- Kinh Trung bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
Phần XXV
(115) Kinh Đa giới
(116) Kinh Thôn tiên
(117) Đại kinh Bốn mươi
(118) Kinh Nhập tức Xuất tức niệm
(119) Kinh Thân hành niệm
(120) Kinh Hành sanh
- (Bahudhàtukasuttam)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế
Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá ông
Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: –
"Này các Tỷ-kheo". – "Bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy
vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :
– Phàm có những sợ hãi gì sanh
khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả những sợ hãi ấy sanh khởi cho người
ngu, không phải cho người hiền trí (pandita). Phàm có những thất vọng gì
sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả thất vọng ấy sanh khởi cho người
ngu, không phải cho người hiền trí. Phàm có những hoạn nạn gì sanh khởi,
này các Tỷ-kheo, tất cả hoạn nạn ấy sanh khởi cho người ngu, không phải
cho người hiền trí. Ví như, này các Tỷ-kheo, tia lửa từ ngôi nhà bằng
cỏ, thiêu cháy ngôi nhà có lầu gác được trét trong trét ngoài, được
che chở khỏi gió, có chốt khóa gài kỹ, có cửa sổ đóng kỹ; cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, phàm có những xợ hãi gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất
cả những sợ hãi ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền
trí; phàm có những thất vọng gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả những
thất vọng ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí;
phàm có những hoạn nạn gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả những hoạn
nạn ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, kẻ ngu đầy những sợ hãi, người hiền trí không có sợ
hãi. Kẻ ngu đầy những thất vộng, người hiền trí không có thất vọng.
Kẻ ngu đầ những hoạn nạn, người hiền trí không có hoạn nạn. Này
các Tỷ-kheo, không có sợ hãi cho người hiền trí, không có thất vọng
cho người hiền trí, không có hoạn nạn cho người hiền trí. Do vậy, này
các Tỷ-kheo, "Chúng tôi sẽ thành người hiền trí, biết suy tư tìm hiểu",
như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả
Ananda bạch Thế Tôn :
– Đến mức độ nào, bạch Thế
Tôn, là vừa đủ để nói : "Tỷ-kheo là người hiền trí, biết suy tư
tìm hiểu ?"
– Cho đến khi, này Ananda, Tỷ-kheo
thiện xảo về giới, thiện xảo về xứ, thiện xảo về duyên khởi và
thiện xảo về xứ phi xứ đến mức độ như vậy, này Ananda, là vừa đủ
để nói : "Tỷ-kheo là người hiền trí, biết suy tư tìm hiểu".
– Đến mức độ nào, bạch Thế
Tôn, là vừa đủ để nói : "Tỷ-kheo thiện xảo về giới ?"
– Này Ananda, có mười tám giới
này : nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới; nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức
giới; tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; thiệt giới, vị giới, thiệt
thức giới; thân giới, xúc giới, thân thức giới; ý giới, pháp giới, ý
thức giới. Này Ananda, cho đến khi biết được, thấy được mười tám
giới này, cho đến mức độ như vậy, này Ananda, là vừa đủ để nói :
"Tỷ-kheo thiện xảo về giới".
– Nhưng bạch Thế Tôn, có thể
có pháp môn nào khác là vừa đủ để nói : "Tỷ-kheo thiện xảo về
giới ?"
– Có thể có, này Ananda. Này
Ananda có sáu giới này: địa giới, thủy giới, phong giới, hỏa giới, không
giới, thức giới. Này Ananda, cho đến khi biết được, thấy được sáu
giới này, cho đến mực độ như vậy, này Ananda, là vừa đủ để nói :
"Tỷ-kheo thiện xảo về giới".
– Nhưng bạch Thế Tôn, có thể
có pháp môn nào khác, là vừa đủ để nói : "Tỷ-kheo thiện xảo về
giới".
– Có thể có, này Ananda. Này
Ananda có sáu giới này : lạc giới, khổ giới, hỷ giới, ưu giới, xả giới,
vô minh giới. Này Ananda, cho đến khi biết được, thấy được sáu giới
này, cho đến mức độ như vậy này Ananda, là vừa đủ để nói : "Tỷ-kheo
thiện xảo về giới".
– Nhưng bạch Thế Tôn, có thể
có pháp môn nào khác, là vừa đủ để nói : "Tỷ-kheo thiện xảo về
giới ?"
– Có thể có, này Ananda. Này
Ananda, có sáu giới này : dục giới, ly dục giới, sân giới, vô sân giới,
hại giới, bất hại giới. Này Ananda, cho đến khi biết được, thấy được
sáu giới này, cho đến mức độ như vậy, này Ananda, là vừa đủ để nói
: "Tỷ-kheo thiện xảo về giới".
– Nhưng bạch Thế Tôn, có thể
có pháp môn nào khác, là vừa đủ để nói : "Tỷ-kheo thiện xảo về
giới ?"
– Có thể có, này Ananda. Này
Ananda, có ba giới này : dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Này Ananda,
cho đến khi biết được, thấy được ba giới này, cho đến mức độ
như vậy này Ananda, là vừa đủ để nói : "Tỷ-kheo thiện xảo về giới".
– Nhưng bạch Thế Tôn, có thể
có pháp môn nào khác, là vừa đủ để nói : "Tỷ-kheo thiện xảo về
giới ?"
– Có thể có, này Ananda. Này
Ananda, có hai giới này: hữu vi giới và vô vi giới. Này Ananda, cho đến
khi biết được, thấy được hai giới này, cho đến mức độ như vậy, này
Ananda, là vừa đủ để nói : "Tỷ-kheo thiện xảo về giới"
– Nhưng bạch Thế Tôn, cho đến mức
độ nào là vừa đủ để nói : "Tỷ-kheo thiện xảo về xứ ?"
– Này Ananda, có sáu nội xứ, ngoại
xứ này: mắt và sắc, tai và tiếng, mũi và hương, lưỡi và vị, thân và
xúc, ý và pháp. Này Ananda, cho đến khi biết được, thấy được sáu nội
ngoại xứ này, cho đến mức độ như vậy, này Ananda, là vừa đủ để nói
: "Tỷ-kheo thiện xảo về xứ".
– Nhưng bạch Thế Tôn, cho đến mức
độ nào là vừa đủ để nói : "Tỷ-kheo thiện xảo về duyên khởi
?"
– Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo biết
như sau : Nếu cái này có, cái kia có; do cái này sanh, cái kia sanh. Nếu cái
này không có, cái kia không có; do cái này diệt, cái kia diệt. Tức là vô
minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục
nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ,
thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; do duyên sanh lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não
sanh khởi. Như vậy, này Ananda, là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn
này. Nhưng do sự diệt trừ, sự ly tham hoàn toàn của chính vô minh này,
các hành diệt; do các hành diệt, danh sắc diệt; do danh sắc diệt, lục nhập
diệt; do lục nhập diệt, xúc diệt; do xúc diệt, thọ diệt; do thọ diệt,
ái diệt; do ái diệt, thủ diệt, do thủ diệt, hữu diệt; do hữu diệt,
sanh diệt, do sanh diệt, lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não đoạn diệt. Như vậy
là sự đoạn diệt hoàn toàn của khổ uẩn này. Cho đến như vậy, này
Ananda, là vừa đủ để nói : "Tỷ-kheo thiện xảo về duyên khởi".
– Nhưng cho đến mức độ nào, bạch
Thế Tôn, là vừa đủ để nói : Tỷ-kheo thiện xảo về xứ phi xứ
?"
– Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo biết
rõ rằng : "Sự kiện này không có xảy ra, không có hiện hữu : khi một
người thành tựu (chánh) kiến lại đi đến các hành (samkhara) và xem là
thường còn. Sự kiện như vậy không xảy ra". Và vị ấy biết rằng
: "Sự kiện này có xảy ra, có hiện hữu : Khi một người phàm phu đi
đến các hành và xem là thường còn. Sự hiện như vậy có xảy ra". Vị
ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này không có xảy ra, không có hiện hữu:
Khi một người thành tựu (chánh) kiến, lại có thể đi đến các hành với
ý niệm lạc thọ. Sự kiện như vậy không có xảy ra". Và vị ấy biết
rõ rằng: "Sự kiện này có xảy ra, có hiện hữu: Khi một người phàm
phu đi đến các hành với ý niệm lạc thọ. Sự kiện như vậy có xảy
ra". Vị ấy biết rằng : "Sự kiện này không có xảy ra, không có
hiện hữu : Khi một người nào thành tựu (chánh) kiến, lại có thể đi
đến các pháp với ý niệm tự ngã. Sự kiện như vậy không có xảy
ra". Và vị ấy biết rằng : "Sự kiện này có xảy ra, có hiện hữu
: Khi một người phàm phu đi đến các pháp với ý niệm tự ngã. Sự kiện
như vậy có xảy ra". Vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này không
có xảy ra, không có hiện hữu: khi một người thành tựu (chánh) kiến,
có thể giết sinh mạng người mẹ. Sự kiện như vậy không có xảy
ra". Và vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này có xảy ra : Khi một
người phàm phu có thể giết sinh mạng người mẹ. Sự kiện như vậy có
xảy ra". Vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này không có xảy ra,
không có hiện hữu: Khi một người thành tựu (chánh) kiến, có thể giết
sinh mạng người cha... (như trên)... có thể giết sinh mạng A-la-hán.. (như
trên) ... Vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này không có xảy ra,
không có hiện hữu: Khi một người thành tựu (chánh) kiến có thể với
ác tâm làm Như Lai chảy máu. Sự kiện như vậy không có xảy ra". Và
vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này có xảy ra : Khi một người phàm
phu với ác tâm làm Như Lai chảy máu. Sự kiện như vậy có xảy ra". Vị
ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này không có xảy ra, không có hiện hữu:
Khi một người thành tựu (chánh) kiến có thể phá hòa hợp Tăng. Sự kiện
như vậy không xảy ra". Và vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này
có xảy ra : Khi một người phàm phu có thể phá hòa hợp với Tăng. Sự kiện
như vậy có xảy ra". Vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này không
có xảy ra, không có hiện hữu: Khi một người thành tựu (chánh) kiến có
thể đề cao một Đạo sư khác. Sự kiên như vậy không có xảy ra".
Và vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này có xảy ra: Khi một người
phàm phu đề cao một Đạo sư khác. Sự kiện như vậy có xảy ra". Vị
ấy biết rõ rằng: "Sự kiện này không có xảy ra, không có hiện hữu:
Khi cùng trong một thế giới (lokadhatu), hai A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có thể
xuất hiện (một lần) không trước không sau. Sự kiện như vậy không có
xảy ra". Và vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này có xảy ra :
Khi cùng trong một thế giới, một A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có thể xuất
hiện. Sự kiện như vậy có xảy ra". Vị ấy biết rõ rằng : "Sự
kiện này không có xảy ra : Khi cùng trong một thế giới hai vua Chuyển
luân có thể xuất hiện (một lần), không trước không sau. Sự kiện như
vậy không có xảy ra". Và vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này
có xảy ra : Khi trong một thế giới, một vị vua Chuyển luân có thể xuất
hiện. Sự kiện như vậy có xảy ra". Vị ấy biết rõ rằng : "Sự
kiện này không có xảy ra, không có hiện hữu: Khi một nữ nhân có thể
thành A-La-Hán, Chánh Đẳng Giác. Sự kiện như vậy không có xảy ra".
Và vị ấy biết rõ rằng : Sự kiện này có xảy ra: Khi một nam nhân có
thể thành một A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Sự kiện như vậy có xảy ra.
"Vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này không có xảy ra, không có
hiện hữu: Khi một nữ nhân có thể thành Sakka (Đế -thích). Sự kiện như
vậy không có xảy ra". Và vị ấy biết rõ rằng: "Sự kiện này
có xảy ra, có hiện hữu: Khi một nam nhân có thể trở thành Sakka. Sự kiện
như vậy có xảy ra". Vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này không
có xảy ra, không có hiện hữu: Khi một nữ nhân có thể trở thành Ma vương.
Sự kiện như vậy không có xảy ra". Và vị ấy biết rõ rằng :
"Sự kiện này có xảy ra khi một nam nhân trở thành một Ma vương. Sự
kiện như vậy có xảy ra". Vị ấy biết rõ rằng: "Sự kiện này
không có xảy ra, không có hiện hữu : Khi một nữ nhân có thể trở thành
Phạm thiên. Sự kiện như vậy không có xảy ra". Và vị ấy biết rõ
rằng : "Sự kiện này có xảy ra : Khi một nam nhân có thể trở thành
Phạm thiên. Sự kiện này như vậy có xảy ra". Vị ấy biết rõ rằng
: "Sự kiện này không có xảy ra, không có hiện hữu: Khi một thân ác
hành có thể sanh ra quả báo khả ái, khả hỷ, khả lạc. Sự kiện này
không có xảy ra". Và vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này có xảy
ra : Khi một thân ác hành có thể sanh ra quả báo không khả ái, không khả
hỷ, không khả lạc. Sự kiện như vậy có xảy ra". Vị ấy biết rõ
rằng : "Sự kiện này không có xảy ra, không có hiện hữu : Khi một
khẩu ác hành... Khi một ý ác hành có thể sanh ra quả báo khả ái, khả hỷ,
khả lạc. Sự kiện như vậy không có xảy ra". Và vị ấy biết rõ rằng
: "Sự kiện này có xảy ra : Khi một ý ác hành có thể sanh ra quả
báo không khả ái, không khả hỷ, không khả lạc. Sự kiện như vậy có xảy
ra". Vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này không có xảy ra, không
có hiện hữu: Khi một thân thiện hành có thể sanh ra quả báo không khả
ái, không khả hỷ, không khả lạc. Sự kiện như vậy không có xảy
ra". Và vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này có xảy ra: Khi một
thân thiện hành có thể sanh ra quả báo khả ái, khả hỷ, khả lạc. Sự
kiện như vậy có xảy ra". Vị ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này
không có xảy ra, không có hiện hữu: Khi một khẩu thiện hành... một ý
thiện hành có thể sanh ra quả báo không khả ái, không khả hỷ, không khả
lạc. Sự kiện như vậy không có xảy ra". Và vị ấy biết rõ rằng :
"Sự kiện này có xảy ra : Khi một ý thiện hành có thể sanh ra quả
báo khả ái, khả hỷ, khả lạc. Sự kiện như vậy có xảy ra". Vị
ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này không có xảy ra, không có hiện hữu:
Khi một người hành trì thân ác hành, do nhân thân ác hành ấy, do duyên
thân ác hành ấy sau khi thân hoại mạng chung, có thể sanh thiện thú,
thiên giới, cõi đời này. Sự kiện như vậy không có xảy ra". Và vị
ấy biết rõ rằng : "Sự kiện này có xảy ra : Khi một người hành
trì thân ác hành, do nhân thân ác hành ấy, do duyên thân ác hành ấy, sau
khi thân hoại mạng chung, có thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục. Sự kiện này có xảy ra". Vị ấy biết rõ rằng sự kiện này
không có xảy ra, không có hiện hữu: Khi một người hành trì khẩu ác
hành... hành trì ý ác hành, do nhân ý ác hành ấy, do duyên ý ác hành ấy,
sau khi thân hoại mạng chung, có thể sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi
đời này. Sự kiện như vậy không có xảy ra". Và vị ấy biết rõ rằng
: "Sự kiện này có xảy ra, khi một người hành trì khẩu ác hành...
ý ác hành, sau khi thân hoại mạng chung có thể sanh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục. Sự kiện như vậy có xảy ra". Vị ấy biết
rõ rằng : "Sự kiện này không có xảy ra, không có hiện hữu : Khi một
người hành trì thân thiện hành, do nhân thân thiện hành ấy, do duyên
thân thiện ấy, có thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Sự
kiện như vậy không có xảy ra". Và vị ấy biết rằng: "Sự kiện
này có xảy ra: Khi một người hành trì thân thiện hành, do nhân thân thiện
hành ấy, do duyên thân thiện hành ấy, có thể sanh lên thiện thú, thiên
giới, cõi đời này. Sự kiện như vậy có xảy ra". Vị ấy biết rõ
rằng : "Sự kiện này không có xảy ra, không có hiện hữu : Khi một
người hành trì khẩu thiện hành... hành trì thiện hành, do nhân ý thiện
hành ấy, do duyên ý thiện hành ấy, có thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục. Sự kiện như vậy không có xảy ra". Và vị ấy biết
rõ rằng : "Sự kiện này có xảy ra, có hiện hữu: Khi một người hành
trì khẩu thiện hành... hành trì ý thiện hành, do nhân ý thiện hành ấy,
do duyên ý thiện hành ấy, có thể sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời
này. Sự kiện như vậy có xảy ra". Cho đến mức độ như vậy, là vừa
đủ để nói : "Tỷ-kheo thiện xảo về xứ phi xứ".
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả
Ananda bạch Thế Tôn :
– Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn ! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn ! Bạch Thế Tôn pháp môn này có
tên gì ?
– Do vậy, này Ananda, Ông hãy thọ
trì pháp môn này là Đa giới, hãy thọ trì pháp môn nầy là Bốn chuyển
(Dhammadasa) hãy thọ trì pháp môn này là Pháp kinh (Dhammdasa), hãy thọ trì
pháp môn này là Trống bất tử, hãy thọ trì pháp môn này là Vô thượng
chiến thắng.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn
giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- (Isigilisutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú tại
Rajagaha (Vương Xá), trên núi Isigili. Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo :
"Này các Tỷ-kheo" – "Bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy
vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :
– Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy
núi Vebhara (Phụ Trọng) này không ?.
– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một
danh xưng khác cho núi Vebhara này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo, các
Ông có thấy núi Pandava (Bạch Thiện) này không ?
– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một
danh xưng khác cho núi Pandava này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo, các
Ông có thấy núi Vepulla (Quảng Phổ) này không ?
– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một
danh xưng khác cho núi Vepulla này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo, các
Ông có thấy núi Gijjhakuta (Linh Thứu) này không ?
– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một
danh xưng khác cho núi Gijjhakuta này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo,
các Ông có thấy núi Isigili này không ?
– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn
– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một
danh xưng của núi Isigili, một tên gọi khác.
Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có năm
trăm vị Độc Giác Phật sống trong một thời gian khá dài, trong núi
Isigili này. Những vị ấy được thấy đi vào trong ngọn núi này (nhưng)
khi đi vào rồi thời không được thấy nữa. Quần chúng thấy vậy nói như
sau : "Ngọn núi này nuốt những ẩn sĩ ấy (Ime Isi gilatiti) nên được
danh xưng là Isigili. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ kể tên các vị Độc Giác Phật;
này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng tên các vị Độc Giác Phật. Hãy lắng
nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói .
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn
– Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau :
– Arittha (A-lợi-sá), này các Tỷ-kheo,
là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Uparittha
(Bà-lợi-sá) này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu
ngày trong núi Isigili này Tagarasikhi, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác
Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Yasassi, này các Tỷ-kheo, là
tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Sudassana (Thiện
Kiến), này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong
núi Isigili này. Piyadassi, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã
trú lâu ngày trong núi Isigili này. Gandhara, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc
Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Pindola, này các Tỷ-kheo,
là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Upasabha,
này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi
Isigili này. Nitha, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu
ngày trong núi Isigili này. Tatha, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật
đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Sutava, này các Tỷ-kheo, là tên vị
Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. Bhavitatta, này các Tỷ-kheo
là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này.
- Chư hữu tình tinh hoa,
- Không khổ, không tham ái,
- Riêng tự mình chứng đắc,
- Chánh Đẳng Giác (vô thượng)
- Chư vị thượng thắng nhân,
- Vượt ngoài mũi tên bắn,
- Hãy lóng tai nghe kỹ,
- Ta sẽ xướng danh hiệu:
- Arittha, Uparittha, Tagarasikhi, Yasassi
- Sudassan, Phật Piyadassi
- Gandhara, Pindola,
- Upasabha, Nitha, Tatha, Sutava, Bhavitatta.
- Sumbha, Subha, Methula,
- Atthama, Athassumegha,
- Anigha, Sudatha
- Chư vị Độc Giác Phật,
- Đoạn trừ nguồn tái sanh.
- Hingu và Hinga
- Chư vị Đại Uy lực,
- Hai ẩn sĩ Jali
- Rồi đến Atthaka,
- Đức Phật Kosala,
- Tiếp đến Subahu.
- Ngài Upanemi, cả Ngài Nemi này,
- Ngài Santacitta, các Ngài bậc Chân thực,
- Sống như chân, ly trần,
- Cũng là bậc Hiền triết.
- Kala, Upakala, Vijita, Jita
- Anga, Panga và Gutijjita
- Passi bỏ chấp thủ
- Căn rễ của khổ đau.
- Aparajita, đánh bại ma quân lực,
- Satthà, Pavatta, Sarabhanga, Lomahansa,
- Uccangamaya, Asita, Anasava,
- Manomaya đoạn trừ được nạn,
- Và Bandhuma,
- Tadadhimutta vô cấu uế,
- Và Ketuma.
- Ketumbaraga và Matanga Ariya,
- Accuta, Accutagama, Byamaka,
- Sumangala, Dabbila, Supatitthita
- Asayha, Khemabhirata và Sorata,
- Durannaya, Sangha, rồi đến Ujjaya,
- Rồi đến ẩn sĩ Sayha,
- Với can đảm phi thường
- Ananda, Nanda, Upananda,
- Tất cả là mười hai.
- Bharadvaja thọ trì thân cuối cùng,
- Bodhi, Mahanama, kể cả Bharadvaja
- Thượng thắng, có chóp tóc và đẹp
trai,
- Tissa, Upatissa, Upasidari
- Đã đoạn hữu kiết sữ,
- Và Sidari, đã đoạn trừ tham ái.
- Đức Phật tên Mangala,
- Với tham được đoạn trừ,
- Usabha đã cắt lưới khổ căn.
- Upanita, vị chứng an tịnh đạo,
- Uposatha, Sundara, Saccanama,
- Jeta, Jayanta, Paduma, Uppala và
- Padumuttara,
- Rakkhita và Pabbata,
- Manatthaddha, Sobhita, Vitaraga,
- Và Đức Phật Kanha
- Với tâm được giải thoát.
- Những vị này, vị khác
- Là những bậc Độc Giác,
- Những bậc Đại Uy Lực,
- Đã đoạn nguồn tái sanh.
- Hãy đảnh lễ chư vị,
- Đại Ẩn sĩ vô lượng,
- Đã thắng mọi chiến trận,
- Đã đạt bát Niết-bàn.
- 117. ĐẠI
KINH BỐN MƯƠI [^]
- (Mahacattarisakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi
(Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". – "Bạch
Thế Tôn". – "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông Thánh
chánh định cùng với các cận duyên và các tư trợ. Hãy lắng tai nghe và
suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng". – "Thưa vâng, bạch Thế Tôn".
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Thánh chánh định với các cận duyên và các tư trợ ? Chính là chánh kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm.
Này các Tỷ-kheo, phàm có nhất tâm nào (ekaggata) được tư trợ với bảy
chi phần này, này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Thánh chánh định cùng với
các cận duyên và các tư trợ.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến
đi hàng đầu. Và như thế nào là, các Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu
? Tuệ tri tà kiến là tà kiến, tuệ tri chánh kiến là chánh kiến. Như vậy
là chánh kiến của vị ấy. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà kiến ?
Không có bố thí, không có cúng dường, không có tế tự, không có quả
báo các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không
có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh; ở đời không có các vị
Sa-môn, Bà-la-môn, chánh hướng, chánh hạnh, sau khi với thượng trí tự
mình chứng đạt lại tuyên bố lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo là tà kiến.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
chánh kiến ? Chánh kiến này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại. Này các Tỷ-kheo,
có loại chánh kiến hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y
(upadhivepakka); có loại chánh kiến, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô
lậu, siêu thế, thuộc đạo chi (magganga).
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
chánh kiến hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y ? Có bố
thí, có cúng dường, có tế tự, có quả báo các nghiệp thiện ác, có đời
này, có đời khác, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh; ở đời có các
vị Sa-môn, Bà-la-môn, chánh hướng, chánh hạnh, sau khi với thượng trí tự
mình chứng đạt đời này và đời khác lại tuyên bố lên. Như vậy, này
các Tỷ-kheo là chánh kiến hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả
sanh y.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
chánh kiến thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi ? Phàm
cái gì, này các Tỷ-kheo, thuộc trí tuệ, tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp
giác chi, chánh kiến, đạo chi của một vị tu tập Thánh đạo, thành thục
trong Thánh đạo, có vô lậu tâm, có Thánh tâm. Chánh kiến như vậy, này
các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.
Ai tinh tấn đoạn trừ tà kiến,
thành tựu chánh kiến; như vậy là chánh tinh tấn của vị ấy. Ai chánh niệm
đoạn trừ tà kiến, chánh niệm đạt được và an trú chánh kiến; như vậy
là chánh niệm của vị ấy. Như vậy ba pháp này chạy theo, chạy vòng theo
chánh kiến, tức là chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh niệm.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến
đi hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu
? Tuệ tri tà tư duy là tà tư duy, tuệ tri chánh tư duy là chánh tư duy, như
vậy là chánh kiến của các vị ấy. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà
tư duy ? Dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy, này các Tỷ-kheo, như vậy là
tà tư duy. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy ? Chánh tư duy, này
các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại : có loại chánh tư duy, này các Tỷ-kheo, hữu
lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y; có loại chánh tư duy, này
các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi. Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến
quả sanh y ? Ly dục tư duy, vô sân tư duy, bất hại tư duy, như vậy, này
các Tỷ-kheo là chánh tư duy, hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả
sanh y. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy, thuộc bậc Thánh, vô
lậu, siêu thế, thuộc đạo chi ? Phàm cái gì này các Tỷ-kheo thuộc suy tư,
tầm cầu, tư duy, một ngữ hành do sự hoàn toàn chú tâm chuyên tâm của một
vị tu tập Thánh đạo, thành thục trong Thánh đạo, có vô lậu tâm, có
Thánh tâm; chánh tư duy như vậy, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu,
siêu thế, thuộc đạo chi. Ai tinh tấn đoạn trừ tà tư duy, thành tựu
chánh tư duy, như vậy là chánh tinh tấn của vị ấy. Ai chánh niệm đoạn
trừ tà tư duy, chánh đạt được và an trú chánh tư duy, như vậy là
chánh niệm của vị ấy. Như vậy ba pháp này chạy theo, chạy vòng theo
chánh tư duy, tức là chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh niệm.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến
đi hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo chánh kiến đi hàng đầu
? Tuệ tri tà ngữ là tà ngữ, tuệ tri chánh ngữ là chánh ngữ; như vậy là
chánh kiến của vị ấy. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà ngữ ? Vọng
ngữ, nói hai lưỡi, ác khẩu, nói lời phù phiếm; như vậy, này các Tỷ-kheo,
là tà ngữ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh ngữ ? Chánh ngữ, này
các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại : có loại chánh ngữ, này các Tỷ-kheo, hữu
lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y; có loại chánh ngữ, này
các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi. Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là chánh ngữ, hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến
quả sanh y ? Viễn ly vọng ngữ, viễn ly nói hai lưỡi, viễn ly ác khẩu,
viễn ly phù phiếm ngữ; như vậy, này các Tỷ-kheo, là chánh ngữ, hữu lậu
thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
chánh ngữ thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi ? Cái gì,
này các Tỷ-kheo, thuộc về từ bỏ, từ đoạn, từ khước, viễn ly bốn
ngữ ác hành, đối với một vị tu tập Thánh đạo, thuần thục trong Thánh
đạo, có vô lậu tâm, có Hiền Thánh tâm; như vậy, này các Tỷ-kheo là
chánh ngữ, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi. Ai tinh tấn
đoạn trừ tà ngữ, thành tựu chánh ngữ; như vậy là chánh tinh tấn của
vị ấy. Ai chánh niệm đoạn trừ tà ngữ, chánh niệm đạt được và an
trú chánh ngữ; như vậy là chánh niệm của vị ấy. Như vậy, ba pháp này
chay theo, chạy vòng theo chánh ngữ, tức là chánh kiến, chánh tinh tấn,
chánh niệm.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến
đi hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu
? Biết được tà nghiệp là tà nghiệp, biết được chánh nghiệp là
chánh nghiệp; như vậy là chánh kiến của vị ấy. Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là tà nghiệp ? Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục; như
vậy, này các Tỷ-kheo, là tà nghiệp. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
chánh nghiệp ? Chánh nghiệp, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại : Có loại
chánh nghiệp, này các Tỷ-kheo, hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả
sanh y; có loại chánh nghiệp, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu,
siêu thế, thuộc đạo chi. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh nghiệp
thuộc hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y ? Viễn ly sát
sanh, viễn ly lấy của không cho, viễn ly tà hạnh trong các dục; như vậy,
này các Tỷ-kheo, là chánh nghiệp, thuộc hữu lậu, thuộc phước báo,
đưa đến quả sanh y. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh nghiệp, thuộc
bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi ? Cái gì, này các Tỷ-kheo,
thuộc về từ bỏ, từ đoạn, từ khước, viễn ly ba thân ác hành đối với
một vị tu tập Thánh đạo, thành thục trong Thánh đạo, có vô lậu tâm,
có Hiền Thánh tâm; như vậy, này các Tỷ-kheo, là chánh nghiệp, thuộc bậc
Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi. Ai tinh tấn đoạn trừ tà nghiệp,
thành tựu chánh nghiệp; như vậy là chánh tinh tấn của vị ấy. Ai chánh
niệm đoạn trừ tà nghiệp, chánh niệm đạt được và an trú chánh nghiệp;
như vậy là chánh niệm của vị ấy. Như vậy ba pháp này chạy theo, chạy
vòng theo chánh nghiệp, tức là chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh niệm.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến
đi hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu
? Tuệ tri được tà mạng là tà mạng, tuệ tri được chánh mạng là
chánh mạng; như vậy là chánh kiến của vị ấy. Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là tà mạng ? Lừa đảo, nói lời mê ly, hiện tướng, gian trá, lấy lợi
cầu lợi; như vậy, này các Tỷ-kheo, là tà mạng. Và thế nào, này các Tỷ-kheo,
là chánh mạng ? Chánh mạng, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại : có loại
chánh mạng, này các Tỷ-kheo, hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả
sanh y; có chánh mạng, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế,
thuộc đạo chi. Và thế nào, này các Tỷ-kheo là chánh mạng, hữu lậu,
thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử bỏ tà mạng, nuôi sống với chánh mạng, như vậy, này các
Tỷ-kheo là chánh mạng, hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh
y. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh mạng, thuộc bậc Thánh, vô lậu,
siêu thế, thuộc đạo chi ? Cái gì, này các Tỷ-kheo thuộc về từ bỏ, từ
đoạn, từ khước, viễn ly tà mạng đối với một vị tu tập Thánh đạo,
thuần thục trong Thánh đạo. Có vô lậu tâm, có Hiền Thánh tâm; như vậy,
này các Tỷ-kheo là chánh mạng, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc
đạo chi. Ai tinh tấn đoạn trừ tà mạng, thành tựu chánh mạng; như vậy
là chánh tinh tấn của vị ấy. Ai chánh niệm đoạn trừ tà mạng, chánh
niệm đạt được và an trú chánh mạng, như vậy là chánh niệm của vị
ấy. Như vậy là ba pháp này chạy theo, chạy vòng theo chánh mạng, tức là
chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh niệm.
Ở đây, này các Tỷ-kheo chánh kiến
đi hàng đầu. Và thế nào, này Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu ? Chánh
tư duy, này các Tỷ-kheo, do chánh kiến, được khởi lên. Chánh ngữ do
chánh tư duy được khởi lên. Chánh nghiệp do chánh tà ngữ được khởi lên.
Chánh mạng do chánh nghiệp được khởi lên. Chánh tinh tấn do chánh mạng
được khởi lên. Chánh niệm do chánh tinh tấn được khởi lên. Chánh định
do chánh niệm được khởi lên. Chánh trí do chánh định được khởi lên.
Chánh giải thoát do chánh trí được khởi lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
đạo lộ của vị hữu học gồm có tám chi phần và đạo lộ của vị
A-la-hán, gồm có mười chi phần.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh kiến
đi hàng đầu. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu
? Tà kiến này các Tỷ-kheo, do chánh kiến làm cho tiêu diệt. Và những ác
bất thiện pháp được tà kiến duyên khởi, các pháp ấy bị tiêu diệt
trong vị có chánh kiến. Và những thiện pháp được chánh kiến duyên khởi,
các pháp ấy được tu tập và trở thành viên mãn. Tà tư duy, này các Tỷ-kheo,
do chánh tư duy làm cho tiêu diệt và những ác bất thiện pháp, được tà
tư duy duyên khởi, các pháp ấy bị tiêu diệt trong người có chánh tư
duy. Và những thiện pháp được chánh tư duy duyên khởi, các pháp ấy được
phát triển trở thành viên mãn. Tà ngữ, này các Tỷ-kheo, do chánh ngữ
làm cho tiêu diệt và những ác bất thiện pháp được tà ngữ duyên khởi,
các pháp ấy bị tiêu diệt trong người có chánh ngữ. Và những thiện
pháp được chánh ngữ duyên khởi, các pháp ấy được tu tập và trở
thành viên mãn. Tà nghiệp, này các Tỷ-kheo, do chánh nghiệp làm cho tiêu diệt,
và những ác bất thiện pháp được tà nghiệp duyên khởi, các pháp ấy bị
tiêu diệt trong người có chánh nghiệp. Và những thiện pháp được chánh
nghiệp duyên khởi, các pháp ấy được tu tập và trở thành viên mãn. Tà
mạng, này các Tỷ-kheo, do chánh mạng làm cho tiêu diệt. Và những ác bất
thiện pháp được tà mạng duyên khởi, các pháp ấy được tiêu diệt
trong người có chánh mạng. Và những thiện pháp được chánh mạng duyên
khởi, các pháp ấy được tu tập và trở thành viên mãn. Tà tinh tấn,
này các Tỷ-kheo, do chánh tinh tấn làm cho tiêu diệt. Và những ác bất thiện
pháp được tà tinh tấn duyên khởi, các pháp ấy được tiêu diệt trong
người có chánh tinh tấn. Và những thiện pháp sai biệt được khởi lên
do duyên chánh tinh tấn, các pháp ấy được tu tập và trở thành viên
mãn. Tà niệm, này các Tỷ-kheo, do chánh niệm làm cho tiêu diệt. Và những
ác bất thiện pháp được tà niệm duyên khởi, các pháp ấy được tiêu
diệt trong người có chánh niệm. Và những thiện pháp được chánh niệm
duyên khởi, các pháp ấy được tu tập và trở thành viên mãn. Tà định,
này các Tỷ-kheo do chánh định làm cho tiêu diệt. Và những ác bất thiện
pháp được tà định duyên khởi, các pháp ấy được tiêu diệt trong người
có chánh định. Và những thiện pháp được chánh định duyên khởi, các
pháp ấy được tu tập và trở thành viên mãn. Tà trí, này các Tỷ-kheo,
do chánh trí làm cho tiêu diệt. Và những ác bất thiện pháp được tà
trí duyên khởi, các pháp ấy được tiêu diệt trong người có chánh trí.
Và những thiện pháp được chánh trí duyên khởi, các pháp ấy được phát
triển và trở thành viên mãn. Tà giải thoát, này các Tỷ-kheo, do chánh giải
thoát làm cho tiêu diệt. Và những ác bất thiện pháp được tà giải
thoát duyên khởi, các pháp ấy được tiêu diệt trong người có chánh giải
thoát. Và các thiện pháp sai biệt được chánh giải thoát duyên khởi,
các pháp ấy được phát triển và trở thành viên mãn. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, có hai mươi thiện phần, hai mươi bất thiện phần. Đại pháp
môn Bốn mươi đã được chuyển vận không bị chận đứng lại bởi một
Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm thiên hay một ai ở đời. Nếu có Sa-môn
hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng đại pháp môn Bốn mươi này
đáng bị phê bình, đáng bị phỉ báng, thời ngay hiện tại, mười thuận
thuyết tùy thuyết hợp pháp được nói lên để chỉ trích người ấy. Nếu
Tôn giả chỉ trích chánh kiến, thời các Sa-môn có tà kiến, các Tôn giả
ấy là những vị đáng được cúng dường, các Tôn giả ấy là những vị
đáng được tán thán. Nếu Tôn giả chỉ trích chánh tư duy, thời các
Sa-môn, Bà-la-môn có tà tư duy, các Tôn giả ấy là những vị đáng được
cúng dường, các Tôn giả ấy là những vị đáng được tán thán. Nếu
Tôn giả chỉ trích chánh ngữ... chánh nghiệp... chánh mạng... chánh tinh tấn...
chánh niệm... chánh định... chánh trí... Nếu Tôn giả chỉ trích chánh giải
thoát, thời các Sa-môn, Bà-la-môn có tà giải thoát, các Tôn giả ấy là
những vị đáng cúng dường, các Tôn giả ấy là những vị đáng được
tán thán. Nếu có Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng đại
pháp môn Bốn mươi này đáng bị phê bình, đáng bị phỉ báng, thời ngay
hiện tại, mười thuận thuyết hợp pháp được nói lên để chỉ trích
người ấy. Này các Tỷ-kheo, cho đến các dân chúng ở Ukkala và dân chúng
Vassa, dân chúng Bhanna theo vô nhân luận, theo vô tác luận, theo hư vô luận,
những vị ấy cũng không nghĩ rằng đại pháp môn Bốn mươi đáng chỉ
trích, đáng bị phỉ báng. Vì sao vậy ? Vì sợ quở trách, phẫn nộ, công
kích.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- 118. KINH
NHẬP TỨC XUẤT TỨC NIỆM [^]
- (Anapanasatisuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại
Đông Viên (Pubbarama), giảng đường Lộc Mẫu (Migaramatupasade), cùng với rất
nhiều Thượng tọa có thời danh, có danh xưng.... như Tôn giả Sariputta
(Xá-lợi-phất), Tôn giả Mahamoggallana (Đại Mục-kiền-liên), Tôn giả
Mahakaccayana (Đại Ca-chiên-diên), Tôn giả Mahakotthita (Đại Câu-hy-la), Tôn
giả Mahakappina (Đại Kiếp-tân-na), Tôn giả Mahacunda (Đại Thuần-đà),
Tôn giả Anuruddha (A-na-luật), Tôn giả Revata (Ly-bà-đa) và Tôn giả Ananda
(A-nan), cùng với nhiều bậc Thượng tọa đệ tử khác có thời danh, có
danh xưng. Lúc bấy giờ, các Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy
các tân Tỷ-kheo. Một số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy mười
tân Tỷ-kheo. Một số Thượng Tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy hai mươi
tân Tỷ-kheo. Một số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy ba mươi
tân Tỷ-kheo. Một số Thượng Tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy bốn mươi
tân Tỷ-kheo. Và các tân Tỷ-kheo được các Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến
giáo, giảng dạy ý thức rõ ràng những quả vị cao diệu, tiệm thứ, thù
thắng đã chứng đạt. Lúc bấy giờ Thế Tôn, vào ngày Bố-tát, ngày rằm,
vào đêm trăng tròn sau ngày Tự tứ, đang ngồi giữa trời với chúng Tỷ-kheo
đoanh vây.
Thế Tôn nhìn quanh chúng Tỷ-kheo
đang yên lặng, hết sức yên lặng, rồi bảo các Tỷ-kheo :
– Ta được thỏa mãn, này các Tỷ-kheo,
với đạo lộ này. Tâm ta được thỏa mãn, này các Tỷ-kheo, với đạo lộ
này. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy tinh tấn hơn nữa, để chứng đạt những
gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng
ngộ những gì chưa chứng ngộ. Ta sẽ ở đây, tại Savatthi cho đến tháng
tư, lễ Komudi.
Những Tỷ-kheo địa phương được
nghe: "Thế Tôn sẽ ở đây, tại Savatthi, cho đến tháng tư, lễ
Komudi". Các Tỷ-kheo địa phương tụ họp tại Savatthi để yết kiến
Thế Tôn. Và các Thượng tọa Tỷ-kheo lại càng khuyến giáo, giảng dạy
các tân Tỷ-kheo nhiều hơn nữa. Một số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo,
giảng dạy mười tân Tỷ-kheo. Một số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo,
giảng dạy hai mươi tân Tỷ-kheo, Một số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo,
giảng dạy ba mươi tân Tỷ-kheo. Một số Thượng tọa Tỷ-kheo khuyến giáo,
giảng dạy bốn mươi tân Tỷ-kheo. Và những tân Tỷ-kheo được các Thượng
tọa Tỷ-kheo khuyến giáo, giảng dạy ý thức rõ ràng những quả vị cao
diệu, tiệm thứ, thù thắng đã chứng đạt. Lúc bấy giờ Thế Tôn vào
ngày Bố-tát, ngày rằm, vào đêm trăng tròn, ngày lễ Komudi vào tháng tư,
Thế Tôn đang ngồi ngoài trời, chung quanh có chúng Tỷ-kheo đoanh vây.
Rồi Thế Tôn sau khi nhìn xung quanh
chúng Tỷ-kheo đang yên lặng, hết sức yên lặng liền bảo các Tỷ-kheo:
– Hội chúng này, này các Tỷ-kheo,
không có lời thừa thải. Hội chúng này, này các Tỷ-kheo, không có lời dư
thừa, đã được an trú trong lõi cây thanh tịnh. Chúng Tỷ-kheo như thế này,
này các Tỷ-kheo, hội chúng như thế này, này các Tỷ-kheo là một hội
chúng đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường,
đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở đời. Chúng Tỷ-kheo
như thế này, này các Tỷ-kheo, hội chúng như thế này, này các Tỷ-kheo,
là một hội chúng bố thí ít, được (phước báo) nhiều, bố thí nhiều,
càng được (phước báo) nhiều; hơn nữa. Chúng Tỷ-kheo như thế này, này
các Tỷ-kheo, hội chúng như thế này, này các Tỷ-kheo, là một hội chúng
khó thấy ở đời. Chúng Tỷ-kheo như thế này, này các Tỷ-kheo, hội
chúng như thế này, này các Tỷ-kheo, là một hội chúng xứng đáng đi nhiều
do tuần (yojana) với một bao lương thực trên vai để đến yết kiến. Chúng
Tỷ-kheo này là như vậy, này các Tỷ-kheo; hội chúng này là như vậy, này
các Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo
là những A-la-hán, các lậu hoặc đã đoạn trừ, Phạm hạnh đã thành,
các việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục đích đã
thành đạt, hữu kiết sử đã được đoạn tận, được giải thoát nhờ
chánh trí. Này các Tỷ-kheo, có những bậc Tỷ-kheo như vậy trong chúng Tỷ-kheo
này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo đã đoạn
trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, từ ở đấy được nhập Niết-bàn,
không còn phải trở lại đời này nữa. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này
các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo
này, này có những Tỷ-kheo đã đoạn trừ ba kiết sử, đã làm cho muội lược
tham, sân, si, là bậc Nhất lai, sau khi sanh vào đời này một lần nữa, sẽ
đoạn tận khổ đau. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt
trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo, có những Tỷ-kheo
đã đoạn trừ ba kiết sử, là bậc Dự lưu, không còn đọa vào ác đạo,
chắc chắn sẽ được giác ngộ. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo,
có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này,
có những Tỷ-kheo là những vị sống chuyên tâm, chú tâm, tu tập bốn niệm
xứ. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo
này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo là những
vị sống chuyên tâm, chú tâm, tu tập bốn chánh cần. Các bậc Tỷ-kheo như
vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong hội chúng này. Này các Tỷ-kheo, trong
chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập bốn
như ý túc. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng
Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống
chuyên tâm, chú tâm tu tập năm căn. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo,
có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này,
có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập năm lực. Các bậc Tỷ-kheo
như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo,
trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập
bảy giác chi. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong
chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này có những Tỷ-kheo
sống chuyên tâm, chú tâm tu tập Thánh đạo tám ngành. Các bậc Tỷ-kheo như
vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo,
trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập
từ (tâm). Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng
Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống
chuyên tâm, chú tâm tu tập bi (tâm). Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo,
có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này,
có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập hỷ (tâm). Các bậc Tỷ-kheo
như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo,
trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập
xả (tâm). Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng
Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo, sống
chuyên tâm, chú tâm tu tập bất tịnh. Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các
Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo
này có những Tỷ-kheo sống chuyên tâm, chú tâm tu tập vô thường tưởng.
Các bậc Tỷ-kheo như vậy, này các Tỷ-kheo, có mặt trong chúng Tỷ-kheo
này. Này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo sống
chuyên tâm, chú tâm tu tập nhập tức xuất tức niệm. Nhập tức xuất tức
niệm, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến
quả lớn, công đức lớn. Nhập tức xuất tức niệm, được tu tập, làm
cho sung mãn, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn. Bốn niệm xứ được
tu tập, làm cho sung mãn, khiến cho bảy giác chi được viên mãn. Bảy giác
chi được tu tập, làm cho sung mãn, khiến cho minh giải thoát (vijjavimutti)
được viên mãn. Và này các Tỷ-kheo, như thế tu tập nhập tức xuất tức
niệm ? Như thế nào làm cho sung mãn ? Như thế nào là quả lớn, công đức
lớn ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc
cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết-già, lưng thẳng và trú niệm
trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra. Thở
vô dài, vị ấy biết : "Tôi thở vô dài". Hay thở ra dài, vị ấy
biết : "Tôi thở ra dài". Hay thở vô ngắn, vị ấy biết :
"Tôi thở vô ngắn". Hay thở ra ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở
ra ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh
thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi
sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm
giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm
hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi
sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô",
vị ấy tập "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn
diệt, tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
Nhập tức xuất tức niệm, này các Tỷ-kheo, tu tập như vậy, làm cho sung
mãn như vậy, được quả lớn, được công đức lớn.
Và như thế nào, này các Tỷ-kheo,
là nhập tức xuất tức niệm được tu tập ? Như thế nào, làm cho sung
mãn, khiến bốn niệm xứ được viên mãn ? Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thở vô dài, vị ấy biết : "Tôi thở vô dài". Hay khi thở ra dài,
vị ấy biết "Tôi thở ra dài". Hay thở vô ngắn, vị ấy biết :
"Tôi thở vô ngắn". Hay khi thở ra ngắn, vị ấy biết : "Tôi
thở ra ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh
thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thân trên
thân, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm
để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đối với các thân, Ta
nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong
khi tùy quán thân trên thân, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
nghĩ : "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm
giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh
tâm hành tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thọ trên
các thọ, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm,
để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đối với các cảm thọ,
Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy này các Tỷ-kheo, trong
khi tùy quán thọ trên các cảm thọ, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nghĩ : "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm
giác tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tu tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập. "Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với
tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải
thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán tâm trên tâm,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế
ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, sự tu tập nhập tức xuất tức niệm
không thể đến với kẻ thất niệm, không có tỉnh giác. Do vậy, này các
Tỷ-kheo, trong khi tùy quán tâm trên tâm, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Khi nào này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo nghĩ : "Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly
tham.... quán đoạn diệt... quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán
trên các pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Vị ấy, do đoạn trừ tham ưu,
sau khi thấy với trí tuệ, khéo nhìn (sự vật) với niệm xả ly. Do vậy,
này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán pháp trên các pháp, Tỷ-kheo trú, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Nhập tức xuất
tức niệm, này các Tỷ-kheo, được tu tập như vậy được làm cho sung
mãn như vậy, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn.
Và bốn niệm xứ, này các Tỷ-kheo,
tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho bảy giác chi
được viên mãn ? Này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thân trên thân, Tỷ-kheo
trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời,
trong khi ấy, niệm không hôn mê của vị ấy được an trú. Trong khi niệm
không hôn mê của vi ấy cũng được an trú, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy
niệm giác chi được bắt đầu khởi lên với Tỷ-kheo, trong khi ấy, Tỷ-kheo
tu tập niệm giác chi. Trong khi ấy niệm giác chi được Tỷ-kheo tu tập đi
đến viên mãn. Này các Tỷ-kheo, trong khi trú với chánh niệm như vậy, Tỷ-kheo
với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy. Này các Tỷ-kheo, trong khi
trú với chánh niệm như vậy, Tỷ-kheo với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát
pháp ấy, trong khi ấy trạch pháp giác chi được bắt đầu khởi lên, với
Tỷ-kheo. Trong khi ấy, Tỷ-kheo tu tập trạch pháp giác chi. Trong khi ấy trạch
pháp giác chi được Tỷ-kheo tu tập đi đến viên mãn. Này các Tỷ-kheo,
trong khi Tỷ-kheo với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, sự tinh tấn
không thụ động bắt đầu khởi lên với vị Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo,
trong khi Tỷ-kheo với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, trong khi
ấy sự tinh tấn không thụ động bắt đầu khởi lên với Tỷ-kheo ấy.
Trong khi ấy tinh tấn giác chi được bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo.
Trong khi ấy Tỷ-kheo tu tập tinh tấn giác chi. Trong khi ấy, tinh tấn giác
chi được Tỷ-kheo tu tập đi đến viên mãn. Hỷ không liên hệ đến vật
chất được khởi lên nơi vị tinh tấn tinh cần. Này các Tỷ-kheo, trong
khi hỷ không liên hệ đến vật chất khởi lên nơi Tỷ-kheo tinh tấn tinh
cần, trong khi ấy hỷ giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi
ấy hỷ giác chi được vị Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy hỷ giác chi được
Tỷ-kheo tu tập đi đến viên mãn. Thân của vị ấy được tâm hoan hỷ trở
thành khinh an, tâm cũng được khinh an. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với
ý hoan hỷ được thân khinh an, được tâm cũng khinh an, trong khi ấy, khinh
an giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy, khinh an giác chi
được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy, khinh an giác chi được Tỷ-kheo làm
cho đi đến sung mãn. Một vị có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy được
định tĩnh. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo có thân khinh an, an lạc, tâm
vị ấy được định tĩnh, trong khi ấy định giác chi bắt đầu khởi lên
nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy định giác chi được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi
ấy định giác chi được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung mãn. Vị ấy với
tâm định tĩnh như vậy, khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả ly. Này các
Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với tâm định tĩnh như vậy, khéo nhìn (sự vật)
với ý niệm xả ly, trong khi ấy xả giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo
. Trong khi ấy xả giác chi được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy xả giác chi
được Tỷ-kheo làm cho đến sung mãn.
Này các Tỷ-kheo, trong khi quán thọ
trên các cảm thọ... (như trên)... quán tâm trên tâm... (như trên)... quán
pháp trên các pháp, Tỷ-kheo an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với
mục đích điều phục tham ưu ở đời, trong khi ấy niệm của vị ấy
được an trú, không có hôn mê. Này các Tỷ-kheo, trong khi niệm của Tỷ-kheo
được an trú, không có hôn mê, niệm giác chi trong khi ấy được bắt đầu
khởi lên nơi Tỷ-kheo. Niệm giác chi trong khi ấy được Tỷ-kheo tu tập.
Niệm giác chi trong khi ấy, được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung mãn. Vị
ấy an trú với chánh niệm như vậy, suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy với
trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, trong khi an trú với chánh niệm như vậy, vị
ấy suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy với trí tuệ. Trạch pháp giác chi
trong khi ấy được bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trạch pháp giác chi
trong khi ấy được Tỷ-kheo tu tập. Trạch pháp giác chi trong khi ấy đi đến
sung mãn, tinh tấn không thụ động bắt đầu khởi lên nơi vị ấy. Này
các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy với trí tuệ,
và tinh tấn không thụ động bắt đầu khởi lên nơi vị ấy, tinh tấn giác
chi trong khi ấy bắt đầu khởi lên nơi vị Tỷ-kheo. Tinh tấn giác chi được
Tỷ-kheo tu tập. Tinh tấn giác chi được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung mãn.
Đối với vị ấy tinh cần tinh tấn, hỷ không liên hệ đến vật chất
khởi lên. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo tinh cần tinh tấn và hỷ
không liên hệ đến vật chất khởi lên, hỷ giác chi trong khi ấy bắt đầu
được khởi lên nơi Tỷ-kheo. Hỷ giác chi trong khi ấy được Tỷ-kheo tu tập.
Hỷ giác chi trong khi ấy được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung mãn. Thân của
vị ấy được tâm hoan hỷ trở thành khinh an, tâm cũng được khinh an. Này
các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với ý hoan hỷ được thân khinh an, được tâm
cũng khinh an, trong khi ấy khinh an giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo.
Trong khi ấy khinh an giác chi được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy khinh an giác
chi được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung mãn. Một vị có tâm khinh an, an lạc,
tâm vị ấy được định tĩnh. Này các Tỷ-kheo, trong khi vị ấy có thân
khinh an, an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh, trong khi ấy định giác
chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy định giác chi được Tỷ-kheo
tu tập. Trong khi ấy định giác chi được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung mãn.
Vị ấy với tâm định tĩnh như vậy khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả
ly. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với tâm định tĩnh như vậy, khéo
nhìn (sự vật) với ý niệm xả ly, trong khi ấy xả giác chi bắt đầu khởi
lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy xả giác chi được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi
ấy xả giác chi được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung mãn.
Này các Tỷ-kheo, bốn niệm xứ
được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy khiến cho bảy giác
chi được sung mãn.
Và này các Tỷ-kheo, bảy giác chi
tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho minh giải
thoát được viên mãn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm
giác chi, liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến diệt,
hướng đến xả ly; tu tập trạch pháp giác chi... (như trên)... tu tập tinh
tấn giác chi... (như trên)... tu tập hỷ giác chi... (như trên)... tu tập
khinh an giác chi... (như trên)... tu tập định giác chi... (như trên)... tu tập
xả giác chi, liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến
diệt, hướng đến xả ly. Này các Tỷ-kheo, bảy giác chi được tu tập
như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, khiến cho minh giải thoát được
viên mãn.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- 119. KINH
THÂN HÀNH NIỆM [^]
- (Kayagatasatisuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi,
(Xá-vệ) Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
Rồi một số đông Tỷ-kheo, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về,
đang ngồi tụ họp trong hội trường, câu chuyện này được khởi lên giữa
chúng Tăng:
– Thật vi diệu thay, chư Hiền giả
! Thật hy hữu thay, chư Hiền giả ! Thân hành niệm, khi được tu tập và
làm cho sung mãn, có được quả lớn, có được công đức lớn, như đã
được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
tuyên bố. Và câu chuyện này giữa các Tỷ-kheo ấy đã bị gián đoạn.
Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiện
tịnh độc cư đứng dậy, đi đến hội trường, sau khi đến ngồi lên chỗ
soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo :
– Ở đây, này các Tỷ-kheo, các
Ông hiện nay đang ngồi bàn vấn đề gì ? Câu chuyện gì của các Ông bị
gián đoạn ?
– Ở đây, bạch Thế Tôn, sau khi
ăn xong, sau khi đi khất thực trở về, chúng con ngồi tụ họp tại hội
trường, và câu chuyện sau này được khởi lên: "Thật vi diệu thay,
chư Hiền giả ! Thật hy hữu thay, chư Hiền giả ! Thân hành niệm này được
tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có công đức lớn, đã được
Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố".
Bạch Thế Tôn, câu chuyện này của chúng con chưa bàn xong thời Thế Tôn
đến.
– Và này các Tỷ-kheo, thân hành
niệm tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, có quả lớn, có
công đức lớn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi
kiết-già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Chánh niệm, vị
ấy thở vô. Chánh niệm, vị ấy thở ra. Hay thở vô dài, vị ấy biết :
"Tôi thở vô dài". Hay thở ra dài vị ấy biết: " Tôi thở ra
dài" . Hay thở vô ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở vô ngắn".
Hay thở ra ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở ra ngắn". "Cảm
giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả
toàn thân, tôi sẽ thở ra". An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô",
vi ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và
tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp
ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đi, biết rằng : "Tôi đi". Hay đứng, biết rằng : "Tôi đứng".
Hay ngồi, biết rằng : "Tôi ngồi". Hay nằm, biết rằng : "Tôi
nằm". Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy biết thân thể
như thế ấy. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần,
các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ
các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi bước tới, bước lui biết rõ việc mình đang làm; khi ngó tới ngó lui
biết rõ việc mình đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rõ việc mình
đang làm; khi mang áo tăng-già-lê (sanghati), mang bát, mang y, biết rõ việc
mình đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm; khi đứng,
ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng biết rõ việc mình đang làm.
Trong khi vị ấy sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn
trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên
nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc,
bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt: "Trong thân
này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim,
gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm (niêm
dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ,
nước ở khớp xương, nước tiểu". Này các Tỷ-kheo, cũng như một
bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hột như gạo, lúa, đậu
xanh, đậu lớn, mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột
ấy ra và quán sát : "Đây là hột gạo, đây là hột lúa, đây là đậu
xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hột lúa đã xay rồi". Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo quán sát thân này dưới từ bàn chân
trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật
bất tịnh sai biệt : ‘Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt,
gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng
ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước
miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu".
Trong khi vị ấy sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn
trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên
nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
quán sát thân này về các vị trí các giới và sự sắp đặt các giới :
"Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại, và phong đại".
Này các Tỷ-kheo, như một người đồ tể thiện xảo, hay đệ tử của một
người đồ tể giết một con bò, ngồi cắt chia từng thân phần tại ngã
tư đường; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán sát thân này về
vị trí các giới và về sự sắp đặt các giới : "Trong thân này có
địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại".
Trong khi vị ấy sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn
trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên
nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
như thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba
ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra; Tỷ-kheo
quán thân ấy như sau : "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là
như vậy, không vượt khỏi bản chất ấy".
Trong khi vị ấy sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn
trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên
nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
như thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa bị các loài quạ ăn, hay
bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó
ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn; Tỷ-kheo quán
thân ấy như sau : "Thân này tánh chất là như vậy, bản chất là như
vậy, không vượt khỏi bản chất ấy".
Trong khi vị ấy sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn
trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên
nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, với các bộ xương
còn liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân
cột lại... với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt
nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột lại... chỉ còn có xương
không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia. Ở đây là xương tay,
ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế,
ở đây là xương mông, ở đây là xướng sống, ở đây là xương đầu;
Tỷ-kheo quán thân ấy như sau : "Thân này tánh chất là như vậy, bản
tánh là như vậy, không vượt khỏi bản chất ấy". Trong khi vị ấy sống
không phóng dật... (như trên).. Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
như thấy một thi thế quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn toàn xương trắng
màu vỏ ốc... chỉ còn một đống xương lâu hơn một năm... chỉ còn là
xương thối trở thành bột; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau : "Thân này
tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi bản chất
ấy". Trong khi vị ấy sống không phóng dật... (như trên).. Tỷ-kheo tu
tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ly dục, ly ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, với tầm và tứ. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho
sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ
nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.
Này các Tỷ-kheo, như một người hầu
tắm lão luyện hay đệ tử người hầu tắm; sau khi rắc bột tắm trong
thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được
thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong
lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với
hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ
lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Trong khi vị ấy sống không phóng dật..
(như trên) ... Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy diệt tầm và tứ, chứng và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ
lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tỷ-kheo ấy
thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc
do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do
định sanh ấy thấm nhuần.
Này các Tỷ-kheo, ví như một hồ
nước, nước tự trong dâng lên, phương Đông không có lỗ nước chảy ra,
phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy
ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra và thỉnh thoảng trời lại mưa
lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra thấm nhuần, tẩm ướt, làm
cho sung mãn tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ
nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy
thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân,
không được hỷ lạc do đính sanh ấy thấm nhuần. Trong khi vị ấy sống
không phóng dật... (như trên)... Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc
Thánh gọi là "Xả niệm lạc trú", chứng và an trú Thiền thứ ba.
Tỷ-kheo, thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với
lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân, không được
lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Như vậy, Tỷ-kheo an trú không
phóng dật... (như trên)... Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm.
Này các Tỷ-kheo, ví như trong hồ
sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng hay sen trắng.
Những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi
nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm
nhuần, tẩm ướt, đầy tràn thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một
chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước
mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần,
tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ
ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ
ấy thấm nhuần. Như vậy Tỷ-kheo an trú không phóng dật... (như trên)... Tỷ-kheo,
tu tập thân hành niệm.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo,
xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và an trú Thiền
thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy ngồi, thấm
nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào
trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.
Này các Tỷ-kheo, ví như một người
ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân
không được vải trắng ấy che thấu; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ngồi thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh, trong sáng, không một
chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm
nhuần. Trong khi vị ấy sống an trú không phóng dật... (như trên)... Tỷ-kheo
tu tập thân hành niệm.
Này các Tỷ-kheo, đối với vị nào
tu tập, làm cho sung mãn thân hành niệm, các thiện pháp của vị ấy đi vào
nội tâm (antogadha ?) đều thuộc về minh phần (vijjabhagiya). Ví như, này
các Tỷ-kheo, biến lớn của ai được thấm nhuần bởi tâm, thời các con
sông của vị ấy đi vào trong biển, đều thuộc về biển lớn; cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập làm cho sung mãn thân hành niệm,
các thiện pháp của vị ấy đi vào nội tâm, đều thuộc về minh phần. Này
các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo nào không tu tập thân hành niệm, không
làm cho sung mãn, thời Ma (vương) có cơ hội với vị ấy, Ma (vương) có cơ
duyên với vị ấy. Ví như này các Tỷ-kheo, có người quăng một hòn đá
nặng vào một đống đất sét ướt nhuyễn, này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ
thế nào ? Có phải hòn đá nặng ấy có cơ hội (lún sâu) vào đống đất
sét ướt nhuyễn ấy ?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với ai không tu tập thân hành niệm, không làm cho sung mãn, Ma (vương) có cơ
hội với vị ấy, Ma (vương) có cơ duyên với vị ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo,
một cây khô không có nhựa, có người đến cầm phần phía trên của đồ
quay lửa và nói : "Tôi sẽ làm cho ngọn lửa sanh ra, tôi sẽ làm cho sức
nóng hiện lên". Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Người ấy
mang đến phần phía trên của đồ quay lửa, quay với cành cây khô không
có nhựa ấy, người ấy có làm cho ngọn lửa sanh ra, có làm cho sức nóng
hiện lên không ?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với ai không tu tập thân hành niệm, không làm cho sung mãn, Ma (vương) có cơ
hội với người ấy, Ma (vương) có cơ duyên với người ấy. Ví như, này
các Tỷ-kheo, một bình nước, trống rỗng, trống không, được đặt trên
cái giá, có một người đi đến, mang theo đầy nước. Này các Tỷ-kheo,
các Ông nghĩ thế nào ? Người ấy có thể đổ nước (vào bình) không ?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị
nào không tu tập thân hành niệm, không làm cho sung mãn, Ma (vương) có cơ hội
với vị ấy, Ma (vương) có cơ duyên với vị ấy.
Này các Tỷ-kheo, vị nào có tu tập
thân hành niệm, làm cho sung mãn, Ma (vương) không có cơ hội với vị ấy.
Ma (vương) không có duyên với vị ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, có người
quăng một trái banh dây nhẹ vào một cánh cửa làm hoàn toàn bằng lõi
cây. Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Trái banh dây nhẹ ấy có cơ
hội đối với cánh cửa làm hoàn toàn bằng lõi cây không ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với vị nào có tu tập thân hành niệm, làm cho sung mãn, Ma (vương) không
có cơ hội đối với vị ấy, Ma (vương) không có cơ duyên đối với vị
ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây ướt có nhựa, rồi một người
đi đến mang theo phần trên đồ quay lửa và nói : "Tôi sẽ làm cho lửa
sinh ra, tôi sẽ làm cho hơi nóng hiện lên". Này các Tỷ-kheo, các Ông
nghĩ thế nào ? Người ấy mang theo phần trên đồ quay lửa, quay với các
cây ướt và có nhựa, có thể làm cho lửa sanh ra, làm cho hơi nóng hiện
lên được không ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với vị nào có tu tập thân hành niệm, làm cho sung mãn, Ma (vương) không
có cơ hội đối với vị ấy, Ma (vương) không có cơ duyên đối với vị
ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, một bình nước đầy tràn nước đến nỗi
con quạ có thể uống được, được đặt trên cái giá, rồi có người
đi đến, mang theo đầy nước. Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào ? Người
ấy có thể đổ được nước vào (bình ấy) không ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với vị nào tu tập thân hành niệm, làm cho sung mãn, Ma (vương) không có cơ
hộ đối với người ấy, Ma (vương) không có cơ duyên đối với người
ấy.
Này các Tỷ-kheo, đối với vị nào
tu tập thân hành niệm, làm cho sung mãn, vị ấy hướng tâm đã được chứng
ngộ nhờ thắng trí đến pháp nào cần phải chứng ngộ nhờ thắng trí,
vị ấy đối mặt đạt được sự tinh xảo, (của pháp ấy) dầu thuộc
giới xứ nào (sati sati ayatane). Ví như, này các Tỷ-kheo, một bình đầy tràn
nước đến nỗi con quạ có thể uống được, được đặt trên cái giá
và có người lực sĩ đến và lắc qua lắc lại cái bình ấy, như vậy
nước có thể trào ra ngoài không ?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với vị nào tu tập thân hành niệm, làm cho sung mãn, vị ấy hướng tâm
đã được chứng ngộ nhờ thắng trí đến pháp nào cần phải chứng ngộ
nhờ thắng trí, vị ấy đối mặt được sự tinh xảo (của pháp ấy) dầu
thuộc giới xứ nào. Ví như có một hồ nước trên một miếng đất bằng,
bốn phía có đê đắp làm cho vững chắc, và tràn đầy nước đến nỗi
con quạ có thể uống được. Rồi có người lực sĩ đến và phá một
khúc đê, nước có thể tràn ra ngoài không ?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với vị nào tu tập thân hành niệm, làm cho sung mãn, vị ấy hướng tâm
đã được chứng ngộ nhờ thắng trí đến pháp nào cần phải chứng ngộ
nhờ thắng trí, vị ấy đối mặt được sự tinh xảo (của pháp ấy) dầu
thuộc giới xứ nào. Ví như, này các Tỷ-kheo, trên đất bằng tại chỗ
ngã tư có một chiếc xe đậu, thắng với những con ngựa thuần thục, có
roi ngựa đặt ngang sẵn sàng, có người mã thuật sư thiện xảo, người
đánh xe điều ngự các con ngựa đáng được điều ngự, leo lên xe ấy,
tay trái nắm dây cương, tay mặt cầm lấy roi ngựa, có thể đánh xe ngựa
ấy đi tới đi lui, tại chỗ nào và như thế nào theo ý mình muốn. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập thân hành niệm, làm cho sung
mãn, vị ấy hướng tâm đã được chứng ngộ nhờ thắng trí đến pháp
nào cần phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vị ấy đối mặt được sự
tinh xảo (của pháp ấy), dầu thuộc giới xứ nào.
Này các Tỷ-kheo, thân hành niệm
được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như
thành cỗ xe, được làm như thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì,
được làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành, thời mười công
đức này có thể được mong đợi. Thế nào là mười ?
Lạc bất lạc được nhiếp phục,
và bất lạc không nhiếp phục vị ấy, và vị ấy sống luôn luôn nhiếp
phục bất lạc được khởi lên; khiếp đảm sợ hãi được nhiếp phục,
và khiếp đảm sợ hãi không nhiếp phục vị ấy, và vị ấy luôn luôn
nhiếp phục khiếp đảm sợ hãi được khởi lên. Vị ấy kham nhẫn được
lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, mặt trời,
các loài rắn rết, các cách nói khó chịu, khó chấp nhận. Vị ấy có khả
năng chịu đựng được những cảm thọ về thân khởi lên, khổ đau, nhói
đau, thô bạo, chói đau, bất khả ý, bất khả ái, đưa đến chết điếng.
Tùy theo ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức,
vị ấy chứng được bốn Thiền, thuần túy tâm tư, hiện tại lạc trú.
Vị ấy chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân,
nhiều thân hiện một thân; hiện hình biến đi ngang qua vách, qua tường,
qua núi như đi ngang hư không; độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như
ở trong nước; đi trên nước không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết-già
đi trên hư không như con chim; với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt
trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể, thân
có thần thông bay cho đến Phạm thiên; với thiên nhĩ thanh tịnh siêu
nhân, có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và loài Người, ở xa hay ở gần.
Với tâm của vị ấy, vị ấy biết tâm của các chúng sanh, các loại người;
tâm có tham, biết tâm có tham; tâm không tham, biết tâm không tham; tâm có
sân, biết tâm có sân; tâm không sân, biết tâm không sân; tâm có si, biết
tâm có si; tâm không si, biết tâm không si; tâm chuyên chú, biết tâm chuyên
chú; tâm tán loạn, biết tâm tán loạn; tâm đại hành, biết tâm đại hành;
tâm không đại hành, biết tâm không đại hành; tâm chưa vô thượng, biết
tâm chưa vô thượng; tâm vô thượng, biết tâm vô thượng; tâm Thiền định,
biết tâm Thiền định; tâm không Thiền định, biết tâm không Thiền định;
tâm giải thoát, biết tâm giải thoát; tâm không giải thoát, biết tâm
không giải thoát. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời,
hai đời... vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ với các nét đại
cương và các chi tiết. Với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, vị ấy thấy
sự sống và sự chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người
hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ
bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Với sự diệt trừ các lậu hoặc,
sau khi tự mình chứng tri với thượng trí, vị ấy chứng đạt và an trú
ngay trong hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát không có lậu hoặc.
Này các Tỷ-kheo, thân hành niệm
được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như
cỗ xe, được làm như thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được
làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành, thời mười công đức
này có thể mong đợi.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- (Sankharuppatisuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi
(Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo" – "Thưa
vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn
nói như sau : "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông sự tái sanh do
hành đưa lại. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ giảng". – "Thưa
vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn
nói như sau :
– Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn (suta), đầy đủ thí, đầy
đủ trí tuệ. Vị ấy nghĩ như sau : "Mong rằng sau khi thân hoại mạng
chung, ta sẽ sanh cọng trú trong đại gia tộc Sát đế lỵ !" Vị ấy
chuyên định tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Những hành ấy của
Tỷ-kheo được an trú, tu tập, làm cho sung mãn như vậy đưa vị ấy thọ
sanh tại chỗ ấy. Này các Tỷ-kheo, đây là đạo, đây là lộ trình đưa
đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí, đầy đủ
trí tuệ. Vị ấy nghĩ : "Mong rằng, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ
sanh cọng trú trong đại gia tộc Bà-la-môn !... hay trong đại gia tộc cứ
sĩ !" Vị ấy chuyên định tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Những
hành ấy của Tỷ-kheo được an trú, tu tập, làm cho sung mãn như vậy đưa
vị ấy thọ sanh tại chỗ ấy. Này các Tỷ-kheo, đây là đạo, đây là lộ
trình đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí, đầy đủ
trí tuệ. Vị ấy được nghe : "Bốn Đại Thiên vương có thọ mạng
lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ". Vị ấy nghĩ: "Mong rằng
sau khi thân hoại mạng chung, ta được sanh cọng trú với chư Thiên ở cõi
trời Tứ thiên !" Vị ấy chuyên định tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập
tâm ấy. Những hành ấy của Tỷ-kheo được an trú, tu tập, ... đưa đến
tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí, đầy đủ
trí tuệ. Vị ấy được nghe : "Chư Thiên Tavatimsa (Tam thập tam
thiên)... , chư Thiên Yama (Dạ-ma)..., chư Thiên Tusita (Đâu-suất-đà)..., chư
Thiên Nimmanarati (Hóa Lạc)..., chư Thiên Paramimmitavasavatti (Tha Hóa Tự Tại)
có thọ mạng lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ. Vị ấy nghĩ :
"Mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, ta được sanh cọng trú với chư
Thiên ở Tha Hóa Tự Tại Thiên !" Vị ấy chuyên định tâm ấy... đưa
đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí, đầy đủ
trí tuệ. Vị ấy được nghe : "Ngàn Phạm thiên có thọ mạng lâu
dài, có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ"... Này các Tỷ-kheo, ngàn Phạm
thiên sống thấm nhuần biến mãn một ngàn thế giới. Và vị ấy sống
thuấn nhuần, biến mãn các chúng sanh được sanh lên thế giới ấy. Ví như,
này các Tỷ-kheo, một người có mắt cầm một trái amanda (a-ma-lặc) trong
tay và nhìn trái ấy; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ngàn Phạm thiên sống thấm
nhuần, biến mãn một ngàn thế giới . Và vị ấy sống thấm nhuần, biến
mãn các chúng sanh được sanh lên thế giới ấy. Vị ấy nghĩ : "Mong rằng
sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh cọng trú với ngàn Phạm
thiên !" Vị ấy chuyên định tâm ấy... đưa đến tái sanh tại chỗ
ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín..., đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe : "Hai ngàn
Phạm thiên giới... ba ngàn Phạm thiên.. bốn ngàn Phạm thiên... năm ngàn
Phạm thiên có thọ mạng lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ. Này
các Tỷ-kheo, năm ngàn Phạm thiên có thọ mạng lâu dài, có mỹ tướng, có
nhiều lạc thọ. Này các Tỷ-kheo, năm ngàn Phạm thiên sống thấm nhuần,
biến mãn năm ngàn thế giới. Và vị ấy sống thấm nhuần biến mãn các
chúng sanh được sanh lên thế giới ấy. Ví như này các Tỷ-kheo, một người
có mắt cầm năm trái amanda (a-ma-lặc) trong tay và nhìn các trái ấy. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, năm ngàn Phạm thiên sống thấm nhuần, biến mãn năm
ngàn thế giới. Và vị ấy sống thấm nhuần biến mãn các chúng sanh được
sanh lên các thế giới ấy". Vị ấy nghĩ : "Mong rằng sau khi thân
hoại mạng chung, ta sẽ được sanh cọng trú với năm ngàn Phạm thiên
!" Vị ấy chuyên định tâm ấy.... đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... giới... văn... thí... đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được
nghe : "Mười ngàn Phạm thiên có thọ mạng lâu dài, có mỹ tướng, có
nhiều lạc thọ". Này các Tỷ-kheo, mười ngàn Phạm thiên giới thấm
nhuần biến mãn mười ngàn thế giới. Vị ấy sống thấm nhuần biến
mãn các chúng sanh được sanh lên các thế giới ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo,
một hòn lưu ly bảo châu, đẹp đẽ trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo
mài, đặt trên một tấm nàm màu lạt, sẽ chiếu sáng, sáng chói; cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, mười ngàn Phạm thiên sống thấm nhuần, biến mãn mười
ngàn thế giới ấy. Vị ấy nghĩ : "Mong rằng sau khi thân hoại mạng
chung, ta được sanh cọng trú với mười ngàn Phạm thiên !" Vị ấy
chuyên định tâm ấy... đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe : "Trăm ngàn
Phạm thiên có thọ mạng lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ".
Này các Tỷ-kheo, trăm ngàn Phạm thiên, sống thấm nhuần, biến mãn trăm
ngàn thế giới... Vị ấy cũng thấm nhuần, biến mãn các chúng sanh được
sanh lên các thế giới ấy. Ví như một đồ trang sức làm bằng vàng ròng
(jambonada), được khéo tôi luyện trong lò của một thợ vàng thiện xảo,
nếu được đặt trên một tấm màn màu lạt sẽ chiếu sáng, rực sáng,
chói sáng; cũng vậy này các Tỷ-kheo, trăm ngàn Phạm thiên an trú thấm nhuần
biến mãn trăm ngàn thế giới... Vị ấy nghĩ : "Mong rằng sau khi thân
hoại mạng chung, ta được sanh cọng trú với trăm ngàn Phạm thiên !"
Vị ấy chuyên định tâm ấy... đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe : "Chư Quang
thiên... Thiểu Quang thiên, Vô Lượng Quang thiên... Quang Âm thiên có thọ mạng
lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ". Vị ấy nghĩ : "Mong
rằng ta.. ".... đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe : "Chư Tịnh
thiên.... Thiểu Tịnh thiên... Vô lượng Tịnh thiên... Biến Tịnh thiên có
thọ mạng lâu dài, có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ". Vị ấy nghĩ
: "Mong rằng ta.. ". , đưa đến tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe : "Quảng Quả
thiên... Vô Phiền thiên... Vô Nhiệt thiên... Thiện Kiến thiên.. A-ca-ni-sa
thiên có thọ mạng lâu dài có mỹ tướng, có nhiều lạc thọ". Vị
ấy nghĩ : "Mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, ta được sanh cọng
trú với chư A-ca-ni-sa-thiên". Vị ấy chuyên định tâm ấy.... đưa đến
tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe : "Chư Thiên
đã đạt được Hư không vô biên xứ, có thọ mạng lâu dài, cửu trú,
có nhiều lạc thọ". Vị ấy nghĩ : "Mong rằng ta.. ".... , đưa
đến tái sanh chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... đầy đủ trí tuệ. Vị ấy được nghe : "Chư Thiên
đã đạt được Thức vô biên xứ... đã được Vô sở hữu xứ.. đã đạt
được Phi tưởng phi phi tưởng xứ có thọ mạng lâu dài, cửu trú, có
nhiều lạc thọ" Vị ấy nghĩ : "Mong rằng ta.. "... , đưa đến
tái sanh tại chỗ ấy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ tín... đầy đủ trí tuệ. Vị ấy nghĩ : "Mong rằng, với sự
đoạn trừ các lậu hoặc, với thắng trí, ta chứng ngộ, chứng đạt và
an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu !"
Vị ấy với sự đoạn trừ các lậu hoặc, với thắng trí, chứng ngộ,
chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát
vô lậu. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này không sinh ra một nơi nào, không sinh
ra một chỗ nào.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.