- Kinh Trung bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
Phần XXIV
(111) Kinh Bất đoạn
(112) Kinh Sáu thanh tịnh
(113) Kinh Chân nhân
(114) Kinh Nên hành trì, không nên hành trì
- (Anupadasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi
(Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo" – "Thưa
vâng, bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế
Tôn nói như sau :
– Này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc
Hiền trí; này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Đại tuệ; này các Tỷ-kheo,
Sariputta là bậc Quảng tuệ; này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Hỷ tuệ
(Hasupanna); này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Tiệp tuệ (javanapanna); này
các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Lợi tuệ (tikkhapanna); này các Tỷ-kheo,
Sariputta là bậc Quyết trạch tuệ (nibbedhikapanna). Này các Tỷ-kheo, cho đến
nửa tháng, Sariputta quán bất đoạn pháp quán. Này các Tỷ-kheo, đây là do
bất đoạn pháp quán của Sariputta.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Sariputta
ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái
hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Và những pháp thuộc về Thiền
thứ nhất như tầm, tứ, hỷ, lạc, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm,
dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; các pháp ấy được an trú
bất đoạn. Các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên,
được Sariputta biết đến khi an trú, được Sariputta biết đến khi đoạn
diệt. Sariputta biết rõ như sau : "Như vậy các pháp ấy trước không
có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt".
Sariputta đối với những pháp ấy, cảm thấy không luyến ái, không chống
đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với
tâm không có hạn chế. Sariputta biết : "Còn có sự giải thoát hơn thế
nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn nữa".
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Sariputta diệt tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng
thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhứt tâm. Và
những pháp thuộc về Thiền thứ hai như nội tỉnh, hỷ, lạc, nhứt tâm,
và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả,
tác ý, những pháp ấy được an trú bất đoạn. Các pháp ấy được
Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng
an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta biết rõ
như sau : "Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu,
sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt". Sariputta đối với những pháp
ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải
thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết :
"Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều
việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Sariputta ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà
các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba.
Và những pháp thuộc về Thiền thứ ba, như xả, lạc, niệm, tỉnh giác,
nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, xả,
tác ý; những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được
Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng
an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với
những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói
buộc, giải thoát không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế.
Sariputta biết : "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với
Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền
thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm, thanh tịnh. Và những pháp thuộc
về Thiền thứ tư, như xả, bất khổ bất lạc thọ, thọ (passivedana ?), vô
quán niệm tâm (Cetaso anabhogo), thanh tịnh nhờ niệm, nhứt tâm, và xúc, thọ,
tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những
pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết
đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được
Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp
ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải
thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết :
"Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều
việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
vượt lên hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không
tác ý đối với dị tưởng, nghĩ rằng : "Hư không là vô biên",
chứng và trú Không vô biên xứ. Và những pháp thuộc về Không vô biên xứ
như hư không, vô biên xứ tưởng, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm,
dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được
Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng
khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết
đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến
ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ
lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết : "Còn có sự
giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc phải
làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
vượt lên hoàn toàn Không vô biên xứ, nghĩ rằng : "Thức là vô
biên", chứng và trú Thức vô biên xứ. Và những pháp thuộc về Thức
vô biên xứ như Thức vô biên xứ tưởng, nhất tâm, và xúc, thọ, tưởng,
tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy
được Sariputta an trú bất đoạn; các pháp ấy được Sariputta biết đến
khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt.
Sariputta đối với những pháp ấy không luyến ái, không chống đối, độc
lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không
có hạn chế. Sariputta biết : "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối
với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
vượt lên hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ rằng : "Không có vật
gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Và những pháp thuộc về Vô sở hữu
xứ, như Vô sở hữu xứ tưởng, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm,
dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được
Sariputta an trú bất đoạn; các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng
khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết
đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy không luyến
ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ
lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết : "Còn có sự
giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc phải
làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
vượt lên hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng
xứ. Với chánh niệm, Sariputta xuất khỏi định ấy. Sau khi với chánh niệm
xuất khỏi định ấy, Sariputta thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị
đoạn diệt, bị biến hoại: "Như vậy các pháp ấy trước không có nơi
ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu chúng đoạn diệt". Sariputta đối
với những pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập,
không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không hạn chế.
Sariputta biết : "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với
Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta
vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và an trú Diệt
thọ tưởng (định). Sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn
tận. Với chánh niệm, Sariputta xuất khỏi định ấy. Sau khi với chánh niệm
xuất khỏi định ấy, Sariputta thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị
đoạn diệt, bị biến hoại : "Như vậy các pháp ấy, trước không có
nơi ta, sau có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt".
Sariputta đối với các pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không chống đối,
độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm
không hạn chế. Sariputta biết : "Không có sự giải thoát nào vô thượng
hơn thế nữa. Đối với Sariputta, không có việc phải làm nhiều hơn thế
nữa".
Này các Tỷ-kheo, nếu nói một
cách chơn chánh, một người có thể nói về người ấy như sau : "Người
này được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giới, được tự tại,
được cứu cánh trong Thánh định, được tự tại, được cứu cánh trong
Thánh tuệ, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giải thoát. Nói một
cách chơn chánh về Sariputta, người ấy có thể nói như sau : "Sariputta
được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giới, được tự tại, được
cứu cánh trong Thánh định, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh
tuệ, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giải thoát".
Này các Tỷ-kheo, nếu nói một
cách chơn chánh, một người có thể nói về người ấy như sau : "Người
này là con chánh tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, sanh ra từ Pháp, do
Pháp hóa thành, thừa tự Chánh pháp, không thừa tự vật chất". Nói một
cách chơn chánh về Sariputta, người ấy có thể nói như sau:
"(Sariputta) là con chánh tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, sanh ra từ
Pháp, do Pháp hóa thành, thừa tự Chánh pháp, không thừa tự vật chất".
Sariputta, này các Tỷ-kheo, chơn chánh
chuyển Pháp luân vô thượng đã được Như Lai chuyển vận.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
vị Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- 112. KINH
SÁU THANH TỊNH [^]
- (Chabbisodhanasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi,
Jetavana, tại tinh xá ông Anathapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo,
"Này các Tỷ-kheo". – "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các vị
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :
– Ở đây, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo
nói lên chánh trí (annam) như sau : "Ta tuệ tri như vầy: "Sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng
thái này nữa"". Này các Tỷ-kheo, lời nói của vi Tỷ-kheo ấy,
không nên tán thán cũng không nên bác bỏ. Không tán thán, không bác bỏ, cần
hỏi câu hỏi : "Này Hiền giả, có bốn hình thức tuyên bố này được
Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chân
chánh nói lên. Thế nào là bốn ? Cái gì được thấy được nói lên như
là được thấy. Cái gì được nghe được nói lên là được nghe. Cái gì
được cảm giác được nói lên như là cảm giác. Cái gì được nhận thức
được nói lên như là được nhận thức. Bốn hình thức tuyên bố này,
Này Hiền giả, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác chơn chánh nói lên. Nhưng biết cái gì, thấy cái gì, đối
với bốn hình thức tuyên bố này, Tôn giả có thể nói là tâm của Tôn
giả được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ ?"
Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo, các
lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành mãn, những việc phải làm đã
làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt mục đích, đã đoạn trừ
hữu kiết sử, và đã được giải thoát nhờ chánh trí, câu trả lời
tùy pháp (anudhamma) của vị ấy phải như sau: "Này chư Hiền, tôi
không cảm thấy luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc,
giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế, đối với
những vật được thấy... được nghe... được cảm giác... được nhận
thức. Chư Hiền, vì rằng tôi biết như vậy, thấy như vậy, đối với bốn
hình thức tuyên bố này, tôi có thể nói tâm tôi được giải thoát khỏi
các lậu hoặc, không có chấp thủ".
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần
phải được tán thán, phải được tùy hỷ với lời nói : "Lành thay
! Sau khi tán thán, tùy hỷ với lời nói : "Lành thay, một câu hỏi nữa
cần phải được hỏi. : "Này Hiền giả, năm thủ uẩn này được Thế
Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chân chánh
nói lên. Thế nào là năm ? Tức là sắc thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, thọ
thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Năm thủ uẩn này, này Hiền giả,
được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
chân chánh nói lên. Nhưng biết cái gì, thấy cái gì, đối với năm thủ uẩn
này, Tôn giả có thể nói tâm của Tôn giả được giải thoát khỏi các lậu
hoặc, không có chấp thủ ?"
Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo các
lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành mãn, những việc phải làm đã
làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt mục đích, đã đoạn trừ
hữu kiết sử, và đã được giải thoát nhờ chánh trí, câu trả lời
tùy pháp của vị ấy phải như sau : "Này chư Hiền, sau khi biết sắc
này là vô lực, biến hoại, không an ổn, đối với những sắc là những
chấp thủ phương tiện (upayupadana), là những tâm cố chấp, thiên chấp,
tùy miên, đối với những sắc ấy, với sự đoạn tận, đoạn ly, đoạn
diệt, đoạn trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải thoát. Này
chư Hiền, sau khi biết thọ này... Này chư Hiền, sau khi biết tưởng này..
Này chư Hiền, sau khi biết hành này.. Này chư Hiền, sau khi biết thức này
là vô lực, biến hoại, không an ổn, đối với thức là những chấp thủ
phương tiện, là những tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên. Đối với những
thức ấy, với sự đoạn tận, đoạn ly, đoạn diệt, đoạn trừ, đoạn
xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải thoát. Chư Hiền, vì rằng tôi biết
như vậy, thấy như vậy, đối với năm thủ uẩn này, tôi có thể nói
tâm tôi được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ".
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần
phải được tán thán, phải được tùy hỷ với lời nói : "Lành
thay". Sau khi tán thán, tùy hỷ với lời nói : "Lành thay", một
câu hỏi nữa cần phải được hỏi thêm : "Này Hiền giả, sáu giới
này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác chơn chánh nói lên. Thế nào là sáu ? Địa giới, thủy giới, hỏa giới,
phong giới, không giới, thực giới. Sáu giới này, này Hiền giả, được
Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nói
lên. Nhưng biết cái gì, thấy cái gì với sáu giới này, Tôn giả có thể
nói tâm của Tôn giả được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp
thủ ?"
Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo các
lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành mãn, những việc phải làm đã
làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt mục địch, đã đoạn trừ
hữu kiết sử, và đã được giải thoát nhờ chánh trí, câu trả lời
tùy pháp của vị ấy phải như sau : "Chư Hiền, tôi đã đi đến địa
giới như là không phải tự ngã, và (đi đến) tự ngã như là không tùy
thuộc địa giới. Đối với những pháp là những chấp thủ phương tiện
tùy thuộc địa giới, là những tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên; đối
với những pháp ấy, với sự đoạn tận, đoạn ly, đoạn diệt, đoạn trừ,
đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải thoát. Này chư Hiền, sau khi tôi
đã đi đến thủy giới.. Này chư Hiền, sau khi tôi đã đi đến hỏa giới…
Này chư Hiền, sau khi tôi đã đi đến phong giới... Này chư Hiền, sau khi tôi
đã đi đến không giới... Này chư Hiền, sau khi tôi đã đi đến thức giới
như là không phải tự ngã, và (đi đến) tự ngã như là không tùy thuộc
thức giới. Đối với những pháp là những chấp thủ phương tiện tùy
thuộc thức giới, là những tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên; đối với
những pháp ấy, với sự đoạn tận, đoạn ly, đoạn diệt, đoạn trừ,
đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải thoát. Chư Hiền, vì rằng
tôi biết như vậy, thấy như vậy, đối với sáu giới này, tôi có thể
nói tâm tôi được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ".
Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần
phải được tán thán, cần phải được tủy hỷ với lời nói :
"Lành thay". Sau khi tán thán tùy hỷ với lời nói: "Lành
thay", một câu hỏi nữa cần phải được hỏi : "Này Hiền giả,
sáu nội ngoại xứ này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chơn chánh nói lên. Thế nào là sáu ? Mắt và sắc,
tai và tiếng, mũi và hương, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và pháp. Sáu nội
ngoại xứ này, này Hiền giả, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả,
bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nói lên. Nhưng biết cái gì, thấy cái gì,
thấy cái gì đối với sáu nội ngoại xứ này, Tôn giả có thể nói tâm
của Tôn giả được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ".
Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo các
lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành mãn, những việc phải làm đã
làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt mục đích, đã đoạn trừ
hữu kiết sử, và đã được giải thoát nhờ chánh trí, câu trả lời
tùy pháp của vị ấy phải như sau: "Chư Hiền, đối với mắt, đối
với sắc, đối với nhãn thức, đối với những pháp được nhận thức
bởi nhãn thức, phàm có dục gì, tham gì, hỷ gì, ái gì, phàm có những
pháp chấp thủ phương tiện, những tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên.
Đối với những pháp ấy, với sự đoạn tận, đoạn ly, đoạn diệt, đoạn
trừ, đoạn xả, tôi tuệ tri tâm tôi được giải thoát. Chư Hiền, vì rằng
tôi biết như vậy, thấy như vậy, đối với sáu nội ngoại xứ này, tôi
có thể nói tâm tôi được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp
thủ. Chư Hiền, đối với tai, đối với tiếng, đối với nhĩ thức; chư
Hiền, đối với mũi, đối với hương, đối với tỷ thức; chư Hiền, đối
với lưỡi, đối với vị, đối với thiệt thức; chư Hiền, đối với
thân, đối với xúc, đối với thân thức; chư Hiền, đối với ý, đối
với pháp, đối với ý thức, đối với các pháp được nhận thức bởi
ý thức, phàm có dục gì, tham gì, hỷ gì, ái gì, phàm có những chấp thủ
phương tiện, những tâm cố chấp, thiên chấp, tùy miên; đối với những
pháp ấy, với sự đoạn tận, đoạn ly, đoạn diệt, đoạn trừ, đoạn xả,
tôi tuệ tri tâm tôi được giải thoát. Chư Hiền, vì rằng tôi biết như
vậy, thấy như vậy, đối với sáu nội ngoại xứ này, tôi có thể nói
tâm tôi được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ".
Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần
phải được tán thán, cần phải được tùy hỷ với lời nói : "Lành
thay !" Sau khi tán thán, tùy hỷ với lời nói : "Lành thay", một
câu hỏi nữa cần phải được hỏi thêm : "Nhưng này Hiền giả, do biết
gì, thấy gì, do đối với các thân có nhận thức này và đối với tất
cả tướng ở ngoài, Tôn giả có thể nói về mạn tùy miên : "Ta là
người làm, sở thuộc của ta là người làm", mạn tùy miên của Tôn
giả được đoạn trừ một cách hoàn toàn".
Chư Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo các
lậu hoặc đã đoạn tận, tu hành thành mãn, những việc phải làm, đã
làm, đã đặt gánh xuống, đã thành đạt mục đích, đã đoạn trừ hữu
kiết sử, và đã được giải thoát nhờ chánh trí, câu trả lời tùy
pháp của vị ấy phải như sau: "Chư Hiền, thuở xưa, khi tôi chưa xuất
gia, tôi còn ngu muội. Tôi được Như Lai, đệ tử Như Lai thuyết pháp. Sau
khi nghe pháp. Tôi có lòng tịnh tín đối với Như Lai. Thánh tựu được tịnh
tín ấy, tôi suy nghĩ : "Đời sống gia đình đầy những triền phược,
con đường đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như
hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống
theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như
vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia
đình, sống không gia đình".
"Chư Hiền, một thời gian sau,
tôi từ bỏ tài sản nhỏ hay từ bỏ tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến
thuộc nhỏ hay từ bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp
áo cà-sa, và xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Khi đã xuất
gia như vậy, tôi thành tựu học giới và nếp sống các vị Tỷ-kheo, tôi
từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng bỏ kiếm, biết tàm quý,
có lòng từ, sống thương xót tất cả chúng sanh và các loại hữu tình.
Tôi từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ lấy những
vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh không có trộm
cướp. Tôi từ bỏ phi Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống tránh xa
(phi Phạm hạnh), từ bỏ dâm dục tục pháp. Tôi từ bỏ nói láo, tránh xa
nói láo, nói những lời chơn thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng
tin cậy, không phản lại đời. Tôi từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai
lưỡi; nghe điều gì ở chỗ này, không đến nói chỗ kia để sanh chia rẽ
ở những người này; nghe điều này ở chỗ kia, không đi nói với những
người này, để sinh chia rẽ ở những người kia. Tôi sống hòa hợp những
kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thoải
mái trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.
Tôi từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc ác, tôi nói những lời
nhẹ nhàng, thuận tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng
nhiều người, tôi nói những lời nói như vậy. Tôi từ bỏ nói lời phù
phiếm, tránh xa nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật,
nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời
về luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời thuận
lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi. Tôi từ bỏ không làm hại đến
các hột giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn
ban đêm, từ bỏ không ăn phi thời. Tôi từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc,
các cuộc trình diễn. Tôi từ bỏ không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu,
dầu thoa, các thời trang, các thời sức. Tôi từ bỏ không dùng giường
cao và giường lớn. Tôi từ bỏ không nhận các hạt sống. Tôi từ bỏ
không nhận thịt sống. Tôi từ bỏ không nhận đàn bà, con gái. Tôi từ bỏ
không nhận nô tỳ gái và trai. Tôi từ bỏ không nhận cừu dê. Tôi từ bỏ
không nhận gia cầm và heo. Tôi từ bỏ không voi, bò, ngựa và ngựa cái.
Tôi từ bỏ không nhận ruộng nương và đất đai. Tôi từ bỏ không nhận
người môi giới hoặc tự mình làm môi giới. Tôi từ bỏ không buôn bán.
Tôi từ bỏ các sự gian lận bằng cân tiền bạc và đo lường. Tôi từ bỏ
các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo. Tôi từ bỏ không làm thương
tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá. Tôi bằng
lòng (tri túc) với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi
bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y bát). Ví như con chim bay đến chỗ
nào cũng mang theo hai cánh; cũng vậy, tôi bằng lòng với tấm y để che thân,
với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y
bát). Tôi thành tựu Thánh giới uẩn này, cảm giác lạc thọ thuộc nội
tâm, không lỗi lầm. Khi mắt thấy sắc, tôi không nắm giữ tướng chung,
không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì con mắt không được
chế ngự khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, tôi tự
chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt.
Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc...
ý nhận thức các pháp, tôi không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng
riêng. Những nguyên nhân gì, vì ý căn không được chế ngự khiến tham
ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, tôi tự chế ngự nguyên nhân
ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Tôi thành tựu Thánh hộ
trì các căn này, cảm giác lạc thọ thuộc nội tâm, không vẩn đục. Khi
đi tới, khi đi lui, tôi đều tỉnh giác. Khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh, tôi
đều tỉnh giác. Khi co tay, khi duỗi tay, tôi đều tỉnh giác. Khi mang y
kép, y bát, tôi đều tỉnh giác. Khi ăn, uống, nhai, nuốt, tôi đều tỉnh
giác. Khi đi đại tiện, tiểu tiện, tôi đều tỉnh giác. Khi đi, đứng,
ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng, tôi đều tỉnh giác.
"Và tôi đều thành tự Thánh
giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì các căn này và thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này chọn
một chỗ thanh vắng, tịch mịch như rừng, gốc
cây, khe núi, hang đá, bãi
tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống
rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, tôi ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trú
chánh niệm trước mặt. Tôi từ bỏ tham ái ở đời, sống
với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ
bỏ sân hận, tôi sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rữa tâm hết sân hân. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, tôi sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với
tâm tưởng hướng về ánh sáng chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trâm thụy miên. Trừ bỏ trạo cử hối
quá, tôi sống không trạo cử, hối
quá, nội tâm trầm lặng, gột rửa
tâm hết trạo cử, hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, tôi sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân
vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với
thiện pháp.
"Tôi từ bỏ năm triền cái, các pháp làm cho tâm ô uế, làm cho trí tuệ
muội lược này, ly dục, ly bất thiện
pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục, sanh có tầm có tứ. Tôi
diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không
tầm, không tứ, nội tỉnh
nhất tâm. Tôi ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh
giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là
xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Tôi xả
lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm
thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không
khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
"Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm,
không phiền não, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc, bình thản như
vậy, tôi dẫn tâm, hướng tâm đến lậu
tận trí. Tôi biết như thật: "Đây là khổ", biết như thật: "Đây là nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Đây là khổ diệt", biết
như thật : "Đây là con đường đưa đến khổ diệt",
biết như thật : "Đây là những lậu hoặc", biết
như thật : "Đây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết
như thật : "Đây là các lậu hoặc được đoạn trừ", biết như thật : "Đây là con đường đưa đến các lậu
hoặc được diệt trừ".
"Tôi nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của tôi thoát khỏi
dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát
khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, tôi khởi lên sự hiểu biết : "Ta đã giải
thoát"". Tôi biết : "Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, việc cần làm đã làm; không còn trở lui trạng
thái này nữa".
"Chư Hiền do
biết như vậy, thấy như vậy, đối với
các thân có nhận thức này và đối với tất cả tướng ở ngoài, mạn tùy miên : "Ta là người làm, sở
thuộc của ta là người làm", mạn tùy miên này được
đoạn trừ một cách hoàn toàn".
Này các Tỷ-kheo Tỷ-kheo
ấy cần phải được tán thán, cần phải được tùy hỷ
với lời nói : "Lành thay !" Sau khi tán thán, tùy
hỷ với lời nói : "Lành thay" vị ấy cần phải
nói như sau : "Thật lợi ích thay cho chúng tôi, thật
khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy
một vị sống Phạm hạnh như Tôn giả".
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- (Sappurisasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi,
Jetavana, tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
Ở đây Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo"
– "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy
vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau : "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông Chân nhân pháp và phi Chân nhân
pháp. Các Ông hãy nghe và suy nghiệm kỹ Ta sẽ giảng"
– "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy
vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau :
– Này các Tỷ-kheo, thế
nào là phi Chân nhân pháp ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân xuất gia từ một gia đình cao sang.
Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta xuất gia từ một gia đình cao sang.
Còn các Tỷ-kheo, này không xuất gia từ một gia đình
cao sang". Vì người ấy thuộc gia đình cao sang nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân
nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ
như sau : "Không phải vì thuộc một gia đình cao sang mà các tham pháp
đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ. Nếu một người xuất
gia, không phải từ một gia đình cao sang, và
người ấy hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì
chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời
ở đây, người ấy được kính trọng, ở
đây, người ấy được tán thán". Người ấy sau khi lấy đạo lộ (patipadam) làm chánh yếu (antaram ?)
không khen mình chê người vì tự mình thuộc vào gia đình cao sang. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, một người phi Chân nhân xuất gia từ một
gia đình.... (như trên).... xuất gia từ một gia đình đại phú.. (như trên)...
xuất gia từ một gia đình quý phái. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta
xuất gia từ một gia đình quý phái, còn các Tỷ-kheo
này không xuất gia từ một gia đình quý phái". Vì người ấy thuộc
gia đình quý phái, nên khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ như sau : "Không phải vì thuộc
về một gia đình quý phái mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến
đoạn trừ. Nếu một người xuất gia không phải từ một gia đình quý
phái và người ấy hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành
trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời
ở đây, người ấy được kính trọng, ở
đây, người ấy được tán thán". Người ấy được
sau khi lấy đạo lộ làm chính yếu không khen mình chê
người vì tự mình thuộc vào gia đình quý phái. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân được nhiều người
biết, có danh xưng. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta
được nhiều người biết, có danh xưng, còn
các Tỷ-kheo này được ít người biết đến, không được
trọng vọng". Vì người ấy tự mình được nhiều người biết đến
nên khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
phi Chân nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo, người Chân Nhân
suy nghĩ như sau : "Không phải vì mình được nhiều người biết đến
mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay sân pháp đi đến
đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ. Nếu một
người xuất gia không được nhiều người biết, không
có danh xưng, và người ấy hành trì đúng pháp và thuận
pháp, hành trì chơn chánh, hành trì thuận
pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người ấy được tán thán".
Người ấy sau khi lấy đạo lộ làm chính yếu, không
khen mình chê người vì tự mình được nhiều người biết và danh xưng.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân
nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân được các vật
(cúng dường) như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, y liệu trị bệnh. Người ấy
suy nghĩ như sau : "Ta nhận được các vật (cúng dường) như y phục, các đồ ăn khất thực, sàng tọa, y liệu trị bệnh, còn các Tỷ-kheo này
không nhận được y phục, các đồ ăn khất thực, sàng tọa, y liệu trị bệnh". Vì người
ấy thâu nhận được như vậy nên khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo là phi Chân nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ như sau : "Không phải vì tự
mình nhận được các vật (cúng dường như) y phục, các
đồ ăn khất thực, sàng tọa, y liệu
trị bịnh mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các
sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến
đoạn trừ. Nếu một người xuất gia không nhận được các vật (cúng dường
như) y phục, các đồ ăn khất thực, sàng
tọa, y liệu trị bệnh và người ấy
hành trì đúng pháp và thuận pháp hành, trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người ấy được tán thán". Người ấy sau khi lấy đạo
lộ làm chánh yếu, không khen mình chê người tự mình
được thâu nhận như vậy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo có người phi Chân nhân là người nghe nhiều.
Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là người nghe nhiều, còn
các Tỷ-kheo này không nghe nhiều". Người ấy do được nghe nhiều nên
khen mình chê người. Như vậy này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo, Người
Chân nhân suy nghĩ như sau : "Không phải vì nghe nhiều
mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp
đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu có người không nghe nhiều và người ấy hành trì đúng pháp và thuận
pháp, hành trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở
đây, người ấy được kính trọng, ở
đây, người ấy được tán thán". Người ấy sau
khi lấy đạo lộ làm chánh yếu, không khen mình chê người, vì tự mình được nghe nhiều. Như vậy này
các Tỷ-kheo là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân là bậc trì luật.
Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là bậc trì luật, còn
các Tỷ-kheo này không là bậc trì luật". Do tự mình trì luật, người ấy khen mình chê người. Như vậy, này
các Tỷ-kheo là phi Chân nhân pháp. Và này các Tỷ-kheo, người
Chân nhân suy nghĩ như sau : "Không phải vì tự mình là bậc trì luật
mà các tham pháp đi đến đoạn trừ hay các sân pháp đi
đến đoạn trừ hay các si pháp đi đến đoạn trừ. Nếu
có người không phải là bậc trì luật, những người này
hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn chánh, hành trì thuận
pháp, thời ở đây, người ấy được
kính trọng, ở đây, người ấy được
tán thán". Người ấy sau khi lấy đạo lộ làm chánh yếu,
không khen mình chê người vì tự mình là bậc trì luật. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân là người thuyết
pháp. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là người thuyết pháp, còn các Tỷ-kheo này không phải là người thuyết pháp".
Vì tự mình là người thuyết pháp, nên người ấy khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này
các Tỷ-kheo suy nghĩ như sau : "Không phải do tự
mình là bậc thuyết pháp mà các tham pháp đi đến đoạn trừ,
hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si
pháp đi đến đoạn trừ. Nếu một người không phải là người thuyết
pháp, nhưng hành trì đúng pháp, và thuận pháp, hành trì
chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời
ở đây người ấy được kính trọng, ở
đây, người ấy được tán thán". Người ấy sau
khi lấy đạo lộ làm chánh yếu, không khen mình chê người
vì tự mình là bậc thuyết pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân là người theo hạnh
sống ở núi rừng. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là người theo hạnh
sống ở rừng núi, còn các Tỷ-kheo này không theo hạnh
sống ở rừng núi". Người ấy vì tự mình theo hạnh sống ở rừng
núi nên khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này
các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Không phải vì tự
mình theo hạnh sống ở rừng núi mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các
si pháp đi đến đoạn trừ. Nếu một người không theo hạnh sống ở rừng
núi nhưng hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn
chánh, hành trì thuận pháp, thời ở
đây, người ấy được kính trọng, ở
đây, người ấy được tán thán". Người ấy sau
khi lấy đạo lộ làm chánh yếu không khen mình chê người
vì tự mình theo hạnh sống ở rừng núi. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân theo hạnh mặc phấn
tảo y. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là người theo hạnh mặc phấn
tảo y. Còn các Tỷ-kheo này không là người theo hạnh mặc phấn tảo
y". Người này do tự mình theo hạnh mặc phấn tảo y nên khen mình chê
người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Không phải vì tự mình theo hạnh mặc
phấn tảo y mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các
sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến
đoạn trừ. Nếu một người không theo hạnh mặc phấn tảo y
nhưng người ấy hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn chánh,
hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người ấy tán thán". Người
ấy sau khi lấy đạo lộ làm chánh yếu, không khen mình
chê người vì tự mình mặc phấn tảo y. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân là người theo hạnh
khất thực. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta theo hạnh khất thực, còn các Tỷ-kheo này không theo hạnh khất thực". Người
ấy, do tự mình theo hạnh khất thực nên khen mình chê
người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân này các Tỷ-kheo suy nghĩ như sau : "Không phải vì tự mình theo hạnh khất
thực mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân
pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn
trừ. Nếu một người không theo hạnh khất thực nhưng người ấy hành
trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời
ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người
ấy được tán thán". Người ấy sau khi lấy đạo lộ làm chánh yếu, không khen mình chê người, vì tự mình theo hạnh khất thực.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân
nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, một người phi Chân nhân theo hạnh sống dưới
gốc cây. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là người theo hạnh sống
dưới gốc cây, còn các Tỷ-kheo này không theo hạnh sống
dưới gốc cây". Người ấy do tự mình theo hạnh sống dưới gốc cây
nên khen mình chê người Như vậy, này
các Tỷ-kheo là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Không
phải vì tự mình theo hạnh sống dưới gốc cây mà các tham pháp đi đến
đoạn trừ, hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các
si pháp đi đến đoạn trừ. Nếu một người không theo hạnh sống dưới
gốc cây, nhưng người ấy hành trì đúng pháp và thuận
pháp, hành trì chơn chánh và hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người ấy được tán thán".
Người ấy sau khi lấy đạo lộ làm chánh yếu, không
khen minh chê người vì tự mình theo hạnh sống dưới gốc cây. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân theo hạnh sống tại nghĩa địa..
(như trên)... theo hạnh sống ngoài trời.. (như trên)... theo hạnh thường
ngồi (không nằm)... (như trên)... Theo hạnh ngồi tại chỗ mời... (như trên)...
theo hạnh chỉ ăn một lần ngồi. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta theo
hạnh chỉ ăn một lần ngồi, còn các Tỷ-kheo này không
theo hạnh chỉ ăn một lần ngồi. Do tự mình theo hạnh chỉ ăn một lần
ngồi nên khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này
các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Không phải vì mình
theo hạnh chỉ ăn một lần ngồi mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các
si pháp đi đến đoạn trừ. Nếu một người không theo hạnh chỉ ăn một
lần nhưng hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì
chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng,
ở đây, người ấy được tán thán". Người
ấy sau khi lấy đạo lộ làm chánh yếu, không
khen mình chê người vì tự mình sống chỉ ăn một lần ngồi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân ly dục,
ly bất thiện pháp, chứng và trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có
tâm có tứ. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta là người chứng được
sơ Thiền, các người Tỷ-kheo này không chứng được
sơ Thiền". Người ấy do tự mình chứng được sơ Thiền nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này
các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Định sơ Thiền, tự tánh là vô tham ái, Thế Tôn đã nói
như vậy. Những ai nghĩ thế này, thế khác,
thời tự tánh liền đổi khác". Người ấy sau khi lấy vô tham
ái làm chánh yếu, không khen mình chê người vì chứng
được định sơ Thiền. Như vậy, này các Tỷ-kheo là
Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân pháp diệt tầm và
tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhứt tâm.. Thiền thứ ba.. chứng và trú thiền thứ
tư. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta chứng đắc định Thiền thứ tư.
Còn các Tỷ-kheo này không chứng đắc định Thiền thứ
tư". Người ấy vì chứng đắc định Thiền thứ tư ấy nên
khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi
Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Định Thiền thứ tư, tánh
là vô tham ái. Thế Tôn đã nói như vậy. Những ai nghĩ thế này, thế khác, thời tự tánh liền đổi khác".
Người ấy sau khi lấy vô tham ái làm chánh yếu, không
khen mình chê người vì chứng đắc định Thiền thứ tư. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân vượt
lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, người
ấy nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và
trú Không vô biên xứ. Người ấy suy nghĩ như sau : "Ta chứng được
định Không vô biên xứ, còn các Tỷ-kheo này không chứng
được định Không vô biên xứ". Người ấy, vì chứng
được định Không vô biên xứ ấy, nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người
Chân nhân, này các Tỷ-kheo suy nghĩ như sau : "Định
Không vô biên, xứ tự tánh là vô tham ái. Thế Tôn đã
nói như vậy. Những ai nghĩ như thế này, thế khác, thời tự tánh liền đổi khác". Người ấy sau khi lấy
vô tham ái làm chính yếu, không khen mình chê người vì
chứng được định Không vô biên xứ. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân, vượt
lên Không vô biên xứ, nghĩ rằng : "Thức là vô
biên" chứng và trú Thức vô biên xứ. Người ấy
suy nghĩ như sau : "Ta chứng được định Thức Vô biên xứ, còn các Tỷ-kheo này không chứng được định Thức vô biên
xứ". Người ấy vì chứng được định Thức vô biên xứ ấy nên khen mình chê người. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Định
Thức vô biên xứ tự tánh là vô tham ái. Thế Tôn đã
nói như vậy. Những ai nghĩ thế này, thế khác, thời tự tánh liền đổi khác"… Người ấy sau khi lấy
vô tham ái làm chính yếu, không khen mình chê người vì
chứng được định Thức vô biên xứ. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân vượt lên một
cách hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ rằng : "Không
có sở hữu" chứng và trú Vô sở hữu xứ. Người
ấy suy nghĩ như sau : "Ta chứng được định Vô sở hữu xứ còn, các Tỷ-kheo này không chứng được định Vô sở hữu
xứ". Người ấy, vì chứng được định Vô sở hữu xứ ấy, nên khen mình chê người. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Định
Vô sở hữu xứ tự tánh là vô tham ái. Thế Tôn đã
nói như vậy. Những ai nghĩ thế này, thế khác, thời tự tánh liền đổi khác". Người ấy sau khi lấy
vô tham ái làm chánh yếu, không khen mình chê người vì
chứng được định Vô sở hữu xứ. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân vượt lên Vô sở hữu
xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Người
ấy suy nghĩ như sau : "Ta chứng được định Phi tưởng phi phi tưởng
xứ, còn các Tỷ-kheo này không chứng được định Phi
tưởng phi phi tưởng xứ". Người ấy vì chứng được định Phi tưởng
phi phi tưởng xứ ấy nên khen mình chê người. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp. Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau : "Định
Phi tưởng phi phi tưởng xứ tự tánh là vô tham ái. Thế Tôn đã nói như vậy. Những ai nghĩ thế này thế khác thời tự tánh liền đổi khác".
Người ấy sau khi lấy vô tham ái làm chánh yếu, không
khen mình chê người vì định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, người Chân nhân sau khi vượt lên Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng định sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc
của vị này được đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
này không nghĩ mình là bất cứ vật gì, không nghĩ đến
bất cứ chỗ nào, không nghĩ đến bất cứ vì sự việc
gì.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- 114. KINH
NÊN HÀNH TRÌ KHÔNG NÊN HÀNH TRÌ [^]
- (Sevitabha-asevitabhasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi, Jetavana, tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp
Cô Độc). Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo :
"Này các Tỷ-kheo". – "Bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo
ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau : – "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông pháp môn về nên hành trì, không nên hành trì. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ Ta
sẽ giảng" – "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy
vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :
– Này các Tỷ-kheo, Ta
nói thân hành có hai loại: "Nên hành trì, không nên
hành trì; và đây là sự tương đối giữa thân hành". Này các Tỷ-kheo, Ta nói khẩu hành cũng có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì; và đây là sự tương đối giữa khẩu hành".
Này các Tỷ-kheo, Ta nói ý hành cũng có hai loại:
"Nên hành trì, không nên hành trì; và đây là sự tương
đối giữa ý hành". Này các Tỷ-kheo, Ta nói tâm sanh
cũng có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì;
và đây là sự tương đối giữa tâm sanh". Này các Tỷ-kheo, Ta nói tưởng đắc cũng có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì; và đây là sự tương đối giữa tưởng
đắc". Kiến đắc, này các Tỷ-kheo, Ta
nói cũng có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành
trì; và đây là sự tương đối giữa kiến đắc (ditthipatilabha)". Ngã
tánh đắc, này các Tỷ-kheo, Ta nói cũng
có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì; và
đây là sự tương đối giữa ngã tánh đắc".
Được nghe nói vậy Tôn
giả Sariputta bạch Thế Tôn :
– Bạch Thế Tôn, lời
nói này được Thế Tôn nói lên vắn tắt, không giải
nghĩa rộng rãi, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như
sau :
Thân hành, này
các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa thân
hành". Thế Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói ấy được nói
lên ? Bạch Thế Tôn nếu một thân hành nào khi hành
trì, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện
pháp thối giảm, thân hành như vậy không nên hành trì.
Bạch Thế Tôn, và một thân hành nào khi hành trì thời
bất thiện pháp thối giảm, thiện pháp tăng trưởng, thân hành như vậy nên hành trì.
Bạch Thế Tôn, thân
hành gì khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng, thiện
pháp thối giảm ? Ở đây, bạch Thế Tôn, có
người sát sanh, tàn nhẫn (?) tay lấm
máu, tâm chuyên sát hại, đả thương, tâm không từ bi đối với các loại hữu tình. Người này lấy
của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng hoặc tại rừng núi, không
cho người ấy, người ấy lấy trộm tài vật ấy. Người
ấy sống tà hạnh trong các dục vọng, giao cấu các hạng
nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có
anh che chở, có chị che chở, có bà
con che chở, đã có chồng, được hình
phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được
trang sức bằng vòng hoa. Thân hành như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm.
Bạch Thế Tôn, thân
hành gì khi hành trì thời bất thiện pháp thối giảm, thiện
pháp tăng trưởng ?
Ở đây, bạch Thế
Tôn, có người từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết
tàm quý, có lòng từ, sống thương xót
đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Người ấy từ bỏ
lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho; bất cứ
tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi, không cho người ấy, người
ấy không lấy trộm tài vật ấy. Người ấy từ bỏ sống tà hạnh trong
các dục vọng, không giao cấu với các hạng nữ nhân
có mẹ che chở, có cha che chở, có anh
che chở, có chị che chở, có bà con
che chở, đã có chồng, được hình phạt
gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang
sức bằng vòng hoa. Thân hành như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm các thiện pháp tăng trưởng.
Thân hành, này
các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa thân
hành". Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy lời
nói ấy được nói lên.
Khẩu hành, này
các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại: "Nên hành trì,
không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa khẩu hành".
Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên gì lời nói ấy được nói lên ? Bạch
Thế Tôn, một khẩu hành nào khi hành trì thời bất thiện
pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm, khẩu
hành như vậy không nên hành trì. Bạch Thế Tôn và một
khẩu hành nào khi hành trì bất thiện pháp thối giảm, thiện pháp tăng trưởng khẩu hành như vậy
nên hành trì.
Bạch Thế Tôn, khẩu
hành gì khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng, thiệp
pháp thối giảm ? Ở đây, bạch Thế Tôn, có
người vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay
đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa
vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi
: "Này Người kia, hãy nói những gì Ông biết".
Dầu cho người ấy không biết, người ấy nói :
"Tôi biết"; dầu cho người ấy biết, người
ấy nói : "Tôi không biết" hay dầu cho người
ấy không thấy, người ấy nói : "Tôi thấy" hay dầu cho người ấy thấy, người ấy nói
: "Tôi không thấy". Như vậy lời nói của người
ấy trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự
kỷ, hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc
vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì. Và người ấy là người nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, đến chỗ kia nói
để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở
chỗ kia, đi nói với những người này để sanh chia rẽ
ở những người kia. Như vậy, người ấy ly gián những
kẻ hòa hợp, hay xúi dục những kẻ ly gián, ưa thích
phá hoại, vui thích phá hoại, thích
thú phá hoại, nói những lời đưa đến phá hoại. Và
người ấy là người nói lời thô ác. Bất cứ lời gì thô ác, tàn ác, khiến người đau khổ, khiến người tức giận, liên hệ đến phẫn
nộ, không đưa đến Thiền định, người
ấy nói những lời như vậy. Và người ấy nói những lời phù phiếm, nói phi thời, nói những lời phi chơn, nói những lời không lợi ích, nói những
lời phi pháp, nói những lời phi luật, nói
những lời không đáng gìn giữ. Vì nói phi thời nên lời nói không có thuận
lý, không có mạch lạc, hệ thống, không có lợi ích. Khẩu hành như vậy, bạch
Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng
trưởng, các thiệ⮠pháp thối giảm.
Bạch Thế Tôn, khẩu
hành gì khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các
thiện pháp tăng trưởng ? Ở đây, bạch Thế Tôn, có người từ bỏ vọng ngữ, tránh xa vọng
ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ
chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay
đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi: "Này người
kia, hãy nói những gì Ông biết". Nếu biết, người ấy nói: "Tôi biết " nếu
không biết, người ấy nói : "Tôi không biết" hay
nếu không thấy, người ấy nói : "Tôi không thấy" nếu
thấy, người ấy nói : "Tôi thấy". Như vậy lời
nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc
vì nguyên nhân tự kỷ, hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì. Từ bỏ nói hai
lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều
gì ở chỗ này, không đi đến chỗ kia nói để sanh chia
rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những
người kia; như vậy, người ấy sống hòa hợp những kẻ
ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hợp, ưa
thích hòa hợp, vui thích hòa hợp, thích
thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Từ bỏ
lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác; như vậy
người ấy nói những lời nói nhu hòa, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người. Từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm; người ấy nói đúng thời, nói những lời chơn thật, nói những lời
có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói
những lời về luật, nói những lời đáng được gìn
giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi. Khẩu
hành như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành
trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện
pháp tăng trưởng.
Khẩu hành, này
các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa khẩu
hành". Thế Tôn đã nói như vậy, và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
Ý hành, này các
Tỷ-kheo, Tôi nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa khẩu
hành". Thế Tôn đã nói như vậy, và do duyên gì lời
nói ấy được nói lên ? Bạch Thế Tôn, một ý hành
nào khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các
thiện pháp thối giảm, khẩu hành như vậy không nên
hành trì. Bạch Thế Tôn, và một ý hành nào khi hành
trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện
pháp tăng trưởng, ý hành như vậy nên hành trì.
Ý hành gì, bạch
Thế Tôn, khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng, thiệp pháp thối giảm ? Ở đây, bạch Thế
Tôn có người có tham ái, tham lam tài vật kẻ khác, nghĩ rằng : "Ôi, mong rằng mọi tài vật
của người khác trở thành của mình !" Lại có người sân tâm, khởi lên hại ý, hại niệm như sau :
"Mong rằng những loài hữu hình này bị giết, hay bị
tàn sát, hay bị tiêu diệt hay bị làm
hại, hay mong chúng không còn tồn tại". Ý hành như
vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời
các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối
giảm.
Ý hành gì, bạch
Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng ? Ở đây có
người không có tham ái, không tham lam tài vật của kẻ
khác, nghĩ rằng : "Ôi, mong rằng mọi
tài vật của người khác không trở thành của mình !" Lại có người
không có sân tâm, không khởi lên hại ý, hại
niệm, nhưng nghĩ rằng: "Mong rằng những loài hữu
tình này sống không thù hận, không oán thù,
không nhiễu loạn, được an lạc, lo
nghĩ tự thân". Ý hành như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng.
Ý hành, này các
Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì và như vậy là sự tương đối giữa ý
hành". Thế Tôn đã nói như vậy, và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
Tâm sanh, này các
Tỷ-kheo, tôi nói cũng có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì". Thế Tôn đã nói như vậy. Và do
duyên gì, lời nói ấy được nói lên ? Bạch Thế Tôn, nếu một tâm sanh nào khi hành trì, các bất
thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, tâm sanh như vậy không nên hành trì. Và một tâm sanh nào, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất
thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, tâm sanh như vậy nên hành trì.
Tâm sanh gì, bạch
Thế Tôn, khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm ? Ở đây, bạch Thế
Tôn, có người có tham dục, sống với
tâm câu hữu với tham dục; người ấy sân hận và sống với tâm câu hữu
với sân hận; người ấy có hại tâm và sống với tâm câu hữu với hại
tâm. Tâm sanh như vậy, bạch Thế Tôn, khi
hành trì bất thiện pháp tăng trưởng, thiện
pháp thối giảm. Tâm sanh gì, bạch Thế Tôn,
khi hành trì bất thiện pháp thối giảm, thiện pháp tăng trưởng ? Ở đây, bạch
Thế Tôn, có người không có tham dục; sống với tâm
không câu hữu với tham dục; người ấy không có sân hận và sống với
tâm không câu hữu với sân hận; người ấy không có hại tâm và sống với
tâm không câu hữu với hại tâm. Tâm sanh như vậy, bạch
Thế Tôn, nếu hành trì thời bất thiện pháp thối giảm, thiện pháp tăng trưởng.
Tâm sanh, này các
Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa tâm
sanh". Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy, lời
nói ấy được nói lên.
Tưởng đắc, này
các Tỷ-kheo, tôi nói cũng có hai loại : "Nên hành
trì, không nên hành trì". Thế Tôn đã nói vậy. Và
do duyên gì, lời nói ấy được nói lên ? Một tưởng
đắc nào, bạch Thế Tôn, khi hành trì các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện
pháp thối giảm, tưởng đắc như vậy không nên hành
trì. Và một tưởng đắc nào, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, tưởng đắc
như vậy nên hành trì.
Tưởng đắc gì, bạch
Thế Tôn, khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm ? Ở đây, bạch Thế
Tôn, có người có tham dục sống với tưởng câu hữu với
sân hận, người ấy có hại tâm và sống với tưởng câu
hữu với hại tâm. Tưởng đắc như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng,
thiệp pháp thối giảm. Tưởng đắc gì, bạch Thế
Tôn, khi hành trì, bất thiện pháp thối
giảm, thiệp pháp tăng trưởng ? Ở đây, bạch
Thế Tôn, có người không có tham dục, sống
với tưởng không câu hữu với tham dục, người ấy không
có sân hận và sống với tưởng không câu hữu với sân hận,
người ấy không có hại tâm và sống với tưởng không câu hữu với
hại tâm. Tưởng đắc như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời bất thiện pháp thối giảm, thiện
pháp tăng trưởng.
Tưởng đắc, này
các Tỷ-kheo, tôi nói có hai loại : "Nên hành trì,
không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa tưởng đắc".
Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói
lên.
Kiến đắc, này các Tỷ-kheo, tôi
nói có hai loại : "Nên hành trì và không nên hành trì; và như vậy là
sự tương đối giữa kiến đắc". Thế Tôn đã nói như vậy. Và do
duyên gì, lời nói ấy được nói lên ? Một kiến đắc nào, bạch Thế
Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp
thối giảm, kiến đắc như vậy không nên hành trì. Và một kiến đắc nào
khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng
trưởng, kiến đắc như vậy nên hành trì. Kiến đắc gì, bạch Thế Tôn,
khi hành trì thời bất thiện pháp tăng trưởng; thiện pháp thối giảm ?
Ở đây, bạch Thế Tôn có người có (tà) kiến như sau : "Không có bố
thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các
nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có mẹ,
không có cha, không có loại hóa sanh, ở đời không có những vị Sa-môn,
những vị Bà-la-môn, chánh hướng, chánh hạnh đã tự mình với thượng
trí chứng tri, chứng đạt và an trú đời này, đời khác và truyền dạy
lại". Kiến đắc như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì, các bất thiện
pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm. Kiến đắc gì, bạch Thế
Tôn, khi hành trì thời bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng
trưởng ?
Ở đây, bạch Thế Tôn, có người
có (chánh) kiến như sau : "Có bố thí, có lễ hy sinh, có tế tự, có
quả dị thục các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời khác, có mẹ,
có cha, có các loại hóa sanh, ở đời có những vị Sa-môn, Bà-la-môn
chánh hướng, chánh hạnh đã tự mình với thượng trí chứng tri, chứng
đắc và an trú đời này, đời khác và truyền dạy lại". Kiến đắc
như vậy, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm,
các thiện pháp tăng trưởng.
Kiến đắc, này các Tỷ-kheo, tôi
nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự
sai trái về kiến đắc". Thế Tôn đã nói như vậy, và do duyên như vậy,
lời nói ấy được nói lên.
Ngã tánh đắc, này các Tỷ-kheo,
tôi nói cũng có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy
là sự tương đối giữa ngã tánh". Thế Tôn đã nói như vậy, và do
duyên gì lời nói ấy được nói lên ? Ngã tánh đắc nào, bạch Thế Tôn,
khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối
giảm, ngã tánh đắc như vậy không nên hành trì. Ngã tánh đắc nào, bạch
Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện
pháp tăng trưởng, ngã tánh đắc như vậy nên hành trì. Ngã tánh đắc gì,
bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các
thiện pháp thối giảm ? Ngã tánh đắc có hại, bạch Thế Tôn, vì sự
không rốt ráo khi được sanh khởi, các bất thiện pháp phải tăng trưởng,
các thiện pháp thối giảm. Ngã tánh đắc vô hại, bạch Thế Tôn, vì sự
rốt ráo khi được sanh khởi, các bất thiện pháp thối giảm, các thiện
pháp tăng trưởng.
Ngã tánh đắc, này các Tỷ-kheo,
tôi nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là
sự sai khác về ngã tánh đắc". Thế Tôn đã nói như vậy, và do
duyên như vậy lời nói ấy được nói lên. Bạch Thế Tôn, lời nói mà
được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa rộng rãi,
con được hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
Lành thay, lành thay, này Sariputta !
Lành thay, này Sariputta ! Lời nói này được Ta nói lên một cách vắn tắt,
không giải nghĩa rộng rãi, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như
vậy.
Thân hành, này các Tỷ-kheo, Ta nói
có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương
đối giữa thân hành". Ta đã nói như vậy và do duyên gì, lời nói ấy
được nói lên ? Thân hành nào, này Sariputtta, khi hành trì thời bất thiện
pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm, thân hành như vậy không nên
hành trì. Và thân hành nào, này Sariputtta, khi hành trì thời bất thiện
pháp thối giảm, thiệp pháp tăng trưởng, thân hành như vậy nên hành
trì.
Thân hành gì, này Sariputta, khi hành
trì bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp thối giảm ? Ở đây, này
Sariputta, có người sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả
thương, tâm không từ bi đối với các loại hữu tình. Người này lấy của
không cho; bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng hoặc
tại rừng núi không cho người ấy, người ấy lấy trộm tài vật ấy. Người
ấy sống tà hạnh trong các dục vọng, giao cấu các hạng nữ nhân có mẹ
che chở, có cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở,
đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân
được trang sức bằng vòng hoa. Thân hành như vậy, này Sariputta, khi hành
trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm.
Thân hành gì, này Sariputta, khi hành
trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng ?
Ở đây, này Sariputtta, có người từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng,
bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất
cả chúng sanh và loài hữu tình. Người ấy từ bỏ lấy của không cho,
tránh xa lấy của không cho; bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại
thôn làng, hoặc tại rừng núi không cho người ấy, người ấy không lấy
trộm tài vật ấy. Người ấy từ bỏ sống theo tà hạnh trong các dục vọng,
không giao cấu với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có
anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, được hình
phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng
hoa. Thân hành như vậy, này Sariputta, khi hành trì thời các bất thiện
pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng.
Thân hành, này các Tỷ-kheo, ta nói
có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương
đối giữa thân hành". Ta đã nói như vậy và do duyên như vậy, lời nói
ấy được nói lên.
Khẩu hành, này các Tỷ-kheo, Ta nói
có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương
đối giữa khẩu hành". Ta đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói
ấy được nói lên ? Này Sariputta, khẩu hành nào khi hành trì thời các bất
thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, khẩu hành như vậy
không nên hành trì. Và khẩu hành nào, này Sariputta, khi hành trì, các bất
thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, khẩu hành như vậy nên
hành trì.
Khẩu hành gì, này Sariputta, khi
hành trì thời các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm
? Ở đây, này Sariputta, có người vọng ngữ đến chỗ tập hội... (như
trên)... (những thay đổi cần thiết cho đến đoạn ngã tánh đắc... )
"Ngã tánh đắc, này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại : "Nên hành
trì, không nên hành trì; và như vậy là sự tương đối giữa ngã tánh đắc",
Ta đã nói như vậy, và do duyên như vậy lời nói ấy được nói lên.
Này Sariputta, lời nói này được
Ta nói một cách vắn tắt, cần phải hiểu một cách rộng rãi như vậy.
Sắc do mắt nhận thức, này
Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì".
Tiếng do tai nhận thức, này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành
trì, không nên hành trì". Hương do mũi nhận thức, này Sariputta, Ta nói
có hai loại : "Nên hành trì không nên hành trì". Vị do lưỡi nhận
thức, này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành
trì". Xúc do thân nhận thức, này Sariputta, Ta nói có hai loại :
"Nên hành trì, không nên hành trì". Pháp do ý nhận thức, này
Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì".
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả
Sariputta bạch Thế Tôn :
– Bạch Thế Tôn, lời nói này
được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa rộng rãi,
con được hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như sau :
"Sắc do mắt nhận thức, này
Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì".
Thế Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói ấy được nói lên ? Sắc
nào do mắt nhận thức bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện
pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, sắc do mắt nhận thức như
vậy không nên hành trì. Sắc nào do mắt nhận thức, bạch Thế Tôn khi
hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng,
sắc ấy do mắt nhận thức như vậy nên hành trì. "Sắc do mắt nhận
thức, này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành
trì". Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy lời nói ấy được
nói lên.
"Tiếng do tai nhận thức, này
Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì".
Thế Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói ấy được nói lên ? Tiếng
nào do tai nhận thức bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện
pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, tiếng do tai nhận thức như
vậy không nên hành trì. Tiếng nào do tai nhận thức, bạch Thế Tôn, khi
hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng,
tiếng do tai nhận thức như vậy nên hành trì. "Tiếng do tai nhận thức,
này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành
trì". Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy lời nói ấy được
nói lên.
"Hương do mũi nhận thức, này
Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì".
Thế Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói ấy được nói lên ? Hương
nào do mũi nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện
pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, hương do mũi nhận thức
như vậy không nên hành trì. Hương nào do mũi nhận thức, bạch Thế Tôn,
khi hành trì, các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng,
hương do mũi nhận thức như vậy nên hành trì : "Hương do mũi nhận thức,
này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành
trì". Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy lời nói ấy được
nói lên.
"Vị do lưỡi nhận thức, này
Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì".
Thế Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói ấy được nói lên. Vị
nào do lưỡi nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện
pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, vị do lưỡi nhận thức
như vậy không nên hành trì. Vị nào do lưỡi nhận thức, bạch Thế Tôn,
khi hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng
trưởng, vị do lưỡi nhận thức như vậy nên hành trì. "Vị do lưỡi
nhận thức, này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên
hành trì". Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy lời nói ấy
được nói lên.
"Xúc do thân nhận thức, này
Sariputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì". Thế
Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói ấy được nói lên ? Xúc
nào do thân nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện
pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, xúc do thân nhận thức như
vậy không nên hành trì. Xúc nào do thân nhận thức, bạch Thế Tôn, khi
hành trì thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng,
xúc do thân nhận thức như vậy nên hành trì. "Xúc do thân nhận thức,
này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành
trì". Thế Tôn đã nói như vậy và do duyên như vậy lời nói ấy được
nói lên.
"Pháp do ý nhận thức, này
Sariputta, Ta nói có hai loại: "Nên hành trì, không nên hành trì". Thế
Tôn đã nói như vậy. Và do duyên gì lời nói ấy được nói lên ? Pháp
nào do ý nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các bất thiện
pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, pháp do ý nhận thức như vậy
không nên hành trì. Pháp nào do ý nhận thức, bạch Thế Tôn, khi hành trì
thời các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, pháp
do ý nhận thức như vậy nên hành trì. Pháp do ý nhận thức, này Sariputta,
Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì". Thế Tôn
đã nói như vậy và do duyên như vậy lời nói ấy được nói lên.
Bạch Thế Tôn, lời nói này được
Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa rộng rãi, con được
hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
– Lành thay, lành thay, này Sariputta
! Lành thay, này Sariputta ! Lời nói này được Ta nói lên một cách vắn tắt,
không giải nghĩa rộng rãi, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như
vậy.
Sắc do mắt nhận thức, này
Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì". Lời
nói như vậy được Ta nói lên. Và do duyên gì, lời nói ấy được nói
lên ?... (như trên)... Pháp do ý nhận thức, này Sariputta, Ta nói có hai loại
: "Nên hành trì, không nên hành trì". Lời nói như vậy được Ta nói
lên và do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên.
Này Sariputta, lời nói này được
Ta nói lên một cách vắn tắt, ý nghĩa lời nói ấy được hiểu một cách
rộng rãi như vậy.
Ý, này Sariputta, Ta nói có hai loại
: "Nên hành trì, không nên hành trì". Đồ ăn khất thực, này
Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì".
Sàng tọa, này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên
hành trì". Làng, này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì,
không nên hành trì". Thị trấn, này Sariputta, Ta nói có hai loại:
"Nên hành trì, không nên hành trì". Đô thị, này Sariputta, Ta nói
có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì", Quốc độ, này
Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì".
Người (Puggala, ), này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì,
không nên hành trì".
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả
Sariputta bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, lời nói này
được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng
rãi, con được hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như sau :
"Ý, này Sariputta, Ta nói có hai
loại : "Nên hành trì, không nên hành trì". Thế Tôn đã nói như vậy.
Và do duyên gì, lời nói ấy được nói lên ? Ý nào, bạch Thế Tôn, khi
hành trì, các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp thối giảm, ý
như vậy không nên hành trì. Ý nào, bạch Thế Tôn, khi hành trì thời các
bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng, ý như vậy nên
hành trì. "Ý, này Sariputta, Ta nói có hai loại : "Nên hành trì,
không nên hành trì". Thế Tôn đã nói lên như vậy. Và do duyên như vậy,
lời nói ấy được nói lên.
"Món ăn khất thực, này
Sariputta, Ta nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói
lên".
"Sàng tọa, này Sariputta, Ta nói
có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên".
"Làng, này Sariputta, Ta nói có
hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên".
"Thị trấn, này Sariputta, Ta
nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên".
"Đô thị, này Sariputta, Ta nói
có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên".
"Quốc độ, này Sariputta, Ta
nói có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên".
"Người, này Sariputta, Ta nói
có hai loại... do duyên như vậy, lời nói ấy được nói lên".
Bạch Thế Tôn, lời nói này được
Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải thích rộng rãi, con đã
hiểu một cách rộng rãi như vậy.
– Lành thay, lành thay, này Sariputta
! Lành thay, này Sariputta ! Lời nói này được Ta nói lên vắn tắt, không
giải thích rộng rãi, Ông đã hiểu một cách rộng rãi như vậy.
Y, này Sariputta, Ta nói có hai loại
: "Nên hành trì, không nên hành trì". Ta đã nói lên như vậy. Và
do duyên gì, lời nói ấy được nói lên ? Y nào, này Sariputta, khi hành trì
thời các bất thiện pháp tăng trưởng... Do duyên như vậy, lời nói ấy
được nói lên.
Đồ ăn khất thực, này Sariputta,
Ta nói có hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì". Ta đã nói
như vậy. Và do duyên gì, lời nói ấy được nói lên ?... Do duyên như vậy,
lời nói ấy được nói lên.
Sàng tọa, này Sariputta, Ta nói có
hai loại : "Nên hành trì, không nên hành trì"... (như trên)... Sàng
tọa như vậy không nên hành trì. Sàng tọa như vậy nên hành trì.... (như
trên)... Làng như vậy không nên hành trì ... (như trên) ... Làng như vậy nên
hành trì... (như trên).. Thị trấn như vậy không nên hành trì... (như trên)...
Thị trấn như vậy nên hành trì.... (như trên).... Đô thị như vậy không
nên hành trì... (như trên)... Đô thị như vậy nên hành trì... (như trên)...
Quốc độ như vậy không nên hành trì ... (như trên) ... Quốc độ như vậy
nên hành trì ... (như trên) ... Người, này Sariputta, Ta nói có hai loại :
"Nên hành trì và không nên hành trì". Ta đã nói như vậy. Và do
duyên gì, lời nói ấy được nói lên ? Người, này Sariputta... Do duyên như
vậy, lời nói ấy được nói lên.
Này Sariputta, lời nói này được
Ta nói vắn tắt, ý nghĩa (lời nói ấy) cần được hiểu một cách rộng
rãi như vậy.
Này Sariputta, nếu tất cả những vị
Sát đế lỵ, đối với lời nói này được Ta nói vắn tắt, có thể hiểu
ý nghĩa lời nói ấy một cách rộng rãi như vậy, tất cả những vị ấy
sẽ được hưởng hạnh phúc, an lạc lâu dài. Này Sariputta, nếu tất cả
những vị Bà-la-môn .. nếu tất cả những vị Vessa... Này Sariputta, nếu tất
cả những vị Thủ đà (Sudda), đối với lời nói này được Ta nói vắn
tắt, có thể hiểu ý nghĩa lời nói ấy một cách rộng rãi như vậy, tất
cả những vị ấy sẽ được hưởng hạnh phúc an lạc lâu dài.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn
giả Sariputta hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.