Phần XII
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Rajagaha
(Vương Xá), tại rừng xoài của Jivaka Komarabhacca. Rồi Jivaka Komarabhacca đi
đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một
bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Jivaka Komarabhacca bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con nghe nói như
sau: "Vì Sa-môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama (tuy)
biết thế (vẫn) dùng các loại thịt được giết vì mình và được làm
cho mình". Bạch Thế Tôn, những ai nói như sau: "Vì Sa-môn Gotama, họ
giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama (tuy) biết thế (vẫn) dùng các loại
thịt được giết (vì mình) và được làm cho mình", bạch Thế Tôn,
những người ấy có nói chính lời Thế Tôn, họ không xuyên tạc Thế
Tôn không đúng sự thật, họ trả lời đúng pháp, thuận pháp, và những
ai như pháp, thuyết đúng (pháp) thuận (pháp) không có thể quở trách ?
– Này Jivaka, những ai nói như sau:
"Vì Sa-môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama (tuy) biết
thế (vẫn) dùng các loại thịt được giết (vì mình) được làm cho
mình", những người ấy không nói chính lời của Ta, họ xuyên tạc
Ta, không như chân, không như thật. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp,
thịt không được thọ dụng thấy, nghe và nghi (vì mình mà giết). Này
Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt không được thọ dụng. Này
Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt được thọ dụng: không thấy,
không nghe và không nghi (vì mình mà giết). Này Jivaka, Ta nói trong ba trường
hợp này, thịt được thọ dụng.
Ở đây, này Jivaka, Tỷ-kheo sống dựa
vào một làng hay một thị trấn nào, vị ấy biến mãn một phương với tâm
có lòng từ, và an trú; cũng vậy phương thứ hai, phương thứ ba, cũng vậy
phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết
thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy biến mãn với tâm câu
hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân và an trú. Một
người cư sĩ hay con một người cư sĩ đến Tỷ-kheo ấy và mời ngày mai
thọ trai và này Jivaka, Tỷ-kheo ấy nhận lời. Sau khi đêm ấy đã qua, Tỷ-kheo
ấy vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến chỗ người cư sĩ kia hay
con người cư sĩ kia. Sau khi đến, vị ấy ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
Và vị cư sĩ, hay con vị cư sĩ ấy thỉnh vị ấy dùng các món ăn khất
thực thượng vị. Vị Tỷ-kheo ấy không nghĩ: "Thật tốt lành thay, người
cư sĩ này, hay con người cư sĩ này thỉnh ta dùng các món ăn khất thực
thượng vị. Mong rằng người cư sĩ này, hay con người cư sĩ này trong tương
lai sẽ thỉnh ta dùng các món khất thực thượng vị như vậy". Tỷ-kheo
ấy không nghĩ như vậy. Vị ấy thọ dụng các món ăn khất thực ấy, với
tâm không tham trước, không tham đắm, không đam mê, thấy rõ các tai họa,
ý thức rõ rệt sự xuất ly. Này Jivaka, Ông nghĩ thế nào ? Tỷ-kheo kia,
trong thời gian ấy có nghĩ đến tự hại, hay nghĩ đến hại người, hay
nghĩ đến hại cả hai ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này Jivaka, Tỷ-kheo kia, trong thời
gian ấy có phải dùng các món ăn không có lỗi lầm ?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Bạch
Thế Tôn, con nghe như sau: "Cao thượng thay, an trú lòng từ ! Bạch Thế
Tôn, Thế Tôn diện kiến thân chứng cho con điểm này, Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn an trú lòng từ.
– Này Jivaka, cái gọi là tham, là
sân, là si, do đó sân hận khởi lên, tham ấy, sân ấy, si ấy được Như
Lại đoạn trừ, chặt cho đến tận gốc, làm cho như thân cây tala, khiến
không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Này Jivaka, nếu như
vậy là ý nghĩa Ông muốn nói, thời Ta đồng ý với Ông.
– Bạch Thế Tôn, như vậy thật là
ý nghĩa con muốn nói.
– Ở đây, này Jivaka, Tỷ-kheo sống
dựa vào một làng nào hay một thị trấn nào. Vị ấy biến mãn một phương
với tâm có lòng bi... với tâm có lòng hỷ... với tâm có lòng xả và an
trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương
thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy
phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy, biến mãn với tâm có lòng
xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân và an trú. Một cư sĩ hay
con một người cư sĩ đến Tỷ-kheo ấy và mời ngày mai thọ trai. Và này
Jivaka, Tỷ-kheo ấy nhận lời. Sau khi đêm ấy đã qua, vị ấy vào buổi
sáng đắp y, cầm y bát, đi đến chỗ người cư sĩ kia, hay con của người
cư sĩ kia. Sau khi đến, vị ấy ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Và vị cư
sĩ, hay con vị cư sĩ ấy thỉnh vị ấy dùng các món ăn khất thực thượng
vị. Tỷ-kheo ấy không nghĩ: "Thật tốt lành thay, người cư sĩ này,
hay con người cư sĩ này thỉnh ta dùng các món ăn khất thực thượng vị.
Mong rằng vị cư sĩ này, hay con vị cư sĩ này trong tương lai sẽ thỉnh ta
dùng các món ăn khất thực thượng vị như vậy". Tỷ-kheo ấy không
nghĩ như vậy. Vị ấy thọ dụng các món ăn khất thực ấy với tâm
không tham trước, không tham đắm, không đam mê, thấy rõ các tai họa, ý
thức rõ rệt sự xuất ly. Này Jivaka, Ông nghĩ thế nào ? Tỷ-kheo kia, trong
thời gian ấy có nghĩ đến hại mình, hay nghĩ đến hại người, hay nghĩ
đến hại cả hai ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này Jivaka, vị Tỷ-kheo kia, trong
thời gia ấy, có phải dùng các món ăn không có lỗi lầm ?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Bạch
Thế Tôn, con nghe như sau: "Cao thượng thay, an trú lòng xả ! Bạch Thế
Tôn, Thế Tôn diện kiến thân chứng cho con điểm này. Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn an trú lòng xả.
– Này Jivaka, cái gọi là tham, là
sân, là si, do đó sân hận khởi lên, tham ấy, sân ấy, si ấy được Như
Lại đoạn trừ, chặt cho đến tận gốc, làm cho như thân cây tala, khiến
không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Này Jivaka, nếu như
vậy thì ý nghĩa Ông muốn nói, thời ta đồng ý với Ông.
– Bạch Thế Tôn, như vậy thật là
ý nghĩa con muốn nói.
– Này Jivaka, người nào vì Như
Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy chất chứa
nhiều phi công đức do năm nguyên nhân. Khi người ấy nói như sau: "Hãy
đi và dắt con thú này đến", đó là nguyên nhân thứ nhứt, người
ấy chất chứa nhiều phi công đức. Con thú ấy, khi bị dắt đi, vì bị
kéo lôi nơi cổ, nên cảm thọ khổ ưu, đó là nguyên nhân thứ hai, người
ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy nói: "Hãy đi và giết
con thú này", đó là nguyên nhân thứ ba, người ấy chất chứa nhiều
phi công đức. Khi con thú ấy bị giết, cảm thọ khổ ưu, đây là nguyên
nhân thứ tư, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy cúng
dường Như Lai hay đệ tử Như Lai một cách phi pháp, đó là nguyên nhân thứ
năm, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Này Jivaka, người nào vì
Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy sẽ chất
chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân này.
Khi nghe nói vậy, Jivaka Komarabhacca bạch
Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn ! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn ! Bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo thật
sự thọ dụng các món ăn một cách hợp pháp. Bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo
thật sự thọ dụng các món ăn không có khuyết phạm. Thật vi diệu thay,
bạch Thế Tôn ! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! ... Mong Thế Tôn nhận
con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Nalanda,
trong rừng Pavarikamba. Lúc bấy giờ, Nigantha Nataputta trú tại Nalanda cùng với
đại chúng Nigantha (Ly Hệ Phái). Rồi Nigantha Dighatapassi (Trường Khổ Hạnh
Giả), sau khi đi khất thực ở Nalanda, ăn xong, trên con đường khất thực
trở về, đi đến rừng Pavarikamba, chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, nói lên
những lời hỏi thăm Thế Tôn. Sau khi nói lên những lời hỏi thăm thân hữu,
vị này đứng một bên. Thế Tôn nói với Nigantha Dighatapassi đang đứng một
bên:
– Này Tapassi, có những ghế ngồi.
Nếu ông muốn, hãy ngồi xuống.
Khi nghe nói vậy, Nigantha Dighatapassi
lấy một ghế thấp, rồi ngồi xuống một bên. Và Thế Tôn nói với
Nigantha Dighatapassi đang ngồi một bên:
– Này Tapassi, Nigantha Nataputta chủ
trương có bao nhiêu nghiệp để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác
nghiệp ?
