- Kinh Trung bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
Phần XXVI
(121) Kinh Tiểu không
(122) Kinh Đại không
(123) Kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp
(124) Kinh Bạc-câu-la
(125) Kinh Điều ngự địa
(126) Kinh Phù-di
- (Culasunnatasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi
(Xá-vệ), tại Pubbarama (Đông Viên), lâu đài của Migaramatu (Lộc Mẫu). Rồi
Tôn giả Ananda, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi
đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một
bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn :
- Một thời, bạch Thế Tôn, Thế
Tôn trú giữa các Sakka (Thích-ca). Nagaraka là tên một thị trấn của các
Sakka. Tại đấy, bạch Thế Tôn, con được nghe trước mặt Thế Tôn, con
được ghi nhớ trước mặt (Thế Tôn) như sau : "Này Ananda, Ta nhờ an
trú không, nên nay an trú rất nhiều". Phải chăng, bạch Thế Tôn, điều
con đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng ?
– Thật vậy, này Ananda, điều
Ông đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng. Thuở
xưa và nay, này Ananda, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều. Ví như
lâu đài Lộc Mẫu này không có voi, bò, ngựa, ngựa cái, không có vàng và
bạc, không có đàn bà, đàn ông tụ hội, và chỉ có một cái không phải
không, tức là sự nhất trí (ekattam) do duyên chúng Tỷ-kheo; cũng vậy, này
Ananda, Tỷ-kheo không tác ý thôn tưởng, không tác ý nhơn tưởng, chỉ tác
ý sự nhất trí, do duyên lâm tưởng. Tâm của vị ấy được thích thú
hân hoan, an trú, hướng đến lâm tưởng. Vị ấy tuệ tri như sau : "Các
ưu phiền do duyên thôn tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên
nhân tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là
sự nhất trí do duyên lâm tưởng". Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng
này không có thôn tưởng". Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này
không có nhân tưởng". Và chỉ có một cái này không phải không, tức
là sự nhất trí (ekattam) do duyên lâm tưởng". Và cái gì không có mặt
ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại,
ở đây, vị ấy tuệ tri : "Cái kia có, cái này có". Như vậy, này
Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo,
sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không tác ý nhân tưởng, không tác ý lâm tưởng, chỉ tác ý sự nhất
trí do duyên địa tưởng. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng
đến địa tưởng. Ví như, này Ananda, tấm da con bò đực được căng thẳng
trên một trăm cọc gỗ, đặc tánh tấm da được đoạn trừ (vigatavasika
?); cũng vậy, này Ananda, Tỷ-kheo, không tác ý đối với tất cả vật gì
trên đất này: đất khô và vùng lầy, sông và vùng lầy, các cây có thân
và có gai, núi và đất bằng, vị ấy tác ý sự nhất trí do duyên địa
tưởng. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến địa
tưởng. Vị ấy tuệ tri như sau : "Các ưu phiền do duyên nhân tưởng
không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên lâm tưởng không có mặt ở
đây. Và chỉ có một ưu phiền này, sự nhất trí do duyên địa tưởng".
Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này không có nhơn tưởng". Vị ấy
tuệ tri : "Loại tưởng này không có lâm tưởng, và chỉ có một cái
này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên địa tưởng". Và
cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối
với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri : "Cái kia có, cái này
có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có,
không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo không
tác ý lâm tưởng, không tác ý địa tưởng, tác ý sự nhất trí do duyên
Không vô biên xứ. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng
đến Không vô biên xứ. Vị ấy tuệ tri như sau : "Các ưu phiền, do
duyên lâm tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên địa tưởng
không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất
trí do duyên Không vô biên xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng
này không có lâm tưởng". Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này
không có địa tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là
sự nhất trí do duyên Không vô biên xứ tưởng". Và cái gì không có mặt
ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại,
ở đây vị ấy biết : "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái
này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực
hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo không
tác ý địa tưởng, không tác ý Không vô biên xứ tưởng, chỉ tác ý sự
nhất trí do duyên Thức vô biên xứ. Tâm vị ấy được thích thú, hân
hoan, an trú, hướng đến Thức vô biên xứ. Vị ấy tuệ tri như sau :
"Các ưu phiền do duyên địa tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền
do duyên Không vô biên xứ tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một
ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Thức vô biên xứ tưởng".
Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này không có địa tưởng". Vị
ấy tuệ tri : "Loại tưởng này không có Không vô biên xứ tưởng, và
chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên Thức
vô biên xứ tưởng". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái
ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri :
"Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là
như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh,
không tánh.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo không
tác ý Không vô biên xứ tưởng, không tác ý Thức vô biên xứ tưởng, chỉ
tác ý sự nhất trí do duyên Vô sở hữu xứ tưởng. Tâm vị ấy được
thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô sở hữu xứ. Vị ấy tuệ tri
như sau : "Các ưu phiền do duyên Không vô biên xứ tưởng không có mặt
ở đây; các ưu phiền do duyên Thức vô biên xứ tưởng không có mặt ở
đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Vô sở
hữu xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này không có
Không vô biên xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này
không có Thức vô biên xứ tưởng, và chỉ có một cái này không phải
không, tức là sự nhất trí do duyên Vô sở hữu xứ tưởng". Và cái
gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với
cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri : "Cái kia có, cái này có".
Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo,
sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo không
tác ý Thức vô biên xứ tưởng, không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, chỉ
tác ý sự nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tâm vị ấy được
thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vị
ấy biết như sau : "Các ưu phiền do duyên Thức vô biên xứ tưởng không
có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên Vô sở hữu xứ tưởng không có mặt
ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Phi
tưởng phi phi tưởng xứ tưởng. Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này
không có Thức vô biên xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng
này không có Vô sở hữu xứ tưởng, và chỉ có một cái này không phải
không, tức là sự nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng.
Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối
với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri : "Cái kia có, cái này
có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có,
không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo không
tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không có tác ý Phi tưởng phi phi tưởng xứ,
tác ý sự nhất trí do duyên Vô tướng tâm định Tâm vị ấy được thích
thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng tâm định. Vị ấy tuệ tri
như sau : "Các ưu phiền do duyên Vô sở hữu xứ tưởng không có mặt
ở đây; các ưu phiền do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ không có mặt
ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sáu nhập duyên mạng,
duyên với thân này". Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này không có
Vô sở hữu xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này
không có Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng. Và chỉ có một cái này
không phải không, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này".
Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối
với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này
có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có,
không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Lại nữa, này Ananda, vị Tỷ-kheo
không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không tác ý Phi tưởng phi phi tưởng
xứ tưởng, tác ý sự nhứt trí do duyên Vô tướng tâm định. Tâm vị ấy
được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng tâm định. Vị
ấy tuệ tri như sau : "Vô tướng tâm định này thuộc hữu vi, do tâm tư
tạo nên. Phàm cái gì thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên, cái ấy là vô thường,
chịu sự đoạn diệt", vị ấy tuệ tri như vậy. Do vị ấy tuệ tri
như vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được
giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong
sự giải thoát, là sự hiểu biết (nana) rằng đã được giải thoát. Vị
ấy tuệ tri : "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên
làm đã làm, không còn phải trở lại trạng thái này nữa". Vị ấy
tuệ tri : "Các ưu phiền do duyên dục lậu không có mặt ở đây; các
ưu phiền do duyên hữu lậu không có mặt có ở đây; các ưu phiền do duyên
vô minh lậu không có mặt ở đây. Và chỉ ở một ưu phiền này, tức là
sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này". Vị ấy tuệ tri : "Loại
tưởng này không có dục lậu". Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này
không có hữu lậu". Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này không có
vô minh lậu. Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập
duyên mạng, duyên với thân này". Và cái gì không có mặt ở đây, vị
ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy
biết : "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị
ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn
thanh tịnh, Không tánh.
Này Ananda, phàm có những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào trong quá khứ sau khi chứng đạt, đã an trú cứu cánh vô thượng
thanh tịnh Không tánh (Sunnatam), tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt đều
chỉ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh này. Này Ananda, phàm
có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong tương lai, sau khi chứng đạt sẽ an
trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh, tất cả các vị ấy sau
khi chứng đạt đều sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh
này. Này Ananda, phàm có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong hiện tại, sau
khi chứng đạt và an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh, tất
cả các vị ấy sau khi chứng đạt nếu an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh
Không tánh này. Do vậy, này Ananda, sau khi chứng đạt Ta sẽ an trú cứu
cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh. Như vậy, này Ananda, các Ông cần phải
học tập.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn
giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- (Mahasunnatasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn trú giữa các
dòng họ Sakka (Thích-ca), tại Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở tu viện Nigrodha
(Ni-câu-luật Thọ Viên). Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát,
đi vào Kapilavatthu để khất thực. Sau khi đi khất thực ở Kapilavatthu, ăn
xong, trên đường đi khất thực trở về, Thế Tôn đi đến trú xứ của
Thích-ca Kalakhemaka để ở ban ngày. Lúc bấy giờ, tại tu viện của
Thích-ca Kalakhemaka, có sắp đặt rất nhiều sàng tọa. Thế Tôn thấy rất
nhiều sàng tọa tại trú xứ của Thích-ca Kalakhemaka, thấy vậy Thế Tôn
suy nghĩ : "Rất nhiều sàng tọa được sắp đặt tại tu viện của Thích-ca
Kalakhemaka. Không biết ở đấy có rất nhiều Tỷ-kheo ở không ?"
Lúc bấy giờ Tôn giả Ananda cùng với
rất nhiều vị Tỷ-kheo đang làm y (civarakamma) ở trú xứ của Thích-ca
Ghataya.
Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ
Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến trú xứ của Thích-ca Ghataya, sau
khi đến liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo
Tôn giả Ananda :
– Này Ananda, có rất nhiều sàng tọa
được sắp đặt tại trú xứ của Thích-ca Kalakhemaka. Không biết có nhiều
Tỷ-kheo trú ở đấy không.
– Bạch Thế Tôn, có rất nhiều
sàng tọa được sắp đặt ở trú xứ của Thích-ca Kalakhemaka; có rất nhiều
Tỷ-kheo trú tại chỗ ấy. Bạch Thế Tôn, nay là thời chúng con làm y.
– Này Ananda, một Tỷ-kheo không
chói sáng nếu thích thú trong hội chúng của mình, nếu hân hoan trong hội
chúng của mình, nếu hoan hỷ trong hội chúng của mình, nếu thích thú
trong hội chúng của người, nếu hân hoan trong hội chúng của người, nếu
hoan hỷ trong hội chúng của người. Này Ananda, nếu Tỷ-kheo nào thích thú
trong hội chúng của mình, hân hoan trong hội chúng của mình, hoan hỷ trong
hội chúng của mình, thích thú trong hội chúng của người, hân hoan trong hội
chúng của người, hoan hỷ trong hội chúng của người, có thể là một vị
chứng đắc tùy theo ý muốn, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không
mệt nhọc, viễn ly lạc, độc cư lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc; sự
kiện như vậy không xảy ra. Nhưng này Ananda, Tỷ-kheo nào sống một mình,
xa lánh tụ hội, thời vị ấy có hy vọng chứng đắc tùy theo ý muốn, chứng
đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, viễn ly lạc, độc cư
lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc; sự kiện như vậy có thể xảy ra.
