- Kinh Trung bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
Phần XVI
-
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Rajagaha
(Vương Xá), trên núi Gijjhakuta (Linh Thứu), trong hang Sukarakhata. Rồi du sĩ
ngoại đạo Dighanakha (Trường Trảo) đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến,
nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên những
lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền đứng một bên. Đứng một bên,
du sĩ ngoại đạo Dighanakha nói với Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama, tôi có lý thuyết
như sau, tôi có tri kiến như sau: "Tất cả đều không làm cho tôi
thích thú".
– Này Aggivessana, tri kiến: "Tất
cả đều không làm cho tôi thích thú", tri kiến ấy không làm Ông
thích thú?
– Tôn giả Gotama, nếu tri kiến
ấy làm tôi thích thú, thời đây cũng giống như vậy, thời đây cũng giống
như vậy.
– Này Aggivessana, nếu số đông người
ở trong đời đã nói như sau: "Thời đây cũng giống như vậy, thời
đây cũng giống như vậy", thời họ không từ bỏ tri kiến ấy, họ
chấp thủ một tri kiến khác. Này Aggivessana, nếu thiểu số người ở
trong đời đã nói như sau: "Thời đây cũng giống như vậy, thời đây
cũng giống như vậy", thời họ sẽ từ bỏ tri kiến ấy và không chấp
thủ một tri kiến khác.
Này Aggivessana, một số Sa-môn,
Bà-la-môn có lý thuyết như sau, có tri kiến như sau: "Tất cả đều làm
cho tôi thích thú". Này Aggivessana, một số Sa-môn, Bà-la-môn có lý thuyết
như sau, có tri kiến như sau: "Tất cả đều làm cho tôi không thích
thú". Này Aggivessana, một số Sa-môn, Bà-la-môn có lý thuyết như sau, có
tri kiến như sau: "Một phần làm tôi thích thú, một phần làm tôi
không thích thú". Ở đây, này Aggivessana, một số Sa-môn, Bà-la-môn có
lý thuyết như sau, có tri kiến như sau: "Tất cả đều làm cho tôi
thích thú," tri kiến này của họ là gần với tham dục, gần với triền
phược, gần với hoan lạc, gần với đắm trước, gần với chấp thủ.
Ở đây, này Aggivessana, một số Sa-môn, Bà-la-môn có lý thuyết như sau, có
tri kiến như sau: "Tất cả đều làm cho tôi không thích thú", tri
kiến này của họ là gần với không tham dục, gần với không phiền trược,
gần với không hoan lạc, gần với không chấp thủ.
Khi được nói vậy, du sĩ ngoại đạo
Dighanakha thưa với Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama tán dương quan
điểm của tôi, Tôn giả Gotama hết sức tán dương quan điểm của tôi.
– Ở đây, này Aggivessana, những
Sa-môn, Bà-la-môn nào có lý thuyết như sau, có tri kiến như sau: "Một
phần làm tôi thích thú, một phần làm tôi không thích thú". Cái gì
trong tri kiến này làm họ thích thú là gần tham dục, gần phiền trược,
gần hoan lạc, gần đắm trước, gần chấp thủ ? Cái gì trong tri kiến
này làm họ không thích thú là gần không tham dục, gần không triền phược,
gần không hoan lạc, gần không đắm trước, gần không chấp thủ ?
Ở đây, này Aggivessana, những
Sa-môn, Ba la môn có lý thuyết như sau, có tri kiến như sau: "Tất cả
đều làm tôi thích thú". Ở đây, người có trí suy nghĩ như sau:
"Nếu ta nói tri kiến này của ta: "Tất cả đều làm tôi thích
thú", và nếu ta cố chấp, kiên chấp tri kiến này và nói: "Đây
là sự thật, ngoài ra là hư vọng", như vậy là đối nghịch với hai
hạng người: Sa-môn hay Bà-la-môn nào có lý thuyết như sau, có tri kiến như
sau: "Tất cả đều làm cho tôi không thích thú", và Sa-môn hay
Bà-la-môn nào có lý thuyết như sau, có tri kiến như sau: "Một phần làm
tôi thích thú, một phần làm tôi không thích thú". Ta sẽ đối nghịch
với hai hạng người này. Khi nào có đối nghịch thời có tranh luận; khi
nào có tranh luận thời có chống đối; khi nào có chống đối thời có bực
mình". Như vậy, vị này vì thấy sự đối nghịch, tranh luận, chống
đối và bực mình nên từ bỏ tri kiến này, không chấp thủ tri kiến
khác. Như vậy là sự đoạn trừ những tri kiến này, như vậy là sự hủy
bỏ những tri kiến này. Ở đây, này Aggivessana, nếu có những Sa-môn,
Bà-la-môn nào có lý thuyết như sau, có tri kiến như sau: "Tất cả đều
làm cho tôi không thích thú". Ở đây, người có trí suy nghĩ như sau:
"Nếu ta nói tri kiến này của ta: "Tất cả đều làm tôi không
thích thú", và nếu ta cố chấp, kiên chấp tri kiến này và nói: "Đây
là sự thật, ngoài ra là hư vọng", thì như vậy, ta đối nghịch với
hai hạng người: Sa-môn hay Bà-la-môn nào có lý thuyết như sau, có tri kiến
như sau: "Tất cả đều làm cho tôi thích thú" và Sa-môn hay
Bà-la-môn nào có lý thuyết như sau, có tri kiến như sau: "Một phần làm
tôi thích thú, một phần làm tôi không thích thú". Ta sẽ đối nghịch
với hai hạng người này. Khi nào có đối nghịch thời có tranh luận; khi
nào có tranh luận thời có chống đối; khi nào có chống đối thời có bực
mình". Như vậy, vị này vì thấy sự đối nghịch, tranh luận, chống
đối và bực mình, nên từ bỏ tri kiến ấy, không chấp thủ tri kiến
khác. Như vậy là sự đoạn trừ những tri kiến này, như vậy là sự hủy
bỏ những tri kiến này. Ở đây, này Aggivessana, nếu có những Sa-môn,
Bà-la-môn nào có lý thuyết như sau, có tri kiến như sau: "Một phần làm
tôi thích thú, một phần làm tôi không thích thú". Ở đây, người có
trí suy nghĩ như sau: "Nếu ta nói tri kiến này của ta: "Một phần
làm tôi thích thú, một phần làm tôi không thích thú", và nếu ta cố
chấp, kiên chấp tri kiến này và nói: "Đây là sự thật ngoài ra là hư
vọng", thì như vậy, ta đối nghịch với hai hạng người: Sa-môn hay
Bà-la-môn nào có lý thuyết như sau, có tri kiến như sau: "Tất cả đều
làm cho tôi thích thú" và Sa-môn hay Bà la-môn này có lý thuyết như
sau, có tri kiến như sau: "Tất cả đều làm cho tôi không thích
thú". Ta sẽ đối nghịch với hai hạng người này. Khi nào có đối
nghịch thời có tranh luận; khi nào có tranh luận thời có chống đối, khi
nào có chống đối thời có bực mình". Như vậy, vị này vì thấy sự
đối nghịch tranh luận, chống đối và bực mình, nên từ bỏ tri kiến
ấy, không chấp thủ tri kiến khác. Như vậy là sự đoạn trừ những tri
kiến này, như vậy là sự hủy bỏ những tri kiến này.
Nhưng này Aggivessana, thân này có sắc,
do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường,
biến hoại, phân toái, đoạn tuyệt, hoại diệt, cần phải được quán
sát là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều
bất hạnh, như bệnh chướng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là
vô ngã. Khi vị ấy quán sát thân này là vô thường, khổ, như bệnh, như
cục bướu, như mũi tên, như điều bất hạnh, như bệnh chướng, như kẻ
địch, như phá hoại, là không, là vô ngã, thời thân, thân dục, thân ái,
thân phục tòng được đoạn diệt.
Này Aggivessana, có ba thọ này; lạc
thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ. Này Aggivessana, trong khi cảm giác
lạc thọ, chính khi ấy không cảm giác khổ thọ, không cảm giác bất khổ
bất lạc thọ chỉ cảm giác lạc thọ. Này Aggivessana, trong khi cảm giác
khổ thọ, chính khi ấy không cảm giác lạc thọ, không cảm giác bất khổ
bất lạc thọ, chỉ cảm giác khổ thọ. Này Aggivessana, trong khi cảm giác
bất khổ bất lạc thọ, chính khi ấy không cảm giác lạc thọ, không cảm
giác khổ thọ, chỉ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. Này Aggivessana, lạc
thọ là vô thường, hữu vi, do duyên sanh, bị đoạn diệt, bị hủy hoại,
bị suy tàn, bị tiêu diệt. Này Aggivessana, khổ thọ là vô thường, hữu
vi, do duyên sanh, bị đoạn diệt, bị hủy hại, bị suy tàn, bị tiêu diệt.
Này Aggivessana, bất khổ bất lạc thọ là vô thường, hữu vi, do duyên
sanh, bị đoạn diệt, bị hủy hoại, bị suy tàn, bị tiêu diệt. Thấy vậy,
này Aggivessana, vị Đa văn Thánh đệ tử yểm ly lạc thọ, yểm ly khổ thọ,
yểm ly bất khổ bất lạc thọ. Do yểm ly, vị ấy không có tham dục. Do
không tham dục, vị ấy được giải thoát. Đối với tự thân đã giải
thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị
ấy biết: "Sanh đã diệt, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã
làm. Sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa". Với tâm
giải thoát như vậy, này Aggivessana, Tỷ-kheo không nói thuận theo một ai,
không tranh luận với một ai, chỉ nói theo từ ngữ đã được dùng ở đời,
không có chấp thủ (từ ngữ ấy).
Lúc bấy giờ Tôn giả Sariputta đứng
sau lưng Thế Tôn và đang quạt Thế Tôn. Rồi Tôn giả Sariputta suy nghĩ
như sau: "Thế Tôn đã thuyết cho chúng ta sự đoạn trừ các pháp ấy
nhờ thắng trí. Thiện Thệ đã thuyết cho chúng ta sự tự bỏ các pháp
ấy nhờ thắng trí". Khi Tôn giả Sariputta suy nghĩ như vậy, tâm (của
Tôn giả) được giải thoát các lậu hoặc, không còn chấp thủ. Còn đối
với du sĩ ngoại đạo Dighanakha, pháp nhãn ly trần, vô cấu được khởi lên:
"Phàm pháp gì được khởi lên, tất cả pháp ấy được đoạn diệt".
Rồi du sĩ ngoại đạo Dighanakha thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập
vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, chứng được tự tín,
không y cứ nơi người khác đối với đạo pháp của đức Bổn sư, liền
bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Như người dựng đứng lại những
gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho
kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt
có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng
nhiều phương tiện trình bày giải thích. Nay con xin quy y Tôn giả Gotama,
quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm cư sĩ, từ
nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú giữa dân
chúng Kuru, tại thị trấn của dân chúng Kuru tên là Kammasadhamma, trên thảm
cỏ trong nhà lửa của một Bà-la-môn thuộc dòng họ Bharadvaji. Rồi Thế
Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào Kammasadhamma để khất thực. Đi
khất thực ở Kammasadhamma xong, sau bữa ăn, trên đường khi khất thực về,
Thế Tôn đi đến một khu rừng để nghỉ trưa. Sau khi đi sâu vào khu rừng
ấy, Thế Tôn đến ngồi dưới một gốc cây để nghỉ trưa.
Rồi du sĩ Magandiya, trong khi đi bộ
ngao du cùng khắp, đến tại ngôi nhà lửa của Bà-la-môn thuộc họ
Bharadvaja. Du sĩ Magandiya thấy thảm cỏ đã soạn sẵn trong nhà lửa của vị
Bà-la-môn thuộc dòng họ Bharadvaja, khi thấy vậy liền nói với Bà-la-môn
thuộc dòng họ Bharadvaja:
– Tấm thảm cỏ này trong nhà lửa
của Tôn giả Bharadvaja đã được sửa soạn cho ai, hình như là chỗ nằm
ngủ của một Sa-môn ?
– Thưa Tôn giả Magandiya, có
Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Sakya (Thích-ca). Tiếng đồn
tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: "Đây là Thế
Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn".
Chỗ nằm này được sửa soạn cho Tôn giả Gotama ấy.
– Thật sự, này Tôn giả
Bharadvaja, chúng tôi thấy một sự bất hạnh khi chúng tôi thấy chỗ ngủ
của Tôn giả Gotama, một vị phá hoại sự sống (bhunahuno).
– Này Magandiya, hãy thận trọng lời
Ông nói. Này Magandiya, hãy thận trọng lời Ông nói. Nhiều vương tộc trí
giả, nhiều Bà-la-môn trí giả, nhiều Cư sĩ trí giả, nhiều Sa-môn trí giả
có lòng tin nơi Tôn giả Gotama ấy, và đã tu tập theo Thánh đạo, theo Pháp
và theo (chí) Thiện.
– Này Tôn giả Bharadvaja, nếu
chúng tôi thấy mặt Tôn giả Gotama, chúng tôi sẽ nói như sau trước mặt
vị ấy: "Sa-môn Gotama là người phá hoại sự sống". Vì sao vậy
? Thánh điển của chúng tôi đã truyền lại như vậy.
– Nếu Tôn giả Magandiya hoan hỷ,
tôi sẽ tin lại sự tình này cho Sa-môn Gotama biết.
– Tôn giả Bharadvaja hãy yên lòng,
và hãy nói lên những điều gì đã được nói.
Thế Tôn với thiên nhĩ thanh tịnh
siêu nhân nghe được câu chuyện giữa Bà-la-môn thuộc dòng họ Bharadvaja
và du sĩ Magandiya. Và Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư
đứng dậy, đi đến nhà lửa của Bà-la-môn thuộc dòng họ Bharadvaja, sau
khi đến liền ngồi trên thảm cỏ đã soạn sẵn. Rồi Bà-la-môn thuộc
dòng họ Bharadvaja đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến, nói lên những lời
chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn nói với
Bà-la-môn thuộc dòng họ Bharadvaja đang ngồi một bên:
– Này Bharadvaja, có phải có cuộc
nói chuyện giữa du sĩ Magandiya với Ông về vấn đề thảm cỏ này ?
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn
Bharadvaja hoảng hốt, lông tóc dựng ngược, bạch Thế Tôn:
– Chính là điều chúng con muốn
thưa với Tôn giả Gotama và Tôn giả Gotama đã đoán trước chúng con.
Nhưng cuộc nói chuyện này giữa Thế
Tôn và Bà-la-môn thuộc dòng họ Bharadvaja nói chưa xong, du sĩ Magandiya, khi
đi bộ ngao du cùng khắp, đến tại ngôi nhà lửa của Bà-la-môn thuộc
dòng họ Bharadvaja, đến tại chỗ Thế Tôn, sau khi đến, nói lên những lời
chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, và sau khi nói lên những lời chào đón
hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn nói với du sĩ
Magandiya đang ngồi một bên:
– Này Magandiya, con mắt ưa thích sắc,
ái lạc sắc, hoan hỷ sắc, và Như Lai nhiếp phục, thủ hộ, hộ trì con mắt
và thuyết pháp để phòng hộ con mắt. Này Magandiya, có phải vì vậy mà
Ông nói: "Sa-môn Gotama là người phá hoại sự sống ?"
– Chính vì vậy, Tôn giả Gotama,
mà tôi nói: "Sa-môn Gotama phá hoại sự sống". Vì sao vậy ? Thánh
điển của chúng tôi đã truyền lại như vậy.
– Này Magandiya, tai ưa thích tiếng...
Này Magandiya, mũi ưa thích hương... Này Magandiya, lưỡi ưa thích vị... Này
Magandiya, thân ưa thích xúc... Này Magandiya, ý ưa thích pháp, ái lạc pháp,
hoan hỷ pháp và Như Lai nhiếp phục, thủ hộ, hộ trì ý và thuyết pháp
để phòng hộ ý. Này Magandiya, có phải vì vậy mà ông nói: "Sa-môn
Gotama là người phá hoại sự sống ?
– Chính vì vậy, Tôn giả Gotama,
mà tôi nói: "Sa-môn Gotama là người phá hoại sự sống". Vì sao vậy
? Thánh điển của chúng tôi đã truyền lại như vậy.
– Ông nghĩ thế nào, này Magandiya
? Ở đây, có người trước kia đam mê các sắc pháp do mắt nhận thức,
các sắc pháp này là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến
dục, hấp dẫn. Người ấy sau một thời gian, sau khi như chơn biết được
sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của
các sắc pháp, sau khi đoạn tận sắc ái, sau khi trừ diệt nhiệt não đối
với sắc pháp, người này trú với khát ái được đoạn trừ, với nội
tâm an tịnh. Này Magandiya, Ông có nói gì về người này ?
– Không có gì, Tôn giả Gotama.
– Ông nghĩ thế nào ? Này
Magandiya, ở đây, có người trước kia đam mê các tiếng do tai nhận thức...
các hương do mũi nhận thức... các vị do lưỡi nhận thức... các xúc do
thân nhận thức, các xúc này là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý,
liên hệ đến dục, hấp dẫn. Người ấy sau một thời gian, sau khi như
chơn biết được sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm
và sự xuất ly của các xúc, sau khi đoạn tận xúc ái, sau khi trừ diệt
nhiệt não đối với các xúc, người này trú với khát ái được đoạn
trừ, với nội tâm an tịnh. Này Magandiya, Ông có nói gì về người này ?
– Không có gì, Tôn giả Gotama.
– Này Magandiya, Ta thuở trước,
khi còn là tại gia, Ta sống hưởng thụ một cách đầy đủ, một cách
sung mãn, năm dục trưởng dưỡng, các sắc pháp do mắt nhận thức, các sắc
pháp này là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp
dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... các hương do mũi nhận thức... các vị
do lưỡi nhận thức... các xúc do thân nhận thức, các xúc này là khả
ái, khả hỷ, khả lạc, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Này Magandiya, Ta có
ba tòa lâu đài, một cho mùa mưa, một cho mùa đông, một cho mùa hạ. Này
Magandiya, trong bốn tháng mùa mưa, Ta sống hưởng thụ trong lâu đài mùa mưa,
được những nữ nhạc công giúp vui và không bước xuống khỏi lâu đài
ấy. Rồi Ta sau một thời gian, sau khi như chơn biết được sự tập khởi,
sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các dục vọng,
sau khi đoạn tận dục ái, sau khi trừ diệt nhiệt não của các dục, Ta
trú với khát ái được đoạn trừ, với nội tâm an tịnh. Rồi Ta thấy
các chúng sanh khác, chưa xả ly tham ái đối với các dục đang bị các dục
ái nhai nghiến, đang bị dục nhiệt não thiêu đốt, đang chạy theo các dục.
Ta không ước vọng được như họ; ở đây, Ta không ham thích. Vì sao vậy
? Vì rằng, này Magandiya, có hỷ lạc này, ly dục, ly bất thiện pháp, sau
khi chứng đạt Thiên lạc, được an trú, hoan hỷ trong hỷ lạc ấy. Ta
không ao ước cái gì thấp kém; ở đây, Ta không ham thích.
Ví như, này Magandiya, một gia chủ
hay con một người gia chủ, giàu sang, tài vật nhiều, sở hữu nhiều, sống
thọ hưởng một cách đầy đủ, một cách sung mãn, năm dục trưởng dưỡng,
các sắc pháp do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý,
liên hệ đến dục, hấp dẫn, các tiếng do tai nhận thức... các hương do
mũi nhận thức... các vị do lưỡi nhận thức... các xúc do thân nhận thức,
khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Vị
ấy, sau khi làm thiện thân hành, sau khi làm thiện khẩu hành, sau khi làm
thiện ý hành, khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên
giới, đời này, cọng trú với chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba. Vị ấy
ở đây, trong rừng Nandana, được chúng Thiên nữ vây quanh, thọ hưởng
năm thiên dục trưởng dưỡng một cách đầy đủ, một cách sung mãn. Vị
ấy thấy người gia chủ hay con người gia chủ đang thọ hưởng năm dục
trưởng dưỡng một cách đầy đủ, một cách sung mãn. Này Magandiya, Ông
nghĩ thế nào ? Thiên tử ấy, được chúng Thiên nữ vây quanh, thọ hưởng
năm thiên dục trưởng dưỡng một cách đầy đủ, một cách sung mãn, vị
ấy có ước vọng được như người gia chủ ấy, hay con người gia chủ
ấy; hay năm dục trưởng dưỡng thuộc loài Người, hay trở lui về với các
dục thuộc loài Người ?
– Không có vậy, thưa Tôn giả
Gotama ! Vì sao vậy ? Vì thiên dục, thưa Tôn giả Gotama, là kỳ diệu hơn,
là vi diệu hơn nhân dục.
– Cũng vậy, này Magandiya, Ta thuở
trước, khi còn là tại gia. Ta hưởng thụ một cách đầy đủ, một cách
sung mãn các dục trưởng dưỡng các sắc pháp do mắt nhận thức, các sắc
pháp này là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp
dẫn, các tiếng do tai nhận thức... các hương do mũi nhận thức... các vị
do lưỡi nhận thức... các xúc do thân nhận thức, các xúc này là khả
ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Rồi Ta sau
một thời gian, sau khi chơn biết được sự tập khởi, sự diệt trừ, vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các dục, sau khi đoạn tận dục
ái, sau khi trừ diệt nhiệt não của các dục, Ta trú với khát ái được
đoạn trừ, với nội tâm an tịnh. Rồi Ta thấy các chúng sanh khác chưa xả
ly tham ái đối với các dục, đang bị các dục ái nhai nghiến, đang bị dục
nhiệt não thiêu đốt, đang chạy theo các dục. Ta không ước vọng được
như họ; ở đây, Ta không ham thích. Vì sao vậy ? Vì rằng, này Magandiya,
có hỷ lạc này, ly dục, ly bất thiện pháp, sau khi chứng đạt thiên lạc
được an trú, hoan hỷ trong hỷ lạc ấy. Ta không ao ước cái gì thấp
kém; ở đây, Ta không ham thích.
Ví như, này Magandiya, một người bị
bệnh cùi; với thân (đầy) những lở lói, với thân hư thối, nứt chảy,
bị các loại trùng đục khoét, đang cào rách miệng các vết thương với
móng tay, hơ đốt thân mình trên hố than hừng. Các bạn bè thân hữu, bà
con huyết thống của người ấy mời một y sĩ khoa mổ xẻ. Vị y sĩ khoa
mổ xẻ này cho người ấy thuốc. Người ấy dùng thuốc, được khỏi bệnh
cùi, không bệnh, an lạc, tự do, tự tại, có thể đi chỗ nào người ấy
muốn. Người ấy thấy một người bị bệnh cùi khác, với thân (đầy)
những lở lói, với thân hư thối, nứt chảy, bị cái loài trùng đục khoét,
đang cào rách miệng các vết thương với móng tay, hơ đốt thân mình trên
hố than hừng. Này Magandiya, Ông nghĩ thế nào ? Người ấy có ước vọng
được như người cùi kia, hố than hừng, hay sự thọ dụng dược liệu không
?
– Không, thưa Tôn giả Gotama. Vì
sao vậy ? Thưa Tôn giả Gotama, khi có bệnh thời cần thuốc trị bệnh, khi
không bệnh, thời không cần thuốc trị bệnh.
– Cũng vậy, này Magandiya, Ta thuở
trước, khi còn là tại gia, Ta hưởng thụ một cách đầy đủ, một cách
sung mãn, các dục trưởng dưỡng, các sắc pháp do mắt nhận thức, các sắc
pháp này là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp
dẫn, các tiếng do tai nhận thức... các hương do mũi nhận thức... các vị
do lưỡi nhận thức... các xúc đo thân nhận thức, các xúc ấy là khả
ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Rồi Ta sau
một thời gian, sau khi như chơn biết được sự tập khởi, sự diệt trừ,
vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các dục, sau khi đoạn tận dục
ái, sau khi trừ diệt nhiệt não của các dục, Ta trú với khát ái được
đoạn trừ, với nội tâm an tịnh. Rồi Ta thấy các chúng sanh khác chưa xả
ly tham ái đối với các dục, đang bị các dục ái nhai nghiến, đang bị dục
nhiệt não thiêu đốt, đang chạy theo các dục. Ta không ước vọng được
như họ; ở đây, Ta không ham thích. Vì sao vậy ? Vì rằng, này Magandiya,
có hỷ lạc này, ly dục, ly bất thiện pháp, sau khi chứng đạt thiên lạc,
được an trú, hoan hỷ trong hỷ lạc ấy. Ta không ao ước cái gì thấp
kém; ở đây Ta không ham thích.
Ví như, này Magandiya, một người bị
bệnh cùi, với thân (đầy) những lở lói, với thân hư thối, nứt chảy,
bị các loại trùng đục khoét, đang cào rách miệng các vết thương với
móng tay, hơ đốt thân mình trên hố than hừng. Các bạn bè thân hữu, bà
con huyết thống của người ấy mời một y sĩ khoa mổ xẻ. Vị y sĩ khoa
mổ xẻ này cho người ấy thuốc. Người ấy dùng thuốc được khỏi bệnh
cùi, không bệnh, an lạc, tự do, tự tại, có thể đi chỗ nào người ấy
muốn. Rồi có hai lực sĩ, nắm chặt (hai) cánh tay người ấy và lôi kéo
người ấy đến hố than hừng. Này Magandiya, Ông nghĩ thế nào ? Người
ấy có co rút thân, vật qua vật lại phía này phía kia không ?
– Thưa Tôn giả Gotama, có. Vì sao
vậy ? Vì sự xúc phạm với lửa, là đau khổ, thưa Tôn giả Gotama, rất
là nồng cháy, rất là nhiệt não.
– Này Magandiya, Ông nghĩ thế nào
? Có phải chỉ hiện tại sự xúc chạm với lửa ấy là đau khổ, rất là
nồng cháy, rất là nhiệt não, hay là trước đây, sự xúc chạm với lửa
ấy đã là đau khổ, rất là nồng cháy, rất là nhiệt não ?
– Thưa Tôn giả Gotama, hiện tại
sự xúc chạm với lửa ấy là đau khổ, rất là nồng cháy, rất là nhiệt
não, và xưa kia, sự xúc chạm với lửa ấy đã là đau khổ, rất là nồng
cháy và rất là nhiệt não. Tuy vậy, thưa Tôn giả Gotama, kẻ bị bệnh
cùi này, với thân (đầy) những lở lói, với thân hư thối nứt chảy, bị
các loài trùng đục khoét, đang cào rách miệng các vết thương với móng
tay, với các căn bị hư hoại do sự xúc chạm đau khổ với ngọn lửa, lại
có phản tưởng là được lạc thọ.
– Cũng vậy, này Magandiya, sự xúc
chạm với các dục trong thời quá khứ cũng là đau khổ, rất là nồng
cháy, rất là nhiệt não, và sự xúc chạm với các dục trong thời vị lai
cũng là đau khổ, rất là nồng cháy, rất là nhiệt não, và sự xúc chạm
với các dục trong thời hiện lại cũng là đau khổ, rất là nồng cháy, rất
là nhiệt não. Và này Magandiya, những chúng sanh này chưa đoạn trừ tham
ái đối với các dục, đang bị các dục ái nhai nghiến, đang bị dục nhiệt
não thiêu đốt, với các căn bị hư hoại, do sự xúc chạm đau khổ với
các dục, lại có phản tưởng là được lạc thọ.
Ví như, này Magandiya, một người bị
bệnh cùi thân (đầy) lở lói, thân bị hư thối nứt chảy, bị các loài
trùng đục khoét, đang cào rách miệng các vết thương với móng tay, hơ đốt
thân mình trên hố than hừng. Này Magandiya, người bị bệnh cùi với thân
(đầy) lở lói, thân bị hư thối nứt chảy, bị các loài trùng đục khoét,
càng cào rách miệng các vết thương với các móng tay, càng hơ đốt thân
mình trên hố than hừng chừng nào thời miệng các vết thương ấy lại càng
thêm bất tịnh, càng thêm hôi thối và càng thêm thối nát, và người ấy
chỉ có cảm giác dễ chịu, thỏa thích do nhân duyên gãi ngứa miệng các
vết thương; cũng vậy, này Magandiya, các chúng sanh, chưa đoạn trừ tham
ái đối với các dục, đang bị các dục ái nhai nghiến, đang bị dục nhiệt
não thiêu đốt, chạy theo các dục. Này Magandiya các chúng sanh, chưa đoạn
trừ tham ái đối với các dục, đang bị các dục ái nhai nghiến, đang bị
dục nhiệt não thiêu đốt, càng chạy theo dục chừng nào, thời dục ái
các chúng sanh ấy càng tăng trưởng, càng bị dục nhiệt não thiêu đốt,
và họ chỉ có cảm giác dễ chịu, thỏa thích do duyên năm dục trưởng
dưỡng.