– Hiền giả Gotama, Nigantha
Nataputta không có thông lệ chủ trương nghiệp, nghiệp. Hiền giả Gotama,
Nigantha Nataputta có thông lệ chủ trương phạt, phạt.
– Này Tapassi, Nigantha Nataputta chủ
trương có bao nhiêu loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến
ác nghiệp ?
– Này Hiền giả Gotama, Nigantha
Nataputta chủ trương có ba loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn
tiến ác nghiệp, tức là thân phạt, khẩu phạt, ý phạt.
– Này Tapassi, nhưng có phải thân
phạt khác, khẩu phạt khác, ý phạt khác ?
– Hiền giả Gotama, thân phạt
khác, khẩu phạt khác, ý phạt khác.
Này Tapassi, ba loại phạt này, được
chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Nigantha Nataputta chủ trương
loại phạt nào tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác
nghiệp, thân phạt chăng, khẩu phạt chăng, ý phạt chăng ?
– Hiền giả Gotama, ba loại phạt
này được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Nigantha Nataputta
chủ trương thân phạt là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn
tiến ác nghiệp, khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được.
– Này Tapassi, có phải Ông nói
thân phạt ?
– Hiền giả Gotama, tôi nói thân
phạt.
– Này Tapassi, có phải Ông nói
thân phạt ?
– Hiền giả Gotama, tôi nói thân
phạt.
– Này Tapassi, có phải Ông nói
thân phạt ?
– Hiền giả Gotama, tôi nói thân
phạt.
Như vậy Thế Tôn trong cuộc đàm
thoại này đã làm Nigantha Dighatapassi xác nhận cho đến lần thứ ba quan
điểm (của mình).
Khi nghe nói vậy, Nigantha Dighatapassi
nói với Thế Tôn:
– Hiền giả Gotama, Hiền giả chủ
trương có bao nhiêu loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến
ác nghiệp ?
– Này Tapassi, Như Lai không có
thông lệ chủ trương phạt, phạt. Này Tapassi, Như Lai có thông lệ chủ trương
nghiệp, nghiệp.
– Hiền giả Gotama, Hiền giả chủ
trương có bao nhiêu loại nghiệp để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến
ác nghiệp ?
– Này Tapassi, Ta chủ trương ba loại
nghiệp để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, tức là thân
nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp.
– Hiền giả Gotama, nhưng có phải
thân nghiệp khác, khẩu nghiệp khác, ý nghiệp khác ?
– Này Tapassi, thân nghiệp khác, khẩu
nghiệp khác, ý nghiệp khác.
– Hiền giả Gotama, ba loại nghiệp
này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Hiền giả chủ
trương loại nghiệp nào tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn
tiến ác nghiệp ? Thân nghiệp chăng, khẩu nghiệp chăng, ý nghiệp chăng ?
– Này Tapassi, ba loại nghiệp này,
được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Ta chủ trương ý
nghiệp là tối trọng, để tác thành ác ý, để diễn tiến ác nghiệp,
thân nghiệp không bằng được, khẩu nghiệp không bằng được.
– Hiền giả Gotama, có phải Hiền
giả nói ý nghiệp ?
– Này Tapassi, Ta nói ý nghiệp.
– Hiền giả Gotama, có phải Hiền
giả nói ý nghiệp ?
– Này Tapassi, Ta nói ý nghiệp.
– Hiền giả Gotama, có phải Hiền
giả nói ý nghiệp ?
– Này Tapassi, Ta nói ý nghiệp.
Như vậy Nigantha Dighatapassi trong cuộc
đàm thoại này, sau khi đã làm Thế Tôn xác nhận cho đến lần thứ ba
quan điểm (của mình), liền từ chỗ ngồi đứng dậy và đi đến chỗ
Nigantha Nataputta.
Lúc bấy giờ, Nigantha Nataputta đang
ngồi với một đại chúng gia chủ rất đông, do Upali (Ưu-ba-ly) người thuộc
làng Balaka cầm đầu. Nigantha Nataputta thấy Nigantha Dighatapassi từ xa đi đến,
sau khi thấy, liền nói với Nigantha Dighatapassi:
– Này Tapassi, Ông từ đâu đi đến,
trong ban ngày (nóng bức) như thế này ?
– Thưa Tôn giả, con từ Sa-môn
Gotama đi đến đây.
– Này Tapassi, Ông có đàm luận
gì với Sa-môn Gotama không ?
– Thưa Tôn giả, con cùng với
Sa-môn Gotama có cuộc đàm thoại.
– Này Tapassi, cuộc đàm thoại của
ông với Sa-môn Gotama như thế nào ?
Rồi Nigantha Dighatapassi kể lại cho
Nigantha Nataputta nghe một cách đầy đủ cuộc đàm thoại với Sa-môn
Gotama. Được nghe vậy, Nigantha Nataputta nói với Dighatapassi:
– Tốt lành thay, tốt lành thay,
Tapassi ! Sa-môn Gotama đã được Nigantha Dighatapassi trả lời, một đệ tử
đa văn đã hiểu đúng đắn lời dạy bậc Đạo sư. Làm sao một ý phạt
hèn kém có thể sáng chói, so sánh với thân phạt cường đại này được
? Thân phạt thật là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến
ác nghiệp, khẩu nghiệp không bằng được, ý nghiệp không bằng được.
Khi được nói vậy, gia chủ Upali
thưa với Nigantha Nataputta:
– Tốt lành thay, tốt lành thay,
Tôn giả Tapassi ! Sa-môn Gotama đã được Tôn giả Tapassi trả lời như vậy,
một đệ tử đa văn đã hiểu đúng đắn lời dạy bậc Đạo sư. Làm sao
một ý phạt hèn kém có thể sáng chói, so sánh với thân phạt cường đại
này được ? Thân phạt thật tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn
tiến ác nghiệp, khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được.
Thưa Tôn giả, con sẽ đi và luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm
thoại này. Nếu Sa-môn Gotama làm con xác nhận như đã làm Tôn giả Tapassi
xác nhận thời cũng như một người lực sĩ tay nắm chặt lông một con cừu
có lông dài, có thể kéo tới, dặc lui, vần quanh; cũng vậy con sẽ dùng lời
nói với lời nói, kéo tới, dặc lui, vần quanh Sa-môn Gotama. Cũng như một
người lực sĩ nấu rượu, sau khi nhận chìm một thùng rượu lớn xuống
hồ nước sâu, nắm một góc thùng, có thể kéo tới, dặc lui, vần quanh;
cũng vậy, con dùng lời nói với lời nói, kéo tới, dặc lui, vần quanh
Sa-môn Gotama. Cũng như một lực sĩ nghiện rượu sống phóng đãng, sau khi
nắm góc một cái sàng, lắc qua, lắc lại, lắc xoay quanh; cũng vậy, con sẽ
dùng lời nói với lời nói, lắc qua, lắc lại, lắc xoay quanh Sa-môn
Gotama. Và cũng như một con voi lớn sáu mươi tuổi, sau khi lặn xuống một
hồ nước sâu, lại chơi trò phun nước; cũng vậy, con nghĩ, con sẽ chơi
trò chơi phun nước với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, con sẽ đi và luận
chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này.
– Này Gia chủ, hãy đi và luận
chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này. Vì rằng, này Gia chủ,
chỉ có ta hay Nigantha Dighatapassi, hay Ông mới có thể luận chiến với
Sa-môn Gotama.
Khi được nói vậy, Nigantha
Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, con không được
hài lòng để Gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả,
Sa-môn Gotama là một huyễn sư, Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi
cuốn những đệ tử ngoại đạo.
– Này Tapassi, không thể có sự kiện,
không thể có trường hợp Gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn
Gotama; có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ
Upali. Này Gia chủ, hãy đi luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại
này chỉ có ta, Nigantha Dighatapassi, hay Ông mới có thể luận chiến với
Sa-môn Gotama.
Lần thứ hai... (như trên)... Lần
thứ ba... Nigantha Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, con không được
hài lòng để gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả,
Sa-môn Gotama là một huyễn sư, Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi
cuốn những đệ tử ngoại đạo.
– Này Tapassi, không thể có sự kiện,
không thể có trường hợp gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn
Gotama ! Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ
Upali. Này Gia chủ, hãy đi luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại
này; chỉ có ta, Nigantha Dighatapassi và Ông mới có thể luận chiến với
Sa-môn Gotama !
– Thưa vâng, Tôn giả.
Gia chủ Upali vâng đáp Nigantha
Nataputta, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Nigantha Nataputta, thân hữu hướng
về Nigantha Nataputta, và đi đến rừng xoài Pavarika, chỗ Thế Tôn ở, sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống
một bên, gia chủ Upali bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, không biết
Nigantha Dighatapassi có đến tại đây không ?