Này Ananda, nếu Tỷ-kheo nào thích thú trong hội chúng của mình, hân hoan
trong hội chúng của mình, hoan hỷ trong hội chúng của mình, thích thú
trong hội chúng của người, hân hoan trong hội chúng của người, hoan hỷ
trong hội chúng của người sẽ chứng đắc và an trú với tâm giải thoát
có hạn kỳ và thoải mái hay không có hạn kỳ và bất động; sự kiện
như vậy không xảy ra. Nhưng này Ananda, Tỷ-kheo nào sống một mình, xa
lánh tụ hội, thời vị ấy có hy vọng sẽ chứng đắc và an trú với
tâm giải thoát có hạn kỳ và thoái mái, hay không có hạn kỳ và bất động;
sự kiện như vậy có xảy ra. Này Ananda, Ta không quán thấy một sắc pháp
nào trong ấy có hoan hỷ, trong ấy có hoan lạc, chịu sự biến dịch, chịu
sự đổi khác mà không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não.
Nhưng sự (an) trú này, này Ananda,
đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, tức là sau khi không tác ý với tất
cả tướng, chứng đắc và (an) trú nội không. Và nếu này Ananda, trong khi
Như Lai an trú trong an trú này, nếu có những Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, nam cư
sĩ, nữ cư sĩ, quốc vương, đại thần, ngoại đạo, ngoại đạo đệ tử
đến yết kiến, trong khi ấy, này Ananda, Như Lai với tâm hướng đến viễn
ly, thiên về viễn ly, nặng nề viễn ly, sống độc cư, hoan hỷ trong ly dục,
làm cho đoạn tận tất cả các pháp dựa trên các lậu hoặc an trú, nói
lên tại chỗ ấy những lời thuần túy liên hệ đến khích lệ. Do vậy,
này Ananda, nếu Tỷ-kheo ước vọng : "Sau khi chứng đạt nội không, ta
sẽ an trú", vị Tỷ-kheo ấy, này Ananda, cần phải an chỉ, an tọa,
chuyên nhất và an định nội tâm.
Và này Ananda, như thế nào Tỷ-kheo
an chỉ, an tọa, chuyên nhất và an định nội tâm ? Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo
ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Sơ thiền, một trạng thái
hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, chứng và trú
Nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ,
nội tỉnh nhứt tâm... Tam thiền... chứng và trú Tứ thiền. Như vậy, này
Ananda, Tỷ-kheo an chỉ, an tọa, chuyên nhất và an định nội tâm.
Vị ấy tác ý nội không. Trong khi
vị ấy tác ý nội không, tâm không thích thú, không tịnh tín, không an
trú, không hướng đến nội không. Sự kiện là như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo
biết như sau : "Trong khi ta tác ý nội không, tâm không thích thú, không
tịnh tín, không an trú, không hướng đến nội không". Ở đây, vị
ấy ý thức rõ ràng như vậy. Vị ấy tác ý ngoại không. Vị ấy tác ý nội
ngoại không. Vị ấy tác ý bất động. Trong khi vị ấy tác ý bất động
thời tâm không thích thú, không tịnh tín, không an trú, không hướng đến
bất động". Sự kiện là như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo biết như sau :
"Trong khi ta tác ý bất động, tâm không thích thú, không tịnh tín,
không an trú, không hướng đến bất động". Ở đây, vị ấy ý thức
rõ ràng như vậy. Này Ananda, Tỷ-kheo ấy cần phải an trú, an tọa, chuyên
nhất, và an định nội tâm trên định tướng (samadhinimitte) đã đề cập
về trước ấy. Vị ấy tác ý nội không. Trong khi vị ấy tác ý nội
không, tâm thích thú, tịnh tín, an trú, hướng đến nội không. Sự kiện
là như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo biết như sau : "Trong khi ta tác ý nội
không, tâm thích thú, tịnh tín, an trú, hướng đến nội không". Ở đây,
vị ấy ý thức rõ ràng như vậy. Vị ấy tác ý ngoại không. Vị ấy tác
ý nội ngoại không. Vị ấy tác ý bất động. Trong khi vị ấy tác ý bất
động, tâm thích thú, tịnh tín, an trú hướng đến bất động. Sự kiện
là như vậy, này Ananda, vị Tỷ-kheo biết như sau : "Trong khi ta tác ý bất
động, tâm thích thú, tịnh tín, an trú, hướng đến bất động". Ở
đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Này Ananda, nếu Tỷ-kheo ấy đang an
trú trong an trú này, tâm vị ấy hướng đến đi kinh hành, vị ấy đi kinh
hành (cankamati), và nghĩ rằng: "Trong khi ta đang đi kinh hành, thời tham
và ưu, các ác bất thiện pháp không có chảy vào". Ở đây, vị ấy
ý thức rõ ràng như vậy. Này Ananda, nếu Tỷ-kheo đang an trú trong an trú
này, tâm vị ấy hướng đến đứng lại, vị ấy đứng lại và nghĩ rằng
: "Trong khi ta đang đứng lại thời tham và ưu, các ác bất thiện pháp
không có chảy vào". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Này Ananda, nếu trong khi Tỷ-kheo ấy
an trú trong sự an trú này, tâm vị ấy hướng đến ngồi, vị ấy ngồi và
nghĩ rằng : "Trong khi ta đang ngồi, tham và ưu, các ác bất thiện pháp
không có chảy vào". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy. Này
Ananda, nếu trong khi Tỷ-kheo ấy an trú trong sự an trú này, tâm vị ấy hướng
đến nằm, vị ấy nằm và nghĩ rằng : "Trong khi ta đang nằm, thời
tham và ưu, các ác bất thiện pháp không chảy vào". Ở đây, vị ấy
ý thức rõ ràng như vậy. Này Ananda, nếu trong khi Tỷ-kheo ấy an trú trong
sự an trú này, tâm vị ấy hướng đến nói, vị ấy suy nghĩ như sau :
"Ta sẽ không nói những câu chuyên hạ liệt, đê tiện, thuộc phàm
phu, không thuộc bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích, không đưa đến
yếm ly, ly dục, đoạn tiệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ. Niết-bàn, như
quốc vương luận, đạo tặc luận, đại thần luận, quân luận, bố úy
luận, chiến tranh luận, thực vật luận, ẩm liệu luận, y phục luận, ngọa
cụ luận, hoan man luận, hương liệu luận, thân thích luận, xa thừa luận,
thôn luận, thị trấn luận, đô thị luận, quốc độ luận, nữ luận,
anh hùng luận, hạng trung luận, thủy bình xứ luận, tiên linh luận, sai biệt
luận, thế giới luận, hải thuyết luận, hữu vô hữu luận. Ở đây, vị
ấy ý thức rõ ràng như vậy. Nhưng này Ananda, đối với những lời nói
nào khắc khổ, khai tâm, đưa đến nhứt hướng yếm ly, ly tham, đoạn diệt,
an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, như thiểu dục luận, tri túc luận,
độc cư luận, bất chúng hội luận, tinh cần luận, giới luận, định luận,
tuệ luận, giải thoát luận, giải thoát tri kiến luận, vị ấy nghĩ :
"Ta sẽ nói các luận như vậy". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng
như vậy. Này Ananda, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi an trú với sự an trú này,
tâm hướng đến suy tầm (vitakka), vị ấy suy nghĩ : "Đối với những
suy tầm hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không thuộc bậc Thánh, không liên hệ
đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng
trí, giác ngộ, Niết-bàn, như là dục tầm, sân tầm, hại tầm, ta sẽ
không suy nghĩ các loại suy tầm ấy". Ở đây, vị ấy ý thức rõ
ràng như vậy. Nhưng này Ananda, đối với những suy tầm này, thuộc bậc
Thánh, có khả năng cầu tiến, hướng dẫn (người suy nghĩ các suy tầm
ấy) đến sự đoạn trừ hoàn toàn đau khổ, như là ly dục tầm, vô sân
tầm, bất hại tầm, vị ấy nghĩ : "Ta sẽ suy tư các loại suy tầm
này". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Này Ananda, có năm dục trưởng dưỡng
này. Thế nào là năm ? Các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả
lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức;
các hương do mũi nhận thức; các vị do lưỡi nhận thức; các xúc do thân
nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp
dẫn. Này Ananda, có năm dục trưởng dưỡng này. Từ đây Tỷ-kheo cần phải
thường thường quán sát tự tâm như sau : "Trong tâm ta, có khởi lên
tâm hành gì với xứ (ayatana) này hay xứ khác của năm dục trưởng dưỡng".
Này Ananda, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát như vậy, tuệ tri rằng:
"Trong tâm ta, có khởi lên tâm hành với xứ này hay xứ khác của năm
dục trưởng dưỡng.. ". Sự kiện là như vậy, Tỷ-kheo tuệ tri như
sau: "Dục ái (chandaraga) này đối với năm dục trưởng dưỡng đối với
ta, chưa đoạn diệt được". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Này Ananda, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát như vậy, tuệ tri rằng :
"Trong tâm ta, không có khởi lên tâm hành với xứ này hay xứ khác của
năm dục trưởng dưỡng.. ". Sự kiện là như vậy, Tỷ-kheo tuệ tri
như sau: "Dục tham này đối với năm dục trưởng dưỡng đối với
ta, đã được đoạn diệt". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Này Ananda, có năm thủ uẩn. Ở đây,
Tỷ-kheo cần phải đoạn tận chúng, khi vị ấy tùy quán sự sanh diệt. Đây
là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự đoạn diệt của sắc.
Đây là thọ, đây là sự tập khởi của thọ, đây là sự đoạn diệt của
thọ. Đây là tưởng... Đây là hành... Đây là thức, đây là sự tập
khởi của thức, đây là sự đoạn diệt của thức. Trong khi vị ấy an trú,
tùy quán sự sanh diệt của năm thủ uẩn này, nếu có ngã mạn nào
(asmimmano) (khởi lên) đối với năm thủ uẩn, ngã mạn ấy được đoạn
tận. Sự kiện là như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo tuệ tri như sau : "Phàm
có ngã mạn nào đối với năm thủ uẩn (khởi lên) nơi ta, ta đã đoạn tận
ngã mạn ấy". Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy. Những pháp
này, này Ananda, thuần nhất liên hệ đến thiện, đều thuộc hiền, Thánh,
siêu thế, vượt ngoài tầm của ác ma.
– Này Ananda, Ông nghĩ thế nào ?
Vì thấy lý do gì, một Thanh văn Đệ tử tự nghĩ là xứng đáng (hợp
lý) để đi theo một Đạo sư dầu cho bị hất hủi ?
– Bạch Thế Tôn, đối với chúng
con, các pháp dựa Thế Tôn làm căn bản, hướng Thế Tôn làm lãnh đạo,
nương tựa Thế Tôn làm y cứ. Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế Tôn
thuyết giảng cho ý nghĩa này. Sau khi được nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ
hành trì.
– Này Ananda, thật không xứng đáng
cho một đệ tử bám sát theo vị đạo sư, nếu vì lý do được nghe giải
thích khế kinh và phúng tụng. Vì cớ sao ? Trong một thời gian lâu dài,
các pháp đã được các Ông nghe, thọ trì, đọc lớn tiếng, suy tư với
ý, khéo thấu hiểu với chánh trí. Nhưng này Ananda, đối với những lời
nói nào, khắc khổ, khai tâm đưa đến nhất hướng viễn ly, ly tham, đoạn
diệt an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn như là thiểu dục luận,
tri túc luận, độc cư luận, bất chúng hội luận, tinh cần luận, giới
luận, định luận, tuệ luận, giải thoát luận, giải thoát tri kiến luận.
Này Ananda, do nhân duyên những loại thuyết luận như vậy, thật xứng đáng
cho một Thanh văn đệ tử bám sát vị Đạo sư dầu cho bị hất hủi. Sự
kiện là như vậy, này Ananda, thời có sự phiền lụy (upaddava) cho vị Đạo
sư; sự kiện là như vậy, thời có sự phiền lụy do đệ tử; sự kiện
là như vậy, thời có sự phiền lụy cho các vị tu Phạm hạnh.
Và này Ananda, như thế nào là sự
phiền lụy cho vị Đạo sư ? Ở đây, này Ananda, có Đạo sư lựa một trú
xứ (senasanam) xa vắng trong rừng, dưới gốc cây, trên sườn núi, chỗ
hoang vu, trong hang núi, tại bãi tha ma, tại khu rừng, ngoài trời hay trên một
đống rơm. Trong khi vị ấy sống viễn ly như vậy, các Bà-la-môn, gia chủ,
cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh. Được các Bà-la-môn, gia chủ,
cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh, vị ấy khởi lên nhiễm tâm, rơi
vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lui lại đời sống sung túc. Như vậy,
này Ananda, được gọi là sự phiền lụy của Đạo sư. Vì sự phiền lụy
của Đạo sư, các ác bất thiện pháp, tạp nhiễm, dẫn đến tái sanh, đáng
sợ hãi, đưa đến khổ quả dẫn đến sanh, già, chết trong tương lai, các
pháp ấy tấn công vị ấy. Như vậy, này Ananda, là sự phiền lụy của Đạo
sư.
Này Ananda, thế nào là sự phiền lụy
của đệ tử ? Này Ananda, đệ tử của một Đạo sư, bắt chước đời sống
viễn ly của Đạo sư mình, lựa một trú xứ xa vắng, trong rừng, dưới gốc
cây, trên sườn núi, chỗ hoang vu, trong hang núi, tại bãi tha ma, tại khu rừng,
ngoài trời hay trên một đống rơm. Trong khi vị ấy sống viễn ly như vậy,
các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân với quốc dân bao vây xung quanh. Được
các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây cung quanh, vị ấy
khởi lên nhiễm tâm, rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lui lại đời
sống sung túc. Như vậy, này Ananda, được gọi là sự phiền lụy của đệ
tử. Vì sự phiền lụy của đệ tử, các ác bất thiện pháp, tạp nhiễm,
dẫn đến tái sanh, đáng sợ hãi, đưa đến khổ quả, dẫn đến sanh, già,
chết trong tương lai; các pháp ấy tấn công vị ấy. Như vậy, này Ananda,
là sự phiền lụy của đệ tử.
Và này Ananda, như thế nào là sự
phiền lụy của các vị tu Phạm hạnh ? Ở đây, này Ananda, Như Lai xuất
hiện ở đời, là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật,
Thế Tôn. Ngài lựa một trú xứ xa vắng, trong rừng, dưới gốc cây, trên
sườn núi, chỗ hoang vu, trong hang núi, tại bãi tha ma, tại khu rừng, ngoài
trời hay trên một đống rơm. Trong khi Ngài sống viễn ly như vậy, các
Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh. Được các
Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh, Ngài không
khởi lên nhiễm tâm, không rơi vào dục vọng, không khởi lên tham ái,
không trở lui lại đời sống sung túc. Nhưng này Ananda, vị đệ tử của
bậc Đạo sư chủ tâm theo (hạnh) viễn ly của bậc Đạo sư, bắt chước
(theo hạnh ấy) lựa một trú xứ xa vắng, trong rừng, dưới gốc cây,
trên sườn núi, chỗ hoang vu, trong hang núi, tại bãi tha ma, tại khu rừng,
ngoài trời, trên một đống rơm. Trong khi vị ấy sống viễn ly như vậy,
các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh. Được
các Bà-la-môn, gia chủ, cả thị dân và quốc dân bao vây xung quanh, vị ấy
khởi lên nhiễm tâm, rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lại đời
sống sung túc. Như vậy, này Ananda, được gọi là sự phiền lụy của
các vị tu Phạm hạnh. Vì sự phiền lụy của Phạm hạnh, các ác bất thiện
pháp, tạp nhiễm, dẫn đến tái sanh đáng sợ hãi, đưa đến khổ quả, dẫn
đến sanh, già, chết trong tương lai, các pháp ấy tấn công vị ấy. Như vậy,
này Ananda, là sự phiền lụy của các vị tu Phạm hạnh.
Nhưng này Ananda, sự phiền lụy của
các vị tu Phạm hạnh là nhiều quả khổ hơn, nhiều quả não hơn đối với
phiền lụy của Đạo sư này và phiền lụy của đệ tử này, hơn nữa nó
dẫn đến đọa lạc. Do vậy, này Ananda, hãy đối xử với Ta, với tâm
thân hữu, không với tâm thù nghịch, và như vậy các Ông sẽ được hạnh
phúc an lạc lâu dài. Và như thế nào là các đệ tử đối xử vị Đạo
sư với tâm thù nghịch, không với tâm thân hữu ? Ở đây, này Ananda, vị
Đạo sư ấy với lòng từ mẫn thuyết pháp cho các đệ tử, mong cầu hạnh
phúc cho họ, vì lòng từ mẫn nói rằng : "Đây là hạnh phúc cho các
Ông, đây là an lạc cho các Ông". Nhưng các đệ tử của vị ấy không
chịu nghe theo, không chịu lóng tai, chú tâm vào hướng khác (annan), ngược
lại, họ đi xa lời giảng dạy của vị Đạo sư. Như vậy, này Ananda, là
các đệ tử đối xử với bậc Đạo sư, với tâm thù nghịch, không với
tâm thân hữu. Và như thế nào, này Ananda, là các đệ tử đối xử với
bậc Đạo sư, với tâm thân hữu, không với tâm thù nghịch ? Ở đây,
này Ananda, vị Đạo sư với lòng từ mẫn thuyết pháp cho các đệ tử, tìm
cầu hạnh phúc cho họ, vì lòng từ mẫn nói rằng : "Đây là hạnh
phúc cho các Ông, đây là an lạc cho các Ông". Các đệ tử của vị
ấy chịu nghe theo, chịu lóng tai, không chú tâm vào hướng khác, và không
ngược lại đi xa lời dạy của bậc Đạo sư. Như vậy, này Ananda, là
các đệ tử đối xử với bậc Đạo sư, với tâm thân hữu, không phải
với tâm thù nghịch. Do vậy, này Ananda, hãy đối xử với Ta, với tâm
thân hữu, chớ với tâm thù nghịch và như vậy sẽ là hạnh phúc, là an lạc
lâu dài cho các Ông. Ta không sách tấn các Ông như người thợ gốm đối
với các đồ gốm chưa nung, chưa được nung chín. Ta sẽ nói hết lời chỉ
trích này đến lời chỉ trích khác, hết lời tán thán này đến lời tán
thán khác. Cái gì là lõi cây, cái ấy sẽ đứng vững tồn tại.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn
giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- 123. KINH
HY HỮU VỊ TẰNG HỮU PHÁP [^]
- (Acchariyabbhutadhammasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi
(Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
Rồi một số rất đông Tỷ-kheo, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực về,
đang ngồi tụ họp trong thị giả đường (upatthanasala), câu chuyện này
được khởi lên giữa chúng Tăng:
"Thật hy hữu thay chư Hiền !
Thật vị tằng hữu thay chư Hiền, là đại thần thông lực, đại uy lực
của Như Lai ! Vì Ngài biết được chư Phật quá khứ, đã nhập Niết-bàn,
đã đoạn các hý luận, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt luân
hồi, đã thoát ly mọi khổ: "Chư Thế Tôn ấy sanh tánh như vậy, danh
tánh như vậy, tộc tánh như vậy... giới hạnh như vậy... pháp hạnh như
vậy... tuệ hạnh như vậy.. trú hạnh như vậy... chư Thế Tôn ấy giải
thoát như vậy".
Khi được nghe nói như vậy, Tôn giả
Ananda nói với các Tỷ-kheo ấy : "Thật hy hữu thay chư Hiền, Như Lai
được đầy đủ các pháp hy hữu ! Thật vị tằng hữu thay chư Hiền,
Như Lai được đầy đủ các pháp vị tằng hữu !"
Và câu chuyện giữa các Tỷ-kheo
ấy bị gián đoạn. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc
cư đứng dậy, đi đến thị giả đường, sau khi đến, ngồi trên chỗ đã
soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo :
– Này các Tỷ-kheo, nay các Ông ngồi
nói chuyện gì ? Câu chuyện gì giữa các Ông bị gián đoạn ?
– Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng
con sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về, chúng con ngồi tụ họp tại
thị giả đường, câu chuyện sau đây được khởi lên : "Hy hữu thay,
chư Hiền... (như trên)... chư Thế Tôn ấy được giải thoát như vậy".
Khi được nghe nói vậy, bạch Thế Tôn, Tôn giả Ananda nói với chúng con
như sau : "Thật hy hữu thay... Như Lai được đầy đủ các pháp hy hữu
! Thật vị tằng hữu thay... Như Lai được đầy đủ các pháp vị tằng hữu
!" Câu chuyện này giữa chúng con, bạch Thế Tôn, bị gián đoạn. Rồi
Thế Tôn đến.
Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda :
– Do vậy, này Ananda, hãy nói lên
nhiều nữa, những đặc tánh hy hữu, vị tằng hữu của Như Lai.
– Bạch Thế Tôn, con tận mặt
nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn : "Chánh niệm tỉnh giác, này
Ananda, Bồ-tát sanh trong Thiên chúng (Kaya) "Tusita". Vì rằng, bạch
Thế Tôn, chánh niệm tỉnh giác Bồ-tát sanh trong Thiên chúng Tusita, con thọ
trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của
Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn : "Chánh niệm tỉnh giác, này Ananda,
Bồ-tát an trú trong Thiên chúng Tusita". Vì rằng, bạch Thế Tôn, chánh
niệm tỉnh giác, Bồ-tát an trú trong Thiên chúng Tusita, con thọ trì sự việc
này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn : "Chánh niệm tỉnh giác, này Ananda,
Bồ-tát an trú tại Thiên chúng Tusita cho đến trọn thọ mạng". Vì rằng,
bạch Thế Tôn, chánh niệm tỉnh giác, Bồ-tát an trú tại Thiên chúng
Tusita cho đến trọn thọ mạng, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn,
là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Chánh niệm, tỉnh giác này Ananda,
Bồ-tát sau khi từ Thiên chúng Tusita mạng chung, nhập vào mẫu thai".
Vì rằng, bạch Thế Tôn, chánh niệm tỉnh giác, Bồ-tát sau khi từ Thiên
chúng Tusita mạng chung, nhập vào mẫu thai, con thọ trì sự việc này, bạch
Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn : "Khi Bồ-tát nhập vào mẫu thai,
này Ananda, khi ấy một hào quang vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của
chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm có các thế giới ở trên chư
Thiên, thế giới của các Ma vương và Phạm thiên và thế giới ở dưới
gồm các vị Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Cho đến các thế
giới ở giữa các thế giới, tối tăm, u ám không có nền tảng, những cảnh
giới mà mặt trăng mặt trời với đại thần lực, với đại oai lực
như vậy cũng không thể chiếu thấu, trong những cảnh giới ấy, một hào
quang vô lượng, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh
sống tại những chỗ ấy nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói : "Cũng
có những chúng sanh khác sống ở đây". Và mười ngàn thế giới này
chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. Và hào quang vô lượng, thần
diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra ở thế giới. Vì rằng, bạch
Thế Tôn... con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một
vị tằng hữu của Thế Tôn".
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn : "Khi Bồ-tát nhập mẫu thai, này
Ananda, bốn vị Thiên tử đến canh gác bốn phương trời và nói :
"Không cho một ai, người hay không phải loài người được phiền nhiễu
Bồ-tát, hay mẹ vị Bồ-tát". Vì rằng, bạch Thế Tôn... con thọ trì
sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế
Tôn".
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn : "Khi Bồ-tát nhập mẫu thai, này
Ananda, mẹ Bồ-tát giữ giới một cách hồn nhiên, không sát sanh, không trộm
cắp, không tà dâm, không nói láo, không uống các thứ rượu nấu, rượu
lên chất men". Vì rằng, bạch Thế Tôn... con thọ trì sự việc này, bạch
Thế Tôn, là một hy hữu. là một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn : "Khi Bồ-tát nhập mẫu thai, này
Ananda, mẹ Bồ-tát không khởi dục tâm đối với một nam nhân nào, và mẹ
Bồ-tát không bị xâm phạm bởi bất kỳ người đàn ông nào có nhiễm
tâm". Vì rằng, bạch Thế Tôn... con thọ trì sự việc này, bạch Thế
Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn : "Khi Bồ-tát nhập mẫu thai, này
Ananda, mẹ vị Bồ-tát tận hưởng năm dục công đức đầy đủ, tận hưởng
trọn năm dục công đức". Vì rằng, bạch Thế Tôn... con thọ trì sự
việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế
Tôn.
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn : "Khi Bồ-tát nhập mẫu thai, này
Ananda, mẹ Bồ-tát không bị một bệnh tật gì. Bà sống với tâm hoan hỷ,
với tâm khoan khoái. Bà thấy trong bào thai của mình vị Bồ-tát đầy đủ
mọi bộ phận và chân tay. Này Ananda, ví như viên ngọc lưu ly, thanh tịnh,
thuần nhất, có tám cạnh, khéo cắt, khéo dũa, trong sáng, không tỳ vết,
hoàn hảo trong mọi phương diện. Rồi một sợi dây được xâu qua viên ngọc
ấy, dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng lợt. Nếu có
người có mắt để viên ngọc trên bàn tay của mình, người ấy sẽ thấy
rõ ràng : "Đây là viên ngọc lưu ly, thanh tịnh, thuần nhất, có tám cạnh,
khéo cắt, khéo dũa, trong sáng, không tỳ vết, hoàn hảo trong mọi phương
diện. Đây là sợi dây xâu qua, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu
trắng hay màu vàng lợt". Cũng vậy, này Ananda, khi Bồ-tát nhập mẫu
thai, mẹ Bồ-tát không bị một bệnh tật gì. Bà sống với tâm hoan hỷ,
với thân khoan khoái.
Bà thấy trong bào thai của mình vị Bồ-tát đầy đủ bộ phận và chân
tay". Vì rằng, bạch Thế Tôn... con thọ trì sự việc này, bạch Thế
Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn : "Sau khi sanh Bồ-tát bảy ngày, này
Ananda, mẹ Bồ-tát mệnh chung và sanh lên cõi trời Đâu suất". Vì rằng,
bạch Thế Tôn... con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu,
một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn : "Trong khi các người đàn bà khác,
này Ananda, mang bầu thai trong bụng chín tháng hay mười tháng rồi mới
sanh, mẹ Bồ-tát sanh Bồ-tát không phải như vậy. Mẹ Bồ-tát mang Bồ-tát
trong bụng mười tháng rồi mới sanh". Vì rằng, bạch Thế Tôn.. con thọ
trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của
Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Trong khi các người đàn bà khác,
này Ananda, hoặc ngồi hoặc nằm mà sanh con, mẹ vị Bồ-tát sanh Bồ- tát
không phải như vậy. Mẹ Bồ-tát đứng mà sanh Bồ-tát". Vì rằng bạch
Thế Tôn... con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một
vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra,
này Ananda, chư Thiên đỡ lấy Ngài trước, sau mới đến loài người".
Vì rằng, bạch Thế Tôn ... con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn là một
hy hữu, một vi tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Khi Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra,
này Ananda, Bồ-tát không đụng đến đất. Có bốn Thiên tử đỡ lấy Ngài,
đặt Ngài trước bà mẹ và thưa: "Hoàng hậu hãy hoan hỷ ! Hoàng Hậu
sanh một bậc vĩ nhân". Vì rằng, bạch Thế Tôn... con thọ trì sự việc
này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn : "Khi Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra,
này Ananda, Ngài sanh ra thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi nước nhớt nào,
không bị nhiễm ô bởi loại mủ nào, không bị nhiễm ô bởi loại máu
nào, không bị nhiễm ô bởi bất cứ vật bất tịnh nào, thanh tịnh, trong
sạch. Này Ananda, ví như một viên ngọc ma-ni bảo châu đặt trên một tấm
vải Ba-la-nại. Viên ngọc không làm nhiễm ô tấm vải Ba-la-nại, tấm vải
Ba-la-nai cũng không làm nhiễm ô hòn ngọc. Vì sao vậy ? Vì cả hai đều
thanh tịnh. Cũng vậy, này Ananda, khi Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, Ngài sanh
ra thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi nước nhớt nào, không bị nhiễm ô
bởi loại mủ nào, không bị nhiễm ô bởi loại máu nào, không bị nhiễm
ô bởi bất cứ sự vật bất tịnh nào, thanh tịnh, trong sạch". Vì rằng,
bạch Thế Tôn... con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu,
một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn : "Khi Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra,
này Ananda, hai dòng nước từ hư không hiện ra, một dòng lạnh, một dòng
nóng. Hai dòng nước ấy tắm rửa sạch sẽ cho Bồ-tát và cho bà mẹ".
Vì rằng, bạch Thế Tôn... con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một
hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn : "Bồ-tát khi sanh ra, này Ananda,
Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước
đi bảy bước, một lọng trắng được che lên. Ngài nhìn khắp cả mọi
phương lên tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau : "Ta là bậc
tối thượng ở trên đời ! Ta là bậc tối tôn ở trên đời ! Ta là bậc
cao nhất ở trên đời ! Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái
sanh ở đời này nữa". Vì rằng, bạch Thế Tôn... con thọ trì sự việc
này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn.
Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe,
con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn : "Khi Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra,
này Ananda, khi ấy một hào quang vô lượng thần diệu, thắng xa oai lực của
chư Thiên, hiện ra cùng khắp thế giới, gồm có các thế giới trên chư
Thiên, thế giới của các Ma vương và Phạm thiên, và thế giới ở dưới
gồm các Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Cho đến các cảnh giới
giữa các thế giới, tối tăm, u ám, không có nền tảng, những cảnh giới
mà mặt trăng mặt trời với đại thần lực, đại oai lực như vậy cũng
không thể chiếu thấu, trong những cảnh giới ấy một hào quang vô lượng,
thắng xa oai lực chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh sống tại các chỗ
ấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau mà nói : "Cũng có những chúng
sanh khác sống ở đây". Và mười ngàn thế giới này chuyển động,
rung động, chuyển động mạnh. Và hào quang vô lượng thần diệu, thắng
xa oai lực của chư Thiên hiện ra ở thế giới. Vì rằng, bạch Thế
Tôn... con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn là một hy hữu, một vị
tằng hữu của Thế Tôn.
– Do vậy, này Ananda, hãy thọ trì
sự việc này là một hy hữu, một vị tằng hữu của Như Lai. Ở đây,
này Ananda, các cảm thọ khởi lên nơi Thế Tôn được biết đến; được
biết đến, chúng an trú; được biết đến, chúng đi đến biến hoại; các
tưởng được biết đến; các tầm khởi lên được biết đến; được
biết đến, chúng an trú; được biết đến, chúng đi đến biến hoại. Này
Ananda, hãy thọ trì việc này là một hy hữu, một vị tằng hữu của Như
Lai.
– Vì rằng, bạch Thế Tôn, các cảm
thọ khởi lên nơi Thế Tôn được biết đến; được biết đến, chúng
an trú; được biết đến, chúng đi đến biến hoại; các tưởng được
biết đến; các tầm khởi lên được biết đến; được biết đến, chúng
an trú; được biết đến, chúng đi đến biến hoại. Bạch Thế Tôn, con
thọ trì sự việc này là một hy hữu, một vị tằng hữu của Như Lai.
Tôn giả Ananda, nói như vậy. Bậc
Đạo Sư chấp nhận. Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Ananda
nói.
- (Bakkulasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Bakkula trú ở
Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các loài sóc
(kalandakanivapa). Rồi lõa thể Kassapa, một người bạn trước kia của Tôn
giả Bakkula khi còn là cư sĩ, đi đến Tôn giả Bakkula, sau khi đến, nói
lên với Tôn giả Bakkula những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những
lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, lõa thể Kassapa nói với Tôn giả Bakkula :
Này Hiền giả Bakkula, Bạn xuất
gia đã bao lâu ?
– Đã được tám mươi năm, này
Hiền giả, từ khi tôi xuất gia.
– Hiền giả Bakkula, trong tám mươi
năm ấy, đã bao nhiêu lần, Hiền giả hành dâm dục ?
– Hiền giả Kassapa, chớ có hỏi
tôi như vậy : "Hiền giả Kassapa, trong tám mươi năm ấy, đã bao nhiều
lần Hiền giả hành dâm dục !" Hiền giả Kassapa, hãy hỏi tôi như sau
: "Hiền giả Bakkula, trong tám mươi năm ấy, đã bao nhiêu lần Hiền giả
khởi lên dục tưởng ?"
– Hiền giả Bakkula, trong tám mươi
năm ấy, đã bao nhiêu lần, Hiền giả khởi lên dục tưởng ?
– Hiền giả Kassapa, trong tám mươi
năm từ khi tôi xuất gia, tôi không bao giờ nhận thấy, có dục tưởng khởi
lên.
– Vì rằng Tôn giả Bakkula trong
tám mươi năm không nhận thấy có dục tưởng khởi lên, chúng tôi thọ
trì sự việc này là một hy hữu, một vị tằng hữu của Tôn giả
Bakkula.
– Này Hiền giả, trong tám mươi
năm từ khi tôi xuất gia, tôi không bao giờ nhận thấy có sân tưởng, có
hại tưởng khởi lên.
– Vì rằng Tôn giả Bakkula trong
tám mươi năm không nhận thấy có sân tưởng, có hại tưởng khởi lên,
chúng tôi thọ trì sự việc này là một hy hữu, một vị tằng hữu của
Tôn giả Bakkula.
– Này Hiền giả, trong tám mươi
năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy dục tầm nào khởi lên.
– Vì rằng Tôn giả... một vị tằng
hữu của Tôn giả Bakkula.
– Này Hiền giả, trong tám mươi
năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thây sân tầm, hại tầm, nào khởi
lên.
– Vì rằng Tôn giả... một vị tằng
hữu của Tôn giả Bakkula.
– Này Hiền giả, trong tám mươi
năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy có thâu nhận y của cư sĩ.
– Vì rằng Tôn giả.. một vị tằng
hữu của Tôn giả Bakkula.
– Này Hiền giả, trong tám mươi
năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy có cắt y với con dao.
– Vì rằng Tôn giả... một vị tằng
hữu của Tôn giả Bakkula.
– Này Hiền giả, trong tám mươi
năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy có may y với cây kim.
– Vì rằng Tôn giả.. một vị tằng
hữu của Tôn giả Bakkula.
– Này Hiền giả, trong tám mươi
năm trừ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy có nhuộm y với thuốc nhuộm
– Vì rằng Tôn giả... một vị tằng
hữu của Tôn giả Bakkula.
– Này Hiền giả, trong tám mươi
năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy có may y kathina.
– Vì rằng Tôn giả... một vị tằng
hữu của Tôn giả Bakkula.
– Này Hiền giả, trong tám mươi
năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy có may y cho các vị đồng
Phạm hạnh... có nhận lời mời ăn... có khởi lên tâm như sau : "Mong
rằng có người mời tôi ăn".
– Vì rằng Tôn giả... một vị tằng
hữu của Tôn giả Bakkula.
– Này Hiền giả, trong tám mươi
năm từ khi tôi xuất gia, tôi không nhận thấy có ngồi trong nhà.. có ngồi
ăn trong nhà... có ghi nhận chi tiết các tướng đặc biệt của nữ nhân...
có thuyết pháp cho nữ nhân cho đến câu kệ bốn câu... có đi đến trú
phòng Tỷ-kheo-ni... có thuyết pháp cho Tỷ-kheo-ni.... Tôi không nhận thấy
có thuyết pháp cho học pháp nữ... Tôi không nhận thấy có thuyết pháp
cho Sa-di-ni.
– Vì rằng Tôn giả Bakkula trong
tám mươi năm không nhận thấy có thuyết pháp cho Sa-di-ni, chúng tôi thọ
trì sự việc này là một hy hữu, một vị tằng hữu của Tôn giả
Bakkula.
– Này Hiền giả, trong tám mươi
năm từ khi tôi xuất gia, tôi không bao giờ nhận thấy có xuất gia (cho
ai).. có thọ đại giới (cho ai).. có nhận làm y chỉ (cho ai)... tôi không
bao giờ nhận thấy có Sa-di hầu hạ... có tắm trong nhà tắm... có tắm
thoa bột Cunna.. có nhờ đồng Phạm hạnh xoa bóp chân tay.. tôi không bao giờ
nhận thấy có bệnh khởi lên, dầu cho một chốc lát.. có mang theo y dược
cho đến một miếng nhỏ từ cây a-li-lặc vàng (haritakikhanda)... nằm dựa
vào tấm gỗ dựa... nằm dài xuống ngủ... đi an cư mùa mưa tại trú xứ
gần làng.
– Vì rằng Tôn giả Bakkula, trong
tám mươi năm không nhận thấy có đi an cư mùa mưa tại trú xứ gần
làng, chúng tôi thọ trì sự việc này là một hy hữu, một vị tằng hữu
của Tôn giả Bakkula.
– Vừa đúng trong bảy ngày, này
Hiền giả, còn uế nhiễm, tôi đã ăn đồ ăn của nội địa, rồi đến
ngày thứ tám, chánh trí khởi lên.
– Vì rằng Tôn giả Bakkula vừa đúng
trong bảy ngày, còn uế nhiễm, đã ăn đồ ăn của nội địa, rồi đến
ngày thứ tám chánh trí khởi lên, chúng tôi thọ trì sự việc này là một
hy hữu, một vị tằng hữu của Tôn giả Bakkula. Thưa Hiền giả Bakkula, hãy
cho tôi xuất gia trong pháp luật này, hãy cho tôi thọ đại giới.
Rồi lõa thể Kassapa được xuất
gia trong pháp và luật này, được thọ đại giới. Thọ đại giới không
bao lâu, Tôn giả Kassapa, an trú độc cư, viễn ly, không phóng dật, nhiệt
tâm, tinh cần, không bao lâu với thượng trí tự mình chứng ngộ, chứng
đắc và an trú ngay trong hiện tại vô thượng cứu cánh Phạm hạnh mà vì
mục đích ấy các Thiện nam tử chân chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình hướng đến. Vị ấy biết "Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, những gì cần làm sẽ làm, không còn trở lại trạng thái này
nữa". Và Tôn giả Kassapa trở thành một A-la-hán nữa.
Rồi Tôn giả Bakkula, sau một thời
gian, cầm chìa khóa, đi từ trú xứ này đến trú xứ khác và nói như sau
:
– Chư Tôn giả hãy đi ra ! Chư Tôn
giả hãy đi ra ! Hôm nay tôi sẽ nhập Niết-bàn.
– Vì rằng Tôn giả Bakkula cầm
chìa khóa, đi từ trú xứ này đến trú xứ khác và nói như sau : "Chư
Tôn giả hãy đi ra ! Chư Tôn giả hãy đi ra ! Hôm nay tôi sẽ nhập Niết-bàn";
chúng tôi thọ trì sự việc này là một hy hữu, một vị tằng hữu của
Tôn giả Bakkula.
Rồi Tôn giả Bakkula ngồi giữa
chúng Tỷ-kheo nhập Niết-bàn.
– Vì rằng Tôn giả Bakkula ngồi
giữa chúng Tỷ-kheo nhập Niết-bàn, chúng tôi thọ trì sự việc này là một
hy hữu, một vị tằng hữu của Tôn giả Bakkula.
- 125. KINH
ĐIỀU NGỰ ĐỊA [^]
- (Dantabhumisuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương
Xá). Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc (Kalandakanivapa). Lúc bấy
giờ, Sa-di Aciravata (Tân Học Sa-môn) đang ở tại am thất Aranna. Rồi
vương tử Jayasena trong khi tản bộ du hành, đi đến Sa-di Aciravata, sau khi
đến nói lên với Sa-di Aciravata những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói
lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi một bên, vương tử Jayasena nói với Sa-di Aciravata :
Tôn giả Aggivessana, tôi có nghe như
sau :
"Ở đây Tỷ-kheo sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ được nhứt tâm".
– Sự việc là vậy, này Vương tử
! Sự việc là vậy, này Vương tử ! Ở đây, Tỷ-kheo sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần sẽ chứng được nhứt tâm.
– Thật là tốt lành nếu Tôn giả
Aggivessana thuyết pháp cho tôi như đã được nghe, như đã được học.
– Này Vương tử, tôi không có thể
thuyết pháp cho Vương tử như đã được nghe, như đã được học. Nếu
nay tôi thuyết pháp cho Vương tử như đã được nghe, như đã được học,
và nếu Vương tử không hiểu lời tôi nói, như vậy sẽ làm tôi mệt mỏi,
làm tôi phiền muộn.
– Tôn giả Aggivessana, hãy thuyết
pháp cho tôi như đã được nghe, như đã được học ! Rất có thể, tôi sẽ
hiểu ý nghĩa lời nói của Tôn giả Aggivessana.
– Này Vương tử, tôi sẽ thuyết
pháp cho Vương tử như đã được nghe, như đã được học. Nếu Vương tử
có thể hiểu ý nghĩa lời nói của tôi, như vậy là tốt đẹp. Nếu
Vương tử không thể hiểu lời nói của tôi, hãy dừng lại trên sự trạng
của mình, chớ có hỏi tôi thêm nữa !
– Tôn giả Aggivessana, hãy thuyết
pháp cho tôi như đã được nghe, như đã được học ! Nếu tôi có thể hiểu
được ý nghĩa lời nói của Tôn giả Aggivessana, như vậy là tốt đẹp. Nếu
tôi không có thể hiểu được ý nghĩa lời nói của Tôn giả Aggivessana,
tôi sẽ dừng lại trên sự trạng của tôi, ở đây, tôi sẽ không hỏi
Tôn giả Aggivessana thêm nữa.
Rồi Sa-di Aciravata thuyết pháp cho vương
tử Jayasena như đã được nghe, như đã được học. Khi được nghe vậy,
Vương tử nói với Sa-di Aciravata như sau:
– Sự việc không phải là như vậy,
Tôn giả Aggivessana; trường hợp không phải là như vậy, rằng Tỷ-kheo sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần lại có thể chứng đắc nhất tâm.
Rồi Vương tử Jayasena sau khi nói
lên với Sa-di Aciravata sự việc không phải như vậy và trường hợp không
phải như vậy, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Rồi Sa-di Aciravata, sau khi vương tử
Jayasena ra đi không bao lâu, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Sa-di Aciravata kể lại
cho Thế Tôn tất cả cuộc đàm thoại với vương tử Jayasena.
Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với
Sa-di Aciravata :
– Như vậy, này Aggivessana, nào có
lợi ích gì ? Vương tử Jayasenna sống giữa các dục, thọ hưởng các dục,
bị tư tưởng dục nhai nghiến, bị nhiệt não dục thiêu đốt, tha thiết
truy cầu dục, lại có thể biết, có thể thấy, hay có thể chứng (quả vị)
chỉ có ly dục mới biết được, chỉ có ly dục mới thấy được. Chỉ
có ly dục mới đạt được, hay chỉ có ly dục mới chứng được; sự kiện
như vậy không xảy ra. Này Aggivessana, ví như giữa các con voi, con ngựa hay
con bò được dạy điều phục có hai con voi, hai con ngựa hay hai con bò được
dạy điều phục, được khéo huấn luyện; và có hai con voi, hai con ngựa
hay hai con bò không được khéo điều phục, không được khéo huấn luyện.
Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào ? Hai con voi, hai con ngựa hay hai con bò,
được khéo điều phục, được khéo huấn luyện, các con ấy có thể đi
đến khả năng điều phục (dantakaranam), có thể đạt đến điều phục
địa không ?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Còn hai con voi, hai con ngựa hay
hai con bò được dạy điều phục, nhưng không được khéo điều phục, không
được khéo huấn luyện, các con ấy không được điều phục, có thể đi
đến khả năng điều phục, không được điều phục có thể đạt đến
điều phục địa, như hai con voi, hai con ngựa hay hai con bò được khéo điều
phục, được khéo huấn luyện kia không ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này Aggivessana, vương
tử Jayasena sống giữa các dục, thọ hưởng các dục, bị tư tưởng dục
nhai nghiến, bị nhiệt não dục thiêu đốt, tha thiết truy cầu dục, lại
có thể biết, có thể thấy, hay có thể chứng (quả vị) chỉ có ly dục
mới biết được, chỉ có ly dục mới thấy được, chỉ có ly dục mới
đạt được, chỉ có ly dục mới chứng được, sự kiện như vậy không
xảy ra.
Ví như, này Aggivessana, một hòn
núi lớn không xa làng hay thị trấn. Và có hai người bạn, tay trong tay đi
ra khỏi làng hay thị trấn ấy, và đi đến hòn núi kia. Sau khi đến, một
người bạn đứng dưới chân núi, còn người bạn kia leo lên đỉnh núi.
Người bạn đứng dưới chân núi ấy có thể nói với người bạn đứng
trên đỉnh núi: "Này Bạn thân, Bạn đứng trên đỉnh núi, Bạn thấy
những gì ?" Người kia nói : "Này Bạn thân, đứng trên đỉnh núi
tôi thấy các vườn khả ái, các khu rừng khả ái, các đất bằng khả
ái, các ao hồ khả ái". Người kia nói : "Không có sự kiện này,
này Bạn thân, không có trường hợp này, Bạn đứng trên đỉnh núi lại
có thể thấy các khu vườn khả ái, khu rừng khả ái, các đất bằng khả
ái, các ao hồ khả ái". Rồi người bạn đã đứng trên đỉnh núi,
sau khi đi xuống chân núi, nắm tay bạn, khiến bạn trèo lên đỉnh núi, để
bạn nghỉ thở một thời gian, rồi nói : "Này Bạn thân, nay Bạn có
thể thấy gì, khi Bạn đứng trên đỉnh núi ?" Và người bạn ấy có
thể nói : "Này Bạn thân, nay đứng trên đỉnh núi, tôi thấy các khu
vườn khả ái, các khu rừng khả ái, các đất bằng khả ái, các ao hồ
khả ái". Người kia có thể nói như sau : "Vừa rồi, này Bạn
thân, chúng tôi hiểu Bạn nói : "Không thể có sự kiện này, này Bạn
thân, không thể có trường hợp này, Bạn đứng trên đỉnh núi lại có
thể thấy các khu vườn khả ái... các ao hồ khả ái". Nhưng nay chúng
tôi hiểu Bạn nói : "Này Bạn thân, nay đứng trên đỉnh núi, tôi thấy
các khu vườn khả ái... các ao hồ khả ái". Người kia nói như sau :
"Này Bạn thân, vì tôi bị che khuất bởi sườn núi này, nên không thấy
được những điều đáng thấy".
Cũng vậy, nhưng to lớn hơn, này
Aggivessana, là Vương tử Jayasena, bị che khuất, bị chận đứng, bị chướng
ngại, bị bao vây bởi vô minh uẩn này. Vương tử Jayasena sống giữa các
dục, thọ hưởng các dục, bị tư tưởng dục nhai nghiến, bị nhiệt não
dục thiêu đốt, tha thiết truy cầu dục, lại có thể biết, có thể thấy
hay có thể chứng (quả vị) chỉ có ly dục mới biết được, chỉ có ly
dục mới thấy được, chỉ có ly dục mới đạt được, chỉ có ly dục
mới chứng được; sự kiện như vậy không xảy ra. Nếu hai ví dụ này
được Ông đề cập cho Vương tử Jayasena, thời vương tử Jayasena tự nhiên
tin tưởng Ông và khi đã tin tưởng, sẽ hành động đúng theo cung cách một
người đã tin tưởng Ông.
– Nhưng làm sao, bạch Thế Tôn,
hai ví dụ này khởi đến từ nơi con cho vương tử Jayasena, khởi lên một
cách tự nhiên, từ trước chưa từng được nghe, như Thế Tôn được ?
– Ví như, này Aggivessana, một vị
vua Sát-đế-lỵ đã quán đảnh bảo người nài voi : "Này Tượng sư,
hãy cưỡi con vương tượng, đi vào rừng vó voi; khi Ông thấy con voi rừng,
hãy cột nó lại vào cổ con vương tượng". – "Thưa vâng, Đại
vương". Này Aggivessana, người tượng sư vâng theo lời vị vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh, cỡi con vương tượng, vào trong rừng có voi, thấy
con voi rừng, cột (con voi rừng ấy) vào cổ con vương tượng. Con vương
tượng kéo nó ra chỗ ngoài trời. Cho đến như vậy, này Aggivessana, con voi
rừng được đi đến chỗ ngoài trời. Nhưng này Aggivessana, con voi rừng
còn có sự tham luyến tức là đối với rừng có voi. Người tượng sư tâu
với vị vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh về con voi rừng ấy.
"Tâu Đại vương, con vọi rừng đã ra chỗ ngoài trời". Rồi vị
vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh bảo người điều phục voi :
"Hãy đến, này người Điều phục voi, hãy điều phục con voi rừng này
bằng cách điều phục nếp sống rừng của nó, bằng cách điều phục tâm
tư rừng núi, bằng cách điều phục sự ưu tư, mệt nhọc, nhiệt não đối
với rừng núi của nó bằng cách làm cho nó thích thú với thôn làng, và bằng
cách làm cho nó quen thuộc với nếp sống loài người". – "Thưa vâng,
tâu Đại vương". Này Aggivessana, người điều phục voi vâng theo lời
vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, đóng một cọc trụ lớn vào đất,
cột cổ con voi rừng, để điều phục nếp sống rừng của nó, để điều
phục tâm tư rừng núi, để điều phục sự suy tư, mệt nhọc, nhiệt não
của rừng núi, để làm cho nó thích thú với thôn làng và làm cho nó quen
thuộc với nếp sống loài người. Rồi người điều phục voi lại nói với
nó bằng những lời nhẹ nhàng, đẹp tai, thân tình, đi đến tâm, thanh
nhã, khiến nhiều người vui thích, khiến nhiều người hoan hỷ. Và này
Aggivessana, con voi rừng khi được nói với những lời nhẹ nhàng, đẹp
tai, thân tình, đi đến tâm, thanh nhã, khiến nhiều người vui thích, khiến
nhiều người hoan hỷ, liền nghe, lóng tai, trú tâm vào học hỏi (anna ?).
Tiếp đến người điều phục voi đem cỏ và nước cho con voi rừng.
– Này Aggivessana, khi con voi rừng
nhận cỏ và nước, người điều phục voi mới nghĩ : "Nay con voi rừng
sẽ sống". Rồi người điều phục voi khiến (con voi rừng) làm thêm một
động tác khác : "Này Bạn, nhặt lên ! Này Bạn, đặt xuống !" Này
Aggivessana, sau khi con vương tượng vâng theo lời người điều phục voi, làm
đúng theo lời dạy nhặt lên, đặt xuống rồi, người điều phục voi khiến
nó làm thêm một động tác khác : "Này Bạn, đi tới ! Này Bạn đi lui
!" Này Aggivessana, sau khi con vương tượng vâng theo lời người điều
phục voi, làm đúng theo lời dạy đi tới, đi lui rồi, người điều phục
voi khiến nó làm thêm một động tác khác : "Này Bạn, đứng dậy ! Này
Bạn, ngồi xuống !" Này Aggivessana, sau khi con vương tượng vâng theo lời
người điều phục voi, làm đúng theo lời dạy, đứng dậy, ngồi xuống rồi,
người điều phục voi khiến nó làm thêm một động tác khác tên gọi
"bất động". Nó cột cái khiên bằng gỗ vào cái vòi của con vật
to lớn, và một người tay cầm ngọn giáo ngồi trên cổ, và xung quanh một
số người tay cầm ngọn giáo đứng bao vây. Và người điều phục voi,
tay cầm một ngọn giáo với cán cây dài, đứng ở phía trước. Con voi ấy
làm động tác bất động, không có di động chân trước, không có di động
chân sau, không có di động thân trước, không có di động thân sau, không
di động đầu, không có di động tai, không có di động ngà, không có di động
vòi. Con vương tượng là con voi có thể nhẫn chịu đao, kiếm, tên, búa
chém bắn, nhẫn chịu tiếng vang động của trống lớn, trống nhỏ, tù
và, (như là) vàng ròng tẩy sạch các tỳ vết nhơ bẩn, xứng đáng vua
(dùng), một sở hữu của vua, một biểu tượng của vua.
Cũng vậy, này Aggivessana, ở đây,
Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác... (Như Tập I,
Kinh Sa môn Quả trang 120-121)... Xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Cho đến đây, này Aggivessana, là vị Thánh đệ tử đi đến chỗ ngoài trời.
Nhưng này Aggivessana, các vị Thiên, Nhân có tham ái này, tức là năm dục công
đức. Rồi Như Lai huấn luyện thêm cho (vị đệ tử) ấy : "Hãy đến,
này Tỷ-kheo, hãy giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự của giới
bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi
nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong học pháp !" Này Aggivessana, sau khi
vị Thánh đệ tử đã giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự của
giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những
lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong học pháp, Như Lai lại huấn luyện
thêm cho đệ tử ấy : "Hãy đến, này Tỷ-kheo, hãy bảo hộ các căn !
Khi mắt thấy sắc, chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng
riêng. Những nguyên nhân gì, vì nhãn căn không được chế ngự, khiến
tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, hãy tự chế ngự nguyên
nhân ấy, hộ trì con mắt, thiệt hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng,
mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý nhận thức các pháp, chớ
có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng. Những nguyên
nhân gì vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác bất
thiện pháp khởi lên, hãy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thiệt
hành sự hộ trì ý căn". Này Aggivessana, sau khi Thánh đệ tử đã hộ
trì các căn, Như Lai huấn luyện thêm vị Thánh đệ tử ấy : "Hãy đến,
này Tỷ-kheo, hãy tiết độ trong ăn uống, chơn chánh giác sát thọ dụng
món ăn, không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để
trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, chỉ để thân này được
duy trì, được bảo dưỡng, khỏi bị gia hại, để chấp trì Phạm hạnh,
nghĩ rằng : "Như vậy ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi
lên các cảm thọ mới. Và ta sẽ không phạm lỗi lầm, sống được an ổn".
Này Aggivessana, sau khi vị Thánh đệ tử đã tiết độ trong ăn uống, Như
Lai lại huấn luyện thêm vị ấy : "Hãy đến, này Tỷ-kheo, hãy chú
tâm cảnh giác ! Ban ngày khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, hãy gột sạch
tâm trí khỏi các chướng ngại pháp. Ban đêm trong canh một, trong khi đi
kinh hành và trong khi đang ngồi, hãy gột sạch tâm trí khỏi các chướng
ngại pháp. Ban đêm trong canh giữa, hãy nằm xuống phía hông bên phải, như
dáng nằm con sư tử, chân gác trên chân với nhau, chánh niệm tỉnh giác, hướng
niệm đến lúc ngồi dậy. Ban đêm canh cuối, khi đã thức dậy trong khi
đi kinh hành và trong khi đang ngồi, hãy gột sạch tâm trí khỏi các chướng
ngại pháp". Này Aggivessana, sau khi Thánh đệ tử đã chú tâm cảnh
giác, Như Lai huấn luyện thêm vị ấy : "Hãy đến, này Tỷ-kheo, hãy
thành tựu chánh niệm tỉnh giác ! Khi đi tới khi đi lui đều tỉnh giác;
khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều
tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn uống
nhai nuốt đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác;
khi đi đứng ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác". Này
Aggivessana, sau khi vị Thánh đệ tử đã thành tựu chánh niệm tỉnh giác,
Như Lai lại huấn luyện thêm vị ấy : "Hãy đến, này Tỷ-kheo, hãy lựa
một trú xứ thanh vắng, khu rừng, gốc cây, ngọn núi, chỗ hoang vu, hang
núi, bãi tha ma, khóm rừng, ngoài trời, đống rơm !" Vị ấy lựa chọn
một trú xứ thanh vắng, khu rừng, gốc cây, ngọn núi, chỗ hoang vu, hang
núi, bãi tha ma, khóm rừng, ngoài trời, đống rơm. Vị ấy sau khi ăn xong,
trên đường khất thực trở về, ngồi xuống, kiết-già, giữ lưng cho thẳng,
trú niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm
thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái, từ bỏ sân hận, vị ấy sống
với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu
tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống
thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh
niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử
hối quá, vị ấy sống không trạo cử hối quá, nội tâm trầm lặng, gột
rửa tâm hết trạo cử hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống với tâm
thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ
đối với thiện pháp. Vị ấy sau khi đoạn trừ năm triền cái này, những
triền cái làm ô nhiễm tâm tư, làm yếu ớt trí tuệ, vị ấy sống quán
thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để điều phục tham
ưu ở đời, quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên tâm... quán pháp
trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để điều phục tham ưu
ở đời.
Ví như, này Aggivessana, một người
điều phục voi đóng một cọc trụ lớn vào đất, cột cổ con voi rừng
để điều phục nếp sống rừng của nó, để điều phục tâm tư rừng núi
của nó, để điều phục sự ưu tư mệt nhọc nhiệt não của rừng núi,
để làm cho nó thích thú với thôn làng và làm cho nó quen thuộc với nếp
sống loài người; cũng vậy, này Aggivessana, bốn niệm xứ này là những
dây cột tâm tư để điều phục tánh cư sĩ, để điều phục tâm tư cư
sĩ, để điều phục sự ưu tư mệt nhọc nhiệt não của các cư sĩ, để
đạt được chánh lý (naya), để chứng ngộ Niết-bàn.
Rồi Như Lai huấn luyện thêm vị
ấy :
– Hãy đến, này Tỷ-kheo, hãy trú
quán thân trên thân, và chớ có suy tư trên tầm liên hệ đến thân; hãy
trú quán thọ trên các cảm thọ, và chớ có suy tư trên tầm liên hệ đến
cảm thọ; hãy trú quán tâm trên tâm, chớ có suy tư trên tầm liên hệ đến
tâm; hãy trú quán pháp trên các pháp, và chớ có suy tư trên tầm liên hệ
đến các pháp. Vị ấy làm cho dừng lại tầm và tứ, chứng và trú Thiền
thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội
tĩnh nhất tâm, ... chứng và trú Thiền thứ ba". Vị ấy với tâm định
tĩnh... (như Kinh Trung Bộ tập I, Kinh Sa môn Quả, trang 142 đến trang 155)...
Vị ấy biết không có đời sống như vậy nữa.
Tỷ-kheo kham nhẫn lạnh, nóng, đói,
khát, sự xúc chạm của muỗi, ruồi, gió, mặt trời và các loài bò sát,
các ác ngữ, các lời nói chửi mắng, vị ấy sống quen kham nhẫn với những
cảm thọ về thân, thống khổ, đau nhói, đau đớn, kịch liệt, bất khoái,
không thích ý, đau đớn đến chết, được gột sạch về uế nhiễm tham,
sân, si. Vị ấy xứng đáng được cúng dường, cung kính, tôn trọng, chấp
tay, là vô thượng phước điền trên đời.
Nếu, này Aggivessana, một con vương
tượng tuổi già chết đi, không được điều phục, không được huấn
luyện, thời con vương tượng tuổi già được gọi là đã chết với cái
chết không được điều phục. Nếu, này Aggivessana, một con vương tượng
tuổi bậc trung; nếu, này Aggivessana, một con vương tượng tuổi trẻ chết
đi, không được điều phục, không được huấn luyện, thời con vương
tượng tuổi trẻ được gọi là đã chết với cái chết không được điều
phục. Cũng vậy, này Aggivessana, nếu vị Trưởng lão Tỷ-kheo chết với lậu
hoặc chưa đoạn tận, thời Trưởng lão Tỷ-kheo được gọi là đã chết
với cái chết không được điều phục. Nếu, này Aggivessana, một Tỷ-kheo
trung niên; nếu, này Aggivessana, một Tỷ-kheo thiếu niên chết với lậu hoặc
chưa đoạn tân, thời Tỷ-kheo thiếu niên được gọi là đã chết với
cái chết không được điều phục. Nếu, này Aggivessana, một con vương tượng
tuổi già khéo điều phục, khéo huấn luyện chết đi, thời con vương tượng
tuổi già được gọi là đã chết với cái chết được điều phục. Nếu,
này Aggivessana, một con vương tượng tuổi bậc trung, nếu, này Aggivessana,
một con vương tượng tuổi trẻ khéo điều phục, khéo huấn luyện chết
đi, thời con vương tượng tuổi trẻ được gọi là đã chết với cái chết
đã được điều phục. Cũng vậy, này Aggivessana, nếu một Trưởng lão Tỷ-kheo
với lậu hoặc đã đoạn tận chết đi, thời Trưởng lão Tỷ-kheo được
gọi là đã chết, với cái chết được điều phục. Nếu, này Aggivessana,
một trung niên Tỷ-kheo; nếu, này Aggivessana, một thiếu niên Tỷ-kheo, với
lậu hoặc đã đoạn tận chết đi, thời vị thiếu niên Tỷ-kheo được gọi
là đã chết, với cái chết đã được điều phục.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Sa-di Aciravata hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- (Bhùmijasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Rajagaha
(Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc. Rồi Tôn giả
Bhumija vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ của vương tử
Jayasena, sau khi đến ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi vương tử Jayasena
đi đến Tôn giả Bhumija, sau khi đến nói lên với Tôn giả Bhumija những lời
chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu,
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, vương tử Jayasena thưa với
Tôn giả Bhumija:
Thưa Tôn giả Bhumija, có một số
Sa-môn, Bà-la-môn có lý thuyết như sau, có quan điểm như sau : "Nếu có
ước nguyện hành Phạm hạnh, thời không đạt được quả vị; nếu không
có ước nguyện hành Phạm hạnh, thời không đạt được quả vị; nếu có
và không có ước nguyện hành Phạm hạnh, thời không đạt được quả vị
nếu không có và không có ước nguyện hành Phạm hạnh, thời không đạt
được quả vị". Ở đây, bậc Đạo sư của Tôn giả Bhumija có nói
gì, và có lập luận gì ?
– Thưa Vương tử, tôi không tận
mặt Thế Tôn được nghe như vậy, được ghi nhớ như vậy. Và sự việc
này xảy ra, Thế Tôn có giải thích như sau : "Nếu có ước nguyện, hành
Phạm hạnh không chánh đáng (ayoni so), thời không đạt được quả vị; nếu
không có ước nguyện hành Phạm hạnh không chánh đáng, thời không đạt
được quả vị; nếu có và không có ước nguyện hành Phạm hạnh không
chánh đáng, thời không đạt được quả vị; nếu không có và không
không có ước nguyện, hành Phạm hạnh không chánh đáng thời không đạt
được quả vị. Còn nếu có ước nguyện hành Phạm hạnh một cách chánh
đáng, thời đạt được quả vị; nếu không có ước nguyện hành Phạm hạnh
một cách chánh đáng, thời đạt được quả vị; nếu có và không có ước
nguyện hành Phạm hạnh một cách chánh đáng, thời đạt được quả vị;
nếu không có và không không có ước nguyện hành Phạm hạnh một cách
chánh đáng, thời đạt được quả vị". Thưa Vương tử, tôi không tận
mặt Thế Tôn được nghe như vậy, được ghi nhớ như vậy. Sự việc xảy
ra, Thế Tôn có giải thích như vậy.
– Nếu Đạo sư của Tôn giả
Bhumija thuyết lý như vậy, lập luận như vậy, thời tôi nghĩ rằng chắc
chắn vị Đạo sư của Tôn giả Bhumija, đứng cao hơn trên đầu tất cả
Sa-môn, Bà-la-môn tầm thường.
Rồi vương tử Jayasena mời Tôn giả
Bhumija, dùng với bát ăn (thalipaka) của mình.
Rồi Tôn giả Bhumija, sau bữa ăn khất
thực trở về đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Bhumija bạch Thế
Tôn:
– Bạch Thế Tôn, ở đây, vào buổi
sáng con đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ của vương tử Jayasena, sau
khi đến con ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, bạch Thế Tôn, vương tử
Jayasena đến chỗ con, sau khi đến nói lên với con những lời chào đón hỏi
thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn vương tử Jayasena nói với
con như sau : "Thưa Tôn giả Bhumija, một số Sa-môn, Bà-la-môn, .... bậc
Đạo sư của Tôn giả có nói gì, có lập luận gì ?" Khi được nghe nói
vậy, bạch Thế Tôn, con có nói với vương tử Jayasena, như sau : "Này
Vương tử, tôi không tận mặt Thế Tôn, được nghe như sau, được ghi nhớ
như sau... ". , .... Tôi nghĩ rằng chắc chắn Đạo sư của Tôn giả
Bhumija, đứng cao hơn trên đầu tất cả Sa-môn, Bà-la-môn tầm thường".
Bạch Thế Tôn, không hiểu hỏi như vậy, trả lời như vậy, con có nói đúng
lời Thế Tôn nói, con không xuyên tạc lời Thế Tôn với điều không đúng
sự thực, nhưng con đã giải thích đúng pháp, tùy pháp, và một vị đồng
Phạm hạnh nói đúng pháp, tùy pháp sẽ không có lý do để chỉ trích ?
– Thật vậy, này Bhumija, được hỏi
vậy, được trả lời vậy, Ông nói đúng lời Thế Tôn nói, Ông không
xuyên tạc Thế Tôn với điều không đúng sự thực, Ông đã giải thích
đúng pháp, tùy pháp, và một vị đồng Phạm hạnh nói đúng pháp, tùy
pháp không có lý do gì để chỉ trích.
Này Bhumija, những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà
tinh tấn, tà niệm, tà định, nếu họ có ước nguyện hành Phạm hạnh,
thời không đạt được quả vị; nếu họ không có ước nguyện hành Phạm
hạnh, thời không đạt được quả vị; nếu họ có và không có ước
nguyện, hành Phạm hạnh, thời không đạt được quả vị; nếu họ không
có và không không có ước nguyện, hành Phạm hạnh thời không đạt được
quả vị. Vì sao vậy ? Đây không phải là phương pháp này Bhumija, để đạt
được quả vị.
Ví như, này Bhumija, một người cần
dầu, tìm cầu dầu, đi chỗ này chỗ kia để tìm dầu. Sau khi đổ cát
vào thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cát cho ra dầu). Nếu người
ấy có ước nguyện, sau khi đổ cát vào thùng, tiếp tục rưới nước rồi
ép (cát cho ra dầu), người ấy không lấy được dầu. Nếu người ấy không
có ước nguyện, sau khi đổ cát vào thùng, tiếp tục rưới nước rồi
ép (cát cho ra dầu), người ấy không lấy được dầu. Nếu người ấy có
và không có ước nguyện, sau khi đổ cát vào thùng, tiếp tục rưới nước
rồi ép (cát cho ra dầu), người ấy không lấy được dầu. Nếu người
ấy không có và không không có ước nguyện, sau khi đổ cát vào thùng, tiếp
tục rưới nước rồi ép (cát cho ra dầu), người ấy không lấy được dầu.
Vì sao vậy ? Đây không phải là phương pháp, này Bhumija, để lấy được
dầu. Cũng vậy, này Bhumija, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà
tư duy... tà định, nếu họ có ước nguyện, hành Phạm hạnh, họ không
đạt được quả vị; nếu họ không ước nguyện... có và không có ước
nguyện... không có và không không có ước nguyện, hành Phạm hạnh thời họ
không đạt được quả vị. Vì sao vậy ? Đây không phải là phương pháp
này Bhumija, để đạt được quả vị.
Ví như, này Bhumija, một người cần
sữa, tìm cầu sữa, đi chỗ này chỗ kia để tìm sữa, nắm sừng con bò
cái trẻ để vắt sữa. Nếu người ấy có ước nguyện, nắm sừng con bò
cái trẻ để vắt sữa, người ấy không lấy được sữa. Nếu người
ấy không có ước nguyện... Nếu người ấy có và không có ước nguyện...
Nếu người ấy không có và không không có ước nguyện, nắm sừng con bò
cái trẻ để vắt sữa, nó không lấy được sữa. Vì sao vậy ? Này
Bhumija, đây không phải là phương pháp để lấy sữa. Cũng vậy, này
Bhumija, các vị Sa-môn hay Bà-la-môn, có tà kiến... có tà định, nếu họ
có ước nguyện hành Phạm hạnh, họ không đạt được quả vị; nếu họ
không có ước nguyện; nếu họ có và không có ước nguyện; nếu họ không
có và không không có ước nguyện, hành Phạm hạnh, họ không đạt được
quả vị. Vì sao vậy ? Đây không phải là phương pháp, này Bhumija, để đạt
được quả vị.
Ví như, này Bhumija, một người cần
sanh tô, tìm cầu sanh tô, đi chỗ này chỗ kia để tìm cầu sanh tô, sau khi
đổ nước vào một cái ghè, rồi lấy que khuấy đánh. Nếu người ấy có
ước nguyện, sau khi đổ nước vào một cái ghè, lấy que khuấy đánh, người
ấy lấy được sanh tô. Nếu người ấy không có ước nguyện; nếu người
ấy có và không có ước nguyện; nếu người ấy không có và không không
có ước nguyện, đổ nước vào một cái ghè, lấy que khuấy đánh, người
ấy không lấy được sanh tô. Vì sao vậy ? Này Bhumija, đây không phải là
phương pháp để lấy sanh tô. Cũng vậy, này Bhumija, những Sa-môn hay
Bà-la-môn có tà kiến... (như trên)... có tà định, nếu họ có ước nguyện
hành Phạm hạnh, họ không đạt được quả vị; nếu họ không có ước
nguyện; nếu họ có và không có ước nguyện; nếu họ không có và không
không có ước nguyện, thời họ không đạt được quả vị. Vì sao vậy ?
Này Bhumija, đây không phải là phương pháp để đạt được quả vị.
Ví như, này Bhumija, một người cần
lửa, tìm cầu lửa, đi chỗ này chỗ kia để tìm lửa. Người ấy đem phần
phía trên đồ quay lửa, rồi cọ xát với một khúc que ướt và có nhựa,
nếu người ấy có ước nguyện, đem phần phía trên đồ quay lửa rồi cọ
xát với một khúc que ướt và có nhựa, thời người ấy không lấy được
lửa; nếu người ấy không có ước nguyện; nếu người ấy có và không
có ước nguyện, nếu người ấy không có và không có ước nguyện đem phần
trên đồ quay lửa, rồi cọ xát với một khúc que ướt và có nhựa, thời
người ấy không lấy được lửa. Vì sao vậy ? Đây không phải là phương
pháp, này Bhumija, để lấy được lửa. Cũng vậy, này Bhumija, có những
Sa-môn, hay Bà-la-môn có tà kiến... (như trên)... có tà định; nếu họ có
ước nguyện, hành Phạm hạnh, họ không đạt được quả vị; nếu họ
không có ước nguyện; nếu họ có và không có ước nguyện; nếu họ không
có và không không có ước nguyện, thời họ không thể đạt được quả
vị. Vì cớ sao ? Đây không phải là phương pháp, này Bhumija, để đạt
được quả vị.
Này Bhumija, những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định; nếu họ có ước nguyện,
hành Phạm hạnh, họ đạt được quả vị; nếu họ không có ước nguyện;
nếu họ có và không có ước nguyện; nếu họ không có và không không có
ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời họ đạt được quả vị. Vì cớ sao
? Đây là phương pháp, này Bhumija, để đạt được quả vị.
Ví như, này Bhumija, một người cần
dầu, cầu tìm dầu, đi chỗ này chỗ kia để tìm dầu, sau khi đổ những
hột giống dầu vào cái thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cho ra dầu).
Nếu người ấy có ước nguyện, sau khi đổ những giống dầu vào trong
cái thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cho ra dầu), thời người ấy lấy
được dầu. Nếu người ấy không có ước nguyện; nếu người ấy có
và không có ước nguyện; nếu người ấy không có và không không có ước
nguyện, sau khi đổ những hột giống dầu vào trong cái thùng, tiếp tục rưới
nước rồi ép (cho ra dầu), thời người ấy lấy được dầu. Vì cớ sao
? Này Bhumija, đây là phương pháp để lấy được dầu. Cũng vậy, này
Bhumija những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào có chánh kiến... có chánh định.
Nếu họ có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời họ đạt được quả vị;
nếu họ không có ước nguyện; nếu họ có và không có ước nguyện, nếu
họ không có và không không có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời họ đạt
được quả vị. Vì cớ sao ? Này Bhumija, đây là phương pháp có thể đạt
được quả vị.
Ví như, này Bhumija, một người cần
sữa, tìm cầu sữa, đi chỗ này chỗ kia để tìm sữa. Và người ấy vắt
sữa từ nơi vú con bò cái còn trẻ. Nếu người ấy có ước nguyện, vắt
sữa từ nơi vú con bò cái còn trẻ, thời người ấy lấy được sữa. Nếu
người ấy không có ước nguyện; nếu người ấy có và không có ước
nguyện; nếu người ấy không có và không không có ước nguyện, người
ấy vắt sữa từ nơi vú con bò cái còn trẻ, thời người ấy lấy được
sữa. Vì cớ sao ? Này Bhumija, đây là phương pháp để lấy được sữa.
Cũng vậy, này Bhumija, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào có chánh kiến... (như
trên)... có chánh định, nếu họ có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời
họ đạt được quả vị. Nếu họ không có ước nguyện; nếu họ có và
không có ước nguyện; nếu họ không có và không không có ước nguyện, hành
Phạm hạnh, thời họ đạt được quả vị. Vì cớ sao ? Này Bhumija, đây
là phương pháp để đạt được quả vị.
Ví như, này Bhumija, một người cần
sanh tô, tìm cầu sanh tô, đi chỗ này chỗ kia tìm cầu sanh tô; sau khi đổ
lạc (dadhi) vào trong một cái ghè, rồi lấy cây que khuấy, đánh. Nếu người
ấy có ước nguyện, sau khi đổ lạc (dadhi) vào trong một cái ghè, rồi lấy
cây que khuấy, đánh, thời người ấy lấy được sanh tô. Nếu người ấy
không có ước nguyện; nếu người ấy có và không có ước nguyện; nếu
người ấy không có và không không có ước nguyện, thời sau khi đổ lạc
(dadhi) vào trong một cái ghè, rồi lấy que khuấy, đánh, người ấy lấy
được sanh tô. Vì cớ sao ? Này Bhumija, đây là phương pháp để lấy được
sanh tô. Cũng vậy, này Bhumija, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào có chánh kiến...
có chánh định; nếu họ có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời họ đạt
được quả vị. Nếu họ không có ước nguyện; nếu họ có và không có
ước nguyện; nếu họ không có và không không có ước nguyện, hành Phạm
hạnh, thời họ đạt được quả vị. Vì cớ sao ? Này Bhumija, đây là phương
pháp để đạt được quả vị.
Ví như, này Bhumija, có một người
cần lửa, tìm cầu lửa, đi chỗ này chỗ kia để tìm lửa, sau khi mang phần
trên đồ quay lửa rồi cọ xát với một khúc cây khô không có nhựa. Nếu
người ấy có ước nguyện, đem phần phía trên đồ quay lửa rồi cọ xát
với một khúc cây khô không có nhựa, thời người ấy lấy được lửa.
Nếu người ấy không có ước nguyện; nếu người ấy có và không có ước
nguyện; nếu người ấy không có và không không có ước nguyện, đem phần
phía trên đồ quay lửa rồi cọ xát với một khúc cây khô không có nhựa,
thời người ấy lấy được lửa. Vì cớ sao ? Này Bhumija, đây là phương
pháp để lấy được lửa. Cũng vậy, này Bhumija, những vị Sa-môn hay
Bà-la-môn nào có chánh kiến... chánh định. Nếu họ có ước nguyện, hành
Phạm hạnh, thời họ đạt được quả vị; nếu họ không có ước nguyện;
có và không có ước nguyện, nếu họ không có và không không có ước
nguyện, hành Phạm hạnh, thời họ đạt kết quả vị. Vì sao vậy ? Này
Bhumija, đây là phương pháp đưa đến quả vị.
Nếu bốn ví dụ này, này Bhumija,
khởi đến từ nơi Ông cho vương tử Jayasena, thời vương tử Jayasena tự
nhiên tin tưởng Ông, và khi đã tin tưởng, sẽ hành động đúng theo cung
cách một người đã tin tưởng Ong.
– Nhưng làm sao, bạch Thế Tôn, bốn
ví dụ này khởi đến từ nơi con cho vương tử Jayasena, khởi lên một
cách tự nhiên, từ trước chưa từng được nghe, như Thế Tôn được?
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn
giả Bhumja hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy: