- Kinh Trung bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
Phần XXIII
(105)
Kinh Thiện tinh
(106) Kinh Bất động lợi ích
(107) Kinh Ganaka Moggalana
(108) Kinh Gopaka Moggalana
(109) Đại kinh Mãn nguyệt
(110) Tiểu kinh Mãn nguyệt
- (Sunakkhattasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú tại Vesali
(Tỳ-xá-ly), ở Đại Lâm, tại Trùng Các giảng đường (Kutagarasala). Lúc bấy
giờ nhiều Tỷ-kheo, trước mặt Thế Tôn tuyên bố đã chứng trí giác :
"Chúng tôi biết rằng sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những điều
nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa". Sunakkhatta
Licchaviputta (Thiện Tinh Ly-xa Tử) được nghe : "Nhiều Tỷ-kheo... (như
trên)... này nữa". Rồi sunakkhatta Licchaviputta đi đến chỗ Thế Tôn,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, Sunakkhatta Licchaviputta bạch Thế Tôn :
– Bạch Thế Tôn con có được
nghe như sau : "Nhiều Tỷ-kheo... (như trên)... này nữa". Bạch Thế
Tôn, những Tỷ-kheo ấy, trước mặt Thế Tôn tuyên bố đã chứng trí
giác: "Chúng tôi biết rằng sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những
việc nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa". Bạch
Thế Tôn, không biết các Tỷ-kheo ấy đã tuyên bố một cách chơn chánh chứng
trí giác, hay ở đây có một số Tỷ-kheo, vì tăng thượng mạn đã tuyên
bố chứng trí giác ?
– Này Sunakkhatta, những vị Tỷ-kheo
trước mặt Ta đã tuyên bố chứng trí giác : "Chúng tôi biết rằng,
sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không
còn trở lại trạng thái này nữa". Ở đây, có một số Tỷ-kheo đã
chơn chánh tuyên bố chứng trí giác; nhưng ở đây, cũng có một số Tỷ-kheo
chính vì tăng thượng mạn, đã tuyên bố chứng trí giác. Ở đây, này
Sunakkhatta, những vị Tỷ-kheo nào đã chơn chánh tuyên bố chứng trí giác,
thời đối với các vị ấy, thật là đúng như vậy. Nhưng đối với các
vị Tỷ-kheo nào, vì tăng thượng mạn đã tuyên bố chứng tri giác, ở đây,
này Sunakkhatta, Như Lai nghĩ như sau : "Ta hãy thuyết pháp cho những vị
ấy". Và như vậy, ở đây, này Sunakkhatta, Như Lai suy nghĩ : "Ta hãy
thuyết pháp cho những vị ấy". Nhưng ở đây, nếu có một số người
ngu si, bày đặt câu hỏi, đến hỏi Như Lai; ở đây, này Sunakkhatta, Như
Lai suy nghĩ như sau: "Ta hãy thuyết pháp cho những người ấy". Như
Lai suy nghĩ như vậy, không có làm khác.
– Nay đã đúng thời để thuyết
pháp, bạch Thế Tôn ! Nay đã đúng thời để thuyết pháp, bạch Thiện Thệ
! Thế Tôn thuyết pháp như thế nào, sau khi nghe Thế Tôn xong, các Tỷ-kheo
sẽ thọ trì.
– Vậy này Sunakkhatta, hãy nghe và
khéo tác ý kỹ, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Sunakkhatta Licchaviputta vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau :
– Này Sunakkhatta, có năm dục trưởng
dưỡng này. Thế nào là năm ? Các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ,
khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức...
; các hương do mũi nhận thức... ; các vị do lưỡi nhận thức... ; các
xúc do thân cảm xúc khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Này Sunakkhatta, những pháp này là năm dục trưởng dưỡng.
Nhưng này Sunakkhatta, sự tình này xảy
ra khi ở đây có số người thiên nặng về vật chất thế gian. Đối với
người thiên nặng về vật chất thế gian, này Sunakkhatta, câu chuyện
(thích hợp với người ấy) phải tùy thuộc như thế nào để phù hợp với
điều người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với
người nào người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ
đến bất động, thời người ấy không nghe, không lóng tai, và tâm không
an trú vào tri giác. Và người ấy không giao thiệp với người mà người
ấy không thích thú. Ví như này Sunakkhatta, có người đã lâu không trú ở
trong làng hay thị trấn của mình, và có thể thấy một người vừa mới
từ làng ấy hay thị trấn ấy lại. Người này sẽ hỏi người ấy về sự
an ninh của làng hay thị trấn ấy, về đồ ăn uống sung túc và về ít bệnh
tật, và người ấy sẽ nói cho người này biết về sự an ổn của làng
hay thị trấn ấy, về đồ ăn uống sung túc và về ít bệnh tật. Này
Sunakkhatta, Ông nghĩ thế nào ? Có phải người này sẽ nghe người kia, lóng
tai, tâm an trú vào trí giác và người này sẽ giao thiệp với người ấy
mà người này thích thú ?
– Thưa phải vậy, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này Sunakkhatta, sự
tình này xảy ra khi ở đây có số người thiên nặng về vật chất thế
gian. Đối với người thiên nặng về vật chất thế gian, này Sunakkhatta,
câu chuyện thích hợp với người ấy phải tùy thuộc như thế nào để
phù hợp với điều người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao
thiệp với người mà người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ
nói liên hệ đến Bất động, thời người ấy không nghe, không lóng tai
và tâm không an trú vào thượng trí, và người ấy không giao thiệp với
người mà người ấy không thích thú. Người ấy cần được hiểu như vầy:
"Là hạng người thiên nặng về vật chất thế gian".
Này Sunakkhatta, sự tình này xảy
ra, khi một số người thiên nặng về Bất động. Đối với người thiên
nặng về Bất động, này Sunakkhatta, câu chuyện thích hợp (với người
ấy) phải tùy thuộc như thế nào để phù hợp với điều người ấy suy
tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với người mà người ấy
thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến vật chất thế
gian, thời người ấy không nghe, không lóng tai và tâm không an trú vào thượng
trí, và người ấy không giao thiệp với người mà người ấy không thích
thú. Ví như, này Sunakkhatta, một lá vàng khô đã rời khỏi cành, không
còn xanh trở lại; cũng vậy, này Sunakkhatta, đối với hạng người thiên
nặng về Bất động, đã rời khỏi kiết sử vật chất thế gian. Người
ấy cần được hiểu như sau : "Đây là hạng người không liên hệ với
kiết sử vật chất thế gian, thiên nặng về Bất động".
– Này Sunakkhatta, sự tình này xảy
ra. Ở 렦#273;ây, có một số người thiên nặng
về Vô sở hữu. Đối với người thiên nặng về Vô sở hữu, này
Sunakkhatta, câu chuyện thích hợp với người ấy phải tùy thuộc như thế
nào để phù hợp với điều người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy
chỉ giao thiệp với người mà người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện
chỉ nói liên hệ đến Bất động, thời người ấy không nghe, không lóng
tai, và tâm không an trú vào trí giác, và người ấy không giao thiệp với
người mà người ấy không thích thú. Ví như, này Sunakkhatta, một hòn đá
bị vỡ làm đôi không thể nối liền lại được; cũng vậy, này
Sunakkhatta, đối với hạng người thiên nặng về Vô sở hữu, đã bị chặt
đứt khỏi kiết sử Bất động, người ấy cần được hiểu như sau:
"Đây là hạng người không liên hệ với kiết sử Bất động, thiên
nặng về Vô sở hữu".
– Này Sunakkhatta, sự tình này xảy
ra. Ở đây, có một số người thiên nặng về Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Đối với người thiên nặng về Phi tưởng phi phi tưởng xứ, này
Sunakkhatta, câu chuyện thích hợp với người ấy phải tùy thuộc như thế
nào để phù hợp với điều người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy
chỉ giao thiệp với người mà người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện
chỉ nói liên hệ đến Vô sở hữu xứ, thời người ấy không nghe, không
lóng tai, và tâm không an trú vào tri giác, và người ấy không giao thiệp với
người mà người ấy không thích thú. Ví như, này Sunakkhatta, một người
đã ăn các món ăn mỹ vị và đã quăng bỏ. Này Sunakkhatta, Ông nghĩ thế
nào ? Người ấy có ưa ăn lại món ăn ấy không ?
– Bạch Thế Tôn không. Vì sao vậy
? Vì rằng, bạch Thế Tôn, món ăn ấy được xem là ghê tởm rồi.
– Cũng vậy, này Sunakkhatta, đối
với hạng người thiên nặng về Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đã để một
bên kiết sử Vô sở hữu xứ. Người ấy cần được hiểu như sau :
"Đây là hạng người không liên hệ với kiết sử Vô sở hữu xứ,
thiên nặng về Phi tưởng phi phi tưởng xứ".
Này Sunakkhatta sự tình này xảy ra,
khi ở đây, có số người thiên nặng về chánh Niết-bàn. Đối với hạng
người thiên nặng về chánh Niết-bàn, này Sunakkhatta, câu chuyện thích hợp
với người ấy phải tùy thuộc như thế nào để phù hợp với điều
người ấy suy tầm và suy tư, và người ấy chỉ giao thiệp với người mà
người ấy thích thú. Nhưng nếu câu chuyện chỉ nói liên hệ đến Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, thời người ấy không nghe, không lóng tai, và tâm không
an trú vào trí giác. Và người ấy không giao thiệp với người mà người
mà ấy không thích. Ví như, này Sunakkhatta, cây tala ngọn cây đã bị chặt
đứt không thể lớn được nữa; cũng vậy, này Sunakkhatta, đối với hạng
người thiên nặng về chánh Niết-bàn, đã cắt đứt kiết sử Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, đã cắt đứt từ rễ, làm cho như cây tala không thể
tái sanh, không thể khởi lên lại trong tương lai. Người ấy cần phải
được hiểu như sau : "Đây là hạng người không liên hệ với kiết
sử Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thiên nặng về chánh Niết-bàn".
– Này Sunakkhatta, sự tình này xảy
ra, khi ở đây, có một số người suy nghĩ như sau : "Tham ái được vị
Sa-môn gọi là mũi tên. Thuốc độc vô minh làm não hại (con người) với
dục, tham, sân. Mũi tên tham ái đã được ta đoạn diệt; thuốc độc vô
minh đã được trừ khử; ta thiên nặng về chánh Niết-bàn". Vị ấy
có thể tự hào với mục đích hiện tại. Vị ấy có thể truy cầu những
gì không thích hợp với khuynh hướng chánh Niết-bàn, mắt vị ấy có thể
truy cầu sắc không thích hợp, tai có thể truy cầu tiếng không thích hợp,
mũi có thể truy cầu hương không thích hợp, lưỡi có thể truy cầu vị
không thích hợp, thân có thể truy cầu xúc không thích hợp, ý có thể
truy cầu pháp không thích hợp. Khi mắt truy cầu sắc không thích hợp, tai
truy cầu tiếng không thích hợp, mũi truy cầu hương không thích hợp, lưỡi
truy cầu vị không thích hợp, thân truy cầu xúc không thích hợp, ý truy cầu
pháp không thích hợp, thời tham dục nhiễu loạn tâm vị ấy. Vị ấy do
tâm bị tham dục nhiễu loạn đi đến chết hay đi đến khổ gần như chết.
Ví như, này Sunakkhatta, một người
bị mũi tên bắn, tên ấy có tẩm thuốc độc rất dày. Bạn bè thân hữu,
bà con huyết thống người ấy cho mời một y sĩ giải phẫu. Vị y sĩ giải
phẫu ấy có thể cắt xung quanh miệng vết thương với con dao; sau khi cắt
xung quanh miệng vết thương với con dao, vị y sĩ giải phẫu có thể dò
tìm mũi tên với một vật dụng dò tìm. Sau khi dò tìm mũi tên với một vật
dụng dò tìm, y sĩ có thể rút mũi tên ra. Y sĩ có thể trừ khử hết thuốc
độc, còn để lại một ít nhưng nghĩ không có thuốc độc nào còn lại,
y sĩ nói như sau : "Này Hiền giả, mũi tên của Bạn đã được rút ra
thuốc độc đã được trừ khử, không còn dư tàn, và không còn gì nguy
hiểm nữa cho Bạn, nhưng Bạn phải chỉ ăn các đồ ăn thích hợp, và
hãy gìn giữ, nếu ăn đồ ăn không thích hợp, vết thương của Bạn sẽ
làm mủ lại, và thường thường phải cho rửa vết thương, thường thường
phải xức thuốc cho miệng vết thương. Trong khi thường thường cho rửa vết
thương, thường thường xức thuốc cho miệng vết thương, chớ có để máu
cũ đóng khô trên miệng vết thương và hãy cẩn thận khi đi ra giữa gió
và nắng; hãy cẩn thận khi đi ra giữa gió và nắng, nếu không, bụi và
nhớp có thể nhiễu hại miệng vết thương. Và này Bạn, nếu Bạn chăm sóc
vết thương, thời vết thương sẽ được lành". Người ấy suy nghĩ
như sau: "Mũi tên đã được rút khỏi (thân) ta, nọc độc đã được
trừ khử, không còn dư tàn, và ta đã thoát khỏi nguy hiểm". Và người
ấy ăn những đồ ăn không thích hợp. Vì người ấy ăn những đồ ăn không
thích hợp, nên vết thương làm mủ lại. Và thường thường người ấy
không rửa vết thương, thường thường không xức thuốc miệng vết thương.
Vì người ấy thường thường không rửa vết thương, vì người ấy thường
thường không xức thuốc miệng vết thương, nên máu cũ đông lại trên miệng
vết thương. Và người ấy thường hay đi giữa gió và nắng. Do người
ấy thường hay đi giữa gió và nắng, bụi và nhớp nhiễu hại miệng vết
thương; và vì người ấy không chăm sóc vết thương nên vết thương không
được lành. Vì người ấy làm chính những việc không thích hợp, và do
thuốc độc được trừ khử nhưng còn dư tàn, do cả hai điều ấy nên miệng
vết thương có thể lở to hơn trước. Do vết thương lở to, người ấy có
thể đi đến chết hay đau khổ gần như chết.
Cũng vậy, này Sunakkhatta, sự kiện
này xảy ra, khi ở đây một số Tỷ-kheo nghĩ như sau : "Tham ái được
bậc Sa-môn gọi là mũi tên, thuốc độc vô minh làm não hại (con người)
với dục, tham, sân. Mũi tên tham ái đã được ta đoạn diệt; thuốc độc
vô minh đã được trừ khử. Ta thiên nặng về chánh Niết-bàn". Vị
ấy có thể tự hào với mục đích hiện tại. Vị ấy có thể truy cầu
những gì không thích hợp với khuynh hướng chánh Niết-bàn. Mắt có thể
truy cầu sắc không thích hợp, tai có thể truy cầu tiếng không thích hợp,
mũi có thể truy cầu hương không thích hợp, lưỡi có thể truy cầu vị
không thích hợp, thân có thể truy cầu xúc không thích hợp, ý có thể
truy cầu pháp không thích hợp. Khi mắt truy cầu sắc không thích hợp, tai
truy cầu tiếng không thích hợp, mũi truy cầu hương không thích hợp, lưỡi
truy cầu vị không thích hợp, thân truy cầu xúc không thích hợp, ý truy cầu
pháp không thích hợp. thời tham dục nhiễu loạn tâm vị ấy. Vị ấy do
tham dục nhiễu loạn tâm, đi đến chết hay đi đến khổ gần như chết.
Như vậy, này Sunakkhatta, là chết trong giới luật của bậc Thánh, khi vị
ấy từ bỏ tu tập, trở về hoàn tục, và như vậy, này Sunakkhatta, là khổ
như chết, khi vị ấy phạm một ô uế tội nào.
Này Sunakkhatta, sự tình này xảy
ra, khi ở đây một số Tỷ-kheo suy nghĩ như sau: "Tham ái được bậc
Sa-môn gọi là mũi tên, thuốc độc vô minh làm não hại (con người) với
dục, tham, sân. Mũi tên tham ái đã được ta đoạn diệt, thuốc độc vô
minh đã được trừ khử. Ta thiên nặng về chánh Niết-bàn". Chính vì
thiên nặng về chánh Niết-bàn, vị ấy không truy cầu những gì không
thích hợp với (khuynh hướng) thiên nặng về Niết-bàn, mắt không truy cầu
sắc không thích hợp, tai không truy cầu tiếng không thích hợp, mũi không
truy cầu hương không thích hợp, lưỡi không truy cầu vị không thích hợp,
thân không truy cầu xúc không thích hợp, ý không truy cầu pháp không thích
hợp. Vì mắt vị ấy không truy cầu sắc không thích hợp, vì tai không
truy cầu tiếng không thích hợp, vì mũi không truy cầu hương không thích hợp,
vì lưỡi không truy cầu vị không thích hợp, vì thân không truy cầu xúc
không thích hợp, vì ý không truy cầu pháp không thích hợp, nên tham dục
không nhiễu loạn tâm, vì tham dục không nhiễu loạn tâm; nên vị ấy
không đi đến chết hay đi đến khổ gần như chết. Ví như, này
Sunakkhatta, một người bị tên bắn, và mũi tên bị tẩm thuốc độc rất
dày. Bạn bè thân hữu, bà con huyết thống người ấy cho mời một y sĩ
giải phẫu. Vị y sĩ giải phẫu ấy có thể cắt xung quanh miệng vết thương
với con dao; sau khi cắt xung quanh miệng vết thương với con dao, vị y sĩ
giải phẫu có thể dò tìm tên với một vật dụng dò tìm. Sau khi dò tìm
mũi tên với một vật dụng dò tìm, y sĩ có thể rút mũi tên ra... Y sĩ có
thể trừ khử hết thuốc độc không còn để dư lại và biết rằng
không còn để dư lại. Vị ấy nói như sau: "Này Bạn, mũi tên của Bạn
đã được rút ra, thuốc độc đã được trừ khử, không có dư tàn, nhưng
vẫn còn nguy hiểm cho Bạn. Và Bạn hãy ăn những đồ ăn thích hợp, chớ
ăn những đồ ăn không thích hợp khiến vết thương có thể làm mủ; và
thường thường hãy rửa vết thương, thường thường hãy xức thuốc miệng
vết thương, thường thường rửa vết thương, thường thường xức thuốc
miệng vết thương, chớ để máu cũ đóng khô lại trên miệng vết thương.
Và chớ có đi ra giữa gió và nắng; đi ra giữa gió và nắng, chớ để bụi
và nhớp làm nhiễu hại miệng vết thương, hãy sống gìn giữ vết thương,
này Bạn, và vết thương sẽ lành". Người ấy suy nghĩ như sau:
"Mũi tên đã được rút ra khỏi ta, thuốc độc đã được trừ khử,
không có dư tàn. Và ta chưa thoát khỏi nguy hiểm". Và vị ấy có thể
chỉ ăn các đồ ăn thích hợp. Do chỉ ăn các đồ ăn thích hợp miệng vết
thương có thể không làm mủ. Và thường thường vị ấy có thể rửa vết
thương, thường thường có thể xức thuốc miệng vết thương. Do thường
thường rửa vết thương, do thường thường xức thuốc miệng vết
thương, máu cũ không có thể đóng khô lại trên miệng vết thương. Người
ấy không sốt sắng đi giữa gió và nắng. Do người ấy không sốt sắng
đi giữa gió và nắng, bụi và nhớp có thể không nhiễu hại miệng vết
thương và người ấy sống gìn giữ vết thương, và vết thương được lành.
Vì người ấy chỉ làm những điều thích hợp và vì thuốc độc được
trừ khử không còn dư tàn, do hai (nhân duyên ấy) vết thương được khép
kín lại. Khi vết thương được da che kín lại, người ấy không đi đến
chết hay không đi đến khổ gần như chết.
Cũng vậy, này Sunakkhatta, sự kiện
này xảy ra, khi ở đây một số Tỷ-kheo suy nghĩ như sau: "Tham ái được
bậc Sa-môn gọi là mũi tên, thuốc độc vô minh làm não hại (con người)
với dục, tham, sân. Mũi tên tham ái đã được ta đoạn diệt.... (như trên)...
không có truy cầu những gì không thích hợp. Mắt không truy cầu sắc
không thích hợp, tai không truy cầu tiếng không thích hợp, mũi không truy cầu
hương không thích hợp, lưỡi không truy cầu vị không thích hợp, thân
không truy cầu xúc không thích hợp, ý không truy cầu pháp không thích hợp.
Do mắt người ấy không truy cầu sắc không thích hợp, do tai không truy cầu
tiếng không thích hợp, do mũi không truy cầu hương không thích hợp, do lưỡi
không truy cầu vị không thích hợp, do thân không truy cầu xúc không thích
hợp, do ý không truy cầu pháp không thích hợp, tham dục có thể không nhiễu
hại tâm. Do tâm không bị tham dục nhiễu hại, nên người ấy không đi đến
chết, hay không đi đến khổ gần như chết.
Này Sunakkhatta, Ta nói ví dụ này với
mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa. Nghĩa ở đây như sau: Vết thương, này
Sunakkhatta, là đồng nghĩa với sáu xúc xứ (phassayatana); thuốc độc, này
Sunakkhatta, là đồng nghĩa với vô minh; mũi tên, này Sunakkhatta, là đồng
nghĩa với ái; vật dụng dò tìm, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với niệm;
con dao, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với Thánh trí tuệ. Vị y sĩ giải
phẫu, này Sunakkhatta, là đồng nghĩa với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác. Thật vậy, này Sunakkhatta, Tỷ-kheo tự mình phòng hộ đối với sáu
xúc xứ, nghĩ rằng: "Sanh y (Upadhi) là căn bản của khổ", sau khi
biết như vậy, vị ấy trở thành vô sanh y, giải thoát nhờ đoạn diệt
sanh y. Vị ấy còn chú thân của mình trên sanh y hay để tâm đến sanh y, sự
tình như vậy không xảy ra. Ví như, này Sunakkhatta, một chén uống nước bằng
đồng, đẹp đẽ và hương thơm, và chén ấy lại tẩm thuốc độc. Rồi
một người đến, muốn sống, muốn không chết, muốn lạc, yếm ly khổ.
Này Sunakkhatta, Ông nghĩ thế nào ? Người ấy có uống chén bằng đồng này
không, nếu người ấy biết: "Sau khi tôi uống từ đây, tôi sẽ đi đến
chết hoặc đi đến gần như chết ?"
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này Sunakkhatta, Tỷ-kheo
ấy chắc chắn phòng hộ đối với sáu xúc xứ. "Sanh y là căn bản của
đau khổ", sau khi biết vậy, vị ấy trở thành vô sanh y, giải thoát
nhờ đoạn diệt sanh y. Còn chú thân của vị ấy trên sanh y, để tâm đến
sanh y, sự tình như vậy không xảy ra. Ví như, này Sunakkhatta, một con rắn
độc hết sức độc hại, và có một người đến, muốn sống, muốn không
chết, muốn lạc, yếm ly khổ. Này Sunakkhatta, Ông nghĩ thế nào ? Người
ấy có đưa tay hay gót chân cho con rắn độc hại này không, nếu người
ấy biết: "Nếu ta bị con rắn này cắn, ta sẽ đi đến chết hay khổ
gần như chết ?"
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này Sunakkhatta, Tỷ-kheo
ấy chắc chắn phòng hộ sáu xúc xứ. "Sanh y là căn bản đau khổ",
sau khi biết vậy, vị ấy trở thành vô sanh y, giải thoát nhờ đoạn diệt
sanh y. Còn chú thân của vị ấy trên sanh y, hay để tâm đến sanh y, sự tình
như vậy không xảy ra.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Sunakkhatta Licchaviputta hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- 106. KINH
BẤT ĐỘNG LỢI ÍCH [^]
- (Ananjasappayasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú giữa dân
chúng Kuru (Câu-lâu). Kammassadhamma (Kiềm-ma-sắt-đàm) là thị trấn của
dân chúng Kuru. Tại đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo".
– "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau :
– Này các Tỷ-kheo, các dục là
vô thường, trống rỗng, giả dối, thuộc ngu si tánh. Này các Tỷ-kheo, đây
là lời chào xáo của kẻ ngu xây dựng trên giả dối. Các dục hiện tại,
và các dục tương lai, các dục tưởng hiện tại và các dục tưởng
tương lai, cả hai đều thuộc lãnh vực của ma, là cảnh giới của ma, là
chỗ dinh dưỡng của ma, là chỗ ăn uống của ma.
Ở đây, các ác bất thiện ý này
dẫn đến tham dục, sân hận, khích động, và chính những pháp ấy tác
thành chướng ngại ở đây cho Thánh đệ tử học tập. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Các dục hiện tại và
các dục tương lai… cho Thánh đệ tử học tập. Vậy ta hãy an trú với
tâm quảng đại, đại hành, sau khi chiến thắng thế giới, sau khi xác định
vị trí của ý. Khi ta an trú với tâm quảng đại, đại hành chiến thắng
thế giới, xác định vị trí của ý, các ác bất thiện ý : tham dục,
sân hận, khích động sẽ không khởi lên; với các pháp ấy được đoạn
trừ, tâm của ta không trở thành hạn hẹp, trái lại thành vô lượng, khéo
tu tập". Trong khi ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm
trở thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy
thành tựu bất động ngay hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi
thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến (samvattanikam
vinnanam) có thể tùy theo đây đạt đến Bất động. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
được gọi là đệ nhất hành đạo về lợi ích Bất động".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại và những dục tương
lai, những dục tưởng hiện tại, và những dục tưởng tương lai, phàm bất
cứ sắc pháp gì, là bốn đại chủng và sắc do bốn đại tạo thành".
Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trở
thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu
Bất động ngay trong hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại
mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây
đạt đến Bất động. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là đệ nhị
hành đạo về lợi ích Bất động.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại và những dục tương
lai, những dục tưởng hiện tại và những dục tưởng tương lai, những sắc
pháp hiện tại và những sắc pháp tương lai, những sắc tưởng hiện tại
và những sắc tưởng tương lai, cả hai đều vô thường. Cái gì vô thường
thời không đáng để được hoan hỷ, không đáng để được hoan nghênh,
không đáng để được chấp trước". Trong khi vị ấy hành trì như vậy,
an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong giới xứ (của
nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Bất động ngay trong hiện tại
hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy
ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Bất động. Như
vậy, này các Tỷ-kheo được gọi là đệ tam hành đạo về lợi ích Bất
động.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại... và những sắc
tưởng tương lai, và những bất động tưởng, tất cả tưởng, chỗ nào
các tưởng ấy được đoạn diệt không có dư tàn, như vậy là tịch tịnh,
như vậy là thù diệu, tức là vô sở hữu". Trong khi vị ấy hành trì
như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong giới
xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Vô sở hữu xứ ngay
trong hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự
tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Vô
sở hữu xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo được gọi là đệ nhất hành đạo
về lợi ích Vô sở hữu xứ.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử đi đến khu rừng hay đi đến dưới gốc cây và suy nghĩ
như sau: "Trống không là tự ngã hay ngã này sở hữu". Trong khi vị
ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh
trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Vô sở hữu
xứ ngay trong hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng
chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt
đến Vô sở hữu xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là đệ nhị
hành đạo về lợi ích Vô sở hữu xứ.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Ta không có bất cứ chỗ nào, cho ai
và trong hình thức nào, và sở thuộc của ta không có bất cứ chỗ nào,
(cho ai) và trong hình thức nào". Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an
trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong trú xứ (của
nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Vô sở hữu xứ trong hiện tại
hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy
ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Vô sở hữu xứ.
Như vậy, này các Tỷ-kheo được gọi là đệ tam hành đạo về lợi ích
Vô sở hữu xứ.
Và lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại.. và những sắc
tưởng và những Bất động tưởng, và những Vô sở hữu xứ tướng, tất
cả các tưởng, chỗ nào các tưởng ấy được đoạn diệt không có dư tàn,
như vậy là tịch tịnh, như vậy là thù diệu, tức là Phi tưởng phi phi
tưởng xứ". Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như
vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong trú xứ (của nó) . Với tâm an tịnh
vị ấy có thể thành tựu Phi tưởng phi phi tưởng xứ ngay trong hiện tại,
hoặc thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy
ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Phi tưởng phi phi
tưởng xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là hành đạo về lợi
ích Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Khi được nói như vậy, Tôn giả
Ananda bạch Thế Tôn :
– Ở đây, bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo
hành trì như vậy và suy nghĩ : "Nếu (trước) không có như vậy, thời
có thể không là của ta; nếu (nay) không có như vậy thời có thể sẽ
không là của ta. Ta đoạn trừ những gì hiện có và những gì đã
có". Và như vậy vị ấy được xả. Bạch Thế Tôn, môt vị Tỷ-kheo
như vậy có chứng được cứu cánh Niết-bàn không ?
– Ở đây, này Ananda, một số Tỷ-kheo
có thể chứng được cứu cánh Niết-bàn, và ở đây, một số Tỷ-kheo
có thể không chứng được cứu cánh Niết-bàn.
– Do nhân gì, do duyên gì, bạch Thế
Tôn, ở đây, một số Tỷ-kheo có thể chứng được cứu cánh Niết-bàn,
và ở đây, một số Tỷ-kheo có thể không chứng cứu cánh Niết-bàn ?
– Ở đây, này Ananda, một Tỷ-kheo
hành trì như vậy và suy nghĩ: "Nếu (trước) không có như vậy thời có
thể không là của ta. Nếu (nay) không có như vậy, thời có thể sẽ không
là của ta. Ta đoạn trừ những gì hiện có và những gì đã có". Và
như vậy vị ấy được xả. Vị ấy hoan hỷ trong xả ấy, hoan nghênh, chấp
trước xả ấy. Do vị ấy hoan hỷ trong xả ấy, hoan nghênh, chấp trước
xả ấy, thức lệ thuộc xả ấy và thủ trước xả ấy. Có thủ trước,
này Ananda, vị Tỷ-kheo không chứng cứu cánh Niết-bàn.
– Bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo ấy
thủ trước là thủ trước chỗ nào ?
– Này Ananda, Phi tưởng phi phi tưởng
xứ.
– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo ấy thủ
trước, thủ trước như vậy là thủ trước tối thượng ?
– Này Ananda, Vị Tỷ-kheo ấy thủ
trước, thủ trước như vậy là thủ trước tối thượng. Này Ananda, đây
là thủ trước tối thượng, tức là Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ở đây,
này Ananda, vị Tỷ-kheo hành trì như vậy và suy nghĩ: "Nếu (trước) không
có như vậy thời có thể không là của ta. Nếu (nay) không có như vậy, thời
có thể không là của ta. Ta đoạn trừ những gì hiện có và những gì đã
có". Như vậy, vị ấy được xả, vị ấy không hoan hỷ trong xả ấy,
không hoan nghênh, không chấp trước xả ấy. Do vị ấy không hoan hỷ trong
xả ấy, không hoan nghênh, không thủ trước xả ấy, thức không lệ thuộc
xả ấy và không thủ trước xả ấy. Không thủ trước, này Ananda, vị Tỷ-kheo
chứng cứu cánh Niết-bàn.
– Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn ! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn ! Chính mười y cứ sự này sự kia,
bạch Thế Tôn, sự vượt thoát dòng nước mạnh đã được Thế Tôn nói
lên. Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là Thánh giải thoát ?
– Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại và những dục tương
lai, những dục tưởng hiện tại và những dục tưởng tương lai, những sắc
pháp hiện tại và những sắc pháp tương lai, những Bất động tưởng, những
Vô sở hữu xứ tưởng, và những Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng, cái
gì thuộc tự thân, là tự thân. Đây là bất tử tức là tâm giải thoát
không thủ trước". Này Ananda, đây là đạo lộ về lợi ích Bất động
được Ta thuyết giảng, đạo lộ về lợi ích Vô sở hữu xứ được Ta
thuyết giảng, đạo lộ về lợi ích Phi tưởng phi phi tưởng xứ được
Ta thuyết giảng, là sự vượt qua dòng nước mạnh do y cứ sự này sự
kia được Ta thuyết giảng, Thánh giải thoát được Ta thuyết giảng. Những
gì, Này Ananda, vị Đạo sư cần phải làm, vì lòng từ mẫn mưu tìm hạnh
phúc cho các đệ tử, những điều ấy đã được Ta làm, vì lòng từ mẫn
của Ta đối với Ông. Này Ananda, đây là những gốc cây, đây là những
khoảng trống. Hãy tu Thiền, này Ananda, chớ có phóng dật, chớ có hối hận
về sau. Đây là lời dạy của Ta cho Ông.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn
giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- 107. KINH
GANAKA MOGGALLANA [^]
- (Ganaka Moggallanasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi,
Pubbarama, nơi lâu đài của Migaramatu (Đông Viên Lộc Mẫu Giảng đường) .
Rồi Bà-la-môn Gananka Moggallana đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến nói lên
những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn Ganaka Moggallana bạch Thế Tôn :
– Ví như, thưa Tôn giả Gotama, tại
lâu đài Migaramatu này, có thể thấy được một học tập tuần tự, một
công trình tuần tự, một đạo lộ tuần tự, tức là những tầng cấp của
lầu thượng cuối cùng; thưa Tôn giả Gotama, cũng vậy, đối với những vị
Bà-la-môn này, được thấy một học tập tuần tự, một công trình tuần
tự, một đạo lộ tuần tự, tức là sự học hỏi (các tập Veda). Thưa Tôn
giả Gotama, cũng vậy, đối với những vị bắn cung này, được thấy một
học tập tuần tự, một công trình tuần tự, một đạo lộ tuần tự, tức
là nghệ thuật bắn cung. Cũng vậy, Thưa Tôn giả Gotama, đối với chúng
con là những người toán số, sống nhờ nghề toán số, cũng được thấy
một học tập tuần tự, một công trình tuần tự, một đạo lộ tuần tự,
tức là toán số. Thưa Tôn giả Gotama, vì rằng khi có được người đệ
tử, trước hết chúng con bắt người ấy đếm như sau: "Một, một lần,
hai, hai lần, ba, ba lần, bốn, bốn lần, năm, năm lần, sáu, sáu lần, bảy,
bảy lần, tám, tám lần, chín, chín lần, mười, mười lần". Và thưa
Tôn giả Gotama, chúng con bắt đếm tới một trăm. Có thể trình bày chăng,
thưa Tôn giả Gotama, trong pháp và luật này, cũng có một tuần tự học tập,
một tuần tự công trình, một tuần tự đạo lộ như vậy ?
– Có thể trình bày, này
Bà-la-môn, trong pháp và luật này, có một tuần tự học tập, có một tuần
tự công trình, có một tuần tự đạo lộ. Ví như, này Bà-la-môn, một người
huấn luyện ngựa thiện xảo, sau khi được một con ngựa hiền thiện,
trước tiên luyện tập cho nó quen mang dây cương, rồi tập luyện cho nó
quen các hạnh khác; cũng vậy, này Bà-la-môn, Như Lai khi được một người
đáng được điều phục, trước tiên huấn luyện người ấy như sau:
"Hãy đến Tỷ-kheo, hãy giữ giới hạnh, hãy sống chế ngự với sự
chế ngự của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm
trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và học tập các học giới". Này
Bà-la-môn, khi vị Tỷ-kheo giữ giới hạnh, chế ngự với sự chế ngự của
giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi
nhỏ nhặt, thọ trì và học tập các học giới, Như Lai mới huấn luyện
vị ấy thêm như sau: "Hãy đến Tỷ-kheo, hãy hộ trì các căn, khi mắt
thấy sắc chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì, vì nhãn căn không được chế ngự khiến tham ái ưu
bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị Tỷ-kheo tự chế ngự nguyên
nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng....
mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị.. thân cảm xúc... ý nhận thức các
pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những
nguyên nhân gì, vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các
pháp ác bất thiện khởi lên, Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì
ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn". Này Bà-la-môn, sau khi Tỷ-kheo hộ
trì các căn rồi, Như Lai mới huấn luyện vị ấy thêm như sau : "Hãy
đến Tỷ-kheo, hãy tiết độ trong ăn uống, chơn chánh giác sát thọ dụng
món ăn, không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để
trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, chỉ để thân này được
duy trì, được bảo dưỡng, khỏi bị gia hại, để chấp trì Phạm hạnh,
nghĩ rằng: "Như vậy ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi
lên các cảm thọ mới; và ta sẽ không phạm lỗi lầm, sống được an ổn".
Này Bà-la-môn, sau khi Tỷ-kheo tiết độ trong ăn uống rồi, Như Lai mới huấn
luyện vị ấy thêm như sau: "Hãy đến Tỷ-kheo, hãy chú tâm cảnh giác
! Ban ngày trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi
các chướng ngại pháp; ban đêm trong canh đầu, trong khi đi kinh hành và
trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp; ban đêm
trong canh giữa, hãy nằm xuống phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử,
chân gác trên chân với nhau, chánh niệm tỉnh giác, hướng niệm đến lúc
ngồi dậy lại. Ban đêm trong canh cuối, khi đã thức dậy, trong khi đi kinh
hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp".
Này, Bà-la-môn, sau khi vị Tỷ-kheo chú tâm tỉnh giác, Như Lai mới huấn
luyện vị ấy thêm nữa như sau: "Hãy đến Tỷ-kheo, hãy thành tựu
chánh niệm tỉnh giác, khi đi tới khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng,
khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi
mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt,
đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng,
ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác". Này Bà-la-môn, sau
khi chánh niệm tỉnh giác rồi, Như Lai mới huấn luyện vị ấy thêm như
sau: "Hãy đến Tỷ-kheo, hãy lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như
rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống
rơm". Vị ấy lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như rừng, gốc cây,
khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất
thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói
trên và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống
với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị
ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng
hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị
ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh
sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên; từ bỏ
trạo cử hối tiếc, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng gột
rửa tâm hết trạo cử hối tiếc; từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát
khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối
với các thiện pháp.
Khi đoạn trừ năm triền cái ấy,
những pháp làm ô nhiễm tâm, làm trí tuệ yếu ớt, vị ấy ly dục, ly bất
thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly
dục sanh, với tầm với tứ. Vị ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền
thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội
tỉnh nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự
lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền
thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và
trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này
Bà-la-môn, đối với những Tỷ-kheo nào là bậc hữu học, tâm chưa thành
tựu, đang sống cần cầu sự vô thượng an tịnh các triền ách, đó là sự
giảng dạy của Ta như vậy đối với những vị ấy. Còn đối với những
vị Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn, các việc
nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã
tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát, những pháp ấy đưa đến
sự hiện tại lạc trú và chánh niệm tỉnh giác.
Khi được nói vậy, Bà-la-môn
Ganaka Moggallana bạch Thế Tôn:
– Các đệ tử của Sa-môn Gotama,
khi được Sa-môn Gotama khuyến giáo như vậy, giảng dạy như vậy, có phải
tất cả đều chứng được cứu cánh đích Niết-bàn hay chỉ có một số
chứng được ?
– Này Bà-la-môn, một số đệ tử
của Ta, khi được khuyến giáo như vậy, giảng dạy như vậy, chứng được
cứu cánh đích Niết-bàn, một số không chứng được.
– Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì,
do duyên gì trong khi có mặt Niết-bàn, trong khi có mặt con đường đưa đến
Niết-bàn, trong khi có mặt Tôn giả Gotama là bậc chỉ đường, tuy vậy các
đệ tử Tôn giả Gotama, được Tôn giả Gotama khuyến giáo như vậy, giảng
dạy như vậy, một số chứng được cứu cánh đích Niết-bàn, một số
không chứng được ?
– Này Bà-la-môn, ở đây Ta sẽ hỏi
Ông. Nếu Ông kham nhẫn, hãy trả lời cho Ta. Này Bà-la-môn, Ông nghĩ thế
nào ? Ông có giỏi về con đường đi đến Rajagaha (Vương Xá) ?
– Thưa Tôn giả, con có giỏi về
con đường đi đến Rajagaha.
– Này Bà-la-môn, Ông nghĩ thế nào
? Ở đây, có một người, muốn đi đến Rajagaha, người này đến Ông và
nói như sau : "Thưa Tôn giả, tôi muốn đi đến Rajagaha. Hãy chỉ cho
tôi con đường đi đến Rajagaha". Ông nói với người ấy như sau:
"Được, này Bạn, đây là con đường đưa đến Rajagaha. Hãy đi theo
con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi trong một thời gian, Bạn sẽ
thấy một làng tên như thế này. Hãy đi theo trong một thời gian. Sau khi
đi trong một thời gian, Bạn sẽ thấy một thị trấn tên như thế này.
Hãy đi theo trong một thời gian. Sau khi đi trong một thời gian, Bạn sẽ thấy
Rajagaha với những khu vườn mỹ diệu, với những khu rừng mỹ diệu, với
những vùng đất mỹ diệu, với những hồ ao mỹ diệu". Dầu cho người
ấy được khuyến giáo như vậy, được giảng dạy như vậy, nhưng lại lấy
con đường sai lạc, đi về hướng Tây. Rồi một người thứ hai đến, muốn
đi đến Rajagaha. Người này đến Ông và hỏi như sau : "Thưa Tôn giả,
tôi muốn đi đến Rajagaha, mong Tôn giả chỉ con đường ấy cho tôi".
Rồi Ông nói với người ấy như sau : "Được, này Bạn, đây là đường
đi đến Rajagaha. Hãy đi theo con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi
một thời gian, Bạn sẽ thấy một làng có tên như thế này. Hãy đi theo
con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi một thời gian, Bạn sẽ thấy
một thị trấn có tên như thế này. Hãy đi theo con đường ấy trong một
thời gian. Sau khi đi theo con đường ấy trong một thời gian, Bạn sẽ thấy
Rajagaha với những khu vườn mỹ diệu, với những khu rừng mỹ diệu, với
những vùng đất mỹ diệu, với những ao hồ mỹ diệu". Người ấy
được Ông khuyến giáo như vậy, giảng như vậy, đi đến Rajagaha một cách
an toàn.
– Này Bà-la-môn, do nhân gì, do
duyên gì, trong khi có mặt Rajagaha, trong khi có mặt con đường đưa đến
Rajagaha, trong khi có mặt Ông là người chỉ đường, dầu cho Ông có khuyến
giáo như vậy, giảng dạy như vậy, một người lấy con đường sai lạc,
đi về hướng Tây, còn một người có thể đi đến Rajagaha một cách an
toàn ?
– Thưa Tôn giả Gotama, ở đây,
con làm gì được ? Con chỉ là người chỉ đường, thưa Tôn giả Gotama.
– Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong
khi có mặt Niết-bàn, trong khi có mặt con đường đi đến Niết-bàn, và
trong khi có mặt Ta là bậc chỉ đường. Nhưng các đệ tử của Ta, được
Ta khuyến giáo như vậy, giảng dạy như vậy, một số chứng được cứu
cánh đích Niết-bàn, một số không chứng được. Ở đây, này Bà-la-môn,
Ta làm gì được ? Như Lai chỉ là người chỉ đường.
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Ganaka
Moggalana bạch Thế Tôn :
– Thưa Tôn giả Gotama, đối với
những người không phải vì lòng tin, chỉ vì sinh kế, xuất gia từ bỏ
gia đình, sống không gia đình, những người xảo trá, lường gạt, hư ngụy,
mất thăng bằng, cao mạn, dao động, nói phô tạp nhạp, không hộ trì các
căn, ăn uống không tiết độ, không chú tâm cảnh giác, thờ ơ với Sa-môn
hạnh, không tôn kính học tập, sống quá đầy đủ, uể oải, đi đầu
trong thối thất, từ bỏ gánh nặng viễn ly, biếng nhác, tinh cần thấp
kém, thất niệm, không tỉnh giác, không định tâm, tâm tán loạn, liệt tuệ,
câm ngọng; Tôn giả Gotama không thể sống với những người như vậy. Còn
những Thiện gia nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình, không xảo trá, không lường gạt, không hư ngụy, không mất thăng
bằng, không cao mạn, không dao động, không nói phô tạp nhạp, hộ trì
các căn, ăn uống có tiết độ, chú tâm tỉnh giác, không thờ ơ với Sa-môn
hạnh, tôn kính học tập, sống không quá đầy đủ, không uể oải, từ bỏ
thối thất, đi đầu trong viễn ly, tinh cần, tinh tấn, chánh niệm, an trú,
tỉnh giác, định tĩnh, nhứt tâm, có trí tuệ, không câm ngọng; Tôn giả
Gotama sống (hòa hợp) với những vị ấy. Ví như Tôn giả Gotama, trong các
loại căn hương, hắc chiên đàn hương được gọi là tối thượng; trong
các loại lõi cây hương, xích chiên đàn hương được gọi là tối thượng;
trong các loại hoa hương, vũ quý hương (jasmine) được gọi là tối thượng.
Cũng vậy là lời khuyến giáo của Tôn giả Gotama được xem là cao nhất
trong những lời khuyến giáo hiện nay. Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
Gotama ! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama ! Như người dựng đứng lại
những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường
cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những
ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả
Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con xin quy y Tôn giả
Gotama, quy y Pháp và chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ
tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
- 108. KINH
GOPAKA MOGGAKAMMA [^]
- (Gopakamoggallanasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Ananda trú ở
Rajagaha (Vương Xá) tại Veluvana (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc,
khi Thế Tôn thị tịch không bao lâu. Lúc bấy giờ, Vua Ajatasattu con bà
Videhi nước Magadha (Ma-kiệt-đà), vì nghi ngờ Pajjota (Đăng Quang Vương), nên
cho xây kiên cố thành Rajagaha. Tôn giả Ananda buổi sáng đắp y, cầm y bát
đi vào Rajagaha để khất thực. Rồi Tôn giả Ananda suy nghĩ: "Nay còn
quá sớm để vào Rajagaha khất thực. Vậy ta hãy đi đến Bà-la-môn Gopaka
Moggallana và chỗ làm việc của vị này". Rồi Tôn giả Ananda đi đến
Bà-la-môn Gopaka Moggallana và chỗ làm việc của vị này. Bà-la-môn Gopaka
Moggallana thấy Tôn giả Ananda từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với
Tôn giả Ananda :
– Hãy đến, Tôn giả Ananda ! Thiện
lai, Tôn giả Ananda ! Đã lâu rồi Tôn giả Ananda mới tạo được cơ hội
này, tức là đến đây. Tôn giả Ananda hãy ngồi xuống, đây là chỗ ngồi
đã soạn sẵn.
Tôn giả Ananda ngồi xuống trên chỗ
ngồi đã soạn sẵn. Còn Bà-la-môn Gopaka Moggallana chọn một chỗ ngồi thấp
khác rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Gopaka
Moggallana thưa với Tôn giả Ananda :
– Có thể chăng, một Tỷ-kheo thành
tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ tất cả các pháp mà Tôn giả
Gotama bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã thành tựu ?
– Không thể có một Tỷ-kheo, này
Bà-la-môn, thành tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ tất cả các
pháp mà Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã thành tựu. Này
Bà-la-môn, Thế Tôn là bậc làm khởi dậy con đường trước đây chưa
được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được
biết, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói. là bậc hiểu
đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo. Và nay các đệ tử là những vị
sống hành đạo và tùy hành, và sẽ thành tựu (những pháp ấy) về sau.
Nhưng cuộc nói chuyện giữa Tôn giả
Ananda và Bà-la-môn Gopaka Moggallana bị gián đoạn. Bà-la-môn Vassaka ra bậc
đại thần nước Magadha đi thị sát các công sự Rajagaha (Vương Xá), đến
công trường của Bà-la-môn Gopaka Moggallana, đến chỗ Tôn giả Ananda; sau
khi đến, nói lên với Tôn giả Ananda những lời chào đón hỏi thăm; sau
khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Vassaka ra, bậc đại thần nước Magadha
thưa với Tôn giả Ananda :
– Ở đây, thưa Tôn giả Ananda,
Tôn giả đang ngồi đàm luận câu chuyện gì ? Và câu chuyện gì của Tôn
giả bị gián đoạn ?
– Này Bà-la-môn, ở đây,
Bà-la-môn Gopaka Moggallana nói với tôi như sau : "Có thể có chăng, Tôn
giả Ananda, một Tỷ-kheo thành tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ
tất cả các pháp mà Tôn giả Gotama, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã
thành tựu ?" Khi được nói vậy, này Bà-la-môn, tôi nói với
Bà-la-môn Gopaka Moggallana như sau: "Này Bà-la-môn, không thể có một vị
Tỷ-kheo nào thành tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ tất cả
các pháp mà Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã thành tựu. Này
Bà-la-môn, Thế Tôn là bậc làm khởi dậy con đường trước đây chưa
được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được
biết, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói, là bậc hiểu
đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo. Và các đệ tử Ngài là những
vị sống hành đạo và tùy hành đạo và sẽ thành tựu (những pháp ấy)
về sau".
– Thưa Tôn giả Ananda, có một vị
Tỷ-kheo nào được Tôn giả Gotama sắp đặt : "Vị này, sau khi Ta diệt
độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông, và các Ông nay sẽ y chỉ vị
này".
– Này Bà-la-môn, không có một vị
Tỷ-kheo nào được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán Chánh
Đẳng Giác sắp đặt : "Vị này, sau khi Ta diệt độ, sẽ là chỗ nương
tựa cho các Ông, và các Ông sẽ y chỉ vị này".
– Thưa Tôn giả Ananda, có một vị
Tỷ-kheo nào được chúng Tăng thỏa thuận và một số đông các vị Tỷ-kheo
Trưởng lão sắp đặt : "Vị này, sau khi Thế Tôn diệt độ sẽ là chỗ
nương tựa cho chúng tôi, và các Ông nay sẽ y chỉ vị này ?"
– Không có một vị Tỷ-kheo nào,
này Bà-la-môn, được chúng Tăng thỏa thuận và được số đông các vị
Tỷ-kheo Trưởng lão sắp đặt: "Vị này, sau khi Thế Tôn diệt độ sẽ
là chỗ nương tựa cho chúng tôi, và chúng tôi nay sẽ y chỉ vị này".
– Và như vậy là không có chỗ nương
tựa, thưa Tôn giả Ananda, như vậy do nhân gì (Quý vị) có thể hòa hợp ?
– Này Bà-la-môn, chúng tôi không
phải không có chỗ nương tựa. Này Bà-la-môn, chúng tôi có chỗ nương tựa,
và Pháp là chỗ nương tựa của chúng tôi.
– Khi được hỏi : "Có một vị
Tỷ-kheo nào được Tôn giả Gotama sắp đặt : "Vị này, sau khi Ta diệt
độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông, và các Ông nay sẽ y chỉ vị
này ?"", Tôn giả trả lời : "Này Bà-la-môn, không có một vị
Tỷ-kheo nào được Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác sắp đặt: "Vị này, sau khi Ta diệt độ, sẽ là chỗ nương
tựa cho các Ông", và chúng tôi nay sẽ y chỉ vị này". Khi được
hỏi : "Có một vị Tỷ-kheo nào được chúng Tăng thỏa thuận và một
số đông các vị Tỷ-kheo Trưởng lão sắp đặt : "Vị này, sau khi Thế
Tôn diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho chúng tôi, các Ông nay sẽ y chỉ
vị này". Và Tôn giả trả lời : "Không có một vị Tỷ-kheo nào,
này Bà-la-môn được chúng Tăng thỏa thuận và được số đông các vị Tỷ-kheo
Trưởng lão sắp đặt : "Vị này, sau khi Thế Tôn diệt độ sẽ là chỗ
nương tựa cho chúng tôi, và chúng tôi nay sẽ y chỉ vị này". Khi được
hỏi : "Và như vậy là không có chỗ nương tựa, thưa Tôn giả Ananda,
như vậy do nhân gì, (Quý vị) có thể hòa hợp ?". Tôn giả trả lời
: "Này Bà-la-môn, chúng tôi không phải không có chỗ nương tựa. Chúng
tôi có chỗ nương tựa này Bà-la-môn, và Pháp là chỗ nương tựa của chúng
tôi". Nhưng thưa Tôn giả Ananda, ý nghĩa lời nói này cần phải hiểu
như thế nào ?
– Này Bà-la-môn, Thế Tôn bậc Tri
Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã thi thiết học pháp,
đã tuyên bố giới bổn Patimokkha cho các Tỷ-kheo. Trong những ngày Bố-tát
(Uposatha) chúng tôi cận trú ở chung một thôn điền, tất cả chúng tôi hội
họp với nhau tại một chỗ; sau khi tụ họp, chúng tôi hỏi những gì đã
xảy ra cho mỗi một người. Nếu trong khi hỏi nhau như vậy, có Tỷ-kheo phạm
tội, phạm giới, chúng tôi bảo vị ấy làm đúng Pháp, đúng lời dạy.
Thật vậy, không phải các Tôn giả xử sự chúng tôi, chính pháp xử xự
chúng tôi.
– Thưa Tôn giả Ananda, có Tỷ-kheo
nào mà nay Quý vị cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường, sau khi cung kính,
tôn trọng, Quý vị nương tựa ?
– Này Bà-la-môn, có Tỷ-kheo mà
nay chúng tôi cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường, và sau khi chúng
tôi cung kính, tôn trọng, chúng tôi nương tựa.
– Thưa Tôn giả Ananda, khi được
hỏi : "Có một vị Tỷ-kheo nào được Tôn giả Gotama sắp đặt :
"Sau khi Ta diệt độ, vị này sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông và
các Ông nay sẽ y chỉ vị này ?"". Và Tôn giả trả lời :
"Này Bà-la-môn, không có một vị Tỷ-kheo nào được Thế Tôn bậc Tri
Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác sắp đặt : "Vị này,
sau khi Ta diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông", và chúng tôi
nay y chỉ vị này". Khi được hỏi : "Thưa Tôn giả Ananda, có một
vị Tỷ-kheo nào được chúng Tăng thỏa thuận, được một số đông Tỷ-kheo
Trưởng lão sắp đặt : "Vị này sau khi Thế Tôn diệt độ, sẽ là chỗ
nương tựa cho chúng tôi và các Ông nay sẽ y chỉ vị này", và Tôn giả
trả lời : "Không có một Tỷ-kheo nào được chúng Tăng thỏa thuận,
được một số đông Tỷ-kheo Trưởng lão sắp đặt : "Vị này sau khi
Thế Tôn diệt độ sẽ là chỗ nương tựa cho chúng tôi", và chúng
tôi nay sẽ y chỉ vị này". Khi được hỏi : "Có một Tỷ-kheo
nào, thưa Tôn giả Ananda, nay quý vị cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng
dường vị ấy và sau khi cung kính, tôn trọng, quý vị an trú nương tựa vị
ấy ?", và Tôn giả trả lời : "Này Bà-la-môn, có Tỷ-kheo, chúng
tôi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường và sau khi cung kính, tôn
trọng, chúng tôi an trú nương tựa vị ấy". Thưa Tôn giả Ananda, ý
nghĩa lời nói ấy cần phải hiểu như thế nào ?
– Này Bà-la-môn, có mười khả hỷ
pháp được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác tuyên bố. Giữa chúng tôi, vị nào có đầy đủ mười pháp này,
chúng tôi nay cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường vị ấy; sau khi
cung kính, tôn trọng, chúng tôi an trú, nương tựa vị ấy. Thế nào là mười
? Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo có giới hạnh, sống chế ngự với sự
chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự
nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, sau khi thọ trì, học tập trong các học
pháp. Vị ấy là bậc đa văn, thọ trì những điều đã nghe, cất chứa những
điều đã nghe; những pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với
nghĩa, với văn, nói lên Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những
pháp ấy đều được nghe nhiều, được thọ trì, được lời nói làm cho
quen thuộc, được ý tư niệm, được chánh kiến khéo ngộ nhập. Vị ấy
biết đủ đối với các vật thực dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh. Vị ấy là người tùy theo ý muốn, không có
khó khăn, không có mệt nhọc, chứng được bốn Thiền, thuộc tăng thượng
tâm hiện tại lạc trú. Vị ấy thực hiện các loại thần thông sai biệt,
một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình, biến
hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi ngang hư không; độn thổ
trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; đi trên nước không chìm
như trên đất liền; ngồi kiết- già đi trên hư không như chim có cánh; với
bàn tay, vị ấy chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại
oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến Phạm thiên.
Sau khi đi sâu vào tâm chúng sanh, tâm loài Người với tâm của mình, vị
ấy được biết như sau: Tâm có tham, biết tâm có tham. Tâm không tham, biết
tâm không tham. Tâm có sân, biết tâm có sân. Tâm không sân, biết tâm
không sân. Tâm có si, biết tâm có si. Tâm không si, biết tâm không si. Tâm
chuyên chú, biết tâm chuyên chú. Tâm tán loạn, biết tâm tán loạn. Đại
hành tâm, biết là đại hành tâm; không phải đại hành tâm, biết không
phải đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng, biết tâm chưa vô thượng. Tâm
vô thượng, biết tâm vô thượng. Tâm Thiền định, biết tâm Thiền định.
Tâm không Thiền định, biết tâm không Thiền định. Tâm giải thoát, biết
tâm giải thoát. Tâm không giải thoát, biết tâm không giải thoát. (Vị ấy)
nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời... nhớ đến các
đời sống quá khứ. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy
sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết, chúng sanh người hạ liệt,
kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh
đều do hạnh nghiệp của họ. Với sự đoạn diệt các lậu hoặc, sau khi
với thượng trí đã chứng ngộ, vị ấy chứng đạt và an trú ngay trong
hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này Bà-la-môn, mười
pháp khả hỷ này đã được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nói lên giữa chúng tôi. Vị nào có đầy đủ
mười pháp này, chúng tôi nay cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường
vị ấy; sau khi cung kính, tôn trọng, chúng tôi an trú, nương tựa vị ấy.
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn
Vassakara, (Vũ Thế) đại thần nước Magadha, nói với tướng quân Upananda :
– Tướng quân nghĩ thế nào ? Nếu
là như vậy, này tướng quân, những vị Tôn giả này cung kính những ai đáng
cung kính, tôn trọng những ai đáng tôn trọng, lễ bái những ai đáng lễ
bái, cúng dường những ai đáng cúng dường; thời chắc chắn những Tôn
giả này cung kính những ai đáng cung kính, tôn trọng những ai đáng tôn trọng,
lễ bái những ai đáng lễ bái, cúng dường những ai đáng cúng dường. Và
nếu những Tôn giả ấy không cung kính, không tôn trọng, không lễ bái,
không cúng dường (Tỷ-kheo) này, thời những Tôn giả ấy cung kính, tôn trọng,
lễ bái, cúng dường ai ?
Rồi Bà-la-môn Vassakara, vị đại
thần nước Magadha thưa với Tôn giả Ananda :
– Tôn giả Ananda nay trú tại đâu
?
– Này Bà-la-môn, tôi trú ở
Veluvana (Trúc Lâm).
– Thưa Tôn giả Ananda, có phải
Veluvana là một chỗ khả ái, ít tiếng động, ít tiếng ồn, được che khỏi
gió, xa lánh dân cư đông đúc, thích hợp Thiền tịnh ?
– Thật vậy, này Bà-la-môn,
Veluvana (Trúc Lâm) là một khả ái, ít tiếng động, ít tiếng ồn, được
che khỏi gió, xa cách dân cư đông đúc, thích hợp Thiền tịnh, xứng đáng
với những vị hộ trì và thủ hộ như Ngài.
– Thật vậy, thưa Tôn giả Ananda,
Veluvana là một chỗ khả ái, ít tiếng động, ít tiếng ồn, được che khỏi
gió, xa lánh dân cư đông đúc, thích hợp Thiền tịnh, xứng đáng với những
người tu Thiền và tánh thiên về Thiền định như quý vị Tôn giả. Và
chư vị Tôn giả là những vị tu Thiền và tánh thiên về Thiền định.
Thưa Tôn giả Ananda, một thời Tôn giả Gotama ở tại Vesali, Đại Lâm, ở
Kutagarasala (Trùng Các giảng đường). Rồi thưa Tôn giả Ananda, tôi đi đến
Mahavana (Đại Lâm), Kutagarasala, đến Tôn giả Gotama. Ở đấy, Tôn giả
Gotama dùng nhiều phương tiện nói về Thiền định luận. Tôn giả Gotama
thật là vị tu Thiền và tánh thiên về Thiền định. Và Tôn giả Gotama
tán thán tất cả Thiền định.
– Này Bà-la-môn, Thế Tôn ấy
không tán thán tất cả Thiền định, không không tán thán tất cả Thiền
định. Và này Bà-la-môn, loại Thiền định nào Thế Tôn ấy không tán
thán ? Ở đây, này Bà-la-môn, một số vị sống với tâm thấm nhuần dục
tham, bị dục tham chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi
dục tham đã được khởi lên. Vị ấy lấy dục tham làm đối tượng tối
hậu. Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm
thấm nhuần sân hận, bị sân hận chi phối, và không như thật biết sự
giải thoát khỏi sân hận đã được khởi lên. Vị ấy lấy sân hận làm
đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị
ấy sống với tâm thấm nhuần hôn trầm thụy miên, bị hôn trầm thụy
miên chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi hôn trầm thụy
miên đã được khởi lên. Vị ấy lấy hôn trầm thụy miên làm đối tượng
tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với
tâm thấm nhuần trạo hối, bị trạo hối chi phối và không như thật biết
sự giải thoát khỏi tạo hối đã được khởi lên. Vị ấy lấy trạo hối
làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập.
Vị ấy sống với tâm thấm nhuần nghi hoặc, bị nghi hoặc chi phối và
không như thật biết sự giải thoát khỏi nghi hoặc đã được khởi lên.
Vị ấy lấy nghi hoặc làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền
định, Thiền nhập. Này Bà-la-môn, Thế Tôn ấy không tán thán loại Thiền
định như vậy. Và này Bà-la-môn, loại Thiền định nào Thế Tôn ấy tán
thán ? Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng
và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm,
có tứ. Diệt tầm và tứ, vị ấy chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng
thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhất tâm, chứng
và trú Thiền thứ ba, Thiền thứ tư. Này Bà-la-môn, loại Thiền như vậy,
Thế Tôn ấy tán thán.
– Thật vậy, thưa Tôn giả Ananda,
Tôn giả Gotama khiển trách Thiền đáng được khiển trách, tán thán Thiền
đáng được tán thán. Nay thưa Tôn giả Ananda, chúng tôi phải đi. Chúng
tôi có những việc, có nhiều phận sự phải làm.
– Này Bà-la-môn, hãy làm gì
Bà-la-môn nghĩ là hợp thời.
Rồi Bà-la-môn Vassakara, đại thần
nước Magadha, hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Ananda giảng, từ chỗ ngồi
đứng dậy và ra đi. Rồi Bà-la-môn Gopaka Moggalana, khi Bà-la-môn Vassakara,
đại thần nước Magadha đi không bao lâu, thưa với Tôn giả Ananda :
– Nếu chúng tôi không hỏi Tôn giả
Ananda thời Tôn giả Ananda đã không trả lời.
– Này Bà-la-môn, có phải chúng
tôi đã nói với Ông: "Không có một Tỷ-kheo nào, này Bà-la-môn, thành
tựu mười pháp ấy một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ, những pháp
mà Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã thành tựu. Này Bà-la-môn,
vị Thế Tôn ấy là bậc làm cho khởi dậy con đường trước đây chưa từng
được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được
biết, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói; là bậc hiểu
đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo. Và nay các đệ tử Ngài là những
vị sống hành đạo và tùy hành đạo, và sẽ thành tựu (những pháp ấy)
về sau".
- 109. ĐẠI
KINH MÃN NGUYỆT [^]
- (Mahapunnamasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Savatthi
(Xá-vệ), Pubbarama (Đông Viên), Migaramatupasada (Lộc Mẫu Giảng đường). Lúc
bấy giờ trong ngày Bố-tát, ngày trăng tròn, trong đêm trăng rằm, Thế Tôn
đang ngồi giữa trời, xung quanh có chúng Tỷ-kheo đoanh vây. Rồi một Tỷ-kheo
từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chấp tay vái Thế Tôn
và bạch Thế Tôn :
– Con muốn hỏi Thế Tôn một vấn
đề đặc biệt, nếu Thế Tôn cho con được phép nói lên câu hỏi.
– Vậy này Tỷ-kheo, hãy ngồi
trên chỗ của Ông và hỏi như ý Ông muốn.
Rồi vị Tỷ-kheo ấy, sau khi ngồi
xuống trên chỗ ngồi của mình, bạch Thế Tôn :
– Bạch Thế Tôn, có phải có năm
thủ uẩn này, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành
thủ uẩn và thức thủ uẩn ?
– Này Tỷ-kheo, có năm thủ uẩn này,
tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn,
thức thủ uẩn.
– Lành thay, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy sau khi hoan hỷ, tín thọ
lời Thế Tôn nói, hỏi Thế Tôn một câu hỏi khác :
– Bạch Thế Tôn, năm thủ uẩn này,
lấy gì làm căn bản ?
– Này Tỷ-kheo, năm thủ uẩn này
lấy dục làm căn bản.
– Bạch Thế Tôn, có phải chính
chấp thủ ấy là năm thủ uẩn, hay là ngoài năm thủ uẩn, có một chấp
thủ (khác) ?
– Này Tỷ-kheo, không phải chính
chấp thủ ấy là năm thủ uẩn, cũng không phải ngoài năm thủ uẩn có sự
chấp thủ. Này Tỷ-kheo, khi nào có lòng dục, lòng tham đối với năm thủ
uẩn, ở đấy chính là chấp thủ.
– Bạch Thế Tôn, phải chăng có
thể có sự sai khác trong lòng dục, lòng tham đối với năm thủ uẩn ?
Thế Tôn trả lời :
– Này Tỷ-kheo, có thể có. Ở đây,
này Tỷ-kheo có người nghĩ như sau : "Mong rằng có sắc như thế này
trong tương lai ! Mong rằng có thọ như thế này trong tương lai ! Mong rằng
có tưởng như thế này trong tương lai ! Mong rằng có hành như thế này
trong tương lai ! Mong rằng có thức như thế này trong tương lai !" Như
vậy, này Tỷ-kheo, có sự sai khác trong lòng dục, lòng tham đối với năm
uẩn.
– Nhưng bạch Thế Tôn, cho đến
như thế nào là ý nghĩa chữ uẩn trong các uẩn ?
– Này Tỷ-kheo, phàm sắc gì, quá
khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa
hay gần, như vậy là sắc uẩn. Phàm cảm thọ gì, quá khứ, vị lai hay hiện
tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là
thọ uẩn. Phàm tưởng gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại.. (như trên)...
xa hay gần, như vậy là tưởng uẩn. Phàm những hành gì, quá khứ, vị lai
hay hiện tại... (như trên).. xa hay gần, như vậy là hành uẩn. Phàm thức
gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại.. (như trên)... xa hay gần, như vậy là
thức uẩn. Cho đến như vậy, này Tỷ-kheo là ý nghĩa chữ uẩn trong các uẩn.
– Do nhân gì, bạch Thế Tôn, do
duyên gì được chấp nhận gọi là sắc uẩn ? Do nhân gì, duyên gì được
chấp nhận gọi là thọ uẩn ? Do nhân gì, duyên gì được chấp nhận gọi
là tưởng uẩn ? Do nhân gì, duyên gì được chấp nhận gọi hành uẩn ?
Do nhân gì, duyên gì được chấp nhận gọi là thức uẩn ?
– Bốn đại là nhân, này Tỷ-kheo,
bốn đại là duyên được chấp nhận gọi là sắc uẩn. Xúc là nhân, xúc
là duyên được chấp nhận gọi là thọ uẩn. Xúc là nhân, xúc là duyên
được chấp nhận gọi là tưởng uẩn. Xúc là nhân, xúc là duyên được
chấp nhận gọi là hành uẩn. Danh sắc là nhân này Tỷ-kheo, danh sắc là
duyên được chấp nhận gọi là thức uẩn.
– Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào
là thân kiến ?
– Ở đây, này Tỷ-kheo, có kẻ
vô văn phàm phu không hiểu rõ các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc
Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không hiểu rõ các bậc Chơn nhân,
không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, không tu tập pháp các bậc Chơn
nhân, xem sắc như là tự ngã, hay xem tự ngã như là có sắc, hay xem sắc
như là trong tự ngã, hay xem tự ngã như là trong sắc; xem thọ như là tự
ngã, hay xem tự ngã như là có thọ, hay xem thọ như là trong tự ngã, hay
xem tự ngã như là trong thọ; xem tưởng như là tự ngã, hay xem tự ngã như
là có tưởng, hay xem tưởng như là trong tự ngã, hay xem tự ngã như là
trong trưởng; xem hành như là tự ngã, hay xem tự ngã như là có hành, hay
xem hành như là trong tự ngã, hay xem tự ngã như là trong hành; xem thức như
là tự ngã, hay xem tự ngã như là có thức, hay xem có thức như là trong tự
ngã, hay xem tự ngã như là trong thức.
– Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào
là không thân kiến ?
– Ở đây, này Tỷ-kheo, vị Đa
văn Thánh đệ tử, đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc
Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chơn nhân, thuần thục
pháp các bậc Chơn nhân, tu tập pháp các bậc Chơn nhân, không xem sắc như
là tự ngã, hay không xem tự ngã như là có sắc, hay không xem sắc như là
trong tự ngã, hay không xem tự ngã như là trong sắc; không xem thọ như là
tự ngã.... không xem tự ngã như là trong thọ, không xem tưởng như là tự
ngã.. , hay không xem tự ngã như là trong tưởng; không xem hành như là tự
ngã... hay không xem tự ngã như là trong hành; không xem thức như là tự
ngã.. không xem tự ngã như là trong thức. Như vậy, này Tỷ-kheo, là không
thân kiến.
– Bạch Thế Tôn, cái gì là vị
ngọt của sắc, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly ? Cái gì
là vị ngọt của thọ, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly ?
Cái gì là vị ngọt của tưởng, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự
xuất ly ? Cái gì là vị ngọt của hành, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì
là sự xuất ly ? Cái gì là vị ngọt của thức, cái gì là sự nguy hiểm,
cái gì là sự xuất ly ?
– Này Tỷ-kheo, lạc hỷ gì duyên
sắc khởi lên, như vậy là vị ngọt của sắc. Cái gì vô thường, khổ,
bị biến hoại trong sắc như vậy là sự nguy hiểm của sắc. Sự nhiếp
phục dục tham đối với sắc, sự đoạn diệt dục tham, như vậy là sự
xuất ly của sắc. Này Tỷ-kheo, lạc hỷ gì duyên thọ khởi lên, như vậy
là vị ngọt của thọ... như vậy là sự xuất ly của thọ. Này Tỷ-kheo,
lạc hỷ gì duyên tưởng khởi lên như vậy là vị ngọt của tưởng.... là
sự xuất ly của tưởng. Này Tỷ-kheo, lạc hỷ gì duyên hành khởi lên như
vậy là vị ngọt của hành... là sự xuất ly của hành. Này Tỷ-kheo, lạc
hỷ gì duyên thức khởi lên, như vậy là vị ngọt của thức. Cái gì vô
thường, khổ, bị biến hoại trong thức, như vậy là sự nguy hiểm của
thức. Sự nhiếp phục dục tham đối với thức, sự đoạn diệt dục
tham, như vậy là sự xuất ly của thức.
– Bạch Thế Tôn, do biết gì, do
thấy gì, mà không có mạn tùy miên rằng : "Ta là người làm, sở thuộc
của ta là người làm", đối với tự thân có ý thức, và đối với
cả tưởng ở ngoài ?
– Này Tỷ-kheo, phàm có sắc gì,
quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng,
xa hay gần, đối với tất cả sắc, thấy được như thật với trí tuệ
là : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái
này không phải tự ngã của tôi". Phàm có thọ gì... tưởng gì...
hành gì... phàm có thức gì, quá khứ vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại,
thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, đối với tất cả thức, thấy
được như thật với trí tuệ là : "Cái này không phải của tôi, cái
này là tôi. Cái này không phải tự ngã của tôi". Này Tỷ-kheo, do biết
như vậy, thấy như vậy, nên không có mạn tùy miên rằng : "Ta là người
làm, sở thuộc của ta là người làm", đối với tự thân có ý thức,
và đối với tất cả tướng ở ngoài.
Rồi một Tỷ-kheo khác khởi lên sự
suy tư như sau: "Nếu được nói rằng, chư Tôn giả, sắc là vô ngã,
thọ là vô ngã, tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã; như vậy
những hành động do vô ngã làm đã được ngã nào cảm thọ kết quả
?"
Thế Tôn biết được tâm tư của
Tỷ-kheo ấy với tâm tư của mình liền nói với các Tỷ-kheo :
– Này các Tỷ-kheo, sự kiện này
xảy ra, khi ở đây có kẻ ngu si, vô tri, vô minh, với tâm bị tham dục chi
phối, lại nghĩ cần phải vượt qua lời dạy của bậc Đạo sư với (câu
hỏi): "Nếu được nói rằng, chư Tôn giả, sắc là vô ngã, thọ là
vô ngã, tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã; như vậy những
hành động do vô ngã làm đã được ngã nào cảm thọ kết quả ?"
Này các Tỷ-kheo, các Ông đã được Ta huấn luyện tìm kiếm nhân duyên,
chỗ này chỗ kia, đối với những pháp này, pháp khác. Các Ông nghĩ thế
nào, này các Tỷ-kheo, sắc là thường hay vô thường ?
– Vô thường, bạch Thế Tôn.
– Những gì vô thường là khổ
hay lạc ?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Những gì vô thường, khổ, bị
biến hoại, có hợp lý chăng khi xem : "Cái này của tôi, cái này là
tôi, cái này là tự ngã của tôi ?"
– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
– Các Ông nghĩ thế nào, này các
Tỷ-kheo, thọ.. (như trên).. tưởng.. hành... thức là thường hay vô thường
?
– Vô thường, bạch Thế Tôn.
– Những gì vô thường, là khổ
hay lạc ?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Những gì vô thường, khổ, bị
biến hoại, có hợp lý chăng khi xem : "Cái này là của tôi, cái này
là tôi, cái này là tự ngã của tôi ?"
– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
– Do vậy, này các Tỷ-kheo, phàm
có sắc gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại... tất cả loại
sắc, cần phải như thật quán : "Cái này không phải của tôi, cái
này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Phàm có
thọ gì, phàm có tưởng gì, phàm có hành gì, phàm có thức gì quá khứ, vị
lai hay hiện tại, nội hay ngoại.. tất cả loại thức, cần phải như thật
quán : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái
này không phải tự ngã của tôi". Như vậy, này các Tỷ-kheo, vị Đa
văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly
đối với tưởng, yếm ly đối với hành, yếm ly đối với thức. Do yếm
ly nên ly tham, do ly tham nên được giải thoát. Trong sự giải thoát, vị
ấy biết được vị ấy đã giải thoát. Vị ấy biết : "Sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm. Từ nay không còn trở lại
đời sống thế này nữa".
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi sự giảng giải
này được nói lên, tâm của sáu mươi vị Tỷ-kheo được giải thoát khỏi
các lậu hoặc, không có chấp thủ.
- 110. TIỂU
KINH MÃN NGUYỆT [^]
- (Culapunnamasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi,
tại Pubbarama (Đông Viên) Migaramatupasada (Lộc Mẫu Giảng đường). Lúc bấy
giờ trong ngày Bố-tát, ngày trăng tròn, trong đêm trăm rằm, Thế Tôn đang
ngồi giữa trời, xung quanh có chúng Tỷ-kheo đoanh vây. Rồi Thế Tôn nhìn
chúng Tỷ-kheo đang yên lặng, hết sức yên lặng và bảo các Tỷ-kheo :
– Này các Tỷ-kheo, một người bất
chánh (asappurisa) có thể biết một người bất chánh : "Người bất chánh
là vị này", hay không ?
– Bạch Thế Tôn, không biết được.
– Lành thay, này các Tỷ-kheo ! Này
các Tỷ-kheo không thể có sự tình, không thể có sự kiện, một người bất
chánh có thể biết một người bất chánh : "Người bất chánh là vị
này." Này các Tỷ-kheo, nhưng một người bất chánh có thể biết một
người chơn chánh : "Người chơn chánh là vị này" hay không ?
– Lành thay, này các Tỷ-kheo ! Này
các Tỷ-kheo không thể có sự tình, không thể có sự kiện một người bất
chánh có thể biết được một người chơn chánh : "Người chơn chánh
là vị này". Người bất chánh, này các Tỷ-kheo, là người đầy đủ
pháp bất chánh, giao du với người bất chánh, suy tư như người bất chánh,
tư lường như người bất chánh, nói năng như người bất chánh, hành động
như người bất chánh, có tà kiến như người bất chánh, bố thí như người
bất chánh.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào
là người bất chánh đầy đủ pháp bất chánh ? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
người bất chánh bất tín, vô tàm, vô quý, nghe ít, biếng nhác, thất niệm,
liệt tuệ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người bất chánh đầy đủ pháp
bất chánh. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh giao du với
những người bất chánh ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, những vị Bà-la-môn
nào bất tín, vô tàm, vô quý, ít nghe, biếng nhác, thất niệm, liệt tuệ,
những vị ấy là bạn, là thân hữu với người bất chánh ấy. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là người bất chánh giao du với người bất chánh. Và
này các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh suy tư như người bất
chánh ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh suy nghĩ tự làm hại
mình, suy nghĩ làm hại người khác, suy nghĩ làm hại cả hai.. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là người bất chánh suy tư như người bất chánh. Và này
các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh tư lường như người bất
chánh ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh tư lường tự làm hại
mình, tư lường làm hại người, tư lường làm hại cả hai. Như vậy, này
các Tỷ-kheo là người bất chánh tư lường như người bất chánh. Và này
các Tỷ-kheo, như thế nào là người bất chánh nói năng như người bất
chánh ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh nói lời nói láo, nói
lời hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm. Như vậy này các Tỷ-kheo,
là người bất chánh nói năng như người bất chánh. Và này các Tỷ-kheo,
như thế nào là người bất chánh hành động như người bất chánh ? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh sát sanh, lấy của không cho, làm
các tà hạnh trong các dục. Như vậy, này các Tỷ-kheo là người bất chánh
hành động như người bất chánh. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là người
bất chánh có tà kiến như người bất chánh ? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
người bất chánh có tà kiến như sau : "Không có bố thí, không có lễ
hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác,
không có đời này, không có đời khác, không có cha, không có mẹ, không
có loại hóa sanh. Ở đời, không có những vị Sa-môn, những vị
Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh đã tự mình chứng đạt với thượng
trí đời này và đời khác, và truyền dạy lại".. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là người bất chánh có tà kiến như người bất chánh. Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là người bất chánh bố thí như người bất chánh
? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bất chánh bố thí một cách vô lễ, bố
thí không phải tự tay, bố thí không có suy tư kỹ lưỡng, bố thí những
vật không cần dùng, bố thí không nghĩ đến tương lai. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là người bất chánh bố thí như người bất chánh.
Này các Tỷ-kheo, người bất chánh
ấy, đầy đủ pháp bất chánh như vậy, giao du với người bất chánh như
vậy, suy tư như người bất chánh như vậy, tư lường như người bất chánh
như vậy, nói năng như người bất chánh như vậy, hành động như người
bất chánh như vậy, có tà kiến như người bất chánh như vậy, bố thí
như người bất chánh như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cảnh
giới của những người bất chánh. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là cảnh
giới của những người bất chánh ? Địa ngục hay là bàng sanh.
Này các Tỷ-kheo, một người chơn
chánh có thể biết được một người chơn chánh : "Người chơn chánh
là vị này" hay không ?
– Thưa biết được, bạch Thế Tôn.
– Lành thay, này các Tỷ-kheo ! Sự
tình này xảy ra là người chơn chánh có thể biết được người chơn chánh:
"Người chơn chánh là vị này". Nhưng này các Tỷ-kheo, người
chơn chánh có thể biết được người bất chánh : "Người bất chánh
là vị này" hay không ?
– Thưa biết được, bạch Thế Tôn.
– Lành thay, này các Tỷ-kheo ! Này
các Tỷ-kheo, có sự tình này là người chơn chánh có thể biết được
người bất chánh : "Người bất chánh là vị này". Này các Tỷ-kheo,
người chơn chánh đầy đủ Chánh pháp, giao du với các bậc chơn chánh,
suy nghĩ như các bậc chơn chánh, tư lường như các bậc chơn chánh, nói năng
như bậc chơn chánh, hành động như bậc chơn chánh, có chánh kiến như bậc
chơn chánh, bố thí như bậc chơn chánh.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người
chơn chánh đầy đủ Chánh pháp ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh
có lòng tin, có lòng tàm, có lòng quý, có nghe nhiều, có tinh cần, tinh tấn,
có chánh niệm, có trí tuệ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chơn chánh
đầy đủ những Chánh pháp. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người chơn
chánh giao du với các bậc chơn chánh ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, những vị
Sa-môn, Bà-la-môn nào có lòng tin, có lòng tàm, có lòng quý nghe nhiều, tinh
cần, tinh tấn, chánh niệm, có trí tuệ, những vị ấy là bạn, là thân hữu
của vị chơn chánh ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chơn chánh
giao du với các bậc chơn chánh. Và này, các Tỷ-kheo, như thế nào là người
chơn chánh suy tư như người chơn chánh ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người
chơn chánh không suy nghĩ tự làm hại mình, không suy nghĩ làm hại người
khác, không suy nghĩ làm hại cả hai. Như vậy, này các Tỷ-kheo là người
chơn chánh suy tư như người chơn chánh. Và này, các Tỷ-kheo, như thế nào
là người chơn chánh tư lường như người chơn chánh ? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
người chơn chánh không tư lường tự làm hại mình, không tư lường làm
hại người khác, không tư lường làm hại cả hai. Như vậy, này các Tỷ-kheo
là người chơn chánh tư lường như người chơn chánh ? Và này các Tỷ-kheo,
như thế nào là người chơn chánh nói năng như người chơn chánh ? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, người chơn chánh từ bỏ không nói láo, từ bỏ không
nói hai lưỡi, từ bỏ không nói ác khẩu, từ bỏ không nói phiếm luận.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chơn chánh nói năng như người chơn
chánh. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người chơn chánh hành động như
người chơn chánh ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh từ bỏ
sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ làm các tà hạnh trong dâm dục.
Như vậy, này các Tỷ-kheo là người chơn chánh hành động như người
chơn chánh. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người chơn chánh có chánh kiến
như bậc chơn chánh ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chơn chánh có chánh
kiến như sau : "Có bố thí, có lễ hy sinh, có tế tự, có quả dị thục
các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời khác, có cha, có mẹ, có loại
hóa sanh. Ở đời có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng,
chánh hạnh, đã tự mình chứng đạt với thượng trí đời này và đời
khác, và truyền dạy lại. Như vậy, này các Tỷ-kheo là người chơn chánh
có chánh kiến như người chơn chánh. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người
chơn chánh bố thí như người chơn chánh ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người
chơn chánh bố thí một cách lễ độ, bố thí với tự tay, bố thí có suy
tư kỹ lưỡng, bố thí những vật cần dùng, bố thí có nghĩ đến tương
lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo là người chơn chánh bố thí như người
chơn chánh. Này các Tỷ-kheo, người chơn chánh ấy, đầy đủ Chánh pháp
như vậy, giao du với người chơn chánh như vậy, suy tư như người chơn chánh
như vậy, tư lường như người chơn chánh như vậy, nói năng như người
chơn chánh như vậy, hành động như người chơn chánh như vậy, có chánh
kiến như người như người chơn chánh như vậy, bố thí như người chơn
chánh như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cảnh giới của những
người chơn chánh. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là cảnh giới của những
người chơn chánh ? Đại tánh của chư Thiên hay đại tánh của loài Người.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.