- Kinh Trung bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
Phần XXIX
(137) Kinh Phân biệt sáu
xứ
(138) Kinh Tổng thuyết và biệt thuyết
(139) Kinh Vô tránh phân biệt
(140) Kinh Giới phân biệt
(141) Kinh Phân biệt về sự thật
- 137. KINH
PHÂN BIỆT SÁU XỨ [^]
- (Salayatanavibhangasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi
(Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo" – "Bạch
Thế Tôn" . Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như
sau :
– Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông phân biệt sáu xứ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ
nói.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau :
– Có sáu nội xứ cần phải biết.
Có sáu ngoại xứ cần phải biết. Có sáu thức thân cần phải biết. Có
sáu xúc thân cần phải biết. Có mười tám ý hành cần phải biết. Có ba
mươi sáu loại hữu tình cần phải biết. Tại đây, do y cứ cái này, đoạn
tận cái này, có ba niệm xứ mà một bậc Thánh phải thực hành, và có thực
hành (niệm xứ) ấy, bậc Thánh mới xứng là bậc Đạo sư diễn giảng đồ
chúng. Trong các bậc Huấn luyện sư, vị ấy được gọi là bậc Vô thượng
Điều ngự sư, điều phục các hạng người đáng được điều phục. Đây
là tổng thuyết về phân biệt sáu xứ.
Khi được nói đến "Sáu nội
xứ cần phải biết", do duyên gì, được nói đến như vậy ? Nhãn xứ,
nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Khi được nói đến :
"Sáu nội xứ cần phải biết", chính do duyên này, được nói đến
như vậy.
Khi được nói đến "Sáu ngoại
xứ cần phải biết", do duyên gì, được nói đến như vậy ? Sắc xứ,
thanh xứ, hương xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ. Khi được nói đến :
"Sáu ngoại xứ cần phải biết", chính do duyên này, được nói đến
như vậy.
Khi được nói đến "Sáu thức
thân cần phải biết", do duyên gì, được nói đến như vậy ? Nhãn thức,
nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Khi được nói đến
: "Sáu thức thân cần phải biết", chính do duyên này, được nói
đến như vậy.
Khi được nói đến "Sáu xúc
thân cần phải biết", do duyên gì được nói đến như vậy ? Nhãn
xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Khi được nói đến :
"Sáu xúc thân cần phải biết", chính do duyên này, được nói đến
như vậy.
Khi được nói đến "Mười tám
ý hành cần phải biết", do duyên gì được nói đến như vậy ? Sau
khi mắt thấy sắc, (ý) chạy theo sắc trú xứ của hỷ, chạy theo sắc
trú xứ của ưu, chạy theo sắc trú xứ của xả; sau khi tai nghe tiếng..
(như trên)... ; sau khi mũi ngửi hương... (như trên)... sau khi lưỡi nếm vị...
(như trên).... sau khi thân cảm xúc.. (như trên)... sau khi ý nhận thức
pháp, ý chạy theo pháp khởi lên hỷ chạy theo pháp khởi lên ưu, chạy
theo pháp khởi lên xả. Như vậy, có sáu hỷ hành, có sáu ưu hành, có sáu
xả hành. Khi được nói đến "Mười tám ý hành cần phải biết",
chính do duyên này, được nói đến như vậy.
Khi được nói đến "Ba mươi sáu
loại hữu tình cần phải biết", do duyên gì, được nói đến như vậy
? Sáu hỷ liên hệ tại gia, sáu hỷ liên hệ xuất ly, sáu ưu liên hệ tại
gia, sáu ưu liên hệ xuất ly, sáu xả liên hệ tại gia, sáu xả liên hệ
xuất ly.
Ở đây, thế nào là sáu hỷ liên
hệ tại gia ? Có hỷ khởi lên, hoặc do nhận được hay thấy sự nhận
được các sắc do con mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả
ý, liên hệ đến thế vật; hoặc do nhớ được những gì đã nhận được
về trước, đã qua, đã diệt, đã biến hoại. Loại hỷ như vậy được
gọi là hỷ liên hệ tại gia. Có hỷ khởi lên, hoặc do nhận được hay
thấy sự nhận được các tiếng do tai nhận thức.. (như trên)... các hương
do mũi nhận thức … (như trên) … các vị do lưỡi nhận thức.. (như trên)...
các xúc do thân nhận thức.. (như trên)... các pháp do ý nhận thức, khả
ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý liên hệ đến thế vật; hoặc do nhớ được
những gì đã nhận được về trước, đã qua, đã diệt, đã biến hoại.
Loại hỷ như vậy được gọi là hỷ liên hệ đến tại gia. Sáu hỷ này
liên hệ đến tại gia.
Ở đây, thế nào là sáu hỷ liên
hệ đến xuất ly ? Sau khi biết các sắc pháp là vô thường, biến hoại,
ly tham, biến diệt và nghĩ rằng : "Các sắc pháp xưa kia và các sắc
pháp hiện tại, tất cả sắc pháp là vô thường, khổ, biến hoại".
Sau khi như thật thấy như vậy với chánh trí tuệ, có hỷ khởi lên. Loại
hỷ như vậy được gọi là hỷ liên hệ đến xuất ly. Sau khi biết được
các tiếng... (như trên)... ; các hương... (như trên)... các vị.. (như trên)...
các xúc... (như trên)... các pháp là vô thường, biến hoại, ly dục, biến
diệt và nghĩ rằng : "Các pháp xưa kia và các pháp hiện tại, tất cả
các pháp là vô thường, khổ, biến hoại". Sau khi như thật thấy như
vậy với chánh trí tuệ, có hỷ khởi lên. Loại hỷ như vậy được gọi
là hỷ liên hệ đến xuất ly. Sáu hỷ này liên hệ đến xuất ly.
Ở đây, thế nào là sáu ưu liên hệ
tại gia ? Có ưu khởi lên; hoặc do không nhận được hay thấy sự không
nhận được các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả
ý, liên hệ đến thế vật; hoặc do nhớ được những gì không nhận được
về trước, đã qua, đã diệt, đã biến hoại. Loại ưu như vậy được gọi
là ưu liên hệ tại gia. Có ưu khởi lên, hoặc do không nhận được hay thấy
sự không nhận được các tiếng do tai nhận thức.. (như trên)... các hương
do mũi nhận thức.. (như trên)... các vị do lưỡi nhận thức.. (như trên)...
các xúc do thân nhận thức ... (như trên) ... các pháp do ý nhận thức, khả
ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến thế vật; hoặc do nhớ
được những gì không nhận được về trước, đã qua, đã diệt, đã biến
hoại. Loại ưu như vậy được gọi là ưu liên hệ đến tại gia. Sáu ưu
này liên hệ đến tại gia.
Ở đây, thế nào là sáu ưu liên hệ
đến xuất ly ? Sau khi biết được các sắc pháp là vô thường, biến hoại,
ly tham, biến diệt và nghĩ rằng : "Các sắc pháp xưa kia và các sắc
pháp hiện tại, tất cả sắc pháp là vô thường, khổ, biến hoại".
Sau khi như thật thấy như vậy với chánh trí tuệ, vị ấy khởi lên ước
muốn đối với vô thượng giải thoát, nghĩ rằng : "Khi nào ta có thể
chứng đạt và an trú trong xứ (ayatana) mà các bậc Thánh đang chứng đạt
và an trú ?" Như vậy, do ước muốn đối với các vô thượng giải
thoát, ưu khởi lên do duyên ước muốn. Loại ưu như vậy được gọi là
ưu liên hệ xuất ly. Sau khi biết được các tiếng.... (như trên)... các hương..
(như trên)... các vị... (như trên)... các xúc... (như trên)... các pháp là
vô thường, biến hoại, ly dục, biến diệt và nghĩ rằng : "Các pháp
xưa kia và các pháp hiện tại, tất cả các pháp là vô thường, khổ, biến
hoại". Sau khi sự thật thấy như vậy với chánh trí tuệ, vị ấy khởi
lên ước muốn đối với các vô thượng giải thoát, nghĩ rằng : "Khi
nào ta có thể chứng đạt và an trú trong xứ (ayatana) mà các bậc Thánh
đang chứng đạt và an trú ?" Như vậy, do ước muốn đối với các
vô thượng giải thoát, ưu khởi lên do duyên ước muốn. Loại ưu như vậy
được gọi là ưu liên hệ xuất ly. Sáu ưu này liên hệ xuất ly.
Ở đây, thế nào là sáu xả liên
hệ tại gia ? Khi một người ngu si, ám độn, phàm phu thấy sắc với con mắt,
xả khởi lên của một vô văn phàm phu, không chinh phục được (phiền não),
không chinh phục được quả dị thục, không thấy sự nguy hiểm. Loại xả
như vậy không vượt khỏi sắc pháp. Do vậy, đây được gọi là xả
liên hệ tại gia. Khi một người ngu si, ám độn, phàm phu nghe tiếng với
tai... (như trên)... ; ngửi hương với mũi.. (như trên)... ; nếm vị với lưỡi..
