành
tựu tàm quý", như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông phải tu tập.
Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ý kiến: "Chúng ta
đã thành tựu tàm quý đến mức độ này, như vậy là vừa đủ;
đến mức độ này, như vậy đã làm xong. Chúng ta đã đạt được
mục đích Sa-môn hạnh. Chúng ta không có gì phải làm hơn nữa".
Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa mãn. Này các
Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bo ho các
Ông: Khi các Ông hướng đến mục đích Sa-môn hạnh, chớ có từ
bỏ mục đích này, khi đang còn công việc đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là công việc đáng phải
làm hơn nữa? "Thân hành chúng ta phải được thanh tinh, minh
chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu. Nhưng chúng ta không vì
thân hành thanh tịnh ấy, khen mình, chê người". Như vậy, này các
Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có
thể khởi lên ý kiến: "Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân
hành chúng ta thanh tịnh, đến mức độ này, như vậy là vừa đủ;
đến mức độ này, như vậy đã làm xong. Chúng ta đã đạt được
mục đích Sa-môn hạnh. Chúng ta không có gì phải làm hơn nữa".
Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa mãn. Này các
Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bo ho các
ông: Khi các Ông hướng đến mục đích Sa-môn hạnh, chớ có từ
bỏ mục đích này, khi đang còn công việc đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là công việc đáng phải
làm hơn nữa? "Khẩu hành chúng ta phải được thanh tịnh, minh
chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu. Nhưng chúng ta không vì
khẩu hành thanh tịnh ấy, khen mình, chê người". Như vậy, này các
Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có
thể khởi lên ý kiến: "Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân
hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, đến mức độ này, như
vậy là vừa đủ; đến mức độ này, như vậy đã làm xong. Chúng
ta đã đạt được mục đích Sa-môn hạnh. Chúng ta không có gì phải
làm hơn nữa". Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự
thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông... (như trên)... khi
đang còn công việc đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là công việc đáng phải
làm hơn nữa? "Ý hành chúng ta phải được thanh tịnh, minh chánh,
cởi mở, không có tỳ vết, che giấu. Nhưng chúng ta không vì ý
hành thanh tịnh ấy, khen mình, chê người". Như vậy, này các
Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có
thể khởi lên ý kiến: "Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân
hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, và ý hành thanh tịnh,
đến mức độ này, như vậy là vừa đủ... (như trên)...". Và
cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa mãn. Này các
Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông... (như trên)... khi đang còn công việc
đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là công việc đáng phải
làm hơn nữa? "Sanh mạng chúng ta phải được thanh tịnh, minh
chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu. Nhưng chúng ta không vì
sanh mạng thanh tịnh ấy, khen mình, chê người". Như vậy, này các
Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có
thể khởi lên ý kiến: "Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân
hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh, sanh
mạng thanh tịnh. Đến mức độ này như vậy là vừa đủ... (như
trên)...". Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa
mãn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông... (như trên)... đang
còn công việc đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng
phải làm hơn nữa? "Chúng ta phải hộ trì các căn. Khi mắt thấy
sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến
tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, chúng ta sẽ tự
chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con
mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm
xúc... ý nhận thức các pháp, không nắm giữ tướng chung, không
nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không
được chế ngự, khiến tham ái, ưu, bi, các ác, bất thiện pháp
khởi lên, chúng ta sẽ tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý
căn, thực hành sự hộ trì ý căn". Như vậy, này các Tỷ-kheo,
các Ông cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi
lên ý kiến: "Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân hành chúng
ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh, sanh mạng thanh
tịnh, và các căn đã được hộ trì, đến mức độ này, như vậy
là vừa đủ... (như trên)...". Và cho đến mức độ ấy, các
Ông có thể tự thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các
Ông... (như trên)... khi đang còn công việc đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng
phải làm hơn nữa? "Chúng ta phải biết tiết độ trong ăn uống,
với chánh tư duy, chúng ta thọ thực, không phải để vui đùa, không
phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự
làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được sống lâu và được
bảo dưỡng, để (thân này) khỏi bị thương hại, để hổ trợ phạm
hạnh, nghĩ rằng: "Như vậy chúng ta diệt trừ các cảm thọ cũ
và không cho khởi lên cảm thọ mới, và chúng ta sẽ không có lỗi
lầm, sống được an ổn". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông
cần phải tu tập. Nhưng này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên
ý kiến: "Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân hành chúng ta
thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh, sanh mạng thanh tịnh
và các căn đã được hộ trì, ăn uống có tiết độ, đến mức
độ này, như vậy là vừa đủ... (như trên)...". Và cho đến
mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, Ta
khuyến cáo các Ông... (như trên)... khi đang còn công việc đáng
phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào l ác công việc đáng phải
làm hơn nữa? "Chúng ta phải chú tâm cảnh giác. Ban ngày đi kinh
hành (hay) trong lúc ngồi, chúng ta phải tẩy sạch tâm tư khỏi các
pháp chướng ngại. Ban đêm canh một đi kinh hành (hay) trong lúc ngồi,
chúng ta phải tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm
canh giữa, chúng ta phải nằm dáng nằm con sư tử, nghiêng bên hông
tay phải, một chân đặt trên chân kia, chánh niệm tỉnh giác, tâm
nghĩ đến lúc thức dậy lại. Ban đêm canh đầu thức dậy, đi kinh
hành (hay) trong lúc ngồi, chúng ta phải tẩy sạch tâm tư khỏi các
pháp chướng ngại". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần
phải tu tập. Nhưng này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ý
kiến: "Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân hành chúng ta thanh
tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh, sanh mạng thanh tịnh, các
căn đã được hộ trì, ăn uống có tiết độ, chú tâm cảnh giác,
đến mức độ này, như vậy là vừa đủ... (như trên)...". Và
cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa mãn. Này các
Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông... (như trên)... khi đang còn công việc
đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng
phải làm hơn nữa? "Chúng ta phải chánh niệm tỉnh giác, khi đi
tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh
giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, bình bát,
thượng y đều tỉnh giác, khi ăn uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác, khi
đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi đứng, nằm, thức,
nói, yên lặng đều tỉnh giác". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các
Ông cần phải tu tập. Nhưng này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi
lên ý kiến: "Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân hành chúng
ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh, sanh mạng thanh
tịnh, các căn đã được hộ trì, ăn uống có tiết độ, chú tâm
cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác, đến mức độ này, như vậy là
vừa đủ... (như trên)...". Và cho đến mức độ ấy, các Ông
có thể tự thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông...
(như trên)... khi đang còn công việc đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng
phải làm hơn nữa? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo lựa một chỗ
thanh vắng, tịch mịch, như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha
ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn
xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng, và an trú chánh niệm trước
mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham
ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với
tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu
tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị
ấy sống thoát ly hôn trầm và thụy miên, với tâm tưởng hướng
về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm
thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử
hối tiếc, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử hối
tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân
vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
Này các Tỷ-kheo, như một người mắc nợ liền làm
các nghề nghiệp. Những nghề này được phát đạt, người ấy
không những trả được nợ cũ, còn có tiền dư để nuôi dưỡng
vợ. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia mắc nợ nên làm các nghề
nghiệp. Những nghề này được phát đạt, ta không những trả
được những nợ cũ, còn có tiền dư để nuôi dưỡng vợ".
Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo,
như một người bị bệnh, đau đớn, trầm trọng, ăn uống không tiêu,
thể lực suy yếu. Sau một thời gian, người ấy khỏi bệnh, ăn uống
tiêu thông, thể lực khôi phục. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia
bị bệnh, đau đớn trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể lực suy
yếu. Nay ta khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông, thể lực khôi phục".
Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo,
như một người bị nhốt trong ngục. Người ấy sau một thời gian
được khỏi tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn.
Người ấy nghĩ: "Ta trước kia bị nhốt trong ngục, nay ta được
khỏi tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn.
"Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các
Tỷ-kheo, như một người nô lệ, không được tự chủ, lệ thuộc
người khác, không được tự do đi lại. Người ấy sau một thời
gian thoát khỏi cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc
người khác, một người thoát khỏi cảnh nô lệ, được tự chủ,
không lệ thuộc người khác, một người giải thoát, được tự do
đi lại.
Người ấy nghĩ: "Ta trước kia bị cảnh nô lệ,
không được tự chủ, lệ thuộc người khác , không được tự do
đi lại. Nay ta thoát khỏi cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ
thuộc người khác, một người giải thoát, được tự do đi
lại". Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các
Tỷ-kheo, như một người giàu có, nhiều tài sản, đang đi qua bãi sa
mạc. Người ấy sau một thời gian đã đi khỏi bãi sa mạc ấy, đến
đầu làng, yên ổn, không có nguy hiểm, tài sản không bị tổn giảm.
Người ấy nghĩ: "Ta trước kia giàu có, nhiều tài sản, đi qua
bãi sa mạc. Nay ta đã đi qua khỏi bãi sa mạc ấy, yên ổn, không có
nguy hiểm, tài sản không bị tổn giảm". Người ấy nhờ vậy
được sung sướng, hoan hỷ. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tự
mình, quán năm triền cái chưa xả ly, như món nợ, như bệnh hoạn,
như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường qua sa mạc. Này các
Tỷ-kheo, cũng như không mắc nợ, không bị bệnh tật được khỏi tù
tội, được tự do, đến được đất lành yên ổn. Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán năm triền cái khi chúng được diệt trừ.