Này Magandiya, Ông nghĩ thế nào ?
Ông có thấy hay nghe một vị vua hay vị đại thần của vua hưởng thụ một
cách đầy đủ, một cách sung mãn năm dục trưởng dưỡng, dục ái chưa
được đoạn tận, dục nhiệt não chưa được trừ diệt, đã trú, đang
trú hay sẽ trú với khát ái được đoạn trừ, với nội tâm an tịnh
không ?
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Lành thay, này Magandiya ! Này
Magandiya, Ta cũng không thấy, cũng không nghe một vị vua hay vị đại thần
của vua hưởng thụ một cách đầy đủ, một cách sung mãn năm dục trưởng
dưỡng, dục ái chưa được đoạn tận, dục nhiệt não chưa được trừ
diệt, đã trú, đang trú hay sẽ trú với khát ái được đoạn trừ, với
nội tâm an tịnh. Nhưng này Magandiya, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào đã
sống, đang sống hay sẽ sống với khát ái được đoạn trừ, với nội tâm
an tịnh, tất cả những vị này, sau khi như chơn biết sự tập khởi, sự
đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các dục ấy, với
dục ái được đoạn tận, với dục nhiệt não được trừ diệt, đã
trú, đang trú hay sẽ trú với khát ái được đoạn trừ, với nội tâm
được an tịnh.
Rồi Thế Tôn, thời ấy nói lên cảm
hứng ngữ như sau:
- Không bệnh, lợi tối thắng,
- Niết-bàn, lạc tối thắng,
- Bát chánh là độc đạo,
- An ổn và bất tử.
Khi được nghe vậy, du sĩ Magandiya
bạch Thế Tôn:
– Thật hy hữu thay, Tôn giả
Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Lời này được Tôn giả Gotama
khéo nói:
- Không bệnh, lợi tối thắng,
- Niết-bàn, lạc tối thắng.
Con cũng vậy, thưa Tôn giả Gotama,
con cũng đã được nghe lời này, do các vị Tôn sư, đại Tôn sư các du sĩ
đã nói:
- Không bệnh, lợi tối thắng,
- Niết-bàn, lạc tối thắng.
Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, lời
nói này lời nói kia phù hợp nhau.
– Nhưng này Magandiya, điều mà
Ông đã được nghe do các vị Tôn sư, đại Tôn sư các du sĩ đã nói:
- Không bệnh, lợi tối thắng,
- Niết-bàn, lạc tối thắng.
Thế nào là không bệnh ? Thế nào
là Niết-bàn ?
Khi được nói vậy, du sĩ Magandiya,
tự lấy tay xoa bóp chân tay của mình và nói:
– Thế nào là không bệnh, thưa Tôn
giả Gotama ? Thế nào là Niết-bàn, thưa Tôn giả Gotama ? Tôi nay không bệnh,
an lạc, không có bệnh tật gì ở tôi.
– Này Magandiya, ví như người sanh
ra đã mù, không thấy sắc đen hay sắc trắng, không thấy sắc xanh, không
thấy sắc vàng, không thấy sắc đỏ, không thấy sắc đỏ tía, không thấy
cái gì thăng bằng, không thăng bằng, không thấy các vì sao, không thấy mặt
trăng, mặt trời. Người ấy nghe một người có mắt nói như sau: "Thật
tốt đẹp thay tấm vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh".
Và người ấy tìm tấm vải trắng. Rồi có một người khác đánh lừa người
ấy với một tấm y thô, dính dầu và đất và nói: "Này bạn, đây
là tấm vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh cho bạn". Người
ấy lấy tấm y ấy, sau khi lấy, đắp trên mình. Sau khi đắp trên mình, người
ấy hoan hỷ thốt lên lời nói tự mãn: "Thật tốt đẹp thay tấm vải
trắng xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh". Này Magandiya, Ông nghĩ thế
nào ? Kẻ sanh ra đã mù kia, do biết, do thấy, lấy tấm y thô, dính dầu
và đất ấy để rồi sau khi lấy người ấy đắp trên mình, sau khi đắp
trên mình; người ấy hoan hỷ thốt lên lời nói tự mãn: "Thật tốt
đẹp thay, tấm vải trắng xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh, hay là do
lòng tin người có mắt ?
– Thưa Tôn giả Gotama, do không biết,
không thấy, kẻ sanh ra đã mù kia lấy tấm y thô, dính dầu và đất ấy
để rồi sau khi lấy, người ấy đắp trên mình, sau khi đắp trên mình,
người ấy hoan hỷ thốt lên lời nói tự mãn: "Thật tốt đẹp thay tấm
vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh" là do lòng tin người
có mắt.
– Cũng vậy, này Magandiya, các du sĩ
mù lòa, không có mắt, không biết không bệnh, không thấy Niết-bàn nhưng
nói lên câu kệ này:
- Không bệnh, lợi tối thắng,
- Niết-bàn, lạc tối thắng.
Này Magandiya, câu kệ này trong thời
quá khứ đã được các bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nói lên:
- Không bệnh, lợi tối thắng,
- Niết-bàn, lạc tối thắng.
- Bát chánh là độc đạo,
- An ổn và bất tử.
Và câu kệ ấy này được dần dần
lan tràn đến dân chúng phàm phu. Nhưng này Magandiya, thân này trở thành bệnh
khổ, trở thành cục bướu, trở thành mũi tên, trở thành bất hạnh, trở
thành bệnh chướng và với thân trở thành bệnh khổ, trở thành cục bướu,
trở thành mũi tên, trở thành bất hạnh, trở thành bệnh chướng này,
Ông nói: "Thưa Tôn giả Gotama, cái này là không bệnh ấy, cái này là
Niết-bàn ấy". Như vậy, này Magandiya, Ông không có Thánh nhãn ấy, với
Thánh nhãn ấy Ông có thể biết không bệnh, có thể thấy Niết-bàn.
– Con có lòng tin Tôn giả Gotama như
sau: "Tôn giả Gotama có thể thuyết pháp cho ta để ta có thể biết
không bệnh, có thể thấy Niết-bàn".
– Này Magandiya, ví như người sanh
ra đã mù, không thấy sắc đen hay sắc trắng, không thấy sắc xanh, không
thấy sắc vàng, không thấy sắc đỏ, không thấy sắc đỏ tía, không thấy
cái gì thăng bằng, không thăng bằng, không thấy các vì sao, không thấy mặt
trăng, mặt trời. Các bạn bè thân hữu, bà con huyết thống của người
ấy mời một y sĩ khoa mổ xẻ. Vị y sĩ khoa mổ xẻ này cho người ấy
thuốc. Người ấy sau khi dùng thuốc, mắt không khởi lên, mắt không được
sáng tỏ. Này Magandiya, Ông nghĩ thế nào ? Có phải vị thầy thuốc ấy cảm
thấy mệt mỏi, phiền não không ?
– Thưa vâng, Tôn giả Gotama.
Cũng vậy, này Magandiya, nếu Ta thuyết
pháp cho Ông: "Đây là không bệnh ấy, đây là Niết-bàn ấy", và
Ông không biết không bệnh, không biết Niết-bàn thời như vậy làm Ta mệt
mỏi, làm Ta phiền não.
– Con có lòng tin Tôn giả Gotama như
sau: "Tôn giả Gotama có thể thuyết pháp cho ta để ta có thể biết
không bệnh, có thể thấy Niết-bàn".
– Này Magandiya, ví như người sanh
ra đã mù, không thấy sắc đen hay sắc trắng, không thấy sắc xanh, không
thấy sắc vàng, không thấy sắc đỏ, không thấy sắc đỏ tía, không thấy
cái gì thăng bằng, không thăng bằng, không thấy các vì sao, không thấy mặt
trăng, mặt trời. Người ấy nghe một người có mắt nói như sau: "Thật
tốt đẹp thay tấm vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh",
và người ấy đi tìm tấm vải trắng. Rồi có một người khác đánh lừa
người ấy với một tấm y thô, dính dầu và đất và nói: "Này bạn,
đây là tấm vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh cho bạn".
Người ấy lấy tấm y ấy. Sau khi lấy, người ấy đắp trên mình, sau khi
đắp trên mình người ấy, các bạn bè thân hữu, bà con huyết thống của
người ấy mời một y sĩ khoa mổ xẻ. Vị y sĩ khao mổ xẻ này cho người
ấy thuốc bài tiết các nhơ bẩn về phía trên, bài tiết các nhơ bẩn về
phía dưới, xức thuốc mắt, thoa dầu cho mắt, cho thuốc qua lỗ mũi. Người
ấy sau khi dùng thuốc, mắt được khởi lên, mắt được sáng tỏ. Với mắt
được khởi lên, người ấy đoạn trừ tham dục đối với tấm y thô,
dính dầu và dính đất kia, và người ấy có thể xem người kia là không
phải bạn, có thể xem người kia là thù địch và nghĩ đến sát hại sinh
mạng (của người kia): "Thật sự trong một thời gian dài, Ta bị người
này lường gạt, lừa dối, phỉnh gạt với tấm y thô, dính dầu và đất:
"Này bạn, đây là tấm vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh
cho bạn". Cũng vậy, này Magandiya, nếu Ta thuyết pháp cho Ông: "Đây
là không bệnh ấy, đây là Niết-bàn ấy", Ông có thể biết không bệnh,
Ông có thể thấy Niết-bàn. Và với mắt được khởi lên cho Ông, lòng
tham dục đối với năm thủ uẩn được đoạn trừ; và Ông có thể nghĩ
như sau: "Thật sự trong một thời gian dài, ta bị tâm này lường gạt,
lừa dối, phỉnh gạt, chấp thủ sắc, ta đã chấp thủ, chấp thủ thọ,
ta đã chấp thủ, chấp thủ tưởng, ta đã chấp thủ, chấp thủ các
hành, ta đã chấp thủ, chấp thủ thức, ta đã chấp thủ. Do duyên chấp
thủ ấy nơi ta, nên có hữu; do duyên hữu, có sanh; do duyên sanh, có già chết,
sầu, bi, khổ, ưu, não khởi lên. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ
Khổ uẩn".
– Con có lòng tin Tôn giả Gotama như
sau: "Tôn giả Gotama có thể thuyết pháp cho ta khiến ta có thể từ chỗ
ngồi này đứng dậy, không còn mù nữa".
– Vậy này Magandiya, hãy thân cận
các vị chân nhân. Này Magandiya, do Ông thân cận các vị chân nhân, thời
này Magandiya, Ông sẽ được nghe diệu pháp. Này Magandiya, do ngươi được
nghe diệu pháp, thời này Magandiya, Ông sẽ sống đúng với Chánh pháp và
tùy pháp. Này Magandiya, do Ông sống đúng với Chánh pháp và tùy pháp, thời
này Magandiya, Ông sẽ tự mình biết, tự mình thấy: "Đây là những bệnh
chướng, những cục bướu, những mũi tên. Ở đây, những bệnh chướng,
những cục bướu, những mũi tên được trừ diệt, không có dư tàn. Do chấp
thủ được diệt ở ta, nên hữu diệt; do hữu diệt, sanh diệt; do sanh diệt,
già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được diệt trừ. Như vậy là sự đoạn
diệt của toàn bộ khổ uẩn này".
Khi được nghe nói vậy, du sĩ
Magandiya bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Thưa Tôn giả Gotama, như người
dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị
che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối
để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được
các Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Nay con
xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Con xin xuất gia với
Tôn giả Gotama, con xin thọ đại giới.
– Này Magandiya, ai trước kia là
ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong pháp và luật
này phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt trú, các
Tỷ-kheo nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị
Tỷ-kheo. Nhưng Ta nhận thấy các tánh con người sai biệt nhau.
– Thưa Tôn giả Gotama, nếu những
người xưa kia là ngoại đạo, nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới
trong pháp và luật này, phải sống bốn tháng biệt trú, sau khi sống bốn
tháng biệt trú, các Tỷ-kheo nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại
giới; thời con sẽ xin sống biệt trú bốn năm, sau khi sống biệt trú bốn
năm, nếu các Tỷ-kheo đồng ý, hãy cho con xuất gia, hãy cho con thọ đại
giới để thành Tỷ-kheo.
Và du sĩ Magandiya được xuất gia với
Thế Tôn, được thọ đại giới. Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả
Magandiya ở một mình an tịnh, không phóng dật, sống nhiệt tâm, cần mẫn.
Và không bao lâu, vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các
lương gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến.
Đó là mục đích của vô thượng Phạm hạnh, ngay trong hiện tại, với
thượng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú: "Sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không
có đời sống khác nữa". Tôn giả Magandiya hiểu biết như vậy.
Và Tôn giả Magandiya trở thành một
vị A-la-hán nữa.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Kosambi
(Kiều-thưởng-di), tại tu viện Ghosita (Cù-sư-la). Lúc bấy giờ, du sĩ
Sandaka trú ở hang Pilakka với đại chúng du sĩ, khoảng độ năm trăm du
sĩ. Rồi Tôn giả Ananda, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng
dậy, và nói với các Tỷ-kheo:
– Chư Hiền, chúng ta hãy đi đến
Devakatasobbha để xem hang.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Ananda. Rồi Tôn giả Ananda với một số đông Tỷ-kheo đi đến
Devakatasobbha. Lúc bấy giờ, du sĩ Sandaka ngồi với đại chúng du sĩ đang lớn
tiếng, cao tiếng, to tiếng bàn luận nhiều vấn đề phù phiếm như câu
chuyện về vua chúa, câu chuyện về ăn trộm, câu chuyện về đại thần,
câu chuyện về binh lính, các câu chuyện hãi hùng, câu chuyện về chiến
tranh, câu chuyện về đồ ăn, câu chuyện về đồ uống, câu chuyện về
đồ mặc, câu chuyện về giường nằm, câu chuyện về vòng hoa, câu chuyện
về hương liệu, câu chuyện về bà con, câu chuyện về xe cộ, câu chuyện
về làng xóm, câu chuyện về thị trấn, câu chuyện về thành phố, câu
chuyện về quốc độ, câu chuyện về đàn bà, câu chuyện về vị anh
hùng, câu chuyện bên lề đường, câu chuyện tại chỗ lấy nước, câu
chuyện về người đã chết, các câu chuyện tạp thoại, câu chuyện về
hiện trạng của thế giới, hiện trạng của đại dương, câu chuyện về
hiện hữu và không hiện hữu. Du sĩ Sandaka thấy Tôn giả Ananda từ xa đi
đến, thấy vậy liền khuyến cáo chúng của mình:
– Các Tôn giả hãy nhỏ tiếng !