(như trên)... ; cảm xúc với thân... (như trên)... ; nhận thức pháp với
ý, xả khởi lên của một vô văn phàm phu, không chinh phục được (phiền
não), không chinh phục được quả dị thục, không thấy sự nguy hiểm. Loại
xả như vậy không vượt khỏi các pháp. Do vậy, đây được gọi là xả
liên hệ tại gia. Sáu xả này liên hệ tại gia.
Ở đây, thế nào là sáu xả liên
hệ xuất ly ? Sau khi biết sắc pháp là vô thường, biến hoại, ly tham, biến
diệt, nghĩ rằng : "Các sắc pháp xưa kia và sắc pháp hiện tại, tất
cả sắc pháp là vô thường, khổ, biến hoại". Sau khi như thật thấy
như vậy với chánh trí tuệ, xả khởi lên. Loại xả như vậy được gọi
là xả liên hệ xuất ly. Sau khi biết được các tiếng.. (như trên)... ;
các hương... (như trên).. các vị... (như trên).. các xúc.. (như trên)...
các pháp là vô thường, biến hoại, ly dục, biến diệt, nghĩ rằng :
"Các pháp xưa kia và các pháp hiện tại, tất cả các pháp là vô thường,
khổ, biến, hoại". Sau khi như thật thấy như vậy với chánh trí tuệ,
xả khởi lên. Loại xả như vậy được gọi là xả liên hệ xuất ly.
Sáu xả này liên hệ xuất ly.
Khi được nói đến "Ba mươi sáu
loại hữu tình cần phải biết", chính do duyên này, được nói đến
như vậy.
Khi được nói đến "Ở đây,
do y cứ cái này, đoạn tận cái này", do duyên gì, được nói đến
như vậy ? Tại đây, này các Tỷ-kheo, do y cứ do duyên sáu hỷ liên hệ xuất
ly, đoạn tận, vượt qua sáu hỷ liên hệ tại gia. Như vậy là sự đoạn
tận chúng; như vậy là sự vượt qua chúng. Tại đây, này các Tỷ-kheo, do
y cứ, do duyên sáu ưu liên hệ xuất ly; đoạn tận, vượt qua sáu ưu liên
hệ tại gia. Như vậy là sự đoạn tận chúng; như vậy là sự vượt qua
chúng. Tại đây, này các Tỷ-kheo, do y cứ, do duyên sáu xả liên hệ xuất
ly, đoạn tận, vượt qua sáu xả liên hệ tại gia. Như vậy là sự đoạn
tận chúng, là sự vượt qua chúng. Tại đây, này các Tỷ-kheo, do y cứ, do
duyên sáu hỷ liên hệ xuất ly, đoạn tận, vượt qua sáu ưu liên hệ xuất
ly. Như vậy là sự đoạn tận chúng, là sự vượt qua chúng. Tại đây,
này các Tỷ-kheo, do y cứ, do duyên xả liên hệ xuất ly, đoạn tận, vượt
qua sáu hỷ liên hệ xuất ly. Như vậy là sự đoạn tận chúng, là sự vượt
qua chúng.
Này các Tỷ-kheo, có xả đa diện,
y cứ đa diện; có xả nhứt diện, y cứ nhứt diện. Này các Tỷ-kheo, thế
nào là xả đa diện, y cứ đa diện ? Này các Tỷ-kheo, có xả đối với các
sắc pháp, có xả đối với các tiếng, có xả đối với các hương, có xả
đối với các vị có xả đối với các xúc. Như vậy, này các Tỷ-kheo
là xả đa diện, y cứ đa diện. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là xả nhứt
diện, y cứ nhứt diện ? Có xả y cứ Hư không vô biên xứ, có xả y cứ
Thức vô biên xứ, có xả y cứ Vô sở hữu xứ, có xả y cứ Phi tưởng
phi phi tưởng xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo là xả nhứt diện, y cứ nhứt
diện. Ở đây, này các Tỷ-kheo, do y cứ, do duyên xả nhứt diện, xả y cứ
nhứt diện, đoạn tận vượt qua xả đa diện, xả y cứ đa diện. Như vậy
là sự đoạn tận (xả) này, như vậy là sự vượt qua (xả) này. Này các
Tỷ-kheo, do y cứ không tham dục, do duyên không tham dục, đoạn tận, vượt
qua xả nhứt diện, xả y cứ nhứt diện ấy. Như vậy là sự đoạn tận
(xả) này, như vậy là sự vượt qua (xả) này. Khi được nói đến "Tại
đây do y cứ cái này, đoạn tận cái này", chính do duyên này, được
nói đến như vậy.
Khi được nói đến : "Có ba niệm
xứ mà một bậc Thánh phải thực hành, và có thực hành (niệm xứ) ấy,
bậc Thánh mới xứng là bậc Đạo sư diễn giảng đồ chúng", do
duyên gì, được nói đến như vậy ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, bậc Đạo
sư thuyết pháp cho các đệ tử, vì lòng từ mẫn, vì lo cho hạnh phúc của
họ, vì thương tưởng họ, nói rằng : "Đây là hạnh phúc cho các
Ông, đây là an lạc cho các Ông". Một số đệ tử của bậc Đạo sư
ấy không có khéo nghe, không có lóng tai, không có an trú tâm vào chánh
trí, và hành động ngược lại lời dạy của bậc Đạo sư. Tại đây,
này các Tỷ-kheo, Như Lai không có hoan hỷ, không có cảm giác hoan hỷ, nhưng
sống không có dao động, chánh niệm, tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, đây là
niệm xứ thứ nhất, một bậc Thánh phải thực hành, và có thực hành niệm
xứ ấy, bậc Thánh mới xứng là bậc Đạo sư diễn giảng đồ chúng.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, bậc Đạo
sư thuyết pháp cho các đệ tử, vì lòng từ mẫn, vì lo cho hạnh phúc của
họ, vì thương tưởng họ, nói rằng : "Đây là hạnh phúc cho các
Ông, đây là an lạc cho các Ông". Một số đệ tử bậc Đạo sư ấy
không có khéo nghe, không có lóng tai, không có an trú tâm vào chánh trí, và
hành động ngược lại lời dạy của bậc Đạo sư. Có một số đệ tử
khéo nghe, lóng tai, an trú tâm vào chánh trí, và không hành động ngược lại
lời dạy của bậc Đạo sư. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai không có
hoan hỷ, không có cảm giác hoan hỷ, không có không hoan hỷ, không có cảm
giác không hoan hỷ; sau khi đoạn bỏ cả hai, hoan hỷ và không hoan hỷ, Như
Lai trú xả, chánh niệm, tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, đây là niệm xứ
hai, một bậc Thánh phải thực hành... (như trên).. diễn giảng đồ chúng.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có bậc
Đạo Sư thuyết pháp cho các đệ tử ... (như trên) ... "... đây là an
lạc cho các Ông". Đệ tử của bậc Đạo Sư ấy khéo nghe, lóng tai,
an trú tâm vào chánh trí và không đi ngược lời dạy của bậc Đạo Sư.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, Như lai hoan hỷ, và cảm giác hoan hỷ, sống
không dao động, chánh niệm, tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, đây là niệm xứ
thứ ba, một bậc Thánh phải thực hành ... (như trên) ... diễn giảng cho
đồ chúng.
Khi được nói đến "Có ba niệm
xứ, một bậc Thánh phải thực hành, và có (thực hành) niệm xứ ấy, bậc
Thánh mới xứng đáng là bậc Đạo sư diễn giảng cho đồ chúng",
chính do duyên này, được nói đến như vậy.