Sau khi đã đoạn trừ năm triền cái này, những
triền cái làm ô nhiễm tâm tư, làm yếu ớt trí tuệ, vị ấy ly
dục, ly ác, bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Vị ấy thấm
nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc
do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không có hỷ lạc
do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, như một người hầu
tắm lão luyện, hay đệ tử người hầu tắm, sau khi rắc bột tắm
trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm
ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt,
thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành
giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt,
làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh,
không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục
sanh ấy thấm nhuần.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ,
chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh,
không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy thấm nhuần, tẩm
ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do định
sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do
định sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một hồ nước,
nước từ trong dâng lên, phương Đông không có lỗ nước chảy ra,
phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ
nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh
thoảng trời mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra,
thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy hồ nước ấy,
với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không
được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị
ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình
với hỷ lạc do định sanh không một chỗ nào trên toàn thân không
được hỷ lạc do định sanh thấm nhuần.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả,
chánh niệm tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi
là "xả niệm lạc trú", chứng và trú Thiền thứ ba. Vị ấy
thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với
lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không
được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví
như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen
hồng hay sen trắng. Những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong
nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu
ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần, tẩm ướt, tràn đầy thấu
suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen
xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm
nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt,
làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ
ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không
có hỷ ấy thấm nhuần.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả lạc xả khổ,
diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư,
không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy thấm nhuần toàn
thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên
toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.
Này các Tỷ-kheo, ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm
đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng
ấy che thấu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy ngồi thấm nhuần
toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào
trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm
nhuần.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu
nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Vị ấy
nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba
đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi
đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn
đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp,
nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, t ó
tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ
khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết
tại chỗ kia, ta được sinh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, t ó tên như
thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc
như thế này, tuổi thọ đến mực như thế này. Sau khi chết tại chỗ
nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều
đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi
tiết. Này các Tỷ-kheo, ví như một người đi từ làng mình đến
làng khác, từ làng ấy đi đến một làng khác nữa, và từ làng
này lại trở về làng của mình, người ấy nghĩ: "Ta từ làng
của mình đi đến làng kia, nơi đây, ta đã đứng như thế này, đã
ngồi như thế này, đã nói như thế này, đã yên lặng như thế
này. Từ nơi làng nọ, ta đã trở về làng của ta". Như vậy,
này các Tỷ-kheo, với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không
cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
bình tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến, Túc mạng minh.
Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai
đời... (như trên)... Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống
quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu
nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử
củ húng sanh. Vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy
sự sống và chết củ húng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh
người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người
may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh
làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh,
theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi
thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục. Còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân,
lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các
nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh lên thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như
vậy, vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống
chết củ húng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt,
kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất
hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này các Tỷ-kheo, ví như có hai
nhà có cửa, và ở đây, một người có mắt đứng ở giữa,
người này có thể thấy các người (khác) đi vào nhà, đi ra, đi
qua, đi lại. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy với Thiên nhãn
thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết củ húng sanh. Vị ấy biết
rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang... đều do hạnh
nghiệp của họ.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu
nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm, đến Lậu tận trí. Vị ấy
biết như thật: "Đây là khổ", biết như thật: "Đây là
Nguyên nhân của Khổ", biết như thật: "Đây là sự Diệt
khổ", biết như thật: "Đây là con đường đưa đến diệt
khổ", biết như thật: "Đây là những lậu hoặc", biết
như thật: "Đây là nguyên nhân củ ác lậu hoặc", biết như
thật: "Đây là sự đoạn trừ các lậu hoặc", biết như
thật: "Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu
hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị
ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh
lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự
hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã
tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong, sau
đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa". Này các
Tỷ-kheo, ví như tại dãy núi lớn có một hồ nước, thuần tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm, một người có mắt, đứng trên bờ
sẽ thấy con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá
bơi qua lại hay đứng một chỗ. Vị ấy nghĩ: "Đây là hồ nước
thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm. Đây là những con hến, con
sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá đang bơi qua lại hay
đứng yên một chỗ". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết
như thật: "Đây là khổ... biết như thật: "Đây là Con
đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc!" Nhờ hiểu biết
như vậy, nhờ nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục
lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự
thân đã giải thoát, vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, phạm hạnh
đã thành, những việc cần phải làm đã làm xong, sau đời hiện
tại không có đời sống nào khác nữa".
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy được gọi là
Sa-môn, là Bà-la-môn, là vị đã tắm sạch sẽ, là vị đã biết và
hiểu rõ, là bậc có học, là bậc Thánh, là bậc A-la-hán. Này các
Tỷ-kheo, như thế nào, Tỷ-kheo là Sa-môn? Vị này đã làm cho dừng
lại các ác, các pháp bất thiện, những pháp này ô nhiễm, đưa
đến tái sanh, đáng sợ hãi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh, già,
chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là Sa-môn. Và
này các Tỷ-kheo, như thế nào Tỷ-kheo là Bà-la-môn? Vị này đã
tẩn xuất ra ngoài các ác, các pháp bất thiện, những pháp này ô
nhiễm, đưa đến tái sanh, đáng sợ hãi, đem lại khổ quả, đưa
đến sanh già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
là Bà-la-môn. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào Tỷ-kheo đã tắm
sạch sẽ? Vị này đã tắm gội sạch sẽ các ác, các pháp bất
thiện... đưa đến sanh, già, chết trong tương lai. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã tắm sạch sẽ. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào
là Tỷ-kheo đã biết và hiểu rõ? Vị này đã biết và hiểu rõ
các ác, các pháp bất thiện... đưa đến sanh, già, chết trong tương
lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã biết rõ. Và này các
Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo có học? Vị này đã tiêu diệt các
ác, các pháp bất thiện...đưa đến sanh, già, chết trong tương lai.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có học. Và này các Tỷ-kheo, như
thế nào là Tỷ-kheo được gọi là bậc Thánh? Vị này đã làm cho
xa lì ác ác pháp bất thiện... đưa đến sanh, già, chết trong tương
lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được gọi là bậc Thánh. Và
này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo được gọi là bậc
A-la-hán? Vị này đã làm cho xa lì ác ác, các pháp bất thiện...
đưa đến sanh, già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo là bậc A-la-hán.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan
hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- 40. TIỂU KINH
XÓM NGỰA [^]
- (Culaassapurasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Anga (Ương
già), tại một xã ấp của dân chúng Anga, tên là Assapura. Lúc bấy
giờ Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
Này các Tỷ-kheo.
Bạch Thế Tôn.
Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói
như sau:
Sa-môn! Sa-môn! Này các Tỷ-kheo, dân chúng biết
các Ông là vậy. Và nếu các Ông có được hỏi: "Các Ông
là ai!" Các Ông phải tự nhận: "Chúng tôi là Sa-môn".
Này các Tỷ-kheo, các Ông đã được danh xưng như vậy, đã tự
nhận là như vậy, thì này, các Tỷ-kheo, các Ông phải tự tu tập
như sau: "Những pháp môn xứng đáng bậc Sa-môn, chúng ta sẽ tu
tập pháp môn ấy. Như vậy danh xưng này củ húng ta mới chân chính
và sự tự nhận này củ húng ta mới như thật. Và những thứ
cúng dường mà chúng ta thọ hưởng như y phục, đồ ăn khất thực,
sàng tọa, dược phẩm trị bệnh mới có được kết quả lớn, lợi
ích lớn cho chúng ta. Và chúng ta xuất gia không thành vô dụng, có
kết quả, có thành tích".
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không thực
hành các pháp môn xứng đáng bậc Sa-môn? Này các Tỷ-kheo, đối
với Tỷ-kheo có tâm tham dục và lòng tham dục không được đoạn
diệt, có tâm sân hận và lòng sân hận không được đoạn diệt,
có tâm phẫn nộ và lòng phẫn nộ không được đoạn diệt, có
tâm thù hận và lòng thù hận không được đoạn diệt, có tâm
giả dối và lòng giả dối không được đoạn diệt, có tâm não
hại và lòng não hại không được đoạn diệt, có tâm tật đố
và lòng tật đố không được đoạn diệt, có tâm xan lẫn và lòng
xan lẫn không được đoạn diệt, có tâm man trá và lòng man trá
không được đoạn diệt, có tâm xảo trá và lòng xảo trá không
được đoạn diệt, có tâm ái dục và lòng ái dục không được
đoạn diệt, có tà kiến và tà kiến không được đoạn diệt. Này
các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, nếu vị ấy không thực hành các pháp môn
xứng đáng bậc Sa-môn, thì không thể đoạn diệt được những cấu
ue ho Sa-môn, những tỳ vết cho Sa-môn, những lỗi lầm cho Sa-môn, sự
đọa sanh vào đọa xứ, sự thọ lãnh các ác thú. Này các
Tỷ-kheo, ví như một loại võ khí nguy hiểm tên mataj ó hai lưỡi rất
sắc bén, có thể được bao lại và bỏ vào trong một cái bao. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói sự xuất gi ủa Tỷ-kheo ấy là như
vậy.
Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của
một vị mang đại y (Sanghati) chỉ tùy thuộc vào mang đại y. Này các
Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của một vị lõa thể chỉ tùy
thuộc vào lõa thể. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh
của một vị sống thoa bụi và đất chỉ tùy thuộc vào hạnh thoa bụi
và đất. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của một
vị sống theo lễ nghi tắm rử hỉ tùy thuộc vào lễ nghi tắm rửa.
Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của một vị sống
dưới gốc cây chỉ tùy thuộc vào hạnh sống dưới gốc cây. Này
các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của một vị sống ngoài
trời chỉ tùy thuộc vào hạnh sống ngoài trời. Này các Tỷ-kheo, Ta
không nói rằng Sa-môn hạnh của người theo hạnh đứng thẳng chỉ
tùy thuộc vào hạnh đứng thẳng. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói
rằng Sa-môn hạnh của một vị ăn uống có định kỳ chỉ tùy thuộc
vào hạnh ăn uống có định kỳ. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng
Sa-môn hạnh của người sống theo chú thuật chỉ tùy thuộc vào hạnh
sống theo chú thuật. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh
của vị bện tóc chỉ tùy thuộc vào hạnh bện tóc.
Này các Tỷ-kheo, nếu lòng tham dục của người có
tâm tham dục được đoạn diệt chỉ nhờ vào hạnh mang đại y của
người mang đại y, nếu lòng sân của người có tâm sân được
đoạn diệt, nếu lòng phẫn nộ của người có tâm phẫn nộ được
đoạn diệt, nếu lòng hiềm hận của người có tâm hiềm hận
được đoạn diệt, nếu lòng giả dối của người có tâm giả dối
được đoạn diệt, nếu lòng não hại của người có tâm não hại
được đoạn diệt, nếu lòng tật đo ủa người có tâm tật đố
được đoan diệt, nếu lòng xan lẩn của người có tâm xan lẩn
được đoạn diệt, nếu lòng man trá của người có tâm man trá
được đoạn diệt, nếu lòng xảo trá của người có tâm xảo trá
được đoạn diệt, nếu lòng ái dục của người có tâm ái dục
được đoạn diệt, nếu tà kiến của người có tà kiến được
đoạn diệt, (chỉ nhờ hạnh mang đại y của người mang đại y), thì
những thân hữu quyến thuộc, bà con cùng một huyết thống có thể
khiến người đó mang đại y ngay khi người đó mới sanh, và khuyên
người đó mặc đại y như sau: "Này hiền nhi, hãy mang đại y,
nếu mang đại y thì lòng tham dục của người có tâm tham dục, sẽ
được đoạn diệt, lòng sân của người có tâm sân sẽ được
đoạn diệt, lòng giả dối của người có tâm giả dối sẽ được
đoạn diệt, lòng não hại của người có tâm não hại sẽ được
đoạn diệt, lòng tật đo ủa người có tâm tật đố sẽ được
đoạn diệt, lòng xan lẫn của người có tâm xan lẫn sẽ được
đoạn diệt, lòng man trá của người có tâm man trá sẽ được
đoạn diệt, lòng xảo trá của người có tâm xảo trá sẽ được
đoạn diệt, lòng ái dục của người có tâm ái dục sẽ được
đoạn diệt, tà kiến của người có tà kiến sẽ được đoạn diệt
chỉ nhờ mang đại y. "Này các Tỷ-kheo, bởi vì Ta thấy có
người mang đại y nhưng vẫn có tâm tham dục, có tâm sân hận, có
tâm phẫn nộ, có tâm giả dối, có tâm não hại, có tâm tật đố,
có tâm xan lẩn, có tâm man trá, có tâm xảo trá, có tâm ái dục,
có tâm tà kiến, nên Ta không nói rằng, Sa-môn hạnh của người
có tham dục chỉ tùy thuộc vào hạnh mang đại y của vị ấy. Này các
Tỷ-kheo, nếu lòng tham dục của người có tâm tham dục được đoạn
diệt chỉ nhờ hạnh lõa thể của người lõa thể... chỉ nhờ hạnh
thoa bụi và đất của người sống theo hạnh thoa bụi và đất... chỉ
nhờ hạnh lễ nghi tắm rử ủa người sống theo hạnh lễ nghi tắm
rửa... chỉ nhờ hạnh sống dưới gốc cây của người sống dưới
gốc cây... chỉ nhờ hạnh sống ngoài trời của người sống ngoài
trời... chỉ nhờ hạnh sống đứng thẳng của người sống đứng
thẳng... chỉ nhờ hạnh ăn uống có định kỳ của người sống ăn
uống có định kỳ... chỉ nhờ hạnh sống theo chú thuật của người
sống theo chú thuật... Này các Tỷ-kheo,, nếu lòng tham dục của
người có tâm tham dục đoạn diệt chỉ nhờ hạnh bện tóc của
người sống theo hạnh bện tóc; nếu lòng sân hận của người có
tâm sân hận... (như trên)..., nếu tà kiến của người có tà kiến
được đoạn diệt (chỉ nhờ hạnh của người sống theo hạnh bện
tóc), thì những thân hữu quyến thuộc, bà con cùng một huyết thống
có thể khiến người đó bện tóc; ngay khi người đó mới sinh, và
khuyên người đó bện tóc như sau: "Này hiền nhi, hãy bện tóc;
nếu bện tóc thì lòng dục của người có tâm tham dục sẽ được
đoạn diệt, lòng sân hận của người có tâm sân hận... nếu tà
kiến của người có tà kiến sẽ được đoạn diệt, chỉ nhớ sống
theo hạnh bện tóc"". Này các Tỷ-kheo, bởi vì Ta thấy có
người theo hạnh bện tóc nhưng vẫn có tâm tham dục, có tâm sân
hận, có tâm phẫn nộ, có tâm giả dối, có tâm não hại, có tâm
tật đố, có tâm xan lẩn, có tâm man trá, có tâm xảo trá, có
tâm ái dục, có tà kiến, nên Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của
người theo hạnh bện tóc chỉ tùy thuộc vào hạnh bện tóc của vị
ấy.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo thực hành các
pháp môn xứng đáng bậc Sa-môn? Này các Tỷ-kheo, đối với
Tỷ-kheo có tâm tham dục và lòng tham dục được đoạn diệt, có
tâm sân và lòng sân hận được đoạn diệt, có tâm phẫn nộ và
lòng phẫn nộ được đoạn diệt, có tâm hiềm hận và lòng hiềm
hận được đoạn diệt, có tâm giả dối và lòng giả dối được
đoạn diệt, có tâm não hại và lòng não hại được đoạn diệt,
có tâm tật đố và lòng tật đố được đoạn diệt, có tâm xan
lẩn và lòng xan lẩn được đoạn diệt, có tâm man trá và lòng man
trá được đoạn diệt, có tâm xảo trá và lòng xảo trá được
đoạn diệt, có tâm ái dục và lòng ái dục được đoạn diệt,
có tà kiến và tà kiến được đoạn diệt... Này các Tỷ-kheo, Ta
nói rằng, nếu vị ấy thực hành các pháp môn xứng đáng bậc
Sa-môn, thì có thể đoạn diệt được những cấu ue ho Sa-môn, những
tỳ vết cho Sa-môn, những lỗi lầm cho Sa-môn, đọa sanh vào đọa
xứ, sự thọ lãnh các ác thú. Vị ấy thấy tự ngã được gột
sạch tất cả những ác, bất thiện pháp và vị ấy thấy tự ngã
được giải thoát. Do thấy tự ngã được gột sạch tất cả những
ác, bất thiện pháp ấy, do thấy tự ngã được giải thoát nên
hân hoan sanh; do tâm hân hoan nên hỷ sanh; do hỷ nên thân được khinh
an; do thân khinh an nên lạc thọ sanh; do lạc thọ nên tâm được định
tĩnh. Vị ấy an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với
từ, cũng vậy, phương thứ hai, cũng vậy, phương thứ ba, cũng vậy,
phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang,
hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến
mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận
không sân. Với tâm câu hữu với bi... (như trên)... với tâm câu
hữu với hỷ... an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu
với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng
vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề
ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú
biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không
hận, không sân. Này các Tỷ-kheo, ví như một hồ sen có nước trong,
có nước ngọt, có nước mát, có nước trong sáng, có bờ hồ
khéo sắp đặt, đẹp đẽ. Nếu có người từ phương Đông đi đến,
bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ,
đắng họng, khát nước. Người ấy đi đến hồ sen ấy giải trừ
khát nước và giải trừ nóng bức. Nếu có người từ phương
Tây đi đến... nếu có người từ phương Bắc đi đến, nếu có
người từ phương Nam đi đến, nếu có người từ bất cứ ở
đâu đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt
mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước, người ấy đi đến hồ sen
ấy, giải trừ khát nước, giải trừ nóng bức. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, nếu có người từ gia đình Sát đế lỵ xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy đi đến pháp luật do Như lai
thuyết dạy, sau khi tu tập từ, bi, hỷ, xả, nội tâm được định
tĩnh... Ta nói rằng chính nhờ nội tâm định tĩnh, vị ấy thực hành
các pháp môn xứng đáng bậc Sa-môn. Nếu vị ấy từ gia đình
Bà-la-môn... từ gia đình Phệ xá (Vessa)... từ gia đình Thủ đà
(Sudda), xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy đi đến
pháp luật do Như Lai thuyết dạy, sau khi tu tập từ, bi, hỷ, xả, nội
tâm được định tĩnh... Ta nói rằng chính nhờ nội tâm định tĩnh,
vị ấy thực hành các pháp môn xứng đáng bậc Sa-môn. Nếu từ gia
đình Sát đế ly, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, sau
khi đi đến pháp luật do Như Lai thuyết dạy, nhờ đoạn trừ các lậu
hoặc, vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình chứng tri, chứng ngộ và
thành đạt vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Vị ấy thành
Sa-môn nhờ đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu từ gia đình Bà-la-môn...