– Này gia chủ, Nigantha Dighatapassi
có đến tại đây.
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có đàm
thoại với Nigantha Dighatapassi không ?
– Này Gia chủ, Ta có đàm thoại với
Nigantha Dighatapassi.
– Bạch Thế Tôn, cuộc đàm thoại
của Thế Tôn với Nigantha Dighatapassi như thế nào ?
Rồi Thế Tôn kể lại cho gia chủ
Upali một cách đầy đủ cuộc đàm thoại với Nigantha Dighatapassi, Khi nghe
nói vậy, gia chủ Upali bạch Thế Tôn:
– Tốt lanh thay, tốt lành thay,
Tôn giả Tapassi ! Thế Tôn đã được Tôn giả Tapassi trả lời như vậy, một
đệ tử đa văn đã hiểu đúng đắn lời dạy bậc Đạo sư. Làm sao một
ý phạt hèn kém có thể sáng chói, so sánh với thân phạt cường đại này
được, vì thân phạt thật là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để
diễn tiến ác nghiệp ? Khẩu nghiệp không bằng được, ý nghiệp không bằng
được.
– Này Gia chủ, nếu Ông có thể
đàm luận y cứ trên sự thật, thời ở đây, có thể có cuộc đàm thoại
giữa chúng ta.
– Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận
y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây có cuộc đàm thoại giữa chúng ta.
– Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào
? Ở đây, có người Nigantha, bệnh hoạn, đau khổ, bao bệnh, từ chối nước
lạnh, chỉ uống nước nóng. Người này, vì không được nước lạnh nên
mệnh chung. Này Gia chủ, theo Nigantha Nataputta, người ấy tái sanh chỗ nào
?
– Bạch Thế Tôn, có hàng chư Thiên
được gọi là Manosatta (Ý Trước thiên). Ở đấy người ấy tái sanh. Vì
sao vậy ? Bạch Thế Tôn, vì người ấy chấp trước ý nên mệnh chung.
– Gia chủ, Gia chủ ! Sau khi suy nghĩ
kỹ. Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp lời nói
sau của Ông ! Lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của
Ông ! Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: "Bạch Thế Tôn, con sẽ
đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm thoại
giữa chúng ta".
– Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn
có nói như vậy, nhưng chỉ có thân phạt mới là tối trọng để tác
thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu phạt không bằng được;
ý phạt không bằng được.
– Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào
? Ở đây, có người Nigantha được phòng hộ với sự phòng hộ của bốn
loại chế giới, hoàn toàn tự chế ngự đối với nước, hoàn toàn chú
tâm (vào sự chế ngự) đối với nước, hoàn toàn loại trừ đối với
nước, hoàn toàn thấm nhuần (với sự chế ngự) đối với nước. Vị này
khi đi qua, khi đi lại, đã giết hại rất nhiều sinh vật nhỏ bé. Này Gia
chủ, theo Nigantha Nataputta, người ấy thọ quả báo nào ?
– Bạch Thế Tôn, vì không cố ý,
nên Nigantha Nataputta xem không phải là một đại tội.
– Này Gia chủ, nếu người ấy có
cố ý thời như thế nào ?
– Bạch Thế Tôn, là một đại tội.
– Này Gia chủ, ý thức (ấy),
Nigantha Nataputta xem thuộc về loại gì ?
– Bạch Thế Tôn thuộc về ý phạt.
– Gia chủ, Gia chủ ! Sau khi suy nghĩ.
Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp với lời nói
sau của Ông, lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của
Ông. Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: "Bạch Thế Tôn, con sẽ
đàm luận, y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm thoại
giữa chúng ta".
– Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn
có nói như vậy, nhưng chỉ có thân phạt mới là tối trọng để tác
thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu phạt không bằng được,
ý phạt không bằng được.
– Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào
? Có phải Nalanda này là phú cường và phồn thịnh, dân chúng đông đúc,
nhân dân trù mật ?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Nalanda này là phú cường và phồn thịnh, dân chúng đông đúc, nhân dân
trù mật.
– Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào
? Ở đây, có người đi đến, với thanh kiếm đưa cao, người này nói:
"Trong một sát na, trong một giây phút, ta sẽ làm cho tất cả mọi người
ở tại Nalanda này thành một đống thịt, thành một khối thịt". Này
Gia chủ, Ông nghĩ thế nào ? Người ấy có thể trong một sát na, trong một
giây phút, làm cho tất cả mọi người ở tại Nalanda này thành một đống
thịt, thành một khối thịt không ?
– Bạch Thế Tôn, cho đến mười
người, hai mươi người, ba mươi người, bốn mươi người, năm mươi người
cũng không có thể, trong một sát na, trong một giây phút, làm cho tất cả
mọi người ở tại Nalanda này thành một đống thịt, thành một khối thịt,
huống nữa là chỉ một người nhỏ bé sao có thể sáng chói (làm thành)
được?
– Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào
? Ở đây, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn đến, có thần thông lực, có tâm tự
tại. Vị này nói như sau. "Ta sẽ làm cho Nalanda này trở thành tro tàn
với một tâm sân hận". Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào ? Vị Sa-môn
hay vị Bà-la-môn ấy, có thần thông lực, có tâm tự tại, có thể làm
cho Nalanda này trở thành tro tàn với một tâm sân hận không ?
– Bạch Thế Tôn, cho đến mười
Nalanda, hai mươi, ba mươi Nalanda, bốn mươi Nalanda, năm mươi Nalanda, vị
Sa-môn hay vị Bà-la-môn ấy có thần thông lực, có tâm tự tại có thể
làm cho các Nalanda ấy trở thành tro tàn với một tâm sân hận, huống nữa
là một Nalanda nhỏ bé này, sao có thể chói sáng được (khỏi bị trở thành
tro tàn được) ?
– Gia chủ, Gia chủ ! Sau khi suy
nghĩ, Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp lời nói
sau của Ông ! Lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của
Ông ! Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: "Bạch Thế Tôn, con sẽ
đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm luận
giữa chúng ta".
– Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn
có nói như vậy, nhưng chỉ có thân phạt mới là tối trọng để tác
thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu phạt không bằng được,
ý phạt không bằng được.
– Này Gia chủ. Ông nghĩ thế nào
? Ông có nghe các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga đã trở lại thành rừng
như trước ?
– Bạch Thế Tôn con có nghe: Các rừng
Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga đã trở lại thành rừng (như trước).
– Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào
? Có thể Ông được nghe vì sao các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga trở
thành rừng như trước ?
– Bạch Thế Tôn, con có nghe, các
rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga trở lại thành rừng (như trước) vì
tâm sân hận các vị ân sĩ.
– Gia chủ, Gia chủ ! Sau khi suy
nghĩ Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp lời nói
sau của Ông, lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của
Ông. Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: "Bạch Thế Tôn, con sẽ
đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm luận
giữa chúng ta".
– Bạch Thế Tôn, với ví dụ đầu
tiên, con đã hoan hỷ, con đã thỏa mãn. Những gì con muốn nghe các vấn đáp
sai biệt của Thế Tôn, nên con mới nghĩ đóng vai trò đối lập với Thế
Tôn. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Thật vị diệu thay, bạch Thế
Tôn ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày
ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn
sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy,
Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện, trình bày,
giải thích. Vậy nay con quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng.
Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời
quy ngưỡng.
– Này Gia chủ, hãy chín chắn suy
tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông.
– Bạch Thế Tôn, con càng bội phần
hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con:
"Này Gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với
những người trứ danh như Ông". Bạch Thế Tôn, nếu các ngoại đạo
được con làm đệ tử, họ sẽ trương cờ lên và tuyên bố: "Gia chủ
Upali đã trở thành đệ tử chúng tôi". Nhưng Thế Tôn lại nói với
con: "Này Gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp
với những người trứ danh như Ông". Bạch Thế Tôn, lần thứ hai, con
xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận
con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
– Này Gia chủ, đã từ lâu gia đình
Ông như là giếng nước mưa nguồn cho các người Nigantha. Hãy cúng dường
các món ăn cho những ai đến với Ông !
– Bạch Thế Tôn, con lại bội phần
hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con:
"Này Gia chủ, đã từ lâu gia đình của Ông như là giếng nước mưa
nguồn cho các người Nigantha. Hãy cúng dường các món ăn cho những ai đến
với các Ông". Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: "Sa-môn Gotama đã
nói: "Chỉ bố thí cho Ta, chớ bố thí cho các người khác. Chỉ bố
thí cho các đệ tử Ta, chớ bố thí cho đệ tử những người khác. Chỉ
bố thí cho Ta mới có phước lớn, bố thí những người khác không được
phước lớn. Chỉ bố thí cho những đệ tử của Ta mới có phước lớn,
bố thí cho những đệ tử những người khác không có phước lớn".