Khi được nói đến "Trong các
vị Huấn luyện sư, vị ấy được gọi là vị Vô thượng Điều ngự
sư, điều phục hạng người đáng được điều phục", do duyên gì
được nói đến như vậy ? Này các Tỷ-kheo, một con voi được điều phục
do một vị điều ngự tượng sư dắt dẫn chỉ chạy về một phương...
phương Đông, phương Tây, phương Bắc hay phương Nam. Này các Tỷ-kheo, một
con ngựa được điều phục do một vị điều ngự mã sư dắt dẫn chỉ
chạy về một phương... hay phương Nam. Này các Tỷ-kheo, một con bò được
điều phục do một vị điều ngự sư dắt dẫn chỉ chạy về một
phương ... hay phương Nam. Này các Tỷ-kheo, một người được điều phục
do Như Lai, bậc A-La-Hán, Chánh Đẳng Giác dắt dẫn, được chạy cùng khắp
cả tám phương. Có sắc, thấy các sắc pháp; đó là phương thứ nhất. Không
có tưởng nội sắc, thấy các ngoại sắc; đó là phương thứ hai. Nghĩ đến
thanh tịnh, chú tâm trên ấy; đó là phương thứ ba. Vượt qua một cách
hoàn toàn các sắc tưởng, diệt trừ đối ngại tưởng, không tác ý sai
biệt tưởng; và nghĩ rằng "Hư không là vô biên", chứng đạt và
an trú Không vô biên xứ; đó là phương thứ tư. Vượt qua một cách hoàn
toàn Không vô biên xứ, nghĩ rằng : "Thức là vô biên", chứng đạt
và an trú Thức vô biên xứ; đó là phương thứ năm. Vượt qua một cách
hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ rằng : "Không có gì cả", chứng
đạt và an trú Vô sở hữu xứ; đó là phương thứ sáu. Vượt qua một cách
hoàn toàn Không vô sở hữu xứ; chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi
tưởng xứ; đó là phương thứ bảy. Vượt qua một cách hoàn toàn Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng (định); đó
là phương thứ tám. Này các Tỷ-kheo, một người đáng được điều phục
do Như Lai, bậc A-La-Hán, Chánh Đẳng Giác dắt dẫn, được chạy cùng khắp
tám phương này. Khi được nói đến "Trong các vị Huấn luyện sư, vị
ấy được gọi là Vô thượng Điều ngự sư, điều phục hạng người đáng
điều phục", chính do duyên này, được nói đến như vậy.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- 138. KINH
TỔNG THUYẾT VÀ BIỆT THUYẾT [^]
- (Uddesavibhangasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi
(Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo". –
"Bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn
nói như sau :
– Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông Tổng thuyết và Biệt thuyết. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ
giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau :
– Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo cần
phải quán sát một cách như thế nào để thức của vị ấy đối với
ngoại (trần) không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội
(trần), không bị chấp thủ quấy rối. Này các Tỷ-kheo, nếu thức đối
với ngoại (trần) không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước
nội trần, không bị chấp thủ quấy rối, sẽ không có tập khởi, sanh khởi
của khổ về sanh, già, chết, trong tương lai.
Thế Tôn nói như vậy. Nói như vậy
xong, Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy rồi bước vào tịnh xá.
Sau khi Thế Tôn đi không bao lâu,
các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ như sau : "Chư Hiền, sau khi đọc lên bài tổng
thuyết một cách vắn tắt, không có giải nghĩa một cách rộng rãi, Thế
Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá : "Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
cần phải quán sát một cách như thế nào để thức của vị ấy đối với
ngoại (trần) không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội
(trần), không bị chấp thủ quấy rối. Này các Tỷ-kheo, nếu thức đối
với ngoại (trần) không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước
nội trần, không bị chấp thủ quấy rối, sẽ không có tập khởi, sanh khởi
của khổ về sanh, già, chết trong tương lai". Nay không biết ai có thể
giải nghĩa một cách rộng rãi phần tổng thuyết này, phần này chỉ được
Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng
rãi".
Rồi các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ như
sau : "Tôn giả Mahakaccana (Đại Ca-chiên-diên) này đã được Thế Tôn
tán thán và được các vị đồng Phạm hạnh có trí kính trọng, Tôn giả
Mahakaccana có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần
này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một
cách rộng rãi. Vậy chúng ta hãy đến Tôn giả Mahakaccana; sau khi đến, chúng
ta hãy hỏi Tôn giả Mahakaccana về ý nghĩa này". Rồi các Tỷ-kheo ấy
đi đến Tôn giả Mahakaccana; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Mahakaccana
những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các vị Tỷ-kheo
ấy thưa với Tôn giả Mahakaccana :
– Thưa Hiền giả Kaccana, sau khi đọc
tổng thuyết này, không giải nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ
ngồi đứng dậy đi vào tinh xá : "Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo cần
phải quán sát một cách như thế nào.. (như trên)... không chấp thủ,
không sợ hãi. Nay không biết có ai có thể giải nghĩa một cách rộng rãi
tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt,
không giải nghĩa một cách rộng rãi". Rồi này Hiền giả Kaccana,
chúng tôi suy nghĩ như sau : "Tôn giả Mahakaccana này đã được Thế Tôn
tán thán.. (như trên).. chúng ta hãy hỏi Tôn giả Mahakaccana về ý nghĩa này,
Tôn giả Mahakaccana hãy giải thích cho".
– Này chư Hiền, ví như một người
cần thiết lõi cây, tìm cầu lõi cây, đang đi tìm cầu lõi cây, đứng
trước một cây lớn có lõi cây. Người ấy bỏ rễ, bỏ thân cây, nghĩ rằng
lõi cây cần phải tìm trong các nhánh cây, lá cây... Cũng vậy là việc
làm của chư Tôn giả.. Chư Tôn giả đứng trước mặt Thế Tôn, chư Tôn
giả lại vượt qua Thế Tôn, và nghĩ rằng cần phải hỏi tôi về ý nghĩa
này. Nhưng này chư Hiền, Thế Tôn biết những gì cần biết, thấy những
gì cần thấy, bậc có mắt, bậc Trí giả, bậc Pháp giả, bậc Phạm
thiên, bậc Thuyết giả, bậc Tuyên thuyết giả, bậc dẫn đến mục đích,
bậc đem cho bất tử, bậc Pháp chủ, bậc Như Lai. Nay đã đến thời chư
Hiền hãy đến hỏi Thế Tôn về ý nghĩ này. Thế Tôn giải thích cho chư
Hiền như thế nào, chư Hiền hãy như vậy thọ trì.
– Thưa Hiền giả Kaccana, chắc chắn
Thế Tôn biết những gì cần biết... Nay đã đến thời chúng tôi đến hỏi
Thế Tôn về ý nghĩa này. Thế Tôn giải thích cho chúng tôi như thế nào,
chúng tôi sẽ như vậy thọ trì. Nhưng Tôn giả Mahakaccana được Thế Tôn
tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh kính trọng. Tôn giả Mahakaccana
có thể giải thích rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế
Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi. Mong
Tôn giả Mahakaccana giải thích cho, nếu Tôn giả không cảm thấy phiền phức.
– Vậy chư Hiền, hãy nghe và suy
nghiệm kỹ, tôi sẽ nói.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn
giả Mahakaccana. Tôn giả Mahakaccana nói như sau :
– Này chư Hiền, phần tổng thuyết
Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng
rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào trong tinh xá : "Này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo cần phải quán sát một cách như thế nào.. (như trên)...
không chấp thủ, không sợ hãi. Này chư Hiền, lời tổng thuyết này được
Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng
rãi", tôi hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như sau :
Chư Hiền, sao gọi là thức đối với
(ngoại) trần, bị tán loạn, bị tản rộng ? Ở đây, này chư Hiền, khi vị
Tỷ-kheo thấy sắc với con mắt, thức truy cầu sắc tướng, bị trói buộc
bởi vị của sắc tướng, bị cột chặt bởi vị của sắc tướng, bị
triền phược bởi kiết sử vị của sắc tướng, như vậy gọi là thức
đối với ngoại (trần) bị tán loạn, tản rộng. Khi vị Tỷ-kheo nghe tiếng
với tai ... ngửi hương với mũi ... nếm vị với lưỡi ... cảm xúc với
thân ... nhận thức pháp với ý, thức truy cầu pháp tướng, bị trói buộc
bởi vị của pháp tướng, bị cột chặt bởi vị của pháp tướng, bị
triền phược bởi kiết sử vị của pháp tướng; như vậy gọi là thức
đối với ngoại (trần) bị tán loạn, tản rộng. Như vậy, này chư Hiền,
gọi là thức bị tán loạn, tản rộng.
Chư Hiền, sao gọi là thức đối với
(ngoại) trần, không bị tán loạn, không bị tản rộng ? Ở đây, này chư
Hiền, khi vị Tỷ-kheo thấy sắc với con mắt, thức không truy cầu sắc tướng,
không bị trói buộc bởi vị của sắc tướng, không bị cột chặt bởi vị
của sắc tướng; không bị triền phược bởi kiết sử vị của sắc tướng;
như vậy gọi là thức đối với ngoại (trần) không bị tán loạn, không
bị tản rộng. Khi vị Tỷ-kheo nghe tiếng với tai... ngửi hương với
mũi... nếm vị với lưỡi.. cảm xúc với thân.... nhận thức pháp với
ý, thức không truy cầu pháp tướng, không bị trói buộc bởi vị của
pháp tướng, không bị cột chặt bởi vị của pháp tướng, không bị triền
phược bởi kiết sử vị của pháp tướng; như vậy gọi là thức đối với
ngoại (trần) không bị tán loạn, không bị tản rộng. Như vậy, này chư
Hiền, gọi là thức không bị tán loạn, không bị tản rộng.