từ gia đình Phệ xá... từ gia đình Thủ đà, xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình, sau khi đi đến pháp luật do Như Lai thuyết
dạy, nhờ đoạn trừ các lậu hoặc, vị ấy ngay trong hiện tại, tự
mình chứng tri, chứng ngộ và thành đạt vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát, vị ấy thành Sa-môn nhờ đoạn diệt các lậu hoặc.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan
hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- (Saleyyakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn đang du hành trong nước Kosala (Kiều
tất la) cùng với Đại chúng Tỷ-kheo đi đến một làng Bà-la-môn
của dân chúng Kosala tên là Sa la. Các gi hủ Bà-la-môn ở Sa la nghe
rằng: "Người ta nói Sa-môn Gotama, là Thích Tử, xuất gia từ gia
tộc Sakya, đang du hành trong nước Kosala với Đại chúng Tỷ-kheo, và
đã đến Sa-la. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về
Tôn giả Gotama: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự
thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới,
Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài
Trời và Người. Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết điều
Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện, đầy đủ văn nghĩa. Ngài truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn
đầy đủ trong sạch. Lành thay nếu được yết kiến một A-la-hán như
vậy!" Rồi các gi hủ Bà-la-môn ở Sa-la đi đến chỗ Thế Tôn
ở, sau khi đến, một số đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên; một số nói lên những lời chào đón, thân hữu xã giao
với Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một so hấp tay vái Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên tên họ của mình trước
mặt Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số giữ im lặng rồi
ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các gi hủ
Bà-la-môn ở Sa-la bạch Thế Tôn:
Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây,
một số hữu tình sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ,
ác thú, đọa xứ, địa ngục? Này Tôn giả Gotama, do nhân gì, do
duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng
chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, đời này?
Này các Gi hủ, do nhân hành phi pháp, hành phi
pháp chánh đạo, này các Gi hủ, mà như vậy, ở đây có một số
loài hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ,
ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do nhân hành đúng pháp, hành đúng
chánh đạo, này các gi hủ, mà như vậy, ở đây có một số loài
hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sanh thiện thú, Thiên
giới, đời này.
Chúng con không thể hiểu đầy đủ những gì Tôn
giả Gotama thuyết một cách vắn tắt nếu không được giải thích
rộng rãi. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho chúng con để
chúng con có thể hiểu đầy đủ những gì Tôn giả Gotama thuyết một
cách vắn tắt!
Như vậy, này các Gi hủ, hãy nghe và khéo tác
ý, Ta sẽ giảng.
Thưa vâng, Tôn giả.
Các vị gi hủ Bà-la-môn, ở Sa-la vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
Này các gi hủ, có ba loại thân hành phi pháp,
phi chánh đạo, có bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo, có
ba loại ý hành phi pháp, phi chánh đạo. Này các gi hủ, thế nào là
ba loại thân hành phi pháp, phi chánh đạo? Ở đây, này các Gi hủ,
có người sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả
thương, tâm không từ bi đối với các loài hữu tình. Người này
lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác hoặc tại
thôn làng hoặc tại rừng núi không cho người ấy, người ấy lấy
trộm tài vật ấy. Người ấy sống tà hạnh đối với các dục
lạc, giao cấu với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có ch he
chở, có mẹ ch he chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con
che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến
những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa. Như vậy, này các Gi
hủ, là ba loại thân hành phi pháp, phi chánh đạo. Này các Gi hủ,
thế nào là bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo? Ở đây,
này các Gi hủ, có người vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến
chỗ chúng hội, hay đến giữ ác thân tộc, hay đến giữ ác tổ
hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra làm chứng và
được hỏi: "Này người kia, hãy nói những gì Ông biết";
dầu cho người ấy không biết, người ấy nói: "Tôi biết";
dầu cho người ấy biết, người ấy nói: "Tôi không biết";
hay dầu cho người ấy không thấy, người ấy nói: "Tôi
thấy"; hay dầu cho người ấy thấy, người ấy nói: "Tôi
không thấy". Như vậy, lời nói của người ấy trở thành cố
ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ, hoặc vì nguyên nhân tha
nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì. Và người ấy
là người nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, đến chỗ kia,
nói dễ sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia,
đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người
kia. Như vậy, người ấy ly gián những kẻ hòa hợp hay xúi dục
những kẻ ly gián, ưa thích phá hoại, vui thích phá hoại, thích thú
phá hoại, nói những lời đưa đến phá hoại. Và người ấy là
người nói lời thô ác. Bất cứ lời gì thô ác, tàn ác, khiến
người đau khổ, khiến người tức giận, liên hệ đến phẫn nộ,
không đưa đến Thiền định, người ấy nói những lời như vậy. Và
người ấy nói những lời phù phiếm, nói phi thời, nói những
lời phi chơn, nói những lời không lợi ích, nói những lời phi
pháp, nói những lời phi luật, nói những lời không đáng gìn
giữ. Vì nói phi thời, nên lời nói không có thuận lý, không có
mạch lạc, hệ thống, không có lợi ích. Như vậy, này các Gi hủ,
có bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo. Và này các Gi hủ,
thế nào là ba loại ý hành phi pháp, phi chánh đạo? Ở đây, này
các Gi hủ, có người có tham ái, tham lam tài vật kẻ khác, nghĩ
rằng: "Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành
của mình!" Lại có người có tâm sân, khởi lên hại ý, hại
niệm như sau: "Mong rằng những loài hữu tình này bị giết, hay bị
tàn sát, hay bị tiêu diệt, hay bị tàn hại, hay mong chúng không còn
tồn tại!" Lại có người có tà kiến, có tưởng điên đảo
như: "Không có bố thí, không có kết quả của bố thí, không có
tế lễ, không có cúng dường, các hành vi thiện ác, không có kết
quả dị thục, không có đời này, không có đời sau, không có mẹ,
không có cha, không có các loại hóa sanh, trong đời không có các
Sa-môn, Bà-la-môn chân chính hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi
tự tri, tự chứng lại tuyên bo ho đời này và cho đời sau".
Như vậy, này các Gi hủ, là ba ý hành phi pháp, phi chánh đạo. Như
vậy do nhân hành phi pháp, hành phi chánh đạo, này các Gi hủ, ở
đây, một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh
vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Này các Gi hủ, có ba loại thân hành đúng pháp,
đúng chánh đạo, có bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chánh
đạo, có ba loại ý hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Này các Gi
hủ, thế nào là ba loại thân hành đúng pháp, đúng thánh đạo?
Ở đây, này các Gi hủ, có người từ bỏ sát sanh, tránh xa sát
sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương
xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loại hữu tình; từ bỏ
lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, bất cứ tài vật gì
của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi không cho
người ấy, người ấy không lấy trộm tài vật ấy; từ bỏ sống
theo tà hạnh đối với các dục, không giao cấu với các hạng nữ
nhân có mẹ che chở, có ch he chở, có mẹ ch he chở, có anh che
chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, được
hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang
sức bằng vòng hoa. Như vậy, này các Gi hủ, là ba loại thân hành
đúng pháp, đúng chánh đạo. Và này các Gi hủ, thế nào là bốn
loại khẩu hành đúng pháp, đúng chánh đạo? Ở đây, này các Gi
hủ, có người từ bỏ vọng ngữ, tránh xa vọng ngữ, đến chỗ
tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giũ ác thân tộc, hay
đến giữ ác tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra
làm chứng và được hỏi: "Này người kia, hãy nói những gì
Ông biết", nếu biết người ấy nói "Tôi biết"; nếu
không biết, người ấy nói: "Tôi không biết"; hay nếu không
thấy, người ấy nói: "Tôi không thấy"; nếu thấy, người
ấy nói: "Tôi thấy". Như vậy, lời nói của người ấy
không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ,
hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền
lợi gì. Từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì
ở chỗ này, không đi đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những
người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói với những
người này để sanh chia rẽ ở những người kia; như vậy, người
ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa
hợp, ưa thích hòa hợp, vui thích hòa hợp, thích thú hòa hợp, nói
những lời đưa đến hòa hợp. Từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa
lời nói độc ác, những lời nói nhu hòa, đẹp tai, dễ thương,
thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều
người, người ấy nói những lời như vậy. Từ bỏ lời nói phù
phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, người ấy
nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những
lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời
đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý,
có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi. Như vậy, này các Gi hủ, có
bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Và này các Gi
hủ, thế nào là ba loại ý hành đúng pháp, đúng chánh đạo? Ở
đây, này các Gi hủ, có người không có tham ái, không tham lam tài
vật của kẻ khác, nghĩ rằng: "Ôi, mong rằng mọi tài vật của
người khác trở thành của mình!" Lại có người không có tâm
sân, không có khởi lên hại ý, hại niệm, nhưng nghĩ rằng: "Mong
rằng những loài hữu tình này sống không thù hận, không oán thù,
không nhiễu loạn, được an lạc, lo nghĩ tự thân!" Người ấy
có chánh kiến, không có tưởng điên đảo: "Có bố thí, có
kết quả của bố thí, có tế lễ, có cúng dường, các hành vi
thiện ác có kết quả dị thục, có đời này, có đời sau, có mẹ,
có cha, có các loại hóa sanh, trong đời, có các Sa-môn, Bà-la-môn
chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự tri, tự
chứng lại tuyên bo ho đời này và đời sau". Như vậy, này các
Gi hủ, có ba loại ý hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Như vậy, do
nhân hành đúng pháp, hành đúng chánh đạo, này các Gi hủ, ở
đây, một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sanh
vào thiện thú, Thiên giới, đời này.