Nhưng Thế Tôn lại khuyến khích con bố thí cho các vị Nigantha. Bạch Thế
Tôn, và chúng con ở đây sẽ biết thời nên làm. Bạch Thế Tôn, lần thứ
ba, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn
nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
Rồi Thế Tôn thuận thứ thuyết
pháp cho gia chủ Upali, tức là thuyết về bố thí, thuyết về giới, thuyết
về các cõi trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô
các dục lạc, những lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết gia chủ
Upali tâm đã sẵn sàng, tâm đã nhu thuận, tâm không triền cái, tâm được
phấn khởi, tâm được hoan hỷ, Ngài mới thuyết những pháp được chư
Phật tán dương đề cao: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng như một tấm vải
thuần bạch, các chấm đen được gột rửa rất dễ thấm màu nhuộm, cũng
vậy, chính tại chỗ ngồi ấy, pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên với
gia chủ Upali: "Phàm pháp gì được khởi lên, tất cả pháp ấy đều
bị tiêu diệt". Rồi gia chủ Upali, thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp,
thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, đạt được vô
sở úy, không y cứ người khác đối với các pháp bậc Đạo sư. Gia chủ
Upali bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, nay chúng con phải
đi, chúng con có nhiều công việc, có nhiều phận sự phải làm.
– Này Gia chủ, Ông hãy làm những
gì Ông nghĩ là hợp thời.
Rồi Gia chủ Upali hoan hỷ tín thọ
lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân
bên hữu hướng về Ngài, rồi đi về trú xá của mình, sau khi đến bèn
nói với người giữ cửa như sau:
– Từ nay trở đi, này người gác
cửa, ta sẽ đóng cửa đối với các nam Nigantha, các nữ Nigantha. Cửa sẽ
không đóng đối với các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ của
Thế Tôn. Nếu có vị Nigantha nào đến, Ông hãy nói vị ấy như sau:
"Tôn giả hãy đứng lại, chớ bước vào ! Từ nay trở đi, Gia chủ
Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Cửa sẽ đóng đối với
nam Nigantha, nữ Nigantha. Cửa sẽ không đóng đối với các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
nam cư sĩ, nữ cư sĩ của Thế Tôn. Nếu Tôn giả cần đồ ăn, hãy đứng
ở đây. Và có người sẽ đem ra ở đây cho Tôn giả"
– Thưa vâng, Tôn giả.
Người giữ cửa vâng đáp gia chủ
Upali.
Nigantha Dighatapassi nghe như sau:
"Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama". Rồi
Nigantha Dighatapassi đi đến chỗ Nigantha Nataputta ở, sau khi đến liền nói
với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, tôi có nghe gia chủ
Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama.
– Này Tapassi, không thể có sự kiện,
không thể có trường hợp gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn
Gotama. Và có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ
Upali.
Lần thứ hai... (như trên)... Lần
thứ ba Nigantha Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, tôi có nghe gia chủ
Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama.
– Này Tapassi, không thể có sự kiện,
không thể có trường hợp gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn
Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ
Upali.
– Thưa Tôn giả, tôi sẽ đi và
tìm biết gia chủ Upali có trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama hay không.
– Này Tapassi, hãy đi và tìm biết
gia chủ Upali có trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama hay không.
Rồi Nigantha Dighatapassi đi đến trú
xá của gia chủ Upali. Người giữ cửa thấy Nigantha Dighatapassi ở đường
xa đi đến, khi thấy vậy liền nói với Nigantha Dighatapassi:
– Thưa Tôn giả, hãy đứng ở đây,
chớ có bước vào ! Từ nay trở đi, gia chủ Upali đã trở thành đệ tử
của Sa-môn Gotama. Cửa sẽ đóng đối với nam Nigantha, nữ Nigantha. Cửa sẽ
không đóng đối với các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ của
Thế Tôn. Nếu Tôn giả cần đồ ăn, hãy đứng ở đây. Có người sẽ
đem ra ở đây cho Tôn giả.
– Này Hiền giả, ta không cần đồ
ăn.
Nói xong, Nigantha Dighatapassi đi trở
lui, đến chỗ Nigantha Nataputta ở, sau khi đến, liền thưa với Nigantha
Nataputta:
– Thưa Tôn giả, sự thật là gia
chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Về vấn đề này, tôi
đã không đồng ý với Tôn giả và đã nói: "Thưa Tôn giả, tôi không
được hài lòng để gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn
giả, Sa-môn Gotama là một huyễn thuật sư, Sa-môn Gotama biết được huyễn
thuật lôi cuốn những đệ tử các ngoại đạo". Thưa Tôn giả, nay
gia chủ Upali của Tôn giả đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama lôi cuốn
rồi.
– Này Tapassi, không thể có sự kiện,
không thể có trường hợp gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn
Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ
Upali.
Lần thứ hai... (như trên)... Lần
thứ ba, Nigantha Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, sự thật là gia
chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Về vấn đề này, tôi
đã không đồng ý với Tôn giả và đã nói: "Thưa Tôn giả, tôi không
được yên lòng để gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn
giả, Sa-môn Gotama là một huyễn thuật sư. Sa-môn Gotama biết được huyễn
thuật lôi cuốn những đệ tử các ngoại đạo. Thưa Tôn giả, nay gia chủ
Upali của Tôn giả đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama lôi cuốn".
– Này Tapassi, không thể có sự kiện,
không thể có trường hợp gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn
Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ
Upali. Này Tapassi, ta sẽ đi và tìm biết gia chủ Upali đã trở thành đệ tử
Sa-môn Gotama hay không.
Rồi Nigantha Nataputta cùng với đại
chúng Nigantha đi đến trú xá của gia chủ Upali. Người giữ cửa thấy
Nigantha Nataputta từ xa đi đến, khi thấy vậy liền nói với Nigantha
Nataputta:
– Thưa Tôn giả, hãy đứng ở đây,
chớ có bước vào ! Từ nay trở đi, gia chủ Upali đã trở thành đệ tử
của Sa-môn Gotama. Cửa sẽ đóng đối với các nam Nigantha, các nữ
Nigantha. Cửa sẽ không đóng đối với các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư
sĩ, nữ cư sĩ của Thế Tôn. Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả cần các món
ăn, hãy đứng ở đây. Có người sẽ đem ra ở đây cho Tôn giả.
– Này người giữ cửa, hãy đi đến
gia chủ Upali, sau khi đến, hãy thưa với gia chủ như sau: "Thưa Tôn giả,
Nigantha Nataputta cùng với đại chúng Nigantha đang đứng ở ngoài ngưỡng cửa
và muốn yết kiến Tôn giả".
– Thưa vâng, Tôn giả.
Người giữ cửa vâng đáp Nigantha
Nataputta, đi đến gia chủ Upali, sau khi đến liền thưa với gia chủ Upali:
– Thưa Tôn giả, có Nigantha
Nataputta cùng với đại chúng Nigantha đang đứng ở ngoài ngưỡng cửa và
muốn yết kiến Tôn giả.
– Này Người giữ cửa, hãy vào
soạn các chỗ ngồi trong căn phòng chính giữa có cửa.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Người giữ cửa vâng đáp gia chủ
Upali, sau khi cho vào soạn các chỗ ngồi trong căn phòng chính giữa có cửa,
đi đến gia chủ Upali, sau khi đến, liền nói với gia chủ Upali:
– Thưa Tôn giả, các chỗ ngồi
trong căn phòng chính giữa có cửa đã được sửa soạn. Tôn giả hãy làm
những gì Tôn giả nghĩ là phải thời.
Rồi gia chủ Upali đi đến căn phòng
chính giữa có cửa, sau khi đến tại chỗ ngồi nào là tối thượng, tối
tôn, tối cao và tối thắng, sau khi ngồi trên chỗ ấy, liền bảo người
gác cửa:
– Này Người giữ cửa, hãy đi đến
Nigantha Nataputta: "Thưa Tôn giả, gia chủ Upali có nói: "Thưa Tôn giả,
nếu muốn, Tôn giả hãy vào".
– Thưa vâng, Tôn giả.
Người giữ cửa vâng đáp gia chủ
Upali, đi đến Nigantha Nataputta, sau khi đến, liền nói với Nigantha
Nataputta:
– Thưa Tôn giả, Gia chủ Upali có
nói: "Thưa Tôn giả, nếu muốn, Tôn giả hãy vào".
Rồi Nigantha Nataputta với đại chúng
Nigantha đi đến căn phòng ở giữa, có cửa.
Gia chủ Upali lúc trước mỗi khi thấy
Nigantha Nataputta từ xa đi đến, sau khi thấy liền đi ra nghinh tiếp vào tại
chỗ nào có chỗ ngồi tối thượng, tối tôn, tối cao và tối thắng, liền
lấy thượng y lau chỗ ngồi ấy, giữ lấy và mời Nigantha Nataputta ngồi
trên chỗ ngồi ấy. Nhưng tại chỗ có chỗ ngồi tối thượng, tối tôn,
tối cao và tối thắng, gia chủ Upali lại ngồi trên chỗ ngồi ấy và nói
với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, có những chỗ ngồi.