Và này chư Hiền, thế nào gọi là
tâm trú trước nội (trần) ? Ở đây, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo ly dục,
ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Thức vị ấy truy tìm hỷ lạc
do ly dục sanh, bị trói buộc bởi vị hỷ lạc do ly dục sanh, bị cột chặt
bởi vị hỷ lạc do ly dục sanh, bị triền phược bởi kiết sử hỷ lạc
do ly dục sanh; như vậy gọi là tâm trú trước nội (trần). Lại nữa, này
chư Hiền, vị Tỷ-kheo đình chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền
thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội
tĩnh nhứt tâm. Thức của vị ấy truy tìm hỷ lạc do định sanh, bị trói
buộc bởi vị hỷ lạc do định sanh, bị cột chặt bởi vị hỷ lạc do
định sanh; bị triền phược bởi kiết sử hỷ lạc do định sanh; như vậy
gọi là tâm trú trước nội (trần). Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo
ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc
Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Thức
của vị ấy truy tìm xả, bị trói buộc bởi vị xả và lạc, bị cột chặt
bởi vị xả và lạc, bị triền phược bởi vị xả và lạc; như vậy gọi
là tâm trú trước nội (trần). Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo xả
lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng đạt và an trú
Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm, thanh tịnh. Thức của vị
ấy truy tìm không khổ không lạc, bị trói buộc bởi vị không khổ không
lạc, bị cột chặt bởi vị không khổ không lạc, bị triền phược bởi
kiết sử vị không khổ không lạc; như vậy gọi là tâm trú trước nội
(trần). Như vậy gọi là tâm trú trước nội (trần).
Và này chư Hiền, thế nào gọi là
tâm không bị trú trước nội (trần) ? Ở đây, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo
ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, không tầm không tứ. Thức của vị ấy
không truy tìm hỷ lạc do ly dục sanh, không bị trói buộc bởi vị hỷ lạc
do ly dục sanh, không bị cột chặt bởi vị hỷ lạc do ly dục sanh, không
bị triền phược bởi kiết sử hỷ lạc do ly dục sanh, như vậy gọi là
tâm không trú trước nội (trần). Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo đình
chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ
lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Thức của vị
ấy không truy tìm hỷ lạc do định sanh, không bị trói buộc bởi vị hỷ
lạc do định sanh, không bị cột chặt bởi vị hỷ lạc do định sanh, không
bị triền phược bởi kiết sử hỷ lạc do định sanh; như vậy gọi là
tâm không trú trước nội (trần). Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo ly
hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc
Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Thức
của vị ấy không truy tìm xả, không bị trói buộc bởi vị xả và lạc,
không bị cột chặt bởi vị xả và lạc, không bị triền phược bởi vị
xả và lạc, như vậy được gọi là tâm không trú trước nội (trần). Lại
nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm
thọ trước, chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả
niệm, thanh tịnh. Thức của vị ấy không truy tìm không khổ không lạc,
không bị trói buộc bởi vị của không khổ không lạc, không bị cột chặt
bởi vị của không khổ không lạc, không bị triền phược bởi kiết sử
vị không khổ không lạc; như vậy gọi là tâm không trú trước nội (trần).
Như vậy gọi là tâm không trú trước nội (trần).
Và thế nào, này chư Hiền, là bị
chấp thủ quấy rối ? Ở đây, này chư Hiền, kẻ vô văn phàm phu không thấy
rõ các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập
pháp các bậc Thánh, không yết kiến các bậc Chân nhân, không thuần thục
pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, thấy sắc
như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay thấy sắc như là tự ngã,
hay tự ngã như là có sắc. Sắc pháp ấy của nó có biến hoại, đổi khác.
Với sự biến hoại và đổi khác trong sắc pháp ấy của nó, thức của vị
ấy bị tùy chuyển bởi sự biến hoại trong sắc pháp của vị ấy. Do thức
bị tùy chuyển bởi sự biến hoại trong sắc pháp, nên pháp quấy rối khởi
lên, xâm nhập tâm và tồn tại. Vì tâm bị xâm nhập, vị ấy sợ hãi, bực
phiền và đầy những khao khát. Và vị ấy bị chấp thủ quấy rối. Vị
ấy xem cảm thọ.. tưởng... các hành... thức như là tự ngã hay tự ngã,
như là có thức, hay thức như là trong tự ngã, hay tự ngã như là trong thức.
Thức ấy của vị ấy biến hoại và đổi khác. Với sự biến hoại và
đổi khác trong thức ấy của vị ấy, thức của vị ấy bị tùy chuyển
bởi sự biến hoại trong thức của vị ấy. Do thức bị tùy chuyển bởi
sự biến hoại trong pháp, nên các pháp quấy rối khởi lên, xâm nhập tâm
và tồn tại. Vì tâm bị xâm nhập, vị ấy sợ hãi, bực phiền và đầy
những khao khát. Và vị ấy bị chấp thủ, quấy rối. Như vậy, này chư
Hiền, là bị chấp thủ, quấy rối.
Và thế nào, này chư Hiền, là
không bị chấp thủ quấy rối ? Ở đây, này chư Hiền, có Đa văn Thánh
đệ tử yết kiến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập
pháp các bậc Thánh; yết kiến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc
Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân; không thấy sắc như là tự
ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay không thấy sắc như là trong tự ngã,
hay tự ngã như là trong sắc. Sắc pháp của vị ấy biến hoại, đổi khác.
Với sự biến hoại và đổi khác trong sắc pháp của vị ấy, thức của
vị ấy không bị tùy chuyển bởi sự biến hoại trong sắc pháp của vị
ấy. Do thức không bị tùy chuyển bởi sự biến hoại trong sắc pháp, nên
các pháp quấy rối khởi lên, không xâm nhập tâm và tồn tại. Vì tâm
không bị xâm nhập, vị ấy không sợ hãi, không bực phiền và không đầy
những khao khát. Và vị ấy không bị chấp thủ quấy rối. Vị ấy không
xem cảm thọ.. tưởng... các hành.. thức như là tự ngã hay tự ngã là có
thức, hay không thấy thức như là trong tự ngã hay tự ngã như là trong thức.
Thức của vị ấy biến hoại và đổi khác. Với sự biến hoại và đổi
khác trong thức của vị ấy, thức không bị tùy chuyển bởi sự biến hoại
trong thức của vị ấy. Do thức không bị tùy chuyển bởi sự biến hoại
trong thức, nên các pháp quấy rối không khởi lên, xâm nhập tâm và tồn
tại. Vì tâm không bị xâm nhập, vị ấy không sợ hãi, không bực phiền
và không đầy những khao khát. Và vị ấy không bị chấp thủ quấy rối.
Như vậy, này chư Hiền, là không bị chấp thủ quấy rối.
Này chư Hiền, phần tổng thuyết
Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng
rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào trong tinh xá : "Này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo cần phải quán sát một cách như thế nào.. (như trên)... không có
sự tập khởi, sự sanh khởi của khổ về sanh, già chết trong tương
lai". Phần tổng thuyết này, này chư Hiền, được Thế Tôn đọc lên
một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng rãi; này chư
Hiền, tôi hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy. Và nếu như Tôn giả
muốn, hãy đi đến Thế Tôn và hỏi ý nghĩa này. Thế Tôn giải thích các
Tôn giả như thế nào, hãy như vậy thọ trì.
Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ
tín thọ lời Tôn giả Mahakaccana giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến
Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, các vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn - Bạch Thế Tôn, sau
khi đọc phần tổng thuyết một cách vắn tắt cho chúng con, không giải
thích nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, và đi
vào tịnh xá : "Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo cần phải quán sát một
cách như thế nào.. (như trên)... không có sự tập khởi, sự sanh khởi của
khổ về sanh, già, chết trong tương lai".
Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn đi
không bao lâu, chúng con suy nghĩ như sau : "Thế Tôn sau khi đọc phần tổng
thuyết một cách vắn tắt cho chúng ta, không giải nghĩa một cách rộng
rãi, và đã đi vào tinh xá : "Vị Tỷ-kheo cần phải quán sát một
cách như thế nào.. (như trên)... không có sự tập khởi, sự sanh khởi của
khổ về sanh, già, chết trong tương lai ". Nay không biết ai có thể giải
nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn
đọc lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng
rãi".
Rồi bạch Thế Tôn, chúng con suy
nghĩ như sau : "Tôn giả Mahakaccana (Đại Ca-chiên-diên)... (như trên)...
nay chúng ta hãy hỏi Tôn giả Mahakaccana về ý nghĩa này". Rồi bạch Thế
Tôn, chúng con đi đến Tôn giả Mahakaccana, sau khi đến chúng con hỏi Tôn
giả Mahakaccana về ý nghĩa này. Ý nghĩa của những (chữ) ấy đã được
Tôn giả Mahakaccana giải thích cho chúng con với những phương pháp (akara)
này, với những câu này, với những chữ này.