Này các Gi hủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng
chánh đạo, mong ước: "Ôi, mong rằng sau khi thân hoại mạng chung,
tôi được sanh vào đại phú gia, vương tộc Sát-đế-lỵ!" Sự
kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào
đại phú gia, vương tộc Sát-đế-lỵ. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị
hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Này các Gi hủ, nếu một vị hành
đúng pháp, đúng chánh đạo, mong ước: "Ôi, mong rằng sau khi
thân hoại mạng chung, tôi được sanh vào đại phú gia Bà-la-môn...
đại phú gia gi hủ!" Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân
hoại mạng chung, được sanh vào đại phú gia gi hủ. Vì sao vậy? Vì vị
ấy là vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Này các Gi hủ, nếu
một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo mong ước: "Ôi, mong
rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sanh thân hữu với chư
thiên Tứ thiên vương... với chư thiên cõi trời Ba mươi ba... với
chư thiên Dạ ma với chư thiên Đâu-suất-đà... với chư thiên Hóa
lạc... với chư thiên Tha hóa tự tại... với chư thiên Phạm
chúng... với chư thiên Quang thiên... với chư thiên Thiểu Quang
thiên... với chư thiên Vô lượng quang thiên... với chư thiên Quang
âm thiên... với chư thiên Tịnh thiên... với chư thiên Thiểu tịnh
thiên... với chư thiên Vô lượng tịnh thiên... với chư thiên Biến
tịnh thiên... với chư thiên Quảng quả thiên... với chư thiên Vô
phiền thiên... với chư thiên Vô nhiệt thiên... với chư thiên Thiện
hiện thiên... với chư thiên Thiện kiến thiên... với chư thiên Sắc
cứu kính thiên... với chư thiên Hư không vô biên xứ thiên...
với chư thiên Thức Vô biên xứ thiên... với chư thiên Vô sở
hữu xứ thiên... với chư thiên Phi tưởng Phi phi tưởng xứ
thiên"! Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung
được sanh thân hữu với chư thiên Phi tưởng Phi phi tưởng xứ
thiên. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng chánh
đạo.
Khi nghe nói vậy, các gi hủ Bà-la-môn ở Sa-la bạch
Thế Tôn:
Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vị diệu
thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng
ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc
hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có
thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng
nhiều phương tiện để trình bày. Và nay chúng con xin quy y Tôn giả
Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng, mong Tôn giả Gotama nhận
chúng con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, chúng con
trọn đời quy ngưỡng!
- (Veranjakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana
(Kỳ-đà Lâm), tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Lúc bấy giờ
các gi hủ Bà-la-môn Veranjaka đến trú tại Savatthi vì một vài công
việc. Các gi hủ Bà-la-môn được nghe: "Sa-môn Gotama là Thích
tử, xuất gia từ giòng họ Sakya (Thích-ca), nay ở Savatthi, tại Jetavana,
tịnh xá ông Anathapindika. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền
đi về Tôn giả Gotama: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh
Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng
trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Ma giới,
Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài
Trời và loài Người. Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết
điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện,
hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa. Ngài truyền dạy phạm hạnh hoàn
toàn đầy đủ trong sạch. Lành thay, nếu được yết kiến một vị
A-la-hán như vậy!" Rồi các gi hủ Bà-la-môn ở Veranja đi đến
chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, một số đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên; một số nói lên những lời thân hữu chào đón
xã giao với Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một so hấp tay vái
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên tên họ của
mình trước mặt Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số giữ im
lặng rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các gi hủ
Bà-la-môn ở Veranja bạch Thế Tôn:
Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây,
một số loài hữu tình sau khi than hoại mạng chung phải sanh vào cõi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục? Này Tôn giả Gotama, do nhân gì, do
duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình, sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh vào thiện thú, Thiên giới đời này?
Này các Gi hủ, do nhân hành phi pháp, hành phi
chánh đạo, này các Gi hủ, mà như vậy ở đây, có một số loài
hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cói dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục. Do nhân hành đúng pháp, hành đúng chánh
đạo, này các Gi hủ, mà như vậy ở đây, có một số loài hữu
tình sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú, Thiên
giới, đời này.
Chúng con không thể hiểu một cách đầy đủ
những gì Tôn giả Gotama thuyết giảng một cách vắn tắt nếu không
được giải thích rộng rãi. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết
pháp cho chúng con, để chúng con có thể hiểu một cách đầy đủ
những gì Tôn giả Gotama thuyết giảng một cách vắn tắt!
Như vậy, này các Gi hủ, hãy nghe và suy nghiệm
kỹ, Ta sẽ giảng.
Thưa vâng, Tôn giả.
Các vị Gi hủ Bà-la-môn ở Veranja vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
Này các Gi hủ, có ba loại thân hành phi pháp,
hành phi chánh đạo, có bốn loại khẩu hành phi pháp, hành phi chánh
đạo (như Kinh trước chỉ thế "Các gi hủ Bà-la-môn ở Sa l a"
bằng "các Gi hủ Bà-la-môn ở Veranja"... cho đến hết Kinh).
- 43. ĐẠI KINH
PHƯƠNG QUẢNG [^]
- (Mahavedallasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, tịnh xá
ông Anathapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahakotthita (Đại Câu-hy-la),
vào buổi chiều, khi thiền định xong, đứng dậy, đi đến chỗ Tôn
giả Sariputta ở, sau khi đến nói lên với Tôn giả Sariputta những
lời chào đón, hỏi thăm xã giao rồi ngồi xuống một bên. Sau khi
ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahakotthita nói với Tôn giả Sariputta:
Này Hiền giả, liệt tuệ, liệt tuệ (Suppanna)
được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là
liệt tuệ?
Này Hiền giả, vì không tuệ tri, không tuệ tri
(Nappajanati), này Hiền giả nên được gọi là liệt tuệ. Không tuệ
tri gì? Không tuệ tri: đây là Khổ, không tuệ tri: đây là Khổ tập,
không tuệ tri: đây là Khổ diệt, không tuệ tri: đây là con đường
đưa đến Khổ diệt. Vì không tuệ tri, không tuệ tri, này Hiền giả,
nên được gọi là liệt tuệ.
Lành thay, Hiền giả!
Tôn giả Mahakotthita hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả
Sariputta nói, rồi hỏi Tôn giả Sariputta một câu hỏi nữa:
Này Hiền giả, trí tuệ, trí tuệ được gọi là
như vậy. Này Hiền giả, như thế nào là được gọi là trí tuệ?
Vì có tuệ tri, có tuệ tri, này Hiền giả, nên
được gọi là trí tuệ. Có tuệ trí gì? Có tuệ tri: đây là Khổ,
có tuệ tri: đây là Khổ tập, có tuệ tri: đây là Khổ diệt, có
tuệ tri: đây là Con đường đưa đến Khổ diệt. Vì có tuệ tri, có
tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là trí tuệ.
Thức, thức, này Hiền giả, được gọi là như
vậy, Này Hiền giả, như thế nào được gọi là thức?
Này Hiền giả, vì thức tri, thức tri, này Hiền
giả nên được gọi là có thức. Thức tri gì? Thức tri lạc, thức
tri khổ, thức tri bất khổ bất lạc. Vì thức tri, thức tri, này Hiền
giả, nên được gọi là có thức.
Nầy Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy,
những pháp này được kết hợp hay không được kết hợp? Có
thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân
tích chúng nhiều lần?
Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy,
những pháp này được kết hợp, không phải không kết hợp. Không
có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân
tích chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì tuệ tri được là
thức tri được, điều gì thức tri được là tuệ tri được. Do
vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không kết hợp,
và không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau
khi phân tích chúng nhiều lần.
Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy,
thế nào là sự sai khác giữa những pháp được kết hợp, không
phải không kết hợp này?
Này Hiền giả, Trí tuệ như vậy, thức như vậy,
giữa những pháp được kết hợp, không phải không được kết
hợp này, trí tuệ cần phải được tu tập (Bhavetabba), còn thức cần
phải được liễu tri (Parinneyyam) như vậy là sự sai khác giữa
những pháp này.
Cảm thọ, cảm thọ, này Hiền giả, được gọi
là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là cảm thọ?
Này Hiền giả, cảm thọ, cảm thọ (Vedeti), nên
được gọi là cảm thọ. Và cảm thọ gì? Cảm thọ lạc, cảm thọ
khổ, cảm thọ bất khổ bất lạc thọ. Này Hiền giả, cảm thọ, cảm
thọ, nên được gọi là cảm thọ.
Này Hiền giả, tưởng, tưởng (Sanna) được gọi
là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là tưởng?