Nếu muốn, Tôn giả hãy ngồi.
Khi nghe nói vậy, Nigantha Nataputta
nói với gia chủ Upali:
– Này Gia chủ, Ông thật là điên
cuồng. Này Gia chủ, Ông thật là ngu si. Ông nói: "Thưa Tôn giả, tôi sẽ
đi luận chiến với Sa-môn Gotama". Sau khi đi, Ông đã trở về bị
trói buộc trong lưới lớn luận nghị. Này Gia chủ, ví như người đi với
hai cao hoàn, đi về với cao hoàn bị thiến. Này Gia chủ, như người đi với
hai con mắt, đi về với hai con mắt bị khoét. Cũng vậy, này Gia chủ, Ông
nói: "Thưa Tôn giả, con sẽ đi luận chiến với Sa-môn Gotama, sau khi
đi đã trở về bị trói buộc trong lưới lớn luận nghị". Này Gia chủ,
Ông đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama lôi cuốn rồi.
– Thưa Tôn giả, vi diệu thay, huyễn
thuật lôi cuốn này ! Tốt lành thay, huyễn thuật lôi cuốn này ! Thưa Tôn
giả, nếu bà con huyết thống thân yêu của tôi được huyễn thuật này
lôi cuốn, thời thật là an lạc, hạnh phúc lâu dài cho các bà con huyết
thống của tôi. Thưa Tôn giả, nếu tất cả các người Sát đế ly được
huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật là an lạc hạnh phúc lâu dài cho tất
cả các vị Sát-đế-lỵ. Thưa Tôn giả, nếu tất cả các người Bà-la-môn...
(như trên)... nếu tất cả các người Vessa (Phệ-xá)... Thưa Tôn giả, nếu
tất cả các người Sudda (Thủ-đà) được huyễn thuật này lôi cuốn, thời
thật là an lạc, và hạnh phúc lâu dài cho tất cả các người Sudda. Thưa
Tôn giả, nếu thế giới với chư Thiên, chư Ma, chư Phạm thiên, với
chúng Sa-môn và Bà-la-môn với chư Thiên và loài Người được huyễn thuật
này lôi cuốn, thời như vậy là an lạc, hạnh phúc lâu dài cho thế giới
với chư Thiên, chư Ma, chư Phạm thiên, với chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với
chư Thiên và loài Người. Thưa Tôn giả, tôi sẽ nói cho Tôn giả ví dụ
này. Ở đây, những người có trí nhờ ví dụ sẽ biết rõ ý nghĩa của
lời nói.
Thưa Tôn giả, thuở xưa có người
Bà-la-môn đã về già tuổi đã lớn, bậc trưởng lão, có người vợ còn
trẻ, trong tuổi thanh xuân, (người vợ này) đang mang thai, sắp đến kỳ
sinh nở. Thưa Tôn giả, người vợ trẻ nói với người Bà-la-môn:
"Này Bà-la-môn, hãy đi phố mua một khi con đực để cùng chơi với
con tôi". Thưa Tôn giả, được nói vậy, người Bà-la-môn nói với cô
vợ trẻ: "Này mình, hãy chờ cho đến khi mình sanh. Nếu mình sanh con
trai, tôi sẽ đi chợ mua một con khỉ con đực mang về để cùng chơi với
đứa con trai của mình. Còn nếu mình sanh con gái, tôi sẽ đi chợ mua một
con khỉ con cái và mang về để cùng chơi với đứa con gái của
mình". Thưa Tôn giả, lần thứ hai, người vợ trẻ nói với người Bà-la-môn
ấy: "Này Bà-la-môn, hãy đi phố mua một con khỉ con đực để cùng chơi
với con tôi". Thưa Tôn giả, lần thứ hai, người Bà-la-môn ấy nói với
cô vợ trẻ: "Này mình, hãy chờ cho đến khi mình sanh. Nếu mình sanh
con trai, tôi sẽ đi chợ mua một con khỉ con đực mang về để cùng chơi với
đứa con trai của mình. Còn nếu mình sanh con gái, tôi sẽ đi chợ mua một
con khỉ con cái và mang về để cùng chơi với đứa con gái của
mình". Thưa Tôn giả, lần thứ ba, người vợ trẻ nói với người Bà-la-môn
ấy: "Này Bà-la-môn, hãy đi phố mua một con khỉ con đực để cùng chơi
với con tôi". Thưa Tôn giả, người Bà-la-môn ấy vì quá yêu thương,
quá ái luyến cô vợ trẻ của mình nên đi chợ mua một con khỉ đực,
đem về và nói với cô vợ trẻ: "Này mình, đây là con khỉ con đực,
tôi mua ở chợ và mang về, hãy để nó cùng chơi với con của mình".
Thưa Tôn giả, khi nghe nói vậy cô vợ trẻ ấy nói với người Bà-la-môn:
"Này Bà-la-môn hãy đi, đem con khỉ con đực này đến Rattapani con người
thợ nhuộm, sau khi đến hãy nói với Rattapani con người thợ nhuộm:
"Này bạn Rattapani, tôi muốn con khỉ đực này được nhuộm với màu
vàng, được khéo đập, khéo ủi xung quanh và cả hai phía được làm
thành mềm dịu" Thưa Tôn giả, người Bà-la-môn ấy vì quá yêu thương,
quá ái luyến cô vợ trẻ của mình đem con khỉ con đực này đi đến
Rattapani con người thợ nhuộm, khi đến xong liền nói với Rattapani, con người
thợ nhuộm: "Này bạn Rattapani, tôi muốn con khỉ đực này được nhuộm
màu vàng, được khéo đập, khéo ủi xung quanh, và cả hai phía được làm
thành mềm dịu". Thưa Tôn giả, được nói vậy, Rattapani con người thợ
nhuộm nói với người Bà-la-môn kia: "Này Tôn giả, con khỉ con đực này
có thể nhuộm được, nhưng không có thể đập được, ủi được, không
có thể làm thành mềm dịu". Cũng vậy, thưa Tôn giả, là lý thuyết của
những Nigantha ngu si, lý thuyết này có thể ăn nhuộm đối với những người
ngu si, chớ không ăn nhuộm đối với người có trí. Thưa Tôn giả, người
Bà-la-môn ấy, sau một thời gian, lấy một cặp áo mới, đi đến chỗ
Rattapani, con người thợ nhuộm, sau khi đến, nói với Rattapani, con người
thợ nhuộm: "Này Rattapani, tôi muốn nhuộm cặp áo mới này với màu
nhuộm màu vàng, được đập và ủi xung quanh, và cả hai phía được làm
thành mềm dịu". Thưa Tôn giả, được nói vậy, Rattapani con người thợ
nhuộm nói với người Bà-la-môn ấy: "Thưa Tôn giả, cặp áo mới này
của Tôn giả có thể nhuộm được, có thể đập và ủi xung quanh và có
thể làm thành mềm dịu". Cũng vậy, thưa Tôn giả, là lý thuyết của
Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, có thể ăn nhuộm đối với người
có trí, không phải đối với người ngu si, có thể đập được, ủi được,
và có thể khiến trở thành mềm dịu".
– Này Gia chủ, quần chúng này gồm
cả các vua chưa được biết như sau: "Gia chủ Upali là đệ tử của
Nigantha Nataputta". Này Gia chủ, nay chúng tôi xem Gia chủ là đệ tử của
ai ?
Được nói vậy, gia chủ Upali từ
chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y qua một bên vai, chắp tay vái chào
Thế Tôn và nói với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, hãy nghe, tôi là
đệ tử của ai:
- Bậc Trí sáng suốt,
- Đoạn trừ si ám.
- Phá tan hoang vu,
- Chiến thắng địch quân.
- Đau khổ đoạn diệt,
- Tâm an bình tĩnh.
- Giới đức trưởng thành,
- Tuệ đức viên minh.
- Phiền não nội tịnh,
- Rời trần ly cấu.
- Tôi thật chính là,
- Đệ tử Thế Tôn.
- Do dự đoạn trừ,
- Biết vừa, biết đủ,
- Thế lợi tuyệt không,
- Tâm tư hoan hỷ,
- Làm Sa-môn hạnh,
- Sanh ở nhân gian,
- Thân này sau cùng,
- Làm người nhân thế.
- Bậc Thánh cao nhất,
- Rời trần ly cấu.
- Tôi thật chính là,
- Đệ tử Thế Tôn.
- Không tâm do dự,
- Khéo hành thiện xảo.
- Bậc trì giới luật,
- Điều ngự tối thượng.
- Là Vô Thượng Sĩ,
- Sáng chói hào quang,
- Nghi hoặc đoạn trừ,
- Soi sáng mọi nơi.
- Kiêu mạn đoạn tận,
- Vô nhân anh hùng.
- Tôi thật chính là
- Đệ tử Thế Tôn.
- Ngài bậc Ngưu Vương,
- Tâm tư vô lượng,
- Thâm sâu khôn lường
- Bậc thánh Mâu ni,
- Tác thành an ổn,
- Bậc có Trí tuệ,
- An trú Pháp vị,
- Tự phòng hộ thân,
- Vượt qua tham ái,
- Bậc Giải Thoát Trí.
- Tôi thật chính là,
- Đệ tử Thế Tôn.
- Ngài bậc Long Vương,
- Sống xa thế tục.
- Kiết sử đoạn trừ,
- Siêu đẳng giải thoát.
- Biện tài từ tốn,
- Trong sạch thanh tịnh,
- Cờ xí triệt hạ,
- Tham ái đoạn trừ,
- Điều ngự nhiếp phục,
- Hý luận diệt tận.
- Tôi thật chính là,
- Đệ tử Thế Tôn,
- Đệ thất tiên nhân.
- Không tin lời đồn.
- Ba minh thành tựu,
- Đạt quả Phạm thiên.
- Tắm sạch thân tâm,
- Văn cú thông đạt.
- Khinh an yên ổn,
- Tránh trí chứng đắc.
- Công phá thành trì,
- Thiên chủ Đế thích.
- Tôi chính thật là,
- Đệ tử Thế Tôn.
- Ngài bậc Thánh Giả,
- Tự tu tự tập.
- Chứng điều phải chứng,
- Thuyết giảng hiện tại,
- Chánh niệm tỉnh giác,
- Thiền quán tinh tế
- Không thiên tà dục,
- Không nuôi tâm hận.
- Giao động không còn,
- Thân tâm tự tại.
- Tôi chính thật là
- Đệ tử Thế Tôn.
- Sống theo chánh đạo,
- Trầm tư Thiền tưởng,
- Nội tâm không nhiễm,
- Thanh tinh trong sạch,
- Không trước không chấp,
- Không nguyện không cầu,
- Độc cư độc tọa,
- Chứng tối thượng vị,
- Đã vượt qua dòng,
- Giúp người vượt qua.
- Tôi thật chính là
- Đệ tử Thế Tôn,
- Bậc chứng tịch tịnh,
- Trí tuệ vô biên,
- Trí tuệ quảng đại,
- Tham ái đoạn tận.
- Ngài là Như Lai,
- Ngài là Thiện Thệ,
- Không người sánh bằng,
- Không ai đồng đẳng,
- Giàu đức tự tin,
- Viên mãn thành tựu.
- Tôi thật chính là,
- Đệ tử Thế Tôn
- Tham ái đoạn tận,
- Giác ngộ chánh giác,
- Khói mù tiêu tan,
- Ô uế trừ sạch
- Xứng đáng cúng dường,
- Dạ xoa thanh tịnh.
- Vô thượng Thánh nhân,
- Không thể cân lường
- Đại nhân Đại giác
- Đạt đến danh xưng.
- Tôi thật chính là,
- Đệ tử Thế Tôn.
– Này Gia chủ, Ông chất chứa những
ưu điểm này về Sa-môn Gotama từ bao giờ ?
– Thưa Tôn giả, ví như một đống
hoa, có nhiều loại khác nhau; người làm vòng hoa thiện xảo hay người đệ
tử làm vòng hoa có thể kết thành một vòng hoa có những loại hoa sai biệt.
Cũng vậy, thưa Tôn giả, Thế Tôn có nhiều đức tánh, có hàng trăm đức
tánh. Thưa Tôn giả, và ai lại không tán thán những bậc đáng tán thán !
Vì Nigantha Nataputta không thể nghe lời
tán thán Thế Tôn, nên ngay tại chỗ ấy đã thổ ra huyết nóng.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở giữa dân
chúng Koliya Haliddavasana là tên một thị trấn của dân chúng Koliya. Rồi
Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, và lõa thể Seniya, hành trì hạnh con
chó, cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con
bò, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Còn lõa thể Seniya,
hành trì hạnh con chó, nói lời hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên lời
hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên, ngồi chõ hỏ như con chó.
Sau khi ngồi một bên, Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya,
hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng
xuống đất, chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài,
vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào ?
– Thôi vừa rồi Punna, hãy dừng lại
đây, chớ có hỏi Ta nữa.
Lần thứ hai... (như trên)... Lần
thứ ba Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya
hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng
dưới đất, chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài,
vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào ?
– Này Punna, thật sự Ta đã không
chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói: "Thôi vừa rồi Punna, hãy dừng
lại đây, chớ có hỏi Ta nữa". Tuy vậy, Ta sẽ trả lời cho Ông. Ở
đây, này Punna, người nào hành trì hạnh con chó một cách hoàn toàn viên
mãn, hành trì giới con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì tâm con
chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì uy nghi con chó một cách hoàn
toàn viên mãn, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh thân hữu cùng với các
loài chó. Nếu Ông ấy có tà kiến như sau: "Do giới này, hạnh này, khổ
hạnh này, hay phạm hạnh này, ta sẽ sanh thành chư Thiên này, hay chư Thiên
khác", thời này Punna, đối với kẻ có tà kiến, Ta nói có một trong
hai sanh thú như sau: địa ngục hay bàng sanh. Như vậy, này Punna, nếu hạnh
con chó được thành tựu, thời được sanh trong loài chó, nếu không được
thành tựu, thời được sanh trong địa ngục.
Khi được nói vậy, lõa thể
Seniya, hành trì hạnh con chó, khóc than chảy nước mắt. Rồi Thế Tôn nói
với Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò:
– Này Punna, Ta đã không chấp nhận
(câu hỏi) của ông và đã nói: "Thôi vừa rồi Punna, hãy dừng lại đây,
chớ có hỏi Ta nữa".
– Bạch Thế Tôn, con khóc như vậy
không phải vì lời Thế Tôn nói về con. Nhưng vì bạch Thế Tôn, con đã
chấp nhận và hành trì hạnh con chó này trong một thời gian dài. Bạch Thế
Tôn, Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò này, đã chấp nhận và hành trì
hạnh con bò này, trong một thời gian dài, vậy sanh thú của ông ấy thế
nào, vận mạng của ông ấy thế nào ?
– Thôi vừa rồi Seniya, hãy dừng
lại đây, chớ có hỏi Ta nữa.
Lần thứ hai... (như trên)... Lần
thứ ba, lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Punna Koliyaputta
này đã chấp nhận và hành trì hạnh con bò này trong một thời gian dài, vậy
sanh thú của ông ấy thế nào, vận mạng của ông ấy thế nào ?
– Này Seniya, thật sự Ta đã
không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói: "Thôi vừa rồi
Seniya, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa". Tuy vậy ta sẽ trả lời
cho Ông. Ở đây, này Seniya, người nào hạnh trì hạnh con bò một cách
hoàn toàn viên mãn, hành trì giới con bò một cách hoàn toàn viên mãn,
hành trì tâm con bò một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì uy nghi con bò một
cách hoàn toàn viên mãn, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh thân hữu cũng
với các loài bò. Nếu Ông ấy có tà kiến như sau: "Do giới này, hạnh
này, khổ hạnh này, hay phạm hạnh này, ta sẽ sanh thành chư Thiên này hay
chư Thiên khác", thời này Seniya, đối với kẻ có tà kiến, Ta nói có
một trong hai sanh thú như sau: địa ngục hay bàng sanh. Như vậy, này Seniya,
nếu hạnh con bò được thành tựu, thời được sanh trong loài bò, nếu
không được thành tựu, thời được sanh trong địa ngục.
Khi được nói vậy, Punna
Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, khóc than, chảy nước mắt. Rồi Thế Tôn
nói với lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó:
– Này Seniya, Ta đã không chấp nhận
(câu hỏi) của Ông và đã nói: "Thồi vừa rồi Seniya, hãy dừng lại
đây, chớ có hỏi Ta nữa".
– Bạch Thế Tôn, con khóc như vậy
không phải vì lời Thế Tôn nói về con. Nhưng vì, bạch Thế Tôn, con đã
chấp nhận và hành trì hạnh con bò này trong một thời gian dài. Bạch Thế
Tôn, con có lòng tin tưởng đối với Thế Tôn: Thế Tôn có thể thuyết
pháp cho con để con có thể từ bỏ hạnh con bò này và để lõa thể
Seniya, hành trì hạnh con chó có thể bỏ hạnh con chó này.
– Này Punna, hãy nghe và khéo tác
ý, Ta sẽ nói:
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Punna Koliyaputta vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
– Này Punna có bốn loại nghiệp
này, Ta đã tự chứng tri, chứng ngộ và tuyên thuyết. Thế nào là bốn ?
Này Punna, có nghiệp đen (đưa đến) quả báo đen, này Punna, có nghiệp trắng
(đưa đến) quả báo trắng, này Punna, có nghiệp đen trắng (đưa đến) quả
báo đen trắng, này Punna, có nghiệp không đen trắng (đưa đến) quả báo
không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp. Và này
Punna, thế nào là nghiệp đen đưa đến quả báo đen ? Ở đây, này Punna
có người tạo ra thân hành có tổn hại, tạo ra khẩu hành có tổn hại,
tạo ra ý hành có tổn hại. Sau khi tạo ra thân hành có tổn hại, khẩu
hành có tổn hại, ý hành có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới
có tổn hại. Vì phải sanh vào thế giới có tổn hại, vị này cảm xúc
những cảm xúc có tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc có tổn hại, vị
này cảm thọ những cảm thọ có tổn hại, thuần nhất khổ thọ, như các
chúng sanh trong địa ngục. Như vậy, này Punna, là sự sanh khởi của một
chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành
động của mình, và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích
thích mình. Do vậy, này Punna, Ta nói: "Các chúng sanh là thừa tự hạnh
nghiệp (của mình)". Như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp đen
đưa đến quả báo đen. Và này Punna, thế nào là nghiệp trắng (đưa đến)
quả báo trắng ? Ở đây, này Punna, có người làm thân hành không không
có tổn hại, làm khẩu hành không có tổn hại, làm ý hành không không có
tổn hại. Sau khi làm thân hành không không có tổn hại, khẩu hành không
không có tổn hại, ý hành không không có tổn hại, vị này được sanh vào
thế giới không không có tổn hại. Vì phải sanh vào thế giới không
không có tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc không không có tổn hại.
Do cảm xúc những cảm xúc không không có tổn hại, vị này cảm thọ những
cảm thọ không không có tổn hại, thuần nhất lạc thọ, như chư Thiên
Subhakinha (Biến Tịnh thiên). Như vậy này Punna là sự sanh khởi của một
chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành
động của mình; và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích
thích chúng sanh ấy. Do vậy, này Punna, Ta nói: "Các chúng sanh là thừa
tự hạnh nghiệp (của mình)". Như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp
trắng đưa đến quả báo trắng. Và này Punna, thế nào là nghiệp trắng
đen đưa đến quả báo trắng đen ? Ở đây, này Punna, có người làm các
thân hành có tổn hại và không tổn hại, các khẩu hành có tổn hại và
không tổn hại, các ý hành có tổn hại và không tổn hại. Sau khi làm
các có tổn hại không tổn hại, thân hành có tổn hại không tổn hại,
khẩu hành có tổn hại không tổn hại, ý hành có tổn hại không tổn hại,
vị này được sanh vào thế giới có tổn hại không tổn hại. Vì phải
sanh vào thế giới có tổn hại không tổn hại, vị này cảm xúc những cảm
xúc có tổn hại không tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc có tổn hại
không tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ có tổn hại không tổn
hại, có lạc thọ khổ thọ xen lẫn, như một số loài Người, một số
chư Thiên và một số chúng sanh trong đọa xứ. Như vậy, này Punna là sự
sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi
tùy thuộc hành động của mình; và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm
xúc kích thích chúng sanh ấy. Do vậy, này Punna, Ta nói: "Các chúng sanh
là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)". Như vậy này Punna, được gọi
là nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng. Và này Punna, thế nào
là nghiệp không đen trắng, đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp
đưa đến sự đoạn tận các nghiệp ? Ở đây, này Punna chỗ nào có ý
chí (Cetana: Tư tâm sở) đoạn trừ nghiệp đen đưa đến quả báo đen, chỗ
nào có ý chí đoạn trừ nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng, chỗ
nào có ý chí đoạn trừ nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng.
Và này Punna, thế nào là nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không
đen trắng, đưa đến sự đoạn tận các nghiệp ? Ở đây, này Punna, chỗ
nào có ý chí như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp không đen trắng
đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các
nghiệp. Này Punna, bốn loại nghiệp này, Ta đã tự chứng tri, chứng ngộ
và tuyên thuyết.
Khi được nói vậy, Punna
Koliyaputta, hành trì hạnh con bò bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn ! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Bạch Thế Tôn, như người dựng
đứng lại... (như trên)... mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay trở
đi cho đến mạng chung con trọn đời quy ngưỡng.
Còn lõa thể Seniya, hành trì hạnh
con chó, bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn ! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Bạch Thế Tôn, như người dựng
đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che
kín, chỉ đường cho những người đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong
bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp
đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con xin
quy y Thế Tôn quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn cho con
được xuất gia với Thế Tôn, mong cho con thọ đại giới.
– Này Seniya, ai trước kia là ngoại
đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong pháp và luật này phải
sống bốn tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt trú, chúng Tăng nếu
đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng
Ta nhận thấy ở đây là tánh con người sai biệt nhau.
– Bạch Thế Tôn, nếu những người
xưa kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong pháp
và luật này, phải sống bốn tháng biệt trú, sau khi sống bốn tháng biệt
trú chúng Tăng nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới, để thành
vị Tỷ-kheo, thời con sẽ sinh sống biệt trú bốn năm. Sau khi sống biệt
trú bốn năm, nếu chư Tỷ-kheo đồng ý, mong chư Tỷ-kheo hãy xuất gia cho
con, thọ đại giới cho con để thành vị Tỷ-kheo.
Và lõa Thể Seniya, hành trì hạnh
con chó được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới. Thọ đại
giới không bao lâu, Tôn giả Seniya sống một mình an tịnh, không phóng dật
nhiệt tâm, tinh cần. Và không bao lâu vị này chứng được mục đích tối
cao mà con cháu các lương gia đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia
đình hướng đến. Đó là vô thượng phạm hạnh ngay trong hiện tại, tự
mình chứng tri, chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy biết: "Sanh
đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ
không có đời sống khác nữa". Và Tôn giả Seniya trở thành một vị
A-la-hán nữa.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Rajagaha
(Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), Kalandakanivapa (chỗ nuôi các con sóc). Rồi Vương
tử Abhaya (Vô Úy) đi đến Nigantha Nataputta, sau khi đến đảnh lễ Nigantha
Nataputta rồi ngồi xuống một bên. Nigantha Nataputta nói với Vương tử
Abhaya đang ngồi một bên:
– Này Vương tử, Vương tử hãy
đi đến luận chiến với Sa-môn Gotama, và nhờ vậy tiếng đồn tốt đẹp
sau đây được truyền đi cho Vương tử: "Sa-môn Gotama có thần lực như
vậy, có uy lực như vậy, đã bị Vương tử Abhaya luận chiến".
– Thưa Tôn giả, làm thế nào con
có thể luận chiến Sa-môn Gotama có thần lực như vậy, có uy lực như vậy
?
– Này Vương tử, hãy đi đến
Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy nói với Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy nói với
Sa-môn Gotama như sau: "Bạch Thế Tôn, Như Lai có thể nói lời nói, do lời
nói ấy những người khác không ưa, không thích chăng ?" Nếu Sa-môn
Gotama được Vương tử hỏi như vậy và trả lời như sau: "Này Vương
tử, Như Lai có thể nói lời nói, do lời nói ấy những người khác không
ưa, không thích", thời Vương tử hãy nói với Sa-môn Gotama: "Bạch
Thế Tôn, nếu xử sự như vậy thời có gì sai khác giữa kẻ phàm phu và
Ngài ? Kẻ phàm phu có thể nói lời nói, do lời nói ấy những người khác
không ưa không thích". Còn nếu Sa-môn Gotama được Vương tử hỏi như
vậy và trả lời như sau: "Này Vương tử, Như Lai không có thể nói lời
nói, do lời nói ấy những người khác không ưa, không thích", thời Vương
tử hãy nói với Sa-môn Gotama: "Bạch Thế Tôn, nếu xử sự như vậy,
thời vì sao Devadatta được Ngài trả lời như sau: "Devadatta phải đoạ
vào đọa xứ, Devadatta phải đọa vào đingục, Devadatta phải đọa trong
một kiếp Devadatta không thể nào cứu chữa được?" Và do Ngài nói những
lời như vậy, Devadatta phẫn nộ, không hoan hỷ". Này Vương tử, Sa-môn
Gotama khi bị Vương tử hỏi câu hỏi hai móc như vậy, sẽ không có thể
nhả ra, cũng không có thể nuốt vào. Ví như một móc sắt bị móc vào cổ
họng một người nào, người ấy không có thể nhả ra, cũng không có thể
nuốt vào được. Cũng vậy, này Vương tử, Sa-môn Gotama khi vị Vương tử
hỏi câu hỏi hai móc như vậy, sẽ không có thể nhả ra, cũng không có thể
nuốt vào.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Vương tử Abhaya vâng đáp Nigantha
Nataputta, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Nigantha Nataputta, thân bên hữu
hướng về ông rồi đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, liền đảnh lễ Thế
Tôn và ngồi xuống một bên. Vương tử Abhaya đang ngồi một bên, nhìn mặt
trời rồi suy nghĩ: "Hôm nay, không phải thời để luận chiến với
Sa-môn Gotama. Ngày mai, ta sẽ luận chiến với Sa-môn Gotama tại nhà của
ta," liền bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, ngày mai mong Thế
Tôn nhận lời dùng cơm, với Ngài là người thứ tư.
Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi Vương
tử Abhaya, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã mãn,
vào buổi sáng đắp y, cầm theo y bát, đi đến chỗ của Vương tử Abhaya,
sau khi đến liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi Vương tử Abhaya tự
tay mời mọc, làm cho Thế Tôn thỏa mãn với những món ăn thượng vị, loại
cứng và loại mềm. Vương tử Abhaya chờ cho Thế Tôn sau khi đã dùng xong,
tay đã rời khỏi bát, liền lấy một ghế thấp khác rồi ngồi xuống một
bên. Sau khi ngồi một bên, Vương tử Abhaya bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Như Lai có thể
nói những lời, do những lời ấy người khác không ưa, không thích chăng
?
– Này Vương tử, phải chăng ở
đây, (câu hỏi) có dụng ý một chiều ?
– Bạch Thế Tôn, các vị Nigantha
đã bị bại ở đây rồi.
– Này Vương tử, vì sao Vương tử
lại nói như vầy: "Bạch Thế Tôn, các vị Nigantha đã bị bại ở đây
rồi" ?
– Bạch Thế Tôn, ở đây, con đi
đến Nigantha Nataputta, sau khi đến con đảnh lễ Nigantha Nataputta rồi ngồi
xuống một bên. Bạch Thế Tôn, Nigantha Nataputta nói với con đang ngồi một
bên: "Này Vương tử, Vương tử hãy đi đến luận chiến với Sa-môn
Gotama, và nhờ vậy tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi cho
Vương tử: "Sa-môn Gotama có thần lực như vậy, có uy lực như vậy,
đã bị Vương tử Abhaya luận chiến". Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy,
con thưa với Nigantha Nataputta: "Thưa Tôn giả, nhưng làm thế nào, tôi
có thể luận chiến với Sa-môn Gotama, một vị có thần lực như vậy, có
uy lực như vậy ?" – "Này Vương tử, hãy đi đến Sa-môn Gotama,
sau khi đến hãy nói với Sa-môn Gotama như sau: "Bạch Thế Tôn, Như Lai
có thể nói lời nói, do lời nói ấy, những người khác không ưa, không
thích chăng ?" Nếu Sa-môn Gotama được Vương tử hỏi như vậy và trả
lời như sau: "Này Vương tử, Như Lai có thể nói lời nói, do lời nói
ấy, những người khác không ưa không thích", thời Vương tử hãy nói
với Sa-môn Gotama: "Bạch Thế Tôn, nếu xử sự như vậy, thời có gì
sai khác giữa kẻ phàm phu với Ngài ? Kẻ phàm phu có thể nói lời nói, do
lời nói ấy, những người khác không ưa, không thích". Còn nếu
Sa-môn Gotama được Vương tử hỏi như vậy và trả lời như sau: "Này
Vương tử, Như Lai không có thể nói lời nói, do lời nói ấy những người
khác không ưa, không thích", thời Vương tử hãy nói với Sa-môn Gotama:
"Bạch Thế Tôn, nếu còn xử sự như vậy, thời vì sao Devadatta được
Ngài trả lời như sau: Devadatta phải đọa vào đọa xứ, Devadatta phải đọa
vào địa ngục, Devadatta phải đọa trong một kiếp, Devadatta không thể
nào cứu chữa được. ? Và vì Ngài nói những lời như vậy, Devadatta phẫn
nộ, không hoan hỷ". Này Vương tử, Sa-môn Gotama, khi bị Vương tử hỏi
câu hỏi hai móc như vậy, sẽ không thể nhả ra, cũng không thể nuốt
vào. Vì như một móc sắt bị mắc vào cổ họng của một người nào, người
ấy không có thể nhả ra, cũng không có thể nuốt vào được. Cũng vậy,
này Vương tử, Sa-môn Gotama, khi bị Vương tử hỏi câu hỏi hai móc như vậy,
sẽ không có thể nhả ra, cũng không có thể nuốt vào".
Lúc bấy giờ, có đứa con nít
ngây thơ nằm giữa trên đầu gối của Vương tử Abhaya. Rồi Thế Tôn
nói với Vương tử Abhaya:
– Này Vương tử, Vương tử nghĩ
thế nào ? Nếu đứa con nít này, do sự vô ý của Vương tử, hay do sự vô
ý của người vú hầu, thọc một cây gậy hay nuốt một hòn đá vào trong
miệng, vậy Vương tử phải làm gì ?
– Bạch Thế Tôn, con phải móc cho
ra. Bạch Thế Tôn, nếu con không thể móc ra lập tức, thời với tay trái
con nắm đầu nó lại, với tay mặt lấy ngón tay làm như cái móc, con sẽ
móc cho vật ấy ra, dầu có phải chảy máu. Vì sao vậy ? Bạch Thế Tôn,
vì con có lòng thương tưởng đứa trẻ.
– Cũng vậy, này Vương tử, lời
nói nào Như Lai biết không như thật, không như chân, không tương ứng với
mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không
thích, thời Như Lai không nói lời nói ấy. Lời nói nào Như Lai biết là
như thật, như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến
những người khác không ưa, không thích, thời Như Lai không nói lời nói
ấy. Và lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với
mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không
thích, Như Lai ở đây biết thời giải thích lời nói ấy. Lời nói nào Như
Lai biết là không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích,
và lời nói ấy khiến những người khác ưa thích, Như Lại không nói lời
nói ấy. Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng
với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích, Như
Lai không nói lời nói ấy. Và lời nói nào Như Lai biết là như thật, như
chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác
ưa và thích, ở đây, Như Lai biết thời giải thích lời nói ấy. Vì sao vậy
? Này Vương tử, Như Lai có lòng thương tưởng đối với các loài hữu
tình.
– Bạch Thế Tôn, những Sát-đế-lỵ
có trí, những Bà-la-môn có trí, những Gia chủ có trí, những Sa-môn có
trí này, sau khi soạn sẵn câu hỏi, đến Như Lai và hỏi: "Bạch Thế
Tôn, không hiểu Thế Tôn có suy nghĩ trước trong trí như sau: "Nếu có
những ai đến Ta và hỏi như vậy, được hỏi như vậy, Ta sẽ trả lời
như vậy", hay Như Lai trả lời ngay (tại chỗ) ?"
– Này Vương tử, nay ở đây Ta sẽ
hỏi Vương tử, nếu Vương tử hoan hỷ, hãy trả lời câu hỏi ấy. Này Vương
tử, Vương tử nghĩ như thế nào ? Vương tử có giỏi về các bộ phận
sai biệt một cái xe không ?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, con
có giỏi về các bộ phận sai biệt một cái xe.
– Thưa Vương tử, Vương tử nghĩ
thế nào ? Nếu có những người đến Vương tử và hỏi như sau: "Bộ
phận này của cái xe tên gọi là gì ?", không hiểu Vương Tử có suy
nghĩ trước trong trí như sau: "Nếu có những ai đến ta, và hỏi ta như
vậy, ta sẽ trả lời cho họ như vậy", hay là Vương tử trả lời
ngay (tại chỗ) ?
– Bạch Thế Tôn, vì con là người
đánh xe nổi tiếng, rất giỏi về các bộ phận sai biệt trong một cái xe
nên con sẽ trả lời ngay (tại chỗ).
– Cũng vậy, này Vương tử, những
Sát-đế-lỵ có trí, những Bà-la-môn có trí, những Gia chủ có trí, những
Sa-môn có trí này, sau khi soạn sẵn câu hỏi, đến Như Lai và hỏi, như
Như Lai sẽ trả lời ngay (tại chỗ). Vì sao vậy ? Thưa Vương tử, pháp giới
(Dhammadhatu) đã được Như Lai khéo biết. Và vì Như Lai khéo biết pháp giới
nên Như Lai trả lời ngay (tại chỗ).
Khi được nói vậy, Vương tử
Abhaya bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn ! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Bạch Thế Tôn, như người dựng
đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che
kín, chỉ đường cho kẻ đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối
để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được
Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày.
Nay con quy y Thế Tôn, quy y Pháp và
quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhân con làm cư sĩ, từ nay cho đến
mạng chúng, con trọn đời quy ngưỡng.