– Này các Tỷ-kheo, Mahakaccana là bậc
Hiền giả. Này các Tỷ-kheo, Mahakaccana là bậc đại trí tuệ. Này các Tỷ-kheo,
nếu các Ông hỏi Ta về ý nghĩa này, Ta cũng giải thích cho các Ông như vậy,
như Mahakaccana đã giải thích. Thật sự ý nghĩa ấy là vậy, và các Ông
hãy thọ trì như vậy.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- 139. KINH
VÔ TRÁNH PHÂN BIỆT [^]
- (Anaravibhangasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi
(Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
Tại đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo". –
"Bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói
như sau :
– Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông Vô tránh phân biệt. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau :
– Chớ có hành trì dục lạc, hạ
liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục đích.
Và cũng không nên hành trì tự kỷ khổ hạnh, đau khổ, không xứng bậc
Thánh, không liên hệ mục đích. Từ bỏ hai cực đoan ấy, có con đường
Trung đạo đã được Như Lai giác ngộ, tác thành mắt, tác thành trí,
đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Nên biết tán thán và
nên biết chỉ trích. Sau khi biết tán thán và sau khi biết chỉ trích,
không tán thán, không chỉ trích, chỉ nên thuyết pháp. Nên biết phán xét
về lạc. Sau khi biết phán xét về lạc, nên chú tâm vào nội lạc. Không
nên nói lên lời bí mật. Mặt đối mặt (với ai), không nên nói lời mất
lòng. Nên nói thật từ từ, không có vội vàng. Chớ có chấp trước địa
phương ngữ, chớ có đi quá xa ngôn ngữ thường dùng. Như vậy là tổng
thuyết về vô tránh phân biệt.
Khi được nói đến "Chớ có
hành trì dục lạc, hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh,
không liên hệ mục đích, và cũng không nên hành trì tự kỷ khổ hạnh,
đau khổ, không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục đích", do duyên
gì được nói đến như vậy ? Phàm lạc gì liên hệ với dục nhưng đam mê
loại hỷ hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên
hệ mục đích, pháp như vậy là có đau khổ, có phiền lao, có ưu não, có
nhiệt não, thuộc tà đạo. Phàm lạc gì liên kết với dục, nhưng không
đam mê loại hỷ hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh,
không liên hệ mục đích, pháp như vậy không có đau khổ, không có phiền
lao, không có ưu não, không có nhiệt não, thuộc chánh đạo. Phàm hành trì
tự kỷ khổ hạnh nào, khổ đau, không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục
đích, pháp như vậy có đau khổ, có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não,
thuộc tà đạo. Phàm không hành trì khổ hạnh nào, đau khổ không xứng bậc
Thánh, không liên hệ mục đích, pháp như vậy không có đau khổ, không có
phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt não, thuộc chánh đạo".
Khi được nói đến "Chớ có hành trì dục lạc, hạ liệt, đê tiện,
không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục đích, và cũng không nên hành
trì tự kỷ khổ hạnh, đau khổ, không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục
đích", chính do duyên này, được nói đến như vậy.
Khi được nói đến "Từ bỏ
hai cực đoan ấy, có con đường Trung đạo đã được Như Lai giác ngộ,
tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thượng trí, giác ngộ,
Niết-bàn", do duyên gì được nói đến như vậy ? Đây là con đường
Thánh tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Khi được nói đến
"Từ bỏ hai cực đoan ấy, có con đường Trung đạo đã được Như
Lai giác ngộ.. giác ngộ, Niết-bàn", chính do duyên này, được nói đến
như vậy.
Khi được nói đến "Nên biết
tán thán và nên biết chỉ trích; sau khi biết tán thán và sau khi biết chỉ
trích, không tán thán, không chỉ trích, chỉ nên thuyết pháp", do duyên
gì được nói đến như vậy ? Này các Tỷ-kheo, thế nào là tán thán, thế
nào là chỉ trích, nhưng không thuyết pháp ? Vị ấy chỉ trích một số người
và nói như sau : "Những ai tìm thấy lạc liên hệ với dục nhưng đam
mê loại hỷ hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không
liên hệ mục đích, tất cả những người ấy có đau khổ, có phiền lao,
có ưu não, có nhiệt não, thuộc tà đạo". Vị ấy tán thán một số
người và nói như sau : "Những ai tìm thấy lạc liên hệ với dục, nhưng
không đam mê loại hỷ hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc
Thánh, không liên hệ mục đích, tất cả những vị ấy không có đau khổ,
không có phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt não, thuộc chánh đạo".
Ở đây, vị ấy chỉ trích một số người và nói như sau : "Những ai
đam mê hành trì tự kỷ khổ hạnh, đau khổ, không xứng bậc Thánh, không
liên hệ mục đích, tất cả những vị ấy đều có đau khổ, có phiền
lao, có ưu não, có nhiệt não, thuộc về tà đạo". Ở đây, vị ấy
tán thán một số người và nói như sau : "Những ai không đam mê hành
trì tự kỷ khổ hạnh; đau khổ, không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục
đích, tất cả những vị ấy đều không có đau khổ, không có phiền lao,
không có ưu não, không có nhiệt não, thuộc chánh đạo". Ở đây, vị
ấy chỉ trích một số người và nói như sau : "Những ai chưa đoạn tận
hữu kiết sử, tất cả những vị ấy đều có đau khổ, có phiền lao,
có ưu não, có nhiệt não, thuộc tà đạo". Ở đây, vị ấy tán thán
một số người và nói như sau : "Những ai đã đoạn tận hữu kiết sử,
tất cả những vị ấy không có đau khổ, không có phiền lao, không có ưu
não, không có nhiệt não, thuộc chánh đạo". Như vậy, này các Tỷ-kheo
là có tán thán và có chỉ trích nhưng không thuyết pháp. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là không có tán thán và không có chỉ trích, nhưng có thuyết
pháp ? Vị ấy không nói như sau : "Những ai tìm thấy lạc liên hệ với
dục, nhưng đam mê loại hỷ hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc
Thánh, không liên hệ mục đích, tất cả những vị ấy có đau khổ, có
phiền lao, có ưu não, có nhiệt não, thuộc tà đạo". Vị ấy chỉ
thuyết pháp và nói như sau : "Sự đam mê là một pháp có đau khổ, có
phiền lao, có ưu não, có nhiệt não, thuộc tà đạo". Vị ấy không
nói : "Những ai tìm thấy lạc liên hệ với dục, nhưng không đam mê
loại hỷ hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, tất cả những
vị ấy không có đau khổ, không có phiền lao, không có ưu não, không có
nhiệt não, thuộc chánh đạo. "Vị ấy chỉ thuyết pháp và nói như
sau : "Không đam mê là một pháp không đau khổ, không có phiền lao,
không có ưu não, không có nhiệt não, thuộc chánh đạo". Vị ấy không
nói : "Những ai đam mê hành trì tự kỷ khổ hạnh, đau khổ, không xứng
bậc Thánh, không liên hệ mục đích, tất cả những vị ấy có đau khổ,
có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não, thuộc tà đạo. "Vị ấy chỉ
thuyết pháp và nói như sau : "Sự đam mê là một pháp có đau khổ, có
phiền lao, có ưu não, có nhiệt não, thuộc tà đạo. "Vị ấy không
nói : "Những ai không đam mê hành trì tự kỷ khổ hạnh, đau khổ, không
xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích, tất cả những vị ấy
đều không có đau khổ, không có phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt
não, thuộc chánh đạo". Vị ấy chỉ thuyết pháp và nói như sau :
"Sự không đam mê là không đau khổ, pháp này không có phiền lao,
không có ưu não, không có nhiệt não, thuộc về chánh đạo". Vị ấy
không có nói : "Những ai chưa đoạn tận hữu kiết sử, tất cả những
vị ấy đều có đau khổ, có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não". Vị
ấy chỉ thuyết pháp và nói như sau : "Khi hữu kiết sử chưa đoạn tận,
hữu chưa đoạn tận". Vị ấy không nói như sau: "Những ai đã đoạn
tận hữu kiết sử, tất cả những vị ấy không có đau khổ, không có
phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt não. "Vị ấy chỉ thuyết
pháp và nói như sau : "Và khi hữu kiết sử được đoạn tận, hữu
được đoạn tận". Như vậy, này các Tỷ-kheo là không tán thán,
không chỉ trích, nhưng chỉ thuyết pháp.
Khi được nói đến "Nên biết
tán thán và nên biết chỉ trích; sau khi biết tán thán và sau khi biết chỉ
trích, chớ có tán thán, chớ có chỉ trích, chỉ nên thuyết pháp",
chính do duyên này được nói đến như vậy.
Khi được nói đến "Nên biết
phán xét về lạc; sau khi biết pháp xét về lạc, nên chú tâm vào nội lạc",
do duyên gì được nói đến như vậy ? Này các Tỷ-kheo, có năm dục trưởng
dưỡng này. Thế nào là năm ? Các sắc pháp do mắt nhận thức, khả ái,
khả lạc, khả ý, khả hỷ, liên hệ đến dục, hấp dẫn; các tiếng do
tai nhận thức, ... ; các hương do mũi nhận thức, .... ; các vị do lưỡi
nhận thức.... ; các xúc do thân cảm giác, khả ái, khả lạc, khả ý, khả
hỷ, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, như vậy là năm dục
trưởng dưỡng. Này các Tỷ-kheo, do duyên năm dục trưởng dưỡng này khởi
lên lạc và hỷ, như vậy gọi là dục lạc, uế lạc, phàm phu lạc, phi
Thánh lạc. Ta nói loại lạc này không nên thực hành, không nên tu tập,
không nên làm cho sung mãn, nên sợ hãi. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ly dục, ly bất thiện pháp chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Đình chỉ tầm và tứ, chứng
đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không
tầm, không tứ, nội tĩnh nhứt tâm... Thiền thứ ba... chứng đạt và an
trú Thiền thứ tư. Như vậy gọi là xuất ly lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc,
giác ngộ lạc. Ta nói loại lạc này nên thực hành, nên tu tập, nên làm
cho sung mãn, không nên sợ hãi. Khi được nói đến "Nên biết phán
xét về lạc; sau khi phán xét về lạc, hãy chú tâm vào nội lạc", do
chính duyên này được nói đến như vậy.
– Khi được nói đến "Không
nên nói lên lời bí mật. Mặt đối mặt (với ai), không nên nói lời mất
lòng", do duyên gì được nói đến như vậy ? Tại đây, này các Tỷ-kheo,
biết được một lời bí mật là không thực, hư vọng, không liên hệ mục
đích, nếu có thể được, chớ nói lên lời bí mật ấy. Và nếu biết
được một lời bí mật là thực, không hư vọng, nhưng không liên hệ mục
đích, hãy tự tập đừng nói lời ấy. Và nếu biết được một lời bí
mật là thực, không hư vọng, có liên hệ mục đích; ở đây nên biết thời
nói lên lời bí mật ấy. Nếu biết một lời mất lòng, mặt đối mặt
(với ai) là không thực, hư vọng, không liên hệ mục đích, nếu có thể
được, mặt đối mặt; chớ có nói lên lời nói mất lòng ấy. Nếu biết
một lời mất lòng, mặt đối mặt (với ai) là thực, không hư vọng,
nhưng không liên hệ mục đích, hãy tập chớ nói lên lời ấy. Và nếu biết
một lời mất lòng, mặt đối mặt (với ai) là thực, không hư vọng, có
liên hệ mục đích; ở đây nên biết thời nói lên lời mất lòng ấy.
Khi được nói đến "Không nên nói lên lời bí mật, mặt đối mặt
(với ai), không nên nói lên lời mất lòng", do chính duyên này được
nói đến như vậy.
Khi được nói đến "Nên nói
thật từ từ, chớ có vội vàng", do duyên gì được nói đến như vậy
? Ở đây, này các Tỷ-kheo, nếu nói vội vàng, thời thân mệt mõi, tâm bị
tổn hại, tiếng bị tổn hại và cổ họng bị đau. Lời nói một người
vội vàng không được rõ ràng và không được nhận hiểu. Tại đây, này
các Tỷ-kheo, nói lời từ từ, thân không mệt mỏi, tâm không tổn hại,
tiếng không tổn hại và cổ họng không bị đau. Lời nói một người nói
từ từ được rõ ràng và được nhận hiểu. Khi được nói đến "Nên
nói thật từ từ, chớ có nói vội vàng ", chính do duyên này được nói
đến như vậy.
Khi được nói đến "Chớ có
chấp trước địa phương ngữ, chớ có đi quá xa ngôn ngữ thường dùng,
"do duyên gì, được nói đến như vậy ? Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là chấp trước địa phương ngữ và đi quá xa ngôn ngữ thường dùng ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, trong nhiều quốc độ, người ta biết (những chữ)
Pati... Patta... Vittha.. Sarava.. Dharopa.. Pona... Pisila. Như vậy, như họ biết
trong các quốc độ ấy những chữ là như vậy, như vậy, có người lại
làm như vậy, kiên trì chấp thủ, chấp trước và nói : "Chỉ như vây
là sư thật, ngoài ra là hư vọng". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là chấp
trước địa phương ngữ, là đi quá xa ngôn ngữ thường dùng. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là không chấp trước địa phương ngữ, không đi quá xa
ngôn ngữ thường dùng ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, trong nhiều quốc độ,
người ta biết những chữ Pati.. Patta... Vittha.. Sarava... Dharopa... Pona..
Pisila.. Như vậy, như họ biết trong các quốc độ ấy, những chữ là như
vậy, như vậy, một người không chấp thủ mà giải thích : "Các vị
ấy y cứ như thế này, giải thích như vậy. "Như vậy, này các Tỷ-kheo
là không chấp trước địa phương ngữ, không đi quá xa ngôn ngữ thường
dùng. Khi được nói đến "Chớ có chấp trước địa phương ngữ, chớ
có đi quá xa ngôn ngữ thường dùng", do chính duyên này được nói đến
như vậy.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, phàm lạc
gì liên hệ với dục nhưng có đam mê loại hỷ, hạ liệt, đê tiện,
phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục đích, pháp như vậy có
đau khổ, có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não, thuộc tà đạo. Do vậy,
pháp này là pháp hữu tránh. Tại đây, này các Tỷ-kheo, phàm lạc gì,
liên kết với dục, nhưng không có đam mê loại hỷ, hạ liệt, đê tiện,
phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục đích, pháp như vậy không
có đau khổ, không có phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt não, thuộc
chánh đạo. Do vậy, pháp này là pháp vô tránh. Tại đây, này các Tỷ-kheo,
phàm hành trì tự kỷ khổ hạnh, đau khổ, không xứng bậc Thánh, không
liên hệ mục đích, pháp như vậy có đau khổ, có phiền lao, có ưu não,
có nhiệt não, thuộc tà đạo. Do vậy, pháp này là pháp hữu tránh. Tại
đây, này các Tỷ-kheo, phàm không có hành trì tự kỷ khổ hạnh, không
đau khổ, không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục đích, pháp như vậy
không có đau khổ, không có phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt
não, thuộc chánh đạo. Do vậy, pháp này là pháp vô tránh. Tại đây, này
các Tỷ-kheo, đây là Trung đạo đã được Thế Tôn giác ngộ, tác thành mắt,
tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết - bàn. Pháp
này không có đau khổ, không có phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt
não, thuộc chánh đạo. Do vậy, pháp này là pháp vô tránh. Tại đây, này
các Tỷ-kheo, pháp tán thán và chỉ trích nhưng không thuyết pháp này, pháp
này có đau khổ, có phiền lao, có ưu não, có phiền não, thuộc tà đạo.
Do vậy, pháp này là pháp hữu tránh. Tại đây, này các Tỷ-kheo, pháp
không tán thán, cũng không chỉ trích, chỉ có thuyết pháp, pháp này không
có đau khổ, không có phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt não, thuộc
chánh đạo. Do vậy, pháp này là pháp vô tránh. Tại đây, này các Tỷ-kheo,
pháp dục lạc này là uế lạc, phàm phu lạc, phi Thánh lạc, pháp này là
pháp có đau khổ, có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não. Do vậy, pháp
này là pháp hữu tránh. Tại đây, này các Tỷ-kheo, pháp xuất ly lạc, viễn
ly lạc, an tịnh lạc, pháp này là pháp không đau khổ, không phiền lao,
không ưu não, không nhiệt não, thuộc chánh đạo. Do vậy, pháp này là
pháp vô tránh. Tại đây, này các Tỷ-kheo, phàm lời nói bí mật nào không
thật, hư vọng, không liên hệ mục đích, pháp này là pháp có đau khổ, có
phiền lao, có ưu não, có nhiệt não, thuộc tà đạo. Do vậy, pháp này là
pháp hữu tránh. Tại đây, này các Tỷ-kheo, phàm lời nói bí mật nào là
chân thật, không hư vọng, không liên hệ mục đích, pháp này là pháp có
đau khổ, có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não, thuộc tà đạo. Do vậy,
pháp này là pháp hữu tránh. Tại đây, này các Tỷ-kheo, phàm lời nói bí
mật nào là chân thật, không hư vọng, có liên hệ mục đích, pháp này
là pháp không đau khổ, không có phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt
não, thuộc chánh đạo. Do vậy, pháp này là pháp vô tránh. Tại đây, này
các Tỷ-kheo, phàm lời nói mất lòng nào, mặt đối mặt (với ai), không
chân thật, hư vọng, không liên hệ mục đích, pháp này là pháp có đau khổ,
có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não, thuộc tà đạo. Do vậy, pháp này
là pháp hữu tránh. Tại đây, này các Tỷ-kheo, phàm lời nói mất lòng
nào, mặt đối mặt (với ai) là chân thật, không hư vọng, không liên hệ
mục đích, pháp này là pháp có đau khổ, có phiền lao, có ưu não, có nhiệt
não, thuộc tà đạo. Do vậy, pháp này là pháp hữu tránh. Tại đây, này
các Tỷ-kheo, phàm lời nói mất lòng nào, mặt đối mặt (với ai) là chân
thật, không hư vọng, liên hệ mục đích, pháp này là pháp không đau khổ..
thuộc chánh đạo. Do vậy, pháp này là pháp vô tránh. Tại đây, này các Tỷ-kheo,
phàm lời nói nào được nói lên một cách vội vàng, pháp này có đau khổ...
tà đạo... pháp hữu tránh. Tại đây này các Tỷ-kheo, phàm lời nói nào
được nói lên một cách từ từ, pháp này không có đau khổ.. chánh đạo..
pháp vô tránh. Tại đây, này các Tỷ-kheo, chấp trước địa phương ngữ
và đi quá xa ngôn ngữ thường dùng, pháp này là pháp có đau khổ.. thuộc
về tà đạo... pháp hữu tránh. Tại đây, này các Tỷ-kheo, không chấp trước
địa phương ngữ và không đi quá xa ngôn ngữ thường dùng, pháp này là
pháp không có đau khổ... thuộc về chánh đạo... pháp vô tránh.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông
phải tự tu học như sau : "Chúng ta sẽ biết hữu tránh pháp và chúng
ta sẽ biết vô tránh pháp. Sau khi biết hữu tránh pháp và sau khi biết vô
tránh pháp, chúng ta sẽ hành trì vô tránh đạo". Và này các Tỷ-kheo,
Thiện gia nam tử Subhuti (Tu-bồ-đề) đã hành trì vô tránh pháp.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- 140. KINH
GIỚI PHÂN BIỆT [^]
- (Dhatuvibhangasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn du hành ở xứ
Magadha (Ma- kiệt-đà), đi đến Rajagaha (Vương xá), đến nhà thợ gốm
Bhaggava; sau khi đến nói với thợ gốm Bhaggava:
– Này Bhaggava, nếu không gì phiền
phức cho Ông, Ta muốn ở tại chỗ này một đêm.
Bạch Thế Tôn không có gì phiền
phức cho con. Ở đây đã có một vị xuất gia đến ở từ trước rồi. Nếu
vị ấy thỏa thuận, bạch Thế Tôn, hãy ở lại tùy theo sở thích.
Lúc bấy giờ, Thiện gia nam tử
Pukkusati, do lòng tin, y cứ Thế Tôn đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình. Vị ấy đã đến ở trước tại trú xứ của thợ gốm. Rồi
Thế Tôn đi đến Tôn giả Pukkusati; sau khi đến nói với Pukkusati:
– Này Tỷ-kheo, nếu không gì phiền
phức cho Ông, Ta muốn ở lại trú xứ này một đêm.
– Rộng rãi, thưa Hiền giả, là
trú xứ của thợ gốm. Tôn giả có thể ở, tùy theo sở thích.
Rồi Thế Tôn sau khi bước vào trú
xứ của thợ gốm, trải thảm cỏ vào một bên, ngồi kiết-già, lưng thẳng
và an trú niệm trước mặt. Và Thế Tôn trải qua phần lớn đêm ấy, ngồi
(như vậy). Tôn giả Pukkusati trải qua phần lớn đêm ấy cũng ngồi (như vậy).
Rồi Thế Tôn suy nghĩ : "Cử chỉ Thiện gia nam tử này có vẻ tín
thành, Ta hãy hỏi vị ấy". Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Pukkusati:
– Này Tỷ-kheo, Ông xuất gia, y cứ
vào ai ? Ai là Đạo sư của Ông ? Ông chấp nhận pháp của ai ?
– Thưa Hiền giả, có Sa môn Gotama
là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích Ca. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây
được truyền đi về Thế Tôn Gotama ấy: "Ngài là bậc Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn". Tôi đã xuất gia, y cứ
bậc Thế Tôn ấy. Ngài là bậc Đạo sư của tôi. Và tôi chấp thuận
pháp của bậc Thế Tôn ấy.
– Này Tỷ-kheo, nay Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ấy ở đâu ?
– Thưa Hiền giả, có một thành
phố tên là Savatthi giữa các quốc độ phía Bắc. Tại đấy, Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác hiện này đang ở.
– Này Tỷ-kheo, trước đây Ông đã
thấy bậc Thế Tôn ấy chưa ? Và nếu thấy, Ông có nhận ra được không
?
– Thưa Hiền giả, trước đây
tôi chưa từng thấy bậc Thế Tôn ấy. Và nếu thấy, tôi không nhận ra
được.
Rồi Thế Tôn suy nghĩ : "Thiện
gia nam tử này xuất gia y cứ nơi Ta. Vậy Ta hãy thuyết pháp cho (Thiện gia
nam tử) ấy". Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Pukkusati:
– Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ
giảng.
– Thưa Hiền giả vâng.
Tôn giả Pukkusati vâng đáp Thế
Tôn.
Thế Tôn nói như sau :
– Này Tỷ-kheo, người này có sáu
giới, sáu xúc xứ, mười tám ý hành, bốn thắng xứ, khi được an trú, vọng
tưởng không có chuyển động. Khi vọng tưởng không chuyển động, vị
ấy được gọi là một ẩn sĩ tịch tịnh. Chớ có buông lung trí tuệ,
hãy độ trì chân đế, hãy tăng trưởng huệ thí (caga), hãy tu học tịch
tịnh. Đây là tổng thuyết sáu giới phân biệt.
– Này Tỷ-kheo, khi được nói đến
"Người này có sáu giới", do duyên gì được nói đến như vậy ?
Địa giới, (thủy giới), hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới.
Này Tỷ-kheo, khi được nói đến "Người này có sáu giới", chính
do duyên này được nói đến như vậy.
Này các Tỷ-kheo, khi được nói đến
"Người này có sáu xúc xứ", do duyên gì được nói đến như vậy
? Nhãn xúc xứ, nhĩ xúc xứ, tỷ xúc xứ, thiệt xúc xứ, thân xúc xứ, ý
xúc xứ. Khi được nói đến "Người này có sáu xúc xứ ", chính
do duyên này được nói đến như vậy.
Này Tỷ-kheo, khi được nói đến
"Người này có mười tám ý hành", do duyên gì được nói đến
như vậy ? Khi con mắt thấy sắc, người ấy chạy theo sắc, chỗ trú xứ
của hỷ, chạy theo sắc chỗ trú xứ của ưu, chạy theo sắc chỗ trú xứ
của xả, khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương.. lưỡi nếm vị... thân cảm
xúc, ... ý nhận thức pháp, người ấy chạy theo pháp, chỗ trú xứ của hỷ,
người ấy chạy theo pháp, chỗ trú xứ của ưu, người ấy chạy theo pháp,
chỗ trú xứ của xả. Như vậy có sáu hỷ hành, sáu ưu hành, sáu xả
hành. Khi được nói đến "Người này có mười tám ý hành" chính
do duyên này được nói đến như vậy.
– Này Tỷ-kheo, khi được nói đến
"Người này có bốn thắng xứ ", do duyên gì được nói đến như
vậy ? Tuệ thắng xứ, đế thắng xứ, huệ thí thắng xứ, tịch tịnh thắng
xứ. Khi được nói đến "Người này có bốn thắng xứ", chính do
duyên này được nói đến như vậy.
Khi được nói đến "Chớ có
buông lung trí tuệ, hãy hộ trì chân đế, hãy tăng trưởng huệ thí, hãy
tu học tịch tịnh", do duyên gì được nói đến như vậy ? Thế nào
là không buông lung trí tuệ ? Có sáu giới này: địa giới, thủy giới, hỏa
giới, phong giới, không giới, thức giới.
Này Tỷ-kheo, thế nào là địa giới
? Có nội địa giới và có ngoại địa giới. Và này Tỷ-kheo, thế nào
là nội địa giới ? Cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, kiên cứng,
thô phù, bị chấp thủ, như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy,
thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử,
phân và bất cứ vật gì khác, thuộc nội thân, thuộc cá nhân, kiên cứng,
thô phù, bị chấp thủ. Như vậy, này Tỷ-kheo, được gọi là nội địa
giới. Những gì thuộc nội địa giới và những gì thuộc ngoại địa giới
đều thuộc về địa giới. Địa giới ấy phải được quán sát như thật
với chánh trí tuệ như sau : "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Sau khi như
thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yếm
ly đối với địa giới, tâm từ bỏ địa giới.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thủy
giới ? Có nội thủy giới, có ngoại thủy giới. Và này Tỷ-kheo, thế
nào là nội thủy giới ? Cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước,
thuộc chất lỏng, bị chấp thủ, như mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ
hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mũi, nước ở khớp
xương, nước tiểu, và bất cứ vật gì khác, thuộc nội thân, thuộc cá
nhân, thuộc nước, thuộc chất lòng, bị chấp thủ. Như vậy, này Tỷ-kheo,
được gọi là thủy giới. Những gì thuộc nội thủy giới và những gì
thuộc ngoại thủy giới đều thuộc về thủy giới. Thủy giới ấy phải
được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không
phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi". Sau khi như thật quán sát thủy giới với chánh trí tuệ như vậy,
vị ấy sanh yếm ly đối với thủy giới, tâm từ bỏ thủy giới.
Và này Tỷ-kheo, thế nào là hỏa
giới ? Có nội hỏa giới, có ngoại hỏa giới. Và này Tỷ-kheo, thế nào
là nội hỏa giới ? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc về cá nhân, thuộc
lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ. Như cái gì khiến cho hâm nóng, khiến
cho hủy hoại, khiến cho thiêu cháy, cái gì khiến cho những vật được
ăn, uống, nhai, nếm, có thể khéo tiêu hóa, hay tất cả những vật gì
khác, thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị
chấp thủ. Này Tỷ-kheo, như vậy được gọi là nội hỏa giới. Những
gì thuộc nội hỏa giới và những gì thuộc ngoại hỏa giới đều thuộc
về hỏa giới. Hỏa giới ấy phải được quán sát như thật với chánh
trí tuệ như sau : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải
là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Sau khi như thật quán
sát hỏa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yếm ly đối với
hỏa giới, tâm từ bỏ hỏa giới.
Và này Tỷ-kheo, thế nào là phong
giới ? Có nội phong giới, có ngoại phong giới. Và này Tỷ-kheo, thế nào
là nội phong giới ? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc
gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ, như gió thổi lên, gió thổi xuống,
gió trong ruột, gió trong bụng dưới, gió thổi ngang các đốt, các khớp,
hơi thở vô, hơi thở ra, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc
cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ. Này Tỷ-kheo, như vậy
được gọi là nội phong giới. Những gì thuộc nội phong giới và những
gì thuộc ngoại phong giới đều thuộc về phong giới. Phong giới ấy phải
được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau : "Cái này không
phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi". Sau khi như thật quán sát phong giới với chánh trí tuệ như vậy,
vị ấy sanh yếm ly đối với phong giới, tâm tư từ bỏ phong giới.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hư
không giới ? Có nội hư không giới, có ngoại hư không giới. Và này Tỷ-kheo,
thế nào là nội hư không giới ? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá
nhân, thuộc hư không, thuộc hư không tánh, bị chấp thủ, như lỗ tai, lỗ
mũi, cửa miệng, do cái gì người ta nuốt, những gì được nhai, được uống,
được ăn, được nếm, và tại chỗ mà những gì được nhai, được uống,
được ăn, được nếm, được giữ lại, và ngang qua chỗ mà những gì
được nhai, được uống, được ăn, được nếm và được tống xuất xuống
phần dưới để ra ngoài, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc
cá nhân, thuộc hư không, thuộc hư không tánh, bị chấp thủ. Này Tỷ-kheo,
như vậy được gọi là nội hư không giới. Những gì thuộc nội hư không
giới và ngoại hư không giới đều thuộc về hư không giới. Hư không ấy
phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau : "Cái này
không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự
ngã của tôi". Sau khi như thật quán sát hư không giới với chánh trí
tuệ như vậy, vị ấy sanh yếm ly đối với hư không giới, tâm từ bỏ hư
không giới.
Lại nữa, khi thức còn lại được
trong sạch, trong trắng, vị ấy biết được một số sự việc nhờ thức
ấy. Vị ấy thức tri được lạc, thức tri được khổ, thức tri được
bất khổ bất lạc. Này Tỷ-kheo, duyên lạc xúc, lạc thọ khởi lên. Vị
ấy khi đang cảm giác lạc thọ, tuệ tri rằng : "Tôi cảm giác lạc thọ".
Do lạc xúc diệt đi, lạc thọ do lạc xúc được khởi lên được cảm giác,
vị ấy biết: "Lạc thọ ấy được diệt đi, được chấm dứt".
Này Tỷ-kheo, duyên khổ xúc, khổ thọ khởi lên. Vị ấy khi đang cảm giác
khổ thọ, tuệ tri rằng : "Tôi cảm giác khổ thọ". Do khổ xúc
ấy diệt đi, khổ thọ do khổ xúc được khởi lên, được cảm giác, vị
ấy biết : "Khổ thọ ấy được diệt đi, được chấm dứt". Này
Tỷ-kheo, duyên bất khổ bất lạc xúc, bất khổ bất lạc thọ khởi lên.
Vị ấy khi đang cảm giác bất khổ lạc thọ, tuệ tri rằng : "Tôi cảm
giác bất khổ bất lạc thọ". Do bất khổ bất lạc thọ xúc ấy diệt
đi, bất khổ bất lạc thọ do bất khổ bất lạc xúc được khởi lên,
được cảm giác, vị ấy tuệ tri : "Bất khổ bất lạc thọ ấy được
diệt đi, được chấm dứt".
Này Tỷ-kheo, ví như do hai cây que
xúc chạm cọ xát, hơi nóng được sanh, ngọn lửa được hiện khởi. Khi
hai que ấy được rời nhau, được phân ly, sức nóng được sanh khởi ấy,
sức nóng ấy được diệt đi, được chấm dứt. Cũng vậy, này Tỷ-kheo,
duyên lạc xúc, lạc thọ khởi lên. Vị ấy khi đang cảm giác lạc thọ tuệ
tri rằng : "Tôi đang cảm giác lạc thọ". Do lạc xúc ấy diệt
đi, lạc thọ do lạc xúc được khởi lên, được cảm giác vị ấy tuệ
tri : "Lạc thọ ấy được diệt đi, được chấm dứt". Này Tỷ-kheo,
duyên khổ xúc khổ thọ khởi lên. Vị ấy khi đang cảm giác khổ thọ tuệ
tri rằng : "Tôi đang cảm giác khổ thọ". Do khổ xúc... "...
được chấm dứt". Này Tỷ-kheo duyên bất khổ bất lạc xúc, bất khổ
bất lạc thọ khởi lên... , "... bất khổ bất lạc thọ được diệt
đi, được chấm dứt".
Lại nữa, xả còn lại được
trong sạch, trong trắng, nhu nhuyến, dễ uốn nắn, chói sáng. Ví như, này Tỷ-kheo,
một người thợ vàng thiện xảo hay người đệ tử sửa soạn lò đúc;
sau khi sửa soạn lò đúc xong, người ấy đốt lửa miệng lò đúc; sau khi
đốt lửa miệng lò đúc, người ấy dùng kềm kẹp lấy vàng và đặt vàng
vào trong miệng lò; rồi thỉnh thoảng người ấy thổi trên ấy, thỉnh
thoảng người ấy rưới nước trên ấy, thỉnh thoảng người ấy quán
sát thật kỹ... vàng ấy đã trở thành sáng sủa, thanh tịnh, gột sạch,
các uế tạp được đoạn trừ, các tỳ vết được trừ sạch, nhu nhuyến,
dễ uốn nắn và chói sáng... và nếu người ấy muốn làm đồ trang sức
nào, hoặc vòng nhẫn, hoặc bông tai, hoặc vòng cổ, hoặc vòng hoa vàng, thời
vàng ấy có thể dùng vào mục đích ấy. Cũng vậy, này Tỷ-kheo, lại nữa
xả còn lại được trong sạch, trong trắng, nhu nhuyến, dễ uốn nắn, chói
sáng. Người ấy tuệ tri như sau : "Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh
như vậy, trong trắng như vậy vào Hư không vô biên xứ, và tu tập tâm ta
tùy theo pháp ấy, thời xả này y cứ vào đấy, chấp thủ tại đấy được
an trú nơi ta trong một thời gian dài. Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh
như vậy, trong trắng như vậy vào Thức vô biên xứ và tu tập tâm của ta
tùy theo pháp ấy, thời xả này y cứ vào đấy, chấp thủ tại đấy được
an trú nơi ta trong một thời gian dài. Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh
như vậy, trong trắng như vậy vào Vô sở hữu xứ, và tu tập tâm ta tùy
theo pháp ấy, thời xả này y cứ vào đấy, chấp thủ tại đấy, được
an trú nơi ta trong một thời gian dài. Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh
như vậy, trong trắng như vậy vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và tu tập
tâm của ta tùy theo pháp ấy, thời xả này y cứ vào đấy, chấp thủ tại
đấy, được an trú nơi ta trong một thời gian dài".
Người ấy tuệ