Tưởng tri, tưởng tri (Sanjanati), này Hiền giả,
nên được gọi là tưởng, Và tưởng tri gì? Tưởng tri màu xanh,
tưởng tri màu vàng, tưởng tri màu đỏ, tưởng tri màu trắng.
Tưởng tri, tưởng tri, này Hiền giả, nên được gọi là tưởng.
Này Hiền giả, thọ như vậy, tưởng như vậy,
những pháp này được kết hợp hay không được kết hợp? Có
thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân
tích chúng nhiều lần?
Này Hiền giả, cảm thọ như vậy, tưởng như
vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không được
kết hợp. Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp
này, sau khi phân tích chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì cảm
thọ được là tưởng tri được, điều gì tưởng tri được là
cảm thọ được. Do vậy, những pháp này được kết hợp, không
phải không được kết hợp, và không có thể nêu lên sự sai
khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần.
Này Hiền giả, ý thức thanh tịnh, không liên hệ
đến năm căn có thể đưa đến gì?
Này Hiền giả, ý thức thanh tịnh, không liên hệ
đến năm căn, có thể đưa đến Hư không vô biên xứ; hư không
là vô biên, có thể đưa đến Thức vô biên xứ; thức là vô
biên, có thể đưa đến Vô sở hữu xứ, không có sự vật gì.
Này Hiền giả, pháp gì đưa đến nhờ gì có
thể tuệ tri được?
Này Hiền giả, nhờ tuệ nhãn, pháp được đưa
đến có thể tuệ tri.
Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa gì?
Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa là thắng tri
(Abhinnattha), có nghĩa là liễu tri (Parinnattha), có nghĩa là đoạn tận
(Pahanattha).
Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên khiến chánh tri
kiến sanh khởi?
Này Hiền giả, có hai duyên khiến chánh tri kiến
sanh khởi: Tiếng của người khác và như lý tác ý. Này Hiền giả,
do hai duyên này, chánh tri kiến sanh khởi.
Này Hiền giả, chánh tri kiến phải được hỗ
trợ bởi bao nhiêu chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải
thoát quả công đức, và tuệ giải thoát quả, tuệ giải thoát quả
công đức?
Này Hiền giả, chánh tri kiến phải được hỗ
trợ bởi năm chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát
quả công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát quả công
đức. Ở đây, này Hiền giả, chánh tri kiến có giới hỗ trợ,
có văn (Suta) hỗ trợ, có thảo luận hỗ trợ, có chỉ (Samatha) hỗ
trợ, có quán (Samadhi) hỗ trợ. Này Hiền giả, chánh tri kiến
được hỗ trợ bởi năm chi phần này để có tâm giải thoát quả,
tâm giải thoát quả công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải
thoát quả công đức.
Này Hiền giả, có bao nhiêu hữu (Bhava)?
Này Hiền giả có ba hữu: dục hữu, sắc hữu,
vô sắc hữu.
Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh trong
tương lai được xảy ra?
Này Hiền giả, bị vô minh ngăn che, bị tham ái
trói buộc, các loài hữu tình thích thú chỗ này chỗ kia, như vậy,
sự tái sinh trong tương lai được xảy ra.
Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh trong
tương lai không xảy ra?
Này Hiền giả, vô minh được xả ly, minh khởi,
tham ái được đoạn diệt, như vậy sự tái sanh trong tương lai không
xảy ra.
Này Hiền giả, thế nào là Thiền thứ nhất?
Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo ly dục, ly ác
bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ
lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Như vậy, này Hiền giả, gọi là
Thiền thứ nhất.
Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có bao nhiêu chi
phần?
Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có năm chi phần.
Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ nhất, có
tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Này Hiền giả, Thiền thứ nhất
có năm chi phần như vậy.
Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ bao nhiêu
chi phần và thành tựu bao nhiêu chi phần?
Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ năm chi
phần và thành tựu năm chi phần. Ở đây, này Hiền giả, vị
Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ nhất từ bỏ tham dục, từ bỏ sân,
từ bỏ hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo hối, từ bỏ nghi, thành
tựu tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Này Hiền giả, như vậy Thiền
thứ nhất từ bỏ năm chi phần, và thành tựu năm chi phần.
Này Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới
khác nhau, có hành giới khác nhau, không có lẫn lộn cảnh giới,
hành giới với nhau. Tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền
giả, giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai
khác, không có thọ lãnh cảnh giới, hành giới lẫn nhau, cái gì
làm sở y cho chúng, cái gì lãnh thọ cảnh giới, hành giới củ
húng?
Nầy Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới sai
khác, có hành giới sai khác, không có lãnh thọ cảnh giới, hành
giới lẫn nhau, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả,
giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác,
không có lẫn lộn cảnh giới, hành giới với nhau, ý làm sở y cho
chúng, và ý lãnh thọ cảnh giới và hành giới củ húng.
Này Hiền giả, năm căn này là mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân. Này Hiền giả, năm căn này, do duyên gì mà chúng an
trú?
Này Hiền giả, năm căn này là mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân. Này Hiền giả, năm căn này, do duyên tuổi thọ (Ayu)
mà chúng an trú.
Này Hiền giả, tuổi thọ do duyên gì mà an trú?
Tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú.
Này Hiền giả, hơi nóng do duyên gì mà an trú?
Hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú.
Này Hiền giả, nay chúng tôi được biết từ
lời nói của Tôn giả Sariputta-là tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an
trú. Nay chúng tôi lại được biết từ lời nói của Tôn giả
Sariputta-là hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú. Này Hiền giả, như
thế nào, cần phải hiểu ý nghĩa lời nói này?
Này Hiền giả, tôi sẽ cho một ví dụ. Nhờ ví
dụ, ở đây, một số người có trí sẽ hiểu ý nghĩa lời nói.
Này Hiền giả, ví như khi một cây đèn dầu được thắp sáng, duyên
tim đèn, ánh sáng được hiện ra, do duyên ánh sáng, tim đèn
được thấy. Cũng vậy này Hiền giả, tuổi thọ do duyên hơi nóng
mà an trú, và hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú.
Này Hiền giả, những pháp thọ hành (Ayusankhara)
này là những pháp được cảm thọ (Vedaniya) này, hay những pháp
thọ hành này khác với những pháp được cảm thọ này?
Này Hiền giả, những pháp thọ hành này không
phải là những pháp được cảm thọ này. Này Hiền giả, nếu
những pháp thọ hành này là những pháp được cảm thọ này thì
không thể nêu rõ sự xuất khởi của vị Tỷ-kheo đã thành tựu
Diệt thọ tưởng định. Này Hiền giả, vì rằng những pháp thọ hành
khác, những pháp được cảm thọ khác nên có thể nêu rõ sự
xuất khởi của vị Tỷ-kheo đã thành tựu Diệt thọ tưởng định.
Này Hiền giả, đối với thân này, khi nào có
bao nhiêu pháp được từ bỏ, thì thân này được nằm xuống,
quăng đi, vất bỏ, như một khúc gỗ vô tri?
Này Hiền giả, đối với thân này, khi nào ba
pháp được từ bỏ: Tuổi thọ, hơi nóng và thức, thì thân này
nằm xuống, được quăng đi, vất bỏ như một khúc gỗ vô tri.
Này Hiền giả, có sự sai khác gì giữa vật
chết, mạng chung này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng
định?
Này Hiền giả, vật chết, mạng chung này, thân
hành của nó chấm dứt, dừng lại, khẩu hành chấm dứt, dừng
lại, tâm hành chấm dứt, dừng lại, tuổi thọ diệt tận, hơi nóng
tiêu diệt, các căn bị bại hoại. Còn vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt
thọ tưởng định, thì thân hành của vị này được chấm dứt,
được dừng lại, khẩu hành được chấm dứt, được dừng lại,
tâm hành được chấm dứt, được dừng lại, nhưng tuổi thọ không
diệt tận, hơi nóng không tiêu diệt, các căn được sáng suốt.
Này Hiền giả, như vậy là sự sai khác giữa vật chết, mạng chung
này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng định.
Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để chứng
nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc?
Này Hiền giả, có bốn duyên để chứng nhập
tâm giải thoát bất khổ bất lạc. Ở đây, này Hiền giả, vị
Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng
và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Này Hiền giả, do bốn duyên này mà chứng nhập tâm giải thoát bất
khổ bất lạc.
Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để chứng
nhập vô tướng tâm giải thoát?
Này Hiền giả, có hai duyên để chứng nhập vô
tướng tâm giải thoát: không có tác ý nhất thiết tướng và tác
ý vô tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà chứng nhập
vô tướng tâm giải thoát.
Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để an trú vô
tướng tâm giải thoát?
Này Hiền giả, có ba duyên để an trú vô
tướng tâm giải thoát: không tác ý nhất thiết tướng, tác ý vô
tướng giới, và một sự sửa soạn trước. Này Hiền giả, do ba
duyên này mà an trú vô tướng tâm giải thoát.
Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để xuất
khởi vô tướng tâm giải thoát?
Này Hiền giả, có hai duyên để xuất khởi vô
tướng tâm giải thoát: tác ý nhất thiết tướng và không tác ý
vô tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà xuất khởi vô
tướng tâm giải thoát.
Này Hiền giả, vô lượng tâm giải thoát này,
vô sở hữu tâm giải thoát này, không tâm giải thoát này và vô
tướng tâm giải thoát này, những pháp này nghĩa sai biệt và danh
sai biệt, hay nghĩa đồng nhất và danh sai biệt.