Các Tôn giả hãy lặng tiếng ! Nay đệ tử của Sa-môn Gotama, Sa-môn Ananda
đang đến. Khi nào các đệ tử của Sa-môn Gotama trú ở Kosambi, thời
Sa-môn Ananda này là một vị trong những vị ấy. Các Tôn giả ấy ưa mến
trầm lặng, tu tập trong trầm lặng, tán thán trầm lặng, nếu biết chúng
này trầm lặng, có thể ghé tại đây.
Rồi các du sĩ ấy đều im lặng. Tôn
giả Ananda đến chỗ du sĩ Sandaka. Du sĩ Sandaka thưa với Tôn giả Ananda:
– Hãy đến, Tôn giả Ananda ! Thiện
lai, Tôn giả Ananda ! Đã lâu Tôn giả Ananda mới tạo cơ hội này, nghĩa là
đến đây. Tôn giả Ananda hãy ngồi, đây là chỗ ngồi đã soạn sẵn.
Tôn giả Ananda ngồi trên chỗ đã
soạn sẵn. Du sĩ Sandaka lấy một ghế thấp khác rồi ngồi xuống một
bên. Tôn giả Ananda nói với du sĩ Sandaka đang ngồi một bên:
– Này Sandaka, nay các vị hội họp
nhau ở đây, đang bàn vấn đề gì ? Và câu chuyện gì giữa các vị bị
gián đoạn ?
– Tôn giả Ananda, hãy gác một
bên vấn đề chúng tôi đang hội họp bàn luận. Lát nữa Tôn giả Ananda
nghe lại cũng không khó khăn gì. Lành thay, nếu được Tôn giả Ananda thuyết
cho pháp thoại vị Đạo sư của mình.
– Vậy này Sandaka, hãy nghe và
khéo tác ý, tôi sẽ giảng:
– Thưa vâng, Tôn giả.
Du sĩ Sandaka vâng đáp Tôn giả
Ananda. Tôn giả Ananda nói như sau:
– Này Sandaka, bốn pháp phi phạm hạnh
trú này, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác tuyên bố, và bốn pháp bất an phạm hạnh cũng được tuyên bố. Ở
đây, người có trí không thể tự mình sống Phạm hạnh và nếu sống, thời
không thể thành đạt (chánh) đạo, pháp và (chí) thiện.
– Tôn giả Ananda, bốn pháp phi phạm
hạnh trú do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác tuyên bố, và ở đây người có trí không thể tự mình sống Phạm hạnh,
và nếu sống, thời không thể thành đạt (chánh) đạo, pháp và (chí) thiện;
bốn pháp phi phạm hạnh trú ấy là gì ?
– Ở đây, này Sandaka, có vị Đạo
sư có thuyết lý như sau, có quan điểm như sau: "Không có bố thí,
không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp
thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có
cha, không có loại hóa sanh, ở đời không có những vị Sa-môn, Bà-la-môn
chánh hướng, chánh hạnh, sau khi đã tự mình giác ngộ với thắng trí
tuyên bố về đời này và đời sau. Con người này do bốn đại họp thành,
khi mệnh chung, địa đại quy nhập địa giới, thủy đại quy nhập thủy
giới, hỏa đại quy nhập hỏa giới, phong đại quy nhập phong giới, các căn
nhập vào hư không. (Bốn) người, gánh quan tài với người nằm trong quan
tài là năm gánh người chết mang đi, đến chỗ hỏa tảng và thốt ra những
lời kể lể, đặc tánh của người chết. Các xương thành màu xám như
chim bồ câu, và những vật cúng dường trở thành tro bụi. Chỉ có người
ngu mới tán dương bố thí, lời nói của họ trống không, giả dối, vô
ích khi họ chấp thuyết "có sự hiện hữu (Atthikavada)". Kẻ ngu cũng
như người trí, sau khi thân hoại mạng chung sẽ đoạn diệt, tiêu thất,
không còn tồn tại sau khi chết".
Ở đây, này Sandaka, người có trí
suy tư như sau: "Vị Tôn sư này, thuyết lý như vầy, quan điểm như vầy:
"Không có bố thí, không có lễ hy sinh... (như trên)... Không còn tồn tại
sau khi chết". Nếu vị Tôn sư này nói đúng sự thật, thời cái gì đã
làm ở đây không phải ta làm, cái gì được sống ở đây không phải ta
sống, nhưng cả hai chúng ta ở đây đều đồng đẳng khi chứng Sa-môn quả,
và ta không có nói: "Cả hai chúng ta, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ
bị đoạn diệt, tiêu thất, sẽ không hiện hữu sau khi chết". Thật sự
là quá độ hạnh lõa thể, trọc đầu, tinh tấn ngồi chỏ hỏ, nhổ lông
tóc của vị Tôn sư này; trong khi ta sống trong gia đình được con cái bao
bọc đoanh vây, thọ dụng chiên-đàn Kasi, mang dùng vòng hoa, hương liệu phấn
sáp, hưởng thọ vàng bạc, và trong đời sau ta sẽ đồng đẳng với vị
Tôn sư này về chỗ thọ sanh. Như vậy, ta biết gì, thấy gì mà ta sẽ sống
Phạm hạnh dưới vị Đạo sư này ?" Vị ấy sau khi biết phi phạm hạnh
trú này, yểm ly hạnh ấy và bỏ đi. Như vậy, này Sandaka là phi phạm hạnh
trú thứ nhất, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác tuyên bố và ở đây người có trí không thể tự mình sống
theo hạnh ấy, và nếu sống, thời không thể thành đạt (chánh) đạo, pháp
và (chí) thiện.
Lại nữa, này Sandaka, ở đây có vị
Đạo sư có thuyết lý như sau, có quan điểm như sau: "Tự làm hay khiến
người làm, chém giết hay khiến người chém giết, đốt nấu hay khiến
người đốt nấu, gây phiền muộn, hay khiến người gây phiền muộn, gây
áo não hay khiến người gây áo não, tự mình gây sợ hãi hay khiến người
gây sợ hãi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp đoạt,
đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt, tư thông vợ người,
nói láo, hành động như vậy không có tội ác. Nếu lấy một bánh xe sắc
bén giết hại tất cả chúng sanh trên cõi đất này, làm thành một đống
thịt, thành một chồng thịt, cũng không vì vậy mà có tội ác, gây ra tội
ác. Nếu đi trên bờ phía Nam sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết,
khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu, cũng không
vì vậy có tội ác, gây ra tội ác. Nếu đi trên bờ phía Bắc sông Hằng
bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ, cũng không
vì vậy có phước báo, tạo nên phước báo. Bố thí, tự điều phục, tự
chế ngự, nói thật không có công đức, không tạo nên công đức".
Ở đây, này Sandaka, người có trí
suy tư như sau: "Vị Tôn sư này, có thuyết lý như vầy, có quan điểm
như vầy: "Tự làm, khiến người làm... (như trên)... không tạo nên
công đức". Nếu vị Tôn sư này nói đúng sự thật, thời cái gì đã
làm ở đây không phải ta làm, cái gì được sống ở đây không phải ta
sống; nhưng cả hai chúng ta ở đây đều đồng đẳng khi chứng Sa-môn quả,
và ta không có nói: "Hành động cả hai (chúng ta) không tạo ra tội
ác". Thật sự là quá độ... (như trên)... mà ta sẽ sống Phạm hạnh
dưới vị Đạo sư này ?" Vị ấy sau khi biết phi phạm hạnh trú này,
yểm ly hạnh ấy và bỏ đi. Như vậy, này Sandaka là phi phạm hạnh trú thứ
hai, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác đã tuyên bố và ở đây người có trí không thể tự mình sống theo
hạnh ấy, và nếu sống, thời không thể thành đạt (chánh) đạo, pháp
và (chí) thiện.
Lại nữa, này Sandaka, ở đây, có
vị Đạo sư có thuyết lý như vậy, có quan điểm như vầy: "Không có
nhân, không có duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô; không có nhân, không
có duyên, các loài hữu tình sẽ bị nhiễm ô. Không có nhân, không có
duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh, không nhân không duyên, các
loài hữu tình sẽ được thanh tịnh. Không có lực, không có tinh tấn,
không có nhân lực, không có cố gắng của người. Tất cả loài hữu
tình, tất cả chúng sanh, tất cả sanh loại, tất cả sinh mạng đều không
tự tại, không lực, không tinh tấn. Họ bị dắt dẫn chi phối bởi định
mệnh, bởi sự trùng hợp, bởi tự tánh. Họ hưởng thọ khổ lạc, y theo
sáu sanh loại".
Ở đây, này Sandaka, người có trí
suy tư như sau: "Vị Tôn sư này có thuyết lý như vầy, có quan điểm
như vầy: "Không có nhân, không có duyên... (như trên)... họ hưởng thọ
khổ lạc, y theo sáu sanh loại". Nếu vị Tôn sư này nói đúng sự thật,
thời cái gì đã làm ở đây không phải ta làm, cái gì được sống ở đây
không phải ta sống, nhưng cả hai chúng ta ở đây đều đồng đẳng khi chứng
Sa-môn quả, và ta không có nói: "Cả hai chúng tôi, không có nhân,
không có duyên sẽ được thanh tịnh". Thật sự là quá độ... (như trên)...
mà ta sẽ sống theo hạnh ấy dưới vị Đạo sư này ?" Vị ấy sau khi
biết phi phạm hạnh trú này, yểm ly hạnh ấy và bỏ đi. Như vậy, này
Sandaka là phi phạm hạnh trú thứ ba, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến
Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, và ở đây người có trí
không thể tự mình sống theo hạnh ấy, và nếu sống thời không thể
thành đạt (chánh) đạo, pháp và (chí) thiện.
Lại nữa, này Sandaka, ở đây có vị
Đạo sư có thuyết lý như vầy, có quan điểm như vầy: "Có bảy thân
này không bị làm ra, không làm ra, không bị sáng tạo, không sáng tạo,
không sanh sản, thường tại như đảnh núi, đứng thẳng như trụ đá.
Chúng bất động, không chuyển biến, không xâm hại nhau. Chúng không thể
ảnh hưởng đến lạc hay khổ với nhau, hoặc cả khổ và lạc. Thế nào
là bảy ? Địa thân, thủy thân, hỏa thân, phong thân, khổ, lạc, và thứ
bảy là mạn. Bảy thân này không bị làm ra, không làm ra, không bị sáng tạo,
không sáng tạo, không sanh sản, thường tại như đỉnh núi, đứng thẳng
như trụ đá. Chúng bất động, không chuyển biến, không xâm hại nhau.
Chúng không thể ảnh hưởng đến lạc hay khổ với nhau, hoặc cả khổ và
lạc. Ở đây, không có người giết hại hoặc người bị giết hại, người
nghe hoặc người nói, người biết hoặc người khiến cho biết, khi có một
ai dùng lưỡi kiếm sắc bén chém đầu, thời không ai tước đoạt sanh mạng
của ai cả, lưỡi kiếm chỉ rơi vào giữa bảy thân mà thôi. Có tất cả
là 14 trăm ngàn chủng loại thác sanh, lại có thêm 60 một trăm và 6 một
trăm. Có 5 một trăm loại nghiệp và có 5 nghiệp (theo 5 căn), lại có 3
nghiệp (về thân, khẩu, ý), lại có toàn nghiệp (thân và khẩu), bán nghiệp
(ý), có 62 đạo, 62 trung kiếp, 6 giai cấp, 8 nhân địa; 4900 sanh nghiệp,
4900 kẻ du hành, 4900 chỗ ở của loài Naga, 2000 căn, 3000 cảnh địa ngục,
36 trần giới, 7 tưởng thai, 7 vô tưởng thai, 7 tiết thai (sanh từ đốt,
hay ly hệ thai ?) 7 loài Thiên, 7 loài Người, 7 loài Quỷ, 7 hồ nước, 7
pavutas (núi hay hồ nhỏ), 7000 pavutas, 700 papatas (vực thẳm), 7 mộng, 700 mộng
có 8.400.000 đại kiếp, trong thời gian ấy kẻ ngu và người trí, sau khi lưu
chuyển, luân hồi, sẽ trừ tận khổ đau. Không có lời nguyện: "Với
giới này, với giới cấm này, với khổ hạnh này, hay với Phạm hạnh
này, tôi sẽ làm cho chín muồi những nghiệp chưa được thuần thục, hoặc
trừ diệt những nghiệp đã được thuần thục, bởi những nhẫn thọ liên
tục không thể đo lường, khổ và lạc với những vật đo lường, trong
luân hồi không có tăng giảm, không có cao thấp. Ví như cuộn chỉ được
tung ra sẽ được kéo dài đến một mức độ nào đó. Cũng như vậy, kẻ
ngu và người trí, sau khi lưu chuyển luân hồi sẽ chấm dứt khổ
đau".
Ở đây, này Sandaka, người có trí
suy tư như sau: "Vị Tôn sư này có lý thuyết như vầy, có quan điểm
như vầy: "Có bảy thân này... (như trên)... sẽ chấm dứt khổ
đau". Nếu vị Tôn sư này nói đúng sự thật, thời cái gì đã làm
ở đây không phải ta làm, cái gì được sống ở đây không phải ta sống,
nhưng cả hai chúng ta ở đây đều đồng đẳng khi chứng Sa-môn quả, và
ta không có nói: "Cả hai chúng tôi, sau khi lưu chuyển luân hồi sẽ chấm
dứt khổ đau". Thật sự là quá độ hạnh lõa thể, trọc đầu, tinh
tấn ngồi chỏ hỏ, nhổ lông tóc của vị Tôn sư này, trong khi ta sống
trong gia đình, được con cái bao bọc đoanh vây, thọ dụng chiên-đàn Kasi,
mang dùng vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, hưởng thọ vàng bạc, và trong
đời sau ta sẽ đồng đẳng với vị Tôn sư này về chỗ thọ sanh. Như vậy
ta biết gì, ta thấy gì mà ta sẽ sống theo hạnh ấy với vị Đạo sư này
?" Vị ấy sau khi biết phi phạm hạnh trú này, yểm ly theo hạnh ấy
và bỏ đi. Như vậy, này Sandaka là phi phạm hạnh trú thứ tư, được Thế
Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A la hán , Chánh Đẳng Giác tuyên bố,
và ở đây người có trí không thể tự mình sống theo hạnh ấy, và nếu
sống, thời không thể thành đạt (chánh) đạo, pháp, và (chí) thiện.
Này Sandaka, bốn phi phạm hạnh trú
này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác tuyên bố, và ở đây, người có trí không thể tự mình sống theo hạnh
ấy, và nếu sống, thời không thể thành đạt (chánh) lý, pháp, và (chí)
thiện.
– Thật vi diệu thay, Tôn giả
Ananda ! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ananda ! Bốn phi phạm hạnh trú này đã
được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bấc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
tuyên bố là phi phạm hạnh trú, và ở đây, người có trí không thể tự
mình sống theo hạnh ấy, và nếu sống, thời không thể thành đạt (chánh)
lý, pháp, và (chí) thiện. Tôn giả Ananda, thế nào là bốn pháp bất an phạm
hạnh được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác tuyên bố, và ở đây người có trí không thể tự mình sống theo hạnh
ấy, và nếu sống, thời không thể thành đạt (chánh) đạo, pháp, và
(chí) thiện ?
Ở đây, này Sandaka, có bậc Đạo
sư nhứt thiết tri nhứt thiết kiến, tự xem đã chứng được tri kiến hoàn
toàn: "Khi ta đi, ta đứng, ta ngủ và ta thức, tri, kiến được an trú
ở trong ta, liên tục, không gián đoạn". Vị ấy đi vào một nhà trống,
không nhận được đồ ăn khất thực, và con chó cắn vị ấy, vị ấy gặp
voi dữ, gặp người dữ, gặp bò dữ, và vị ấy hỏi tên và họ một người
đàn bà, một người đàn ông, và hỏi tên những con đường của làng, của
trị trấn. Vị ấy được hỏi: "Sao như thế này ?", và trả lời:
"Ta phải vào một nhà trống, do vậy ta đã vào; ta phải không nhận
được đồ ăn khất thực, do vậy ta đã không nhận được đồ ăn khất
thực. (Có người) phải bị chó cắn, do vậy ta đã bị chó cắn. (Có người)
phải gặp voi dữ, do vậy ta đã gặp; phải gặp ngựa dữ, do vậy ta đã
gặp, phải gặp bò dữ, do vậy ta đã gặp. Có người phải hỏi tên và họ
một người đàn bà, một người đàn ông, do vậy ta đã hỏi. (Có người)
phải hỏi tên những con đường của làng, của thị trấn, do vậy ta đã
hỏi". Ở đây, này Sandaka, người có trí suy tư như sau: "Vị Tôn
sư này là nhất thiết tri, nhứt thiết kiến... (như trên)... do vậy ta đã
hỏi". Vị ấy sau khi biết: "Hạnh này là bất an", nên yểm ly
hạnh ấy và bỏ đi. Này Sandaka, đây là Bất an phạm hạnh thứ nhất,
được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
tuyên bố, và ở đây người có trí không thể tự mình sống theo hạnh
ấy, và nếu sống thời không thể thành đạt (chánh) đạo, pháp và (chí)
thiện.
Lại nữa, này Sandaka, ở đây, có
vị Đạo sư y cứ truyền thuyết, (xem) truyền thuyết là chân thật, vị
này thuyết pháp theo truyền thuyết, theo tương truyền và truyền thống,
theo uy tín (Thánh) tạng. Này Sandaka, nếu vị Đạo sư y cứ truyền thuyết,
xem truyền thuyết là chân thật, vị ấy (có phần) khéo nhớ, (có phần)
không khéo nhớ, (khi thì) như thế này, (khi thì) như thế khác. Ở đây,
này Sandaka, người có trí suy tư: "Vị Tôn sư này y cứ truyền thuyết,
xem truyền thuyết là chơn thật, vị này thuyết pháp theo truyền thuyết,
theo tương truyền và truyền thống, theo uy tín (Thánh) tạng. Nếu vị Đạo
sư y cứ truyền thuyết, xem truyền thuyết là chơn thật, vị ấy (có phần)
khéo nhớ, (có phần) không khéo nhớ, (khi thì) như thế này, (khi thì) như
thế khác. Vị ấy sau khi biết: "Hạnh này là bất an", nên yểm ly
hạnh ấy và bỏ đi. Này Sandaka, đây là bất an phạm hạnh thứ hai, được
Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố,
và ở đây người có trí không thể tự mình sống theo hạnh ấy, và nếu
sống, thời không thể thành đạt (chánh) đạo, pháp, và (chí) thiện.
Lại nữa, này Sandaka, ở đây có vị
Đạo sư là nhà lý luận, là nhà suy luận. Do sự đả phá của lý luận
và y cứ theo suy luận, vị này thuyết pháp theo nguyên tắc tự mình sáng
tác. Này Sandaka, nếu vị Đạo sư là nhà lý luận, là nhà suy luận, vị
ấy (có phần) khéo lý luận, (có phần) không khéo lý luận, (khi thì) như
thế này, (khi thì) như thế khác. Ở đây, này Sandaka, người có trí suy
nghĩ: "Vị Tôn sư này là nhà lý luận, là nhà suy luận. Do sự đả phá
của lý luận và y cứ theo suy luận, vị này thuyết pháp theo nguyên tắc tự
mình sáng tác. Nếu vị Đạo sư là nhà lý luận, là nhà suy luận, vị ấy
(có phần) khéo lý luận, (có phần) không khéo lý luận, (khi thì) như thế
này, (khi thì) như thế khác. Vị ấy sau khi biết: "Hạnh này là bất
an" nên yểm ly hạnh ấy và bỏ đi. Này Sandaka đây là bất an phạm hạnh
thứ ba, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác tuyên bố, và ở đây người có trí không thể tự mình sống theo hạnh
ấy, và nếu sống thì không thể thành đạt (chánh) lý, pháp, và (chí) thiện.
Lại nữa, này Sandaka, ở đây có vị
Đạo sư là người đần độn, là người ngu si. Vì đần độn ngu si, khi
được hỏi về vấn đề này, vấn đề khác, vị ấy dùng những lời ngụy
biện trườn uốn như con lươn: "Theo tôi không phải như vậy, theo tôi
không phải như kia, theo tôi không khác như thế, theo tôi không phải như thế,
theo tôi không không phải như thế". Ở đây, này Sandaka người có trí
suy tư: "Vị Tôn sư này là người đần độn, là người ngu si... (như
trên)... theo tôi không phải như thế". Vị ấy sau khi biết: "Hạnh
này là bất an", nên yểm ly hạnh ấy và bỏ đi. Này Sandaka, đây là bất
an phạm hạnh thứ tư, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, và ở đây người có trí không thể
tự mình sống theo hạnh ấy và nếu sống thì không thể thành đạt (chánh)
đạo, pháp và (chí) thiện.
Này Sandaka, bốn bất an phạm hạnh
này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác tuyên bố, và ở đây người có trí không thể tự mình sống theo hạnh
ấy, và nếu sống thì không thể thành đạt (chánh) lý, pháp và (chí) thiện.
– Thật vi diệu thay, Tôn giả
Ananda ! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ananda ! Bốn pháp bất an phạm hạnh này
đã được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác tuyên bố là bất an phạm hạnh, và ở đây người trí không thể tự
mình sống theo hạnh ấy, và nếu sống thì không thể thành đạt (chánh)
lý, pháp, và (chí) thiện. Thưa Tôn giả Ananda, vị Đạo sư ấy dạy những
gì, tuyên bố những gì, mà ở đây, người có trí có thể tự mình sống
Phạm hạnh, và khi sống, có thể thành đạt (chánh) lý, pháp, và (chí) thiện
?
– Ở đây, này Sandaka, Như Lai xuất
hiện ở đời, là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thưởng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật,
Thế Tôn. Như Lai sau khi riêng tự chứng ngộ với thượng trí... lại
tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ... Ngài truyền dạy Phạm hạnh
hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh. Người gia trưởng hay con người gia trưởng,
hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nghe pháp ấy... (như Kinh
Kandaraka của tập này, tr. 20 – tr. 25). Sau khi trừ bỏ năm triền cái này,
các pháp làm tâm cấu uế, làm trí tuệ trở thành yếu ớt vị ấy ly dục,
ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Này Sandaka, nếu một đệ tử chứng
được ưu thắng đặc thù như vậy dưới một vị Đạo sư, thời ở đây
người có trí có thể tự mình sống Phạm hạnh, và khi sống có thể
thành đạt (chánh) lý, pháp, và (chí) thiện. Lại nữa, này Sandaka, vị Tỷ-kheo
diệt tầm và tứ... Nhị thiền... Tam thiền... chứng đạt và an trú Tứ
thiền. Này Sandaka, nếu một đệ tử chiếm được ưu thắng đặc thù như
vậy dưới một Đạo sư... (như trên)... (chánh) lý, pháp, và (chí) thiện".
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững
chắc bất động như vậy, vị ấy, hướng tâm đến túc mạng trí. Vị
ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời... như vậy,
vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại
cương và các chi tiết. Này Sandaka, nếu một đệ tử chiếm được ưu thắng
đặc thù như vậy dưới một vị Đạo sư... (như trên)... (chánh) lý,
pháp, và (chí) thiện. Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu
nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bất động
như vậy, vị ấy hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị
ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của
chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang,
người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh... đều do hạnh
nghiệp của họ. Này Sandaka nếu một đệ tử chứng được ưu thắng đặc
thù như vậy dưới một vị Đạo sư... (như trên)... (chánh) đạo, pháp
và (chí) thiện. Với tâm định tĩnh thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm,
không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy,
vị ấy hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy như thật biết: "Đây
là Khổ"... vị ấy như thật biết: "Đây là con đường đưa đến
lậu hoặc diệt". Vị ấy do biết vậy, do thấy vậy, tâm được giải
thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được
giải thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy,
khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết:
"Sanh đã diệt, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; sau đời
hiện tại, không có đời sống nào khác nữa". Này Sandaka, nếu một
đệ tử chứng được ưu thắng đặc thù như vậy dưới một Đạo sư nào,
thời ở đây người có trí có thể tự mình sống Phạm hạnh, và khi sống
có thể thành đạt (chánh) đạo, pháp, và (chí) thiện.
– Nhưng, thưa Tôn giả Ananda, một
Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn, các việc
nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã
tận trừ hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh trí, vị Tỷ-kheo ấy
có thể thọ dụng các dục vọng không ?
– Này Sandaka, vị Tỷ-kheo nào là
bậc A-la-hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã
làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ
hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh trí, vị ấy không thể vi phạm
năm điều: Vị Tỷ-kheo, các lậu đã tận không có thể cố ý sát hại mạng
sống chúng sanh; vị Tỷ-kheo các lậu đã tận không có thể lấy của
không cho, được gọi là ăn trộm; vị Tỷ-kheo các lậu đã tận không có
thể hành dâm dục; vị Tỷ-kheo các lậu đã tận không có thể cố ý nói
láo; vị Tỷ-kheo các lậu đã tận không có thể hưởng thọ các dục đối
với các vật được tàng trữ như trước khi còn tại gia. Này Sandaka, một
vị Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn, các
việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng,
đã tận trừ hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh trí, vị ấy không
có thể vi phạm năm điều này.
– Thưa Tôn giả Ananda, vị Tỷ-kheo
nào là bậc A-la-hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên
làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận
trừ hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh trí, khi vị ấy đi, đứng,
ngủ và thức, có phải tri kiến vị ấy được an trú một cách liên tục,
không gián đoạn: "Các lậu hoặc của ta đã được đoạn tận" ?
– Này Sandaka, tôi sẽ cho Ông một
ví dụ, nhờ ví dụ ở đây, một số người có trí sẽ biết ý nghĩa câu
nói. Ví như, này Sandaka, một người tay chân bị chặt; khi người ấy đi,
đứng, ngủ và thức, tay chân bị chặt một cách liên tục, không gián đoạn,
và khi người ấy suy tư về vấn đề này, người ấy biết: "Tay chân
của ta bị chặt". Cũng vậy, này Sandaka, vị Tỷ-kheo nào là bậc
A-la-hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm,
đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu
kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh trí, khi vị ấy đi, đứng, ngủ và
thức, các lậu hoặc được đoạn tận một cách liên tục, không gián đoạn,
và khi vị ấy suy tư về vấn đề này, vị ấy biết: "Các lậu hoặc
ta đã được đoạn tận".
– Nhưng thưa Tôn giả Ananda, có
bao nhiêu vị lãnh đạo tối thắng trong pháp và luật này ?
– Này Sandaka, không phải chỉ có
một trăm, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, mà còn nhiều vị lãnh đạo
tối thắng hơn nữa trong pháp và luật này.
– Thật vi diệu thay, Tôn giả
Ananda ! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ananda ! Không có sự tự tán pháp của
mình, không có sự hủy báng pháp của người khác, nhưng cả hai sự thuyết
pháp với các hành trì (ayatane) và rất nhiều vị lãnh đạo tối thắng
như vậy đã được thấy (ở đây). Còn các tà mạn ngoại đạo này là
những đứa con của người mẹ không con, họ tự tán khen mình chê người,
và họ chỉ có ba vị lãnh đạo tối thắng, tức là Nanda Vaccha, Kisa
Sankicca và Makkhali Gosala.
Rồi du sĩ Sandaka nói với đồ chúng
của mình:
– Chư Tôn giả, hãy đi và sống
Phạm hạnh dưới Sa-môn Gotama, tuy rằng nay không có dễ gì cho chúng ta từ
bỏ quyền lợi, tôn kính và danh tiếng.
Như vậy du sĩ Sandaka đã đưa đồ
chúng của mình sống Phạm hạnh dưới Sa-môn Gotama.
77. KINH MAHA SAKULUDAYI [^]
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Rajagaha
(Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại Kalandakanivapa (chỗ nuôi dưỡng sóc).
Lúc bấy giờ, có rất nhiều vị du sĩ, có thời danh, có danh tiếng trú
ở Moranivapa (Khổng Tước Lâm), tu viện các du sĩ, như Anugara, Varadhara, và
du sĩ Sakuludayi cùng với các vị du sĩ thời danh, danh tiếng khác. Thế Tôn
vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Rajagaha để khất thực. Rồi Thế
Tôn suy nghĩ: "Nay còn quá sớm để đi khất thực ở Rajagaha. Ta hãy đến
Moranivapa, tu viện các du sĩ, đi đến gặp du sĩ Sakuludayi". Rồi Thế Tôn
đi đến Moranivapa, tu viện các du sĩ.
Lúc bấy giờ du sĩ Sakuludayi đang
ngồi cùng với đại chúng du sĩ, đang lớn tiếng, cao tiếng, to tiếng, bàn
luận nhiều vấn đề phù phiếm như vương luận, tặc luận, đại thần
luận, binh luận, bố úy luận, chiến đấu luận, thực luận, ẩm luận, y
luận, sàng luân, hoa man luận, hương liệu luận, thân tộc luận, xa thừa
luận, thôn luận, trấn luận, thị luận, quốc độ luận, phụ nữ luận,
anh hùng luận, câu chuyện bên lề đường, câu chuyện tại chỗ lấy nước,
câu chuyện về người đã chết, tạp thoại luận, thế giới luận, hải
dương luận, hiện hữu, vô hiện hữu luận. Du sĩ Sakuludayi thấy Thế Tôn
từ xa đi đến, thấy vậy liền khuyến cáo chúng của mình:
– Các Tôn giả hãy nhỏ tiếng !
Các Tôn giả hãy lặng tiếng ! Nay Sa-môn Gotama đang đến, vị Tôn giả ấy
ưa mến an tịnh, tán thán an tịnh, nếu biết chúng này an tịnh, có thể
ghé tại đây.
Các du sĩ ấy đều im lặng. Rồi
Thế Tôn đến chỗ du sĩ Sakuludayi. Du sĩ Sakuludayi bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy đến
! Bạch Thế Tôn, thiện lai Thế Tôn ! Đã lâu Thế Tôn mới tạo cơ hội này,
nghĩa là đến đây. Thế Tôn hãy ngồi ! Đây là chỗ ngồi đã soạn sẵn.
Thế Tôn ngồi trên chỗ đã soạn
sẵn. Du sĩ Sakuludayi lấy một ghế thấp khác rồi ngồi xuống một bên.
Thế Tôn nói với du sĩ Sakuludayi đang ngồi một bên:
– Này Udayi, nay các vị họp nhau
ở đây, đang bàn vấn đề gì ? Và câu chuyện gì giữa các vị bị gián
đoạn ?
– Bạch Thế Tôn, hãy gác một
bên vấn đề chúng tôi đang hội họp bàn luận. Về sau Thế Tôn nghe lại
cũng không khó khăn gì ! Bạch Thế Tôn, trong những ngày trước, nhiều ngày
trước nữa, khi các vị Sa-môn, Bà-la-môn thuộc nhiều ngoại đạo sai khác,
ngồi lại và tập họp tại luận nghị đường, đối thoại này được
khởi lên: "Thật lợi ích thay cho dân chúng Anga và Magadha thật tốt đẹp
thay cho dân chúng Anga và Magadha khi được những vị Sa-môn, Bà-la-môn nay
là những vị lãnh đạo hội chúng, lãnh đạo đồ chúng, những vị sư
trưởng đồ chúng, những vị thời danh, những Tổ sư có thanh danh, được
quần chúng tôn sùng, đã đến Rajagaha để an cư trong mùa mưa ! Ngài Purana
Kassapa (Bất-lan Ca-diếp) này là bậc lãnh đạo hội chúng, lãnh đạo đồ
chúng, bậc sư trưởng đồ chúng, có thời danh, bậc Tổ sư có thanh danh,
được quần chúng tôn sùng, đã đến Rajagaha để an cư trong mùa mưa. Ngài
Makkhali Gosala này... (như trên)... Ngài Ajita Kesakambali... Ngài Pakudha
Kaccayana... Ngài Saniaya Belatthiputta... Ngài Nigantha Nataputta này là bậc lãnh
đạo hội chúng, bậc lãnh đạo đồ chúng, bậc sư trưởng đồ chúng,
có thời danh, bậc Tổ sư có thanh danh, được quần chúng tôn sùng, vị
này đã đến Rajagaha để an cư trong mùa mưa. Sa-môn Gotama này là bậc
lãnh đạo hội chúng, bậc lãnh đạo đồ chúng, bậc sư trưởng đồ chúng,
có thời danh, bậc Tổ sư có thanh danh, được quần chúng tôn sùng, vị
này đã đến Rajagaha để an cư trong mùa mưa. Trong những bậc Tôn giả
Sa-môn, Bà-la-môn này, những bậc lãnh đạo hội chúng, những bậc lãnh đạo
đồ chúng, những bậc sư trưởng đồ chúng, có thời danh, những bậc Tổ
sư có thanh danh, được quần chúng tôn sùng, vị nào được các đệ tử
cung kính tôn trọng, kính lễ, cúng dường ? Và các đệ tử sau khi cung kính
tôn trọng đã sống nương tựa như thế nào ?" Ở đây, có một số
người đã nói như sau: "Vị Purana Kassapa này là bậc lãnh đạo hội
chúng, bậc lãnh đạo đồ chúng, bậc sư trưởng đồ chúng, có thời
danh, bậc Tổ sư có thanh danh, được quần chúng tôn sùng, vị ấy không
được các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ cúng dường. Và các đệ
tử, sau khi cung kính tôn trọng đã không sống nương tựa Purana Kassapa. Thuở
xưa, Purana Kassapa thuyết pháp cho hội chúng hàng trăm người; ở đấy, một
đệ tử của Purana Kassapa nói lớn tiếng như sau: "Chư Tôn giả, chớ
có hỏi Purana Kassapa về ý nghĩa này. Vị ấy không biết ý nghĩa này,
chúng tôi biết ý nghĩa này. Hãy hỏi chúng tôi về ý nghĩa này. Chúng tôi
sẽ trả lời về ý nghĩa này cho chư Tôn giả". Thuở xưa, Purana
Kassapa dang tay, khóc lóc nhưng không được nghe theo: "Chư tôn giả, hãy
nhỏ tiếng ! Chư Tôn giả hãy lặng tiếng ! Những vị ấy không hỏi Chư
Tôn giả. Những vị ấy hỏi chúng tôi. Chúng tôi sẽ trả lời cho những
vị ấy". Nhiều đệ tử của Purana Kassapa, sau khi kích bác Purana
Kassapa, bỏ đi và nói: "Ông không biết pháp và luật này. Ta biết
pháp và luật này. Làm sao Ông có thể biết pháp và luật này ? Ông theo
tà hạnh. Ta theo chánh hạnh. Điều ta nói có tương ưng. Điều Ông nói
không tương ưng. Điều đáng nói trước, Ông lại nói như sau. Điều đáng
nói sau ngươi lại nói trước. Chủ trương của Ông đã bị lật ngược,
câu hỏi của Ông đã bị bài bác. Ông đã bị thuyết bại. Hãy đến giải
vây lời nói (ấy) nếu có thể được, gắng thoát khỏi lối bí". Như
vậy, Purana Kassapa không được các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ,
cúng dường. Và sau khi cung kính tôn trọng, các đệ tử đã không sống nương
tựa Purana Kassapa. Trái lại, Purana Kassapa đã bị mạ lỵ với những lời
mắng nhiếc vì hành động của mình.
Có một số người đã nói như
sau: "Vị Makkhali Gosala này... (như trên)... Ajita Kesakambali... Pukudha
Kaccayana... Sanjaya Belatthiputta... Vị Nigantha Nataputta này là bậc lãnh đạo
hội chúng, bậc lãnh đạo đồ chúng, bậc sư trưởng đồ chúng, có thời
danh, bậc Tổ sư có thanh danh, được quần chúng tôn sùng. Vị ấy không
được các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường. Và các đệ
tử sau khi cung kính, tôn trọng đã không sống nương tựa Nigantha Nataputta.
Thuở xưa, Nigantha Nataputta thuyết pháp cho hội chúng hàng trăm người. Ở
đây, một đệ tử của Nigantha Nataputta lớn tiếng nói như sau: "Chư Tôn
giả, chớ có hỏi Nigantha Nataputta về ý nghĩa này. Vị ấy không biết ý
nghĩa này. Chúng tôi biết ý nghĩa này. Hãy hỏi chúng tôi về ý nghĩa này.
Chúng tôi trả lời về ý nghĩa này cho chư Tôn giả". Thuở xưa
Nigantha Nataputta dang tay, khóc lóc nhưng không được nghe theo: "Chư Tôn
giả hãy nhỏ tiếng ! Chư Tôn giả hãy lặng tiếng ! Những vị ấy không
hỏi chư Tôn giả. Những vị ấy hỏi chúng tôi. Chúng tôi sẽ trả lời
cho những vị ấy". Nhiều đệ tử của Nigantha Nataputta, sau khi kích
bác Nigantha Nataputta, bỏ đi và nói: "Ông không biết pháp và luật
này. Ta biết pháp và luật này. Làm sao Ông có thể biết pháp và luật
này ? Ông theo tà hạnh. Ta theo chánh hạnh. Điều ta nói có tương ưng. Điều
Ông nói không tương ưng. Điều đáng nói trước Ông lại nói sau. Điều
đáng nói sau, Ông lại nói trước. Chủ trương của Ông đã bị lật ngược.
Câu nói của Ông đã bị bài bác. Ông đã bị thất bại. Hãy đến giải
vây lời nói ấy. Nếu có thể được, gắng thoát khỏi lối bí". Như
vậy, Nigantha Nataputta không được các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính
lễ, cúng dường. Và các đệ tử không có sau khi cung kính, tôn trọng sống
nương tựa Nigantha Nataputta. Trái lại Nigantha Nataputta đã bị mạ lỵ với
những lời mắng nhiếc vì hành động của mình.
Có một số người nói như sau:
"Sa-môn Gotama này là bậc lãnh đạo hội chúng, bậc lãnh đạo đồ chúng,
bậc sư trưởng đồ chúng, có thời danh, bậc Tổ sư có thanh danh, được
quần chúng tôn sùng. Và vị này được các đệ tử cung kính, tôn trọng,
kính lễ, cúng dường. Và các đệ tử sau khi cung kính tôn trọng, sống nương
tựa Sa-môn Gotama. Thuở xưa, Sa-môn Gotama đang thuyết pháp cho hội chúng
hàng trăm người. Ở đây, một đệ tử của Sa-môn Gotama ho (thành tiếng).
Một vị đồng Phạm hạnh dùng đầu gối đập (nhẹ) vào người ấy và
nói: "Tôn giả hãy lặng tiếng ! Tôn giả chớ có làm ồn ! Thế Tôn,
bậc Đạo sư của chúng ta đang thuyết pháp". Trong khi Sa-môn Gotama
đang thuyết pháp cho hội chúng hàng trăm người, trong khi ấy không có một
tiếng đằng hắng, không có một tiếng ho giữa các đệ tử của Sa-môn
Gotama. Từng nhóm đại thính chúng đang sống trong nhiệt tình kỳ vọng;
nghĩ rằng: "Thế Tôn sẽ thuyết pháp cho ta và ta được nghe". Ví
như có người tại ngã tư đường, đang bóp vắt một bánh mật ong nhỏ
trong sạch, và đại chúng đang sống nhiệt tình kỳ vọng. Cũng vậy, trong
khi Sa-môn Gotama đang thuyết pháp cho hội chúng hàng trăm người, trong khi
ấy không có một tiếng đằng hắng, không một tiếng ho giữa các đệ tử
của Sa-môn Gotama. Từng nhóm đại thính chúng đang sống trong nhiệt tình kỳ
vọng nghĩ rằng: "Thế Tôn sẽ thuyết pháp cho ta và ta sẽ được
nghe". Các đệ tử của Sa-môn Gotama sau khi cãi lộn với các vị đồng
Phạm hạnh từ bỏ tu học, trở lại hoàn tục, các vị ấy vẫn tán thán
bậc Đạo sư, tán thán Pháp, tán thán Tăng, tự quở trách mình, không quở
trách người khác: "Chính chúng ta thật bất hạnh, chính chúng ta thật
thiếu phước, dầu chúng ta xuất gia trong pháp luật được khéo giảng như
vậy mà không thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh cho
đến trọn đời". Họ trở thành những người giữ vườn, hay những
người cư sĩ và sống thọ trì năm giới". Như vậy Sa-môn Gotama được
các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường, và các đệ tử
sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa Sa-môn Gotama.
– Này Udayi, Ông thấy nơi ta có
bao nhiêu pháp mà do các pháp này, các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ,
cúng dường Ta và sau khi cung kính tôn trọng, sống nương tựa vào Ta ?
– Bạch Thế Tôn, con thấy nơi Thế
Tôn có năm pháp mà do năm pháp này, các đệ tử cung kính, tôn trọng,
kính lễ, cúng dường Thế Tôn, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương
tựa vào Thế Tôn. Thế nào là năm ?
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn ăn ít và
tán thán hạnh ăn ít. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn ăn ít và tán thán hạnh ăn
ít. Chính pháp này, bạch Thế Tôn, là pháp thứ nhất, con thấy nơi Thế Tôn.
Do pháp này các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Thế Tôn,
và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Thế Tôn.
Lại nữa, bạch Thế Tôn, Thế Tôn
biết đủ với bất cứ loại y nào và tán thán hạnh biết đủ với bất
cứ loại y nào. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn biết đủ với bất cứ loại y nào
và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ loại y nào. Chính pháp này, bạch
Thế Tôn là pháp thứ hai con thấy nơi Thế Tôn. Do pháp này, các đệ tử
cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Thế Tôn, và sau khi cung kính,
tôn trọng sống nương tựa vào Thế Tôn.
Lại nữa, bạch Thế Tôn, Thế Tôn
biết đủ với bất cứ món ăn khất thực nào và tán thán hạnh biết đủ
với bất cứ món ăn khất thực nào. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn biết đủ với
bất cứ món ăn khất thực nào và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ
món ăn khất thực nào. Chính pháp này, bạch Thế Tôn, là pháp thứ ba con
thấy nơi Thế Tôn. Do pháp này, các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ,
cúng dường Thế Tôn, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào
Thế Tôn.
Lại nữa, bạch Thế Tôn, Thế Tôn
biết đủ với bất cứ sàng tọa nào và tán thán hạnh biết đủ với bất
cứ sàng tọa nào. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn biết đủ với bất cứ sàng tọa
nào và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ sàng tọa nào. Chính pháp
này, bạch Thế Tôn, là pháp thứ tư con thấy nơi Thế Tôn. Do pháp này,
các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Thế Tôn, và sau
khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Thế Tôn.
Lại nữa, bạch Thế Tôn, Thế Tôn
sống viễn ly và tán thán hạnh sống viễn ly. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sống
viễn ly và tán thán hạnh sống viễn ly. Chính pháp này bạch Thế Tôn, là
pháp thứ năm con thấy nơi Thế Tôn. Do pháp này các đệ tử cung kính,
tôn trọng, kính lễ, cúng dường Thế Tôn, và sau khi cung kính, tôn trọng,
sống nương tựa vào Thế Tôn.
Chính năm pháp này, bạch Thế Tôn,
con thấy nơi Thế Tôn. Do năm pháp này, các đệ tử cung kính, tôn trọng,
kính lễ, cúng dường Thế Tôn, và sau khi cung kính, tôn trọng sống nương
tựa vào Thế Tôn.
– "Sa-môn Gotama ăn ít và tán
thán hạnh ăn ít"; này Udayi, nếu vì vậy các đệ tử cung kính, tôn
trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương
tựa vào Ta, thời này Udayi, có những đệ tử của Ta chỉ ăn với một bát
(kosa), chỉ ăn với nửa bát, chỉ ăn với trái cây veluva, chỉ ăn với nửa
trái cây veluva, và này Udayi. Còn Ta, có khi Ta ăn hơn một bình bát này, có
khi Ta ăn nhiều hơn như vậy nữa. "Sa-môn Gotama ăn ít và tán thán hạnh
ăn ít"; này Udayi, nếu vì vậy các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính
lễ, cúng dường Ta, và sau khi tôn trọng, cung kính sống nương tựa vào
Ta, thời này Udayi, những đệ tử ấy của Ta, sống nương tựa vào Ta chỉ
ăn với một bát, chỉ ăn với nửa bát, chỉ ăn với trái cây veluva, chỉ
ăn với nửa trái cây veluva; những vị ấy vì pháp hạnh này đáng lẽ
không cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và đáng lẽ không
tôn trọng cung kính không sống nương tựa vào Ta.
"Sa-môn Gotama sống biết đủ với
bất cứ loại y nào và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ loại y nào";
này Udayi, nếu vì vậy các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường
Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta, thời này Udayi,
có những đệ tử của Ta sống mặc phấn tảo y, mặc thô y. Những vị
ấy lượm từng mảnh vải từ bãi tha ma, hay từng đống rác, hay từ tiệm
phố, và sau khi làm thành áo sanghati (tăng-già-lê), họ mang loại áo ấy.
Còn Ta, này Udayi, có khi Ta mặc vải y của cư sĩ cúng dường, các chỗ sờn
mỏng được bện chắc lại với dây tơ cây bí trắng. "Sa-môn Gotama sống
biết đủ với bất cứ loại y nào và tán thán hạnh biết đủ với bất
cứ loại y nào"; này Udayi, nếu vì vậy các đệ tử của Ta cung kính,
tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta và sau khi tôn trọng cung kính, sống nương
tựa vào Ta, thời này Udayi, những vị đệ tử ấy của Ta, sống mặc phấn
tảo y, mặc thô y. Những vị ấy lượm từng mảnh vải từ bãi tha ma, hay
từ đống rác, hay từ tiệm phố, và sau khi làm thành áo sanghati, họ mang
loại áo ấy; những vị ấy vì pháp (hạnh) này đáng lẽ không cung kính,
tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và đáng lẽ không cung kính, tôn trọng,
không sống nương tựa vào Ta.
"Sa-môn Gotama sống biết đủ với
bất cứ món ăn khất thực nào và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ
món ăn khất thực nào", nếu vì vậy, này Udayi, các đệ tử cung kính,
tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương
tựa vào Ta, thời này Udayi, có những đệ tử của Ta chỉ ăn những món
ăn nhận trong bình bát khất thực, chỉ đi khất thực từng nhà một
(không bỏ sót nhà nào); tự thỏa mãn với những món ăn mảy mún, khi đi
vào trong nhà, dầu được mời ngồi, cũng không chấp nhận. Còn Ta, này
Udayi, đôi khi Ta nhận ăn những chỗ được mời, nhận ăn các thứ gạo,
cháo trong ấy các hạt đen được vứt bỏ, các loại canh, các loại trợ
vị. "Sa-môn Gotama sống biết đủ với bất cứ món ăn khất thực nào
và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ món ăn khất thực nào";
này Udayi nếu vì vậy, các đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng, kính lễ,
cúng dường Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta, thời
này Udayi, những vị đệ tử ấy của Ta, chỉ ăn những món ăn nhận trong
bình bát khất thực, chỉ đi khất thực từng nhà một, tự thỏa mãn với
những món ăn mảy mún, khi đi vào trong nhà, dầu được mời ngồi cũng không
chấp nhận; những vị ấy vì pháp (hạnh) này đáng lẽ không cung kính,
tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta và đáng lẽ không cung kính, tôn trọng,
không sống nương tựa vào Ta.
"Sa-môn Gotama sống biết đủ và
bất cứ sàng tọa nào và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ sàng tọa
nào"; nếu vì vậy, này Udayi, các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ,
cúng dường Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta, thời
này Udayi, có những đệ tử của Ta sống dưới gốc cây, sống ở ngoài
trời. Những vị ấy trong tám tháng không sống dưới mái che nào. Còn ta,
này Udayi, có đôi khi Ta sống dưới những ngôi lầu có gác nhọn, có tô
vôi trong và ngoài, được che gió, có then chốt đóng lại và có các cửa
sổ khép kín. "Sa-môn Gotama sống biết đủ với bất cứ sàng tọa
nào và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ sàng tọa nào" và nếu
vì vậy, này Udayi, các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường
Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta, thời này Udayi,
các vị đệ tử ấy của Ta, sống dưới gốc cây, sống ở ngoài trời,
trong tám tháng không sống dưới mái che nào; những vị ấy vì pháp (hạnh)
này đáng lẽ không cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và đáng
lẽ không cung kính tôn trọng, không sống nương tựa vào Ta.
"Sa-môn Gotama là vị sống viễn
ly và tán thán hạnh viễn ly"; này Udayi, nếu vì vậy các đệ tử cung
kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng,
sống nương tựa vào Ta, thời này Udayi, có những đệ tử của Ta sống
trong rừng núi, tại các trú xứ xa vắng. Sau khi đi sâu vào trong rừng
núi, trong các trú xứ xa vắng, sống tại các chỗ ấy, và nửa tháng một
lần mới trở về giữa Tăng chúng để tụng đọc Giới bổn. Còn Ta, này
Udayi, đôi khi ta sống đoanh vây xung quanh bởi các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Cư
sĩ nam, Cư sĩ nữ, Quốc vương, Đại thần, Ngoại đạo, đệ tử các ngoại
đạo. "Sa-môn Gotama là vị sống viễn ly và tán thán hạnh viễn
ly"; và nếu vì vậy, này Udayi, các đệ tử cung kính, tôn trọng kính
lễ, cúng dường Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào
Ta, thời này Udayi, các vị đệ tử ấy của Ta, sống trong rừng núi, tại
các trú xứ xa vắng. Sau khi đi sâu vào trong núi, trong các trú xứ xa vắng,
sống tại các chỗ ấy và nửa tháng một lần, mới trở về giữa Tăng
chúng để tụng đọc Giới bổn; những vị đệ tử ấy vì pháp (hạnh)
này đáng lẽ không cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta, và đáng
lẽ không cung kính, tôn trọng, không sống nương tựa vào Ta.
Như vậy, này Udayi, các đệ tử của
Ta do năm pháp này không cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta và
không cung kính, tôn trọng, không sống nương tựa vào Ta.
Này Udayi, lại có năm pháp khác, do
năm pháp này, các đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường,
và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa (vào Ta). Thế nào là năm
?
Ở đây, này Udayi, các đệ tử của
Ta thán phục Tăng thượng giới: "Sa-môn Gotama là vị có giới hạnh
và thành tựu giới uẩn tối thượng". Này Udayi, chính đệ tử của
Ta thán phục Tăng thượng giới, nghĩ rằng: "Sa-môn Gotama là vị có giới
hạnh và thành tựu giới uẩn tối thượng", đây là pháp thứ nhất,
này Udayi, các đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường
Ta và sau khi cung kính , tôn trọng, sống nương tựa vào Ta.
Lại nữa, này Udayi, các đệ tử của
Ta thán phục tri kiến vi diệu. Khi nói: "Ta biết", nghĩa là Sa-môn
Gotama có biết. Khi nói: "Ta thấy", nghĩa là Sa-môn Gotama có thấy.
Sa-môn Gotama thuyết pháp với thắng trí, không phải không với thắng trí.
Sa-môn Gotama thuyết pháp có nhơn duyên, không phải không có nhơn duyên.
Sa-môn Gotama thuyết pháp có thần thông lực (Sappatihariyam), không phải
không có thần thông lực. Này Udayi, chính đệ tử của Ta thán phục tri kiến
vi diệu và nghĩ rằng: "Khi nói: "Ta biết", nghĩa là Sa-môn
Gotama có biết: Khi nói: "Ta thấy", nghĩa là Sa-môn Gotama có thấy.
Sa-môn Gotama thuyết pháp với thắng trí, không phải không với thắng trí.
Sa-môn thuyết pháp với nhơn duyên, không phải không có nhơn duyên. Sa-môn
Gotama thuyết pháp có thần thông lực, không phải không có thần thông lực".
Đây là pháp thứ hai này Udayi, các đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng,
kính lễ, cúng dường Ta và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào
Ta.
Lại nữa, này Udayi, đệ tử của
Ta thán phục Tăng thượng trí tuệ và sự kiện này không thể xảy ra khi
họ nghĩ rằng: "Sa-môn Gotama là vị có trí tuệ và thành tựu tuệ uẩn
tối thượng. (Tuy vậy) Ngài không thấy trước một luận đạo nào ở tương
lai, hay một luận nạn ngoại đạo nào khởi lên (trong hiện tại) mà Ngài
không luận phá sau khi khéo léo nạn phá với Chánh pháp". Này Udayi,
Ông nghĩ thế nào ? Các đệ tử của Ta, sau khi biết như vậy, thấy như vậy,
có thể làm gián đoạn một cuộc đàm thoại đang diễn tiến nửa chừng
không ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này Udayi, Ta không chờ đợi sự
giáo giới từ nơi những đệ tử của Ta. Trái lại, chính những đệ tử
của Ta chờ đợi sự giáo giới từ nơi Ta. Do vậy, này Udayi, sự kiện
này không thể xảy ra khi các đệ tử của Ta thán phục Tăng thượng trí
tuệ và suy nghĩ: "Sa-môn Gotama là bậc có trí tuệ và thành tựu tuệ
uẩn tối thắng. (Tuy vậy) Ngài không thấy (trước) một luận đạo nào
ở tương lai, hay một luận nạn ngoại đạo nào khởi lên (trong hiện tại)
mà Ngài không luận phá, sau khi khéo léo nạn phá với chánh pháp". Đây
là pháp thứ ba, này Udayi, mà các đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng,
kính lễ, cúng dường Ta, và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa
vào Ta.
Lại nữa, này Udayi, những đệ tử
của Ta bị đắm chìm trong đau khổ, bị đau khổ chi phối, đến Ta và hỏi
về khổ Thánh đế. Được hỏi về Khổ Thánh đế, Ta trả lời cho họ.
Ta làm cho tâm của họ thỏa mãn với câu trả lời của Ta. Họ hỏi Ta về
Khổ tập, Khổ diệt, Khổ diệt đạo Thánh đế, Ta trả lời cho họ. Ta làm
cho tâm của họ thỏa mãn với câu trả lời của Ta. Đây là pháp thứ tư,
này Udayi, mà các đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường
Ta và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ theo đường
tu hành này, tu tập Bốn Niệm xứ. Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo sống
quán thân trên thân, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục
tham ưu trên đời, quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên các tâm...
quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục
tham ưu trên đời. Và ở đây các đệ tự của Ta, phần đông an trú, sau
khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này, tu tập Bốn Chánh cần. Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo với mục
đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sanh không cho sanh
khởi, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục
đích khiến cho các ác, bất thiện pháp đã sanh ra được trừ diệt, khởi
lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến
cho các thiện pháp từ trước chưa sanh nay cho sanh khởi, khởi lên ý muốn
cố gắng; tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện
pháp đã được sanh có thể duy trì, không có mù mờ, được tăng trưởng,
được quảng đại, được tu tập, được viên mãn, khởi lên ý muốn cố
gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm... Và ở đây, các đệ tử của Ta phần
đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh
viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ theo đường
tu hành này tu tập Bốn Thần túc. Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập
thần túc, câu hữu với dục Thiền định tinh cần hành... tinh tấn Thiền
định... tâm Thiền định, tu tập thần túc, câu hữu với tư duy Thiền định
tinh cần hành. Và ở đây, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi
chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ theo đường
tu hành này tu tập Năm Căn. Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập tín căn
hướng đến an tịnh, đưa đến giác ngộ, tu tập tinh tấn căn... tu tập
niệm căn... tu tập định căn... tu tập tuệ căn, hướng đến an tịnh,
đưa đến giác ngộ. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông
an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên
mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ theo đường
tu hành này, tu tập Năm Lực. Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập tín lực,
hướng đến an tịnh, đưa đến giác ngộ, tu tập tinh tấn lực... tu tập
niệm lực... tu tập định lực...tu tập tuệ lực, hướng đến an tịnh,
đưa đến giác ngộ. Ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an
trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí, và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này, tu tập Bảy Giác chi. Ở đây, này các Udayi, vị Tỷ-kheo tu tập
niệm giác chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ diệt, hướng đến xả,
tu tập trạch pháp giác chi... tu tập tinh tấn giác chi... tu tập hỷ giác
chi... tu tập khinh an giác chi... tu tập định giác chi, tu tập xả giác chi,
y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ diệt, hướng đến xả. Và ở đây,
này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng
trí, và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này, tu tập Thánh đạo Tám ngành. Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo
tu tập chánh tri kiến, tu tập chánh tư duy, tu tập chánh ngữ, tu tập
chánh nghiệp, tu tập chánh mạng, tu tập chánh tinh tấn, tu tập chánh niệm,
tu tập chánh định. Và ở đây, này Udayi, các vị đệ tử của Ta phần
đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh
viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này tu tập Tám Giải thoát. "Tự mình có sắc, thấy các sắc",
đó là giải thoát thứ nhất. "Quán tưởng nội sắc, thấy các ngoại
sắc", đó là giải thoát thứ hai. "Quán tưởng (sắc là) tịnh,,
chú tâm trên suy tưởng ấy", đó là giải thoát thứ ba. Vượt hoàn
toàn sắc tưởng, diệt trừ các tưởng đối ngại, không suy tư đến những
tưởng khác biệt, với suy tư "Hư không là vô biên", chứng và
trú "Không vô biên xứ", đó là giải thoát thứ tư. Vượt hoàn
toàn Hư không vô biên xứ, với suy tư "Thức là vô biên", chứng
và trú "Thức vô biên xứ", đó là giải thoát thứ năm. Vượt hoàn
toàn "Thức vô biên xứ", với suy tư "không có vật gì",
chứng và trú "Vô sở hữu xứ", đó là giải thoát thứ sáu. Vượt
hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đó
là giải thoát thứ bảy. Vượt hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng
và trú Diệt thọ tưởng, đó là giải thoát thứ tám. Và ở đây, này
Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng
trí, và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này tu tập Tám Thắng xứ. Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các
loại ngoại sắc, có hạn lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng.
"Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ
nhất. Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc vô lượng,
đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết,
ta thấy", đó là thắng xứ thứ hai. Một vị quán tưởng vô sắc ở
nội tâm, thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu. Vị ấy
nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó
là thắng xứ thứ ba. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các
loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng:
"Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ
tư. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc
màu xanh, sắc màu xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh... như bông gai màu xanh,
sắc màu xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh... như lụa Ba la nại, cả hai mặt
láng trơn, màu xanh, sắc màu xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Như vậy vị
này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh,
sắc màu xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Vị ấy nhận thức rằng:
"Sau khi nhiếp thắng chúng, ta thấy, ta biết", đó là thắng xứ thứ
năm. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc
màu vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng... như bông Kanikara màu vàng, sắc
màu vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng... như lụa Ba la nại, cả hai mặt
láng trơn màu vàng, sắc màu vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng. Như vậy
vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu
vàng, sắc màu vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng, vị ấy nhận thức rằng:
"Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ
sáu. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc
màu đỏ, sắc màu đỏ, hình sắc màu đỏ, ánh sáng đỏ... như bông
Bandhujivaka màu đỏ, sắc màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ... như lụa
sa Ba la nại, cả hai mặt láng trơn màu đỏ, sắc màu đỏ, hình sắc đỏ,
ánh sáng đỏ. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy
các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ,
vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy",
đó là thắng xứ thứ bảy. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy
các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, hình sắc trắng, ánh
sáng trắng... như sao mai Osadhi màu trắng, sắc màu trắng, hình sắc trắng,
ánh sáng trắng... như lụa sa Ba la nại, cả hai mặt láng trơn màu trắng,
sắc màu trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Như vậy vị này quán tưởng
vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng,
hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp
thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ tám. Và ở đây,
này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng
trí, và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này tu tập Mười Biến xứ. Một vị biết được đất biến xứ:
trên dưới, ngang, bất nhị, vô lượng. Một vị biết được nước biến
xứ... Một vị biết được lửa biến... Một vị biết được gió biến...
Một vị biết được xanh biến... Một vị biết được vàng biến... Một
vị biết được đỏ biến... Một vị biết được trắng biến... Một vị
biết được hư không biến... Một vị biết được thức biến xứ: trên,
dưới, ngang, bất nhị, vô lượng. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của
Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí, và chứng đắc cứu
cánh viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này tu tập Bốn Thiền. Ở đây, này Udayi, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất
thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly
dục sanh, với tầm, với tứ. Vị Tỷ-kheo thấm nhuần tẩm ướt, làm cho
sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ
nào trên toàn thân không có hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này
Udayi, như một người hầu tắm lão luyện, hay đệ tử người hầu tắm,
sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước,
cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước
ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành
giọt, cũng vậy, này Udayi, vị Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm sung
mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào
trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Lại nữa,
này Udayi, vị Tỷ-kheo ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai,
một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất
tâm. Vị Tỷ-kheo ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy
thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân
không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Này Udayi, ví như một
hồ nước, nước từ trong dâng lên, phương Đông không có lỗ nước chảy
ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước
chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời lại
mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra thấm nhuần, tẩm ướt,
làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh, không một
chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần;
cũng vậy, này Udayi, vị Tỷ-kheo thấm nhuần; tẩm ướt, làm cho sung mãn
tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên
toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Lại nữa, này
Udayi, vị Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc
thọ và các bậc Thánh gọi là "xả niệm lạc trú", chứng và an
trú vào Thiền thứ ba. Vị Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung
mãn, tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ
nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.
Này Udayi, ví như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những
sen xanh, sen hồng hay sen trắng; những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên
trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn
cho đến gốc rễ đều thấm nhuần tẩm ướt, đầy tràn thấu suốt bởi
nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng
hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần; cũng vậy, này
Udayi, vị Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân
mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân
không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Lại nữa, này Udayi,
vị Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và
trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị Tỷ-kheo
ấy ngồi thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không
một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm
nhuần. Này Udayi, ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu,
không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che thấu;
cũng vậy, này Udayi, vị Tỷ-kheo ngồi thấm nhuần toàn thân mình với tâm
thuần tịnh, trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm
thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử
của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc
cứu cánh viên mãn.
Lại nữa, này Udayi. Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này tuệ tri như sau: "Thân này của ta là sắc pháp, do bốn đại
thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại,
phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt, trong thân ấy thức ta lại nương tựa
và bị trói buộc. Ví như, này Udayi, một hòn lưu ly bảo châu, đẹp đẽ,
trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược,
đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và một sợi dây được xâu qua hòn ngọc
ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, hay màu vàng nhạt. Một
người có mắt cầm hòn ngọc ấy trên tay sẽ thấy: "Hòn lưu ly bảo
châu này, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng
chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và sợi dây này
được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng
hay màu vàng nhạt". Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu
hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này
biết được như sau: "Thân này của ta là sắc pháp, do bốn đại thành,
do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái,
đoạn tuyệt, hoại diệt, trong thân ấy thức ta lại nương tựa và bị
trói buộc. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú,
sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này chú tâm, hướng tâm đến sự hóa hiện một thân do ý làm ra.
Vị ấy tạo một thân khác từ nơi thân này, cũng là sắc pháp, do ý làm
ra, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào. Ví như, này
Udayi, một người rút một cây lau ra ngoài vỏ, người ấy nghĩ: "Đây
là vỏ, đây là cây lau, vỏ khác, cây lau khác, và cây lau từ vỏ rút
ra". Ví như, này Udayi, một người rút thanh kiếm từ bao kiếm. Người
ấy nghĩ: "Đây là thanh kiếm, đây là bao kiếm; thanh kiếm khác, bao kiếm
khác; và thanh kiếm từ nơi bao kiếm rút ra. Ví như, này Udayi, một người
lột xác một con rắn. Người ấy nghĩ: "Đây là con rắn, đây là xác
rắn; con rắn khác, xác rắn khác; và con rắn từ nơi xác rắn được lột
ra". Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử . Và các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, chú tâm, hướng
tâm đến sự hóa hiện một thân do ý làm ra. Vị ấy tạo một thân khác
từ nơi thân này, cũng là sắc pháp, do ý làm ra, đầy đủ các chi tiết lớn
nhỏ,không thiếu một căn nào. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta
phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh
viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này dẫn tâm, hướng tâm đến các thần thông. Vị ấy chứng được
các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một
thân; hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi
ngang hư không; độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền, như ở trong nước;
đi trên nước không chìm như trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư
không như con chim; với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những
vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến
cõi Phạm thiên. Ví như, này Udayi, một người thợ gốm khéo tay, hay đệ
tử người thợ gốm, với đất sét khéo nhồi nhuyễn, có thể làm các loại
đồ gốm tùy theo sở thích. Ví như, này Udayi, một người thợ ngà khéo
tay, hay đệ tử người thợ ngà, với ngà khéo đẽo khéo dũa, có thể
làm các loại đồ ngà tùy theo sở thích. Ví như, này Udayi, người thợ vàng
khéo tay, hay đệ tử người thợ vàng, với vàng khéo tinh nhuyễn có thể
làm các loại đồ vàng tùy theo sở thích; cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết
giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ
con đường tu hành này, dẫn tâm, hướng tâm đến các thần thông. Vị ấy
chứng được các thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện
ra một thân; hiện hình biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như
đi ngang qua hư không; độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong
nước; đi trong nước không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết gia
đi trên hư không như con chim; với bàn tay chạm và rờ mặt trời và mặt
trăng, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự
thân bay đến cõi Phạm thiên. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta
phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh
viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này, với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe được hai loại
tiếng, chư Thiên và Người, xa và gần. Ví như, này Udayi, một người
đang đi qua đường, nghe tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiếng loa,
tiếng xập xỏa và tiếng kiểng. Người ấy nghĩ: "Đây là tiếng trống
lớn, đây là tiếng trống nhỏ, đây là tiếng loa, tiếng xập xỏa, tiếng
kiểng. Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ
tử. Và các đệ tử của Ta, y cứ con đường tu hành này, với thiên nhĩ,
thanh tịnh, siêu nhân, có thể nghe được hai loại tiếng, chư Thiên và Người,
xa và gần. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú,
sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này, sau khi đi sâu vào tâm của chúng sanh, của loài người với tâm
của mình được biết như sau: "Tâm tham biết là tâm tham; tâm không
tham, biết là tâm không tham. Tâm sân, biết là tâm sân; tâm không sân, biết
là tâm không sân. Tâm si, biết là tâm si; tâm không si, biết là tâm không
si. Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên chú; tâm không chuyên chú, biết là
tâm không chuyên chú. Tâm đại hành, biết là tâm đại hành; tâm không đại
hành, biết là tâm không đại hành. Tâm chưa vô thượng, biết là tâm chưa
vô thượng; tâm vô thượng biết là tâm vô thượng. Tâm Thiền định, biết
là tâm Thiền định; tâm không Thiền định, biết là tâm không Thiền định.
Tâm giải thoát, biết là tâm giải thoát; tâm không giải thoát, biết là
tâm không giải thoát. Ví như, này Udayi, một người đàn bà, một người
đàn ông, một thiếu niên trẻ hay một thanh niên ưa trang sức, nhìn mặt của
mình trong tấm gương trong sạch sáng suốt, hay một chậu nước trong; nếu
mặt có tỳ vết, liền biết mặt có tỳ vếtnếu mặt không có tỳ vết,
liền biết mặt không có tỳ vết". Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta, y cứ con đường
tu hành này, sau khi đi sâu vào tâm của chúng sanh, của loài người với tâm
của mình được biết như sau: "Tâm tham, biết là tâm tham; tâm không
tham biết là tâm không tham. Tâm sân, biết là tâm sân; tâm không sân, biết
là tâm không sân. Tâm si biết là tâm si; tâm không si biết là tâm không
si. Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên chú; tâm không chuyên chú; biết là
tâm không chuyên chú. Tâm đại hành, biết là tâm đại hành; tâm không đại
hành, biết là tâm không đại hành. Tâm chưa vô thượng, biết là tâm chưa
vô thượng; tâm vô thượng biết là tâm vô thượng. Tâm Thiền định, biết
là tâm Thiền định; tâm không Thiền định, biết là tâm không Thiền định.
Tâm giải thoát; biết là tâm giải thoát; tâm không giải thoát, biết là
tâm không giải thoát". Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần
đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí và chứng đắc cứu cánh
viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này, nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời,
ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời,
bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn
đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại
và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này,
dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này,
tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được
sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như
thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến
mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây".
Như vậy các vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với nét
đại cương và các chi tiết. Ví như, này Udayi, một người đi từ làng
mình đến làng khác, từ làng ấy đi đến một làng khác nữa, và từ
làng này lại trở về làng của mình. Người ấy nghĩ: "Ta từ làng của
mình đi đến làng kia, nơi đây ta đã đứng như thế này, đã ngồi như
thế này, đã nói như thế này, đã yên lặng như thế này. Từ nơi làng nọ,
ta đã trở về làng của ta". Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con
đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này, nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời...
(như trên)... Như vậy các vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ
cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Và ở đây, này Udayi, các
đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí chứng
đắc cứu cánh viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này, với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết
của chúng sanh. Những vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ
cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều
do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh nào làm những ác hạnh về
thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp
theo tà kiến; những người này sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào làm những
thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh
kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến; những người này, sau khi thân hoại
mạng chung được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy,
các vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của
chúng sanh. Những vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao
sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều
do hạnh nghiệp của họ. Ví như, này Udayi, một tòa lầu có thượng đài
giữa ngã tư đường, một người có mắt đứng trên ấy, sẽ thấy những
người đi vào nhà, đi từ nhà ra, đi qua lại trên đường, ngồi ở giữa
ngã tư hay trên đài thượng. Người ấy nghĩ: "Những người này đi vào
nhà, những người này đi từ nhà ra, những người này đi qua lại trên
đường, những người này ngồi giữa ngã tư hay trên đài thượng".
Cũng vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và
các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, với thiên nhãn thuần tịnh,
siêu nhân, thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Những vị ấy biết
rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô
xấu, người may mắn kẻ bất hạnh... (như trên)... đều do hạnh nghiệp của
họ. Và ở đây, này Udayi, các đệ tử của Ta phần đông an trú sau khi chứng
ngộ nhờ thắng trí chứng đắc cứu cánh viên mãn.
Lại nữa, này Udayi, Ta thuyết giảng
con đường tu hành cho các đệ tử. Và các đệ tử của Ta y cứ con đường
tu hành này, sau khi đoạn tận các lậu hoặc, tự mình chứng ngộ với thắng
trí, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát. Ví như, này Udayi, tại dãy núi lớn có một hồ nước thuần
tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, một người có mắt đứng trên bờ
sông thấy con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi qua
lại, hay đứng một chỗ. Vị ấy nghĩ: "Đây hồ nước, thuần tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm. Đây là những con hến, con sò, những hòn đá,
hòn sạn, những đàn cá đang bơi qua lại hay đứng yên một chỗ". Cũng
vậy, này Udayi, Ta thuyết giảng con đường tu hành cho các đệ tử. Và
các đệ tử của Ta y cứ con đường tu hành này, sau khi đoạn tận các lậu
hoặc, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú ngay trong
hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Và ở đây, này Udayi,
các đệ tử của Ta phần đông an trú, sau khi chứng ngộ nhờ thắng trí
và chứng đắc cứu cánh viên mãn.
Này Udayi, đây là pháp thứ năm, do
pháp này các đệ tử của Ta cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường
Ta và sau khi cung kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta.
Này Udayi, do năm pháp này, các đệ
tử của Ta cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường Ta và sau khi cung
kính, tôn trọng, sống nương tựa vào Ta.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Du
sĩ Sakuludayi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.