Này Hiền giả, vô lượng tâm giải thoát, vô
sở hữu tâm giải thoát, không tâm giải thoát và vô tướng tâm
giải thoát này, có một pháp môn, này Hiền giả, do pháp môn này,
các pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt. Và này Hiền giả, lại
có một pháp môn, do pháp môn này, các pháp ấy có nghĩa đồng
nhất và danh sai biệt. Này Hiền giả, thế nào là có pháp môn, do
pháp môn này các pháp ấy có nghĩa sai khác và có danh sai khác?
Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo an trú biến mãn một phương với
tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương
thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới,
trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên
giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng
đại, vô biên, không hận, không sân. Với tâm câu hữu với bi...
với tâm câu hữu với hỷ... an trú biến mãn một phương với tâm
câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ
ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên,
dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị
ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô
biên, không hận, không sân. Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô
lượng tâm giải thoát. Và này Hiền giả, thế nào là vô sở
hữu tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo vượt lên
mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật gì" chứng
và trú Vô sở hữu xứ. Như vậy, này Hiền giả, gọi là Vô sở
hữu tâm giải thoát. Và này Hiền giả, thế nào là không tâm
giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay
đi đến gốc cây, hay đi đến chỗ nhà trống và suy nghĩ như sau:
"Đây trống không, không có tự ngã hay không có ngã sở".
Như vậy, này Hiền giả, gọi là không tâm giải thoát. Và này Hiền
giả, thế nào là vô tướng tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền
giả, vị Tỷ-kheo không tác ý với nhất thiết tướng, đạt và an
trú vô tướng tâm định. Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô
tướng tâm giải thoát. Như vậy là có pháp môn và do pháp môn
này những pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt. Và này Hiền
giả, thế nào là có pháp môn và do pháp môn này các pháp ấy
có nghĩa đồng nhất nhưng danh sai biệt. Tham, này Hiền giả, là nguyên
nhân của hạn lượng; sân là nguyên nhân của hạn lượng; si là
nguyên nhân của hạn lượng. Đối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ
các lậu hoặc và tham, sân, si này đã được chặt tận gốc như
thân cây tala được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh
trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô
lượng, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng
đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát
không có tham, không có sân, không có si. Tham, này Hiền giả, là
một vật gì (chướng ngại), sân là một vật gì (chướng ngại), si
là một vật gì (chướng ngại). Đối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ
các lậu hoặc, thì tham, sân, si này đã được chặt tận gốc, như
thân cây tala được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh
trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô
sở hữu, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối
thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải
thoát ấy không có tham, không có sân, không có si. Tham, này Hiền
giả, là nhân tạo ra tướng, sân là nhân tạo ra tướng, si là
nhân tạo ra tướng. Đối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu
hoặc, thì tham, sân, si này được chặt tận gốc, như thân cây tala
được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai.
Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô tướng, thì bất
động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các
tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát này không có
tham, không có sân, không có si. Như vậy, này Hiền giả, là pháp
môn này, những pháp ấy là đồng nghĩa nhưng danh sai biệt.
Tôn giả Sariputta thuyết giảng như vậy. Tôn giả
Mahakotthita hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sariputta dạy.
- 44. TIỂU KINH
PHƯƠNG QUẢNG [^]
- (Culavedallasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá), tai Veluvana
(Trúc Lâm), chỗ Kalandaka Nivapa. Rồi nam cư sĩ Visakha đến chỗ
Tỷ-kheo-ni Dhammadinna ở, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo-ni Dhammadinna rồi
ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Visakha thưa
với Tỷ-kheo ni Dhammadinna:
Thưa Ni sư, tự thân, tự thân, (Sakkaya), được
gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân là như thế nào?
Hiền giả Visakha, Thế Tôn gọi năm thủ uẩn là
tự thân, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn,
hành thủ uẩn và thức thủ uẩn. Hiền giả Visakha, năm thủ uẩn
này, Thế Tôn gọi là tự thân.
Lành thay, thưa Ni sư.
Nam cư sĩ Visakha hoan hỷ, tín thọ lời Tỷ-kheo-ni
Dhammadinna nói, rồi hỏi Tỷ-kheo-ni Dhammadinna thêm một câu hỏi nữa:
Tự thân tập khởi, tự thân tập khởi, thưa Ni
sư, được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân tập
khởi (Sakkaya samudaya) là như thế nào?
Hiền giả Visakha, khát ái này đưa đến tái sanh,
câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức
là dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Hiền giả Visakha, khát ái
này, Thế Tôn gọi là tự thân tập khởi.
Tự thân diệt, tự thân diệt, thưa Ni sư,
được gọi là như vậy. Thế Tôn gọi tự thân diệt là như thế
nào?
Hiền giả Visakha, sự đoạn diệt, không tham đắm,
không có dư tàn của khát ái ấy, sự xả ly, sự vất bỏ, sự
giải thoát, sự vô chấp. Hiền giả Visakha, sự đoạn diệt này, Thế
Tôn gọi là tự thân diệt.
Thưa Ni sư, tự thân diệt đạo, tự thân diệt
đạo, được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân
diệt đạo là như thế nào?
Hiền giả Visakha, Con đường Thánh tám ngành
này, Thế Tôn gọi là tự thân diệt đạo, tức là chánh tri kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn,
chánh niệm, chánh định.
Thưa Ni sư, thủ này tức là năm thủ uẩn kia hay
thủ này khác với năm thủ uẩn?
Không phải, Hiền giả Visakha. Thủ này tức là
năm thủ uẩn kia, thủ này không khác với năm thủ uẩn kia, Hiền
giả Visakha, phàm có dục tham đối với năm thủ uẩn, tức là
(chấp) thủ đối với chúng ở đây vậy.
Thưa Ni sư, thế nào là thân kiến?
Ở đây, Hiền giả Visakha, kẻ vô văn phàm phu
không đến yết kiến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc
Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đến yết kiến các
bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu
tập pháp các bậc Chân nhân, xem sắc là tự ngã hay xem tự ngã
là có sắc, hay xem sắc là trong tự ngã hay xem tự ngã là trong
sắc; xem thọ là tự ngã, hay xem tự ngã là có thọ, hay xem thọ là
trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong thọ; xem tưởng là tự ngã,
hay xem tự ngã là có tưởng, hay xem tưởng là trong tự ngã, hay xem
tự ngã là trong tưởng; xem hành là tự ngã, xem tự ngã là có
hành, hay xem hành là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong hành; xem
thức là tự ngã, hay xem tự ngã là có thức, hay xem thức là
trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong thức. Như vậy, Hiền giả
Visakha, là thân kiến.
Thưa Ni sư, thế nào là không phải thân kiến?
Ở đây, Hiền giả Visakha, vị Đa văn Thánh đệ tử
đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu
tập pháp các bậc Thánh, đến yết kiến các bậc Chân nhân, thuần
thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân,
không xem sắc là tự ngã, không xem tự ngã là có sắc, không xem
sắc là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong sắc; không xem thọ
là tự ngã, không xem tự ngã là có thọ, không xem thọ là trong
tự ngã, không xem tự ngã là trong thọ; không xem tưởng là tự
ngã, không xem tự ngã là có tưởng, không xem tưởng là trong tự
ngã, không xem tự ngã là trong tưởng; không xem các hành là tự
ngã, không xem tự ngã là có các hành, không xem các hành là trong
tự ngã, không xem tự ngã là trong các hành; không xem thức là
tự ngã, không xem tự ngã là có thức, không xem thức là trong
tự ngã, không xem tự ngã là trong thức. Như vậy, Hiền giả Visakha,
là không có thân kiến.
Thưa Ni sư, thế nào là Thánh đạo Tám ngành?
Hiền giả Visakha, đây là Thánh đạo Tám ngành,
tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Thưa Ni sư, Thánh đạo Tám ngành này là hữu vi
hay vô vi?
Hiền giả Visakha, Thánh đạo Tám ngành này là
hữu vi.
Thưa Ni sư, ba uẩn được Thánh đạo Tám ngành
thâu nhiếp hay Thánh đạo Tám ngành được ba uẩn thâu nhiếp?
Hiền giả Visakha, ba uẩn không bị Thánh đạo Tám
ngành thâu nhiếp; Hiền giả Visakha, Thánh đạo Tám ngành bị ba uẩn
thâu nhiếp. Hiền giả Visakha, chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh
mạng, những pháp này được thâu nhiếp trong giới uẩn. Chánh tinh
tấn, chánh niệm và chánh định, những pháp này được thâu nhiếp
trong định uẩn. Chánh tri kiến và chánh tư duy, những pháp này
được thâu nhiếp trong tuệ uẩn
Thưa Ni sư thế nào là định, thế nào là định
tướng, thế nào là định tư cụ, thế nào là định tu tập?
Hiền giả Visakha, nhất tâm là định, Bốn Niệm
Xứ là định tướng, Bốn Tinh cần là định tư cụ, sự luyện tập,
sự tu tập, sự tái tu tập của những pháp ấy là định tu tập ở
đây vậy.
Thưa Ni sư, có bao nhiêu hành?
Hiền giả, có ba loại hành này: thân hành, khẩu
hành, và tâm hành.
Thưa Ni sư, thế nào là thân hành, thế nào là
khẩu hành, thế nào là tâm hành?
Thở vô, thở ra, Hiền giả Visakha, là thân
hành, tầm tứ là khẩu hành, tưởng và thọ là tâm hành.
Thưa Ni sư, vì sao thở vô thở ra là thân hành,
vì sao tầm tứ là khẩu hành, vì sao tưởng và thọ là tâm hành?
Thở vô, thở ra, Hiền giả Visakha, thuộc về
thân, những pháp này lệ thuộc với thân, nên thở vô thở ra
thuộc về thân hành. Hiền giả Visakha, trước phải tầm và tứ rồi
sau mới phát lời nói, nên tầm tứ thuộc về khẩu hành. Tưởng
và thọ và tâm sở, các pháp này lệ thuộc với tâm, nên tưởng
và thọ thuộc về tâm hành.
Thưa Ni sư, như thế nào là chứng nhập Diệt thọ
tưởng định?
Hiền giả Visakha, Tỷ-kheo chứng nhập Diệt thọ
tưởng định, vị ấy không nghĩ rằng: "Tôi sẽ chứng nhập Diệt
thọ tưởng định", hay "Tôi đang chứng nhập Diệt thọ tưởng
định" hay "Tôi đã chứng nhập Diệt thọ tưởng định".
Vì rằng, tâm của vị này trước đã được tu tập như vậy nên
đưa đến trạng thái như vậy.
Thưa Ni sư, Tỷ-kheo chứng nhập Diệt thọ tưởng
định, những pháp gì diệt trước, thân hành, hay khẩu hành, hay tâm
hành?
Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo chứng nhập Diệt thọ
tưởng định, khẩu hành diệt trước, rồi đến thân hành, rồi đến
tâm hành.
Thưa Ni sư, làm thế nào xuất khởi Diệt thọ
tưởng định?
Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ
tưởng định, không có nghĩ rằng: "Tôi sẽ xuất khởi Diệt thọ
tưởng định", hay "Tôi đang xuất khởi Diệt thọ tưởng
định", hay: "Tôi đã xuất khởi Diệt thọ tưởng định".
Vì rằng tâm của vị này trước đã tu tập như vậy nên đưa đến
trạng thái như vậy.
Thưa Ni sư, Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng
định, những pháp nào khởi lên trước, thân hành, hay khẩu hành
hay tâm hành?
Hiền giả Visakha, Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ
tưởng định, tâm hành khởi lên trước nhất, rồi đến thân hành,
rồi đến khẩu hành.
Thưa Ni sư, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ
tưởng định, vị ấy cảm giác những xúc nào?
Hiền giả Visakha, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ
tưởng định, vị ấy cảm giác ba loại xúc: không xúc, vô tướng
xúc, vô nguyện xúc.
Thưa Ni sư, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ
tưởng định, tâm của vị ấy thiên về gì, hướng về gì, khuynh
hướng về gì?
Hiền giả Visakha, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ
tưởng định, tâm của vị ấy thiên về độc cư, hướng về độc cư,
khuynh hướng về độc cư.
Thưa Ni sư, có bao nhiêu thọ?
Hiền giả Visakha, có ba thọ này, lạc thọ, khổ
thọ, bất khổ bất lạc thọ.
Thưa Ni sư, thế nào là lạc thọ, thế nào là
khổ thọ, thế nào là bất khổ bất lạc thọ?
Hiền giả Visakha, cái gì được cảm thọ bởi
thân hay tâm, một cách khoái lạc, khoái cảm, như vậy là lạc thọ.
Hiền giả Visakha, cái gì được cảm thọ bởi thân hay tâm, một
cách đau khổ, không khoái cảm, như vậy là khổ thọ. Hiền giả
Visakha, cái gì được cảm thọ bởi thân hay tâm không khoái cảm,
không khoái cảm như vậy là bất khổ bất lạc thọ.
Thưa Ni sư, đối với lạc thọ, cái gì lạc, cái
gì khổ? Đối với khổ thọ, cái gì khổ, cái gì lạc? Đối với
bất khổ bất lạc thọ, cái gì lạc, cái gì khổ?
Hiền giả Visakha, đối với lạc thọ, cái gì trú
là lạc, cái gì biến hoại là khổ. Đối với khổ thọ, cái gì trú
là khổ, cái gì biến hoại là lạc. Đối với bất khổ bất lạc
thọ, có trí là lạc, vô trí là khổ.
Thưa Ni sư, trong lạc thọ, có tùy miên gì tồn
tại; trong khổ thọ, có tùy miên gì tồn tại; trong bất khổ bất lạc
thọ, có tùy miên gì tồn tại?
Hiền giả Visakha, trong lạc thọ, tham tùy miên tồn
tại; trong khổ thọ, sân tùy miên tồn tại; trong tất cả bất khổ
bất lạc thọ, vô minh tùy miên tồn tại?
Thưa Ni sư, có phải trong tất cả lạc thọ, tham
tùy miên tồn tại; trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên tồn tại;
trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên tồn tại?
Hiền giả Visakha, không phải trong tất cả lạc
thọ, tham tùy miên tồn tại; không phải trong tất cả khổ thọ, sân
tùy miên tồn tại; không phải trong tất cả bất khổ bất lạc thọ,
vô minh tùy miên tồn tại.
Thưa Ni sư, trong lạc thọ, cái gì phải từ bỏ.
Trong khổ thọ, cái gì phải từ bỏ. Trong bất khổ bất lạc thọ, cái
gì phải từ bỏ?
Hiền giả Visakha, trong lạc thọ, tham tùy miên
phải từ bỏ. Trong khổ thọ, sân tùy miên phải từ bỏ. Trong bất
khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên phải từ bỏ.
Thưa Ni sư, có phải trong tất cả lạc thọ, tham
tùy miên phải từ bỏ. Trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên phải
từ bỏ. Trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên phải
từ bỏ?
Hiền giả Visakha, không phải trong tất cả lạc
thọ, tham tùy miên phải từ bỏ; trong tất cả khổ thọ, sân tùy
miên phải từ bỏ; trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy
miên phải từ bỏ. Ở đây, Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo ly dục, ly
bất thiện pháp, chứng và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái
hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm và tứ. Do vậy tham đã được từ
bỏ, không còn tham tùy miên tồn tại ở đây. Ở đây, Hiền giả
Visakha, vị Tỷ-kheo suy tư như sau: "Chắc chắn ta sẽ chứng và an
trú trong trú xứ mà nay các vị Thánh đang an trú". Vì muốn phát
nguyện hướng đến các cảnh giải thoát vô thượng, do ước nguyện
ấy, khởi lên ưu tư. Do vậy, sân được từ bỏ, không còn sân
tùy miên tồn tại ở đây. Ở đây, Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo
xả lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và
trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Do vậy
vô minh đã được từ bỏ, không còn vô minh tùy miên tồn tại
ở đây.
Thưa Ni sư, lạc thọ lấy gì làm tương đương?
Hiền giả Visakha, lạc thọ lấy khổ thọ làm
tương đương.
Thưa Ni sư, khổ thọ lấy gì làm tương đương?
Hiền giả Visakha, khổ thọ lấy lạc thọ làm
tương đương.
Thưa Ni sư, bất khổ bất lạc thọ lấy gì làm
tương đương?
Hiền giả Visakha, bất khổ bất lạc thọ lấy vô
minh làm tương đương.
Thưa Ni sư, vô minh lấy gì làm tương đương?
Hiền giả Visakha, vô minh lấy minh làm tương
đương.
Thưa Ni sư, minh lấy gì làm tương đương?
Hiền giả Visakha, minh lấy giải thoát làm tương
đương.
Thưa Ni sư, giải thoát lấy gì làm tương đương?
Hiền giả Visakha, giải thoát lấy Niết-bàn làm
tương đương?
Thưa Ni sư, Niết-bàn lấy gì làm tương đương?
Hiền giả Visakha, câu hỏi đi quá xa, vượt ra
ngoài giới hạn câu trả lời. Hiền giả Visakha, phạm hạnh là để
thể nhập vào Niết-bàn, để vượt qua đến Niết-bàn, để đạt
cứu cánh Niết-bàn. Hiền giả Visakha, nếu Hiền giả muốn, hãy đến
chỗ Thế Tôn ở, và hỏi ý nghĩa này. Và Thế Tôn trả lời cho
Hiền giả như thế nào, hãy như vậy thọ trì.
Rồi nam cư sĩ Visakha hoan hỷ, tín thọ lời Tỷ-kheo-ni
Dhammadinna giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tỷ-kheo ni
Dhammadinna, thân bên phải hướng về phía Tỷ-kheo-ni rồi từ biệt, đi
đến chỗ Thế Tôn ở. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi một bên, nam cư sĩ Visakha thuật lại cho Thế Tôn
tất cả câu chuyện đàm đạo với Tỷ-kheo-ni Dhammadinna. Khi nghe nói
vậy, Thế Tôn nói với nam cư sĩ Visakha:
Này Visakha, Tỷ-kheo-ni Dhammadinna là bậc Hiền trí!
Này Visakha, Tỷ-kheo-ni Dhammadinna là bậc Đại tuệ. Này Visakha, nếu
Ông hỏi Ta ý nghĩa ấy, T ũng trả lời như Tỷ-kheo-ni Dhammadinna đã
trả lời. Ông đối với nghĩa này, hãy như vậy thọ trì.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Nam cư sĩ Visakha hoan hỷ,
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
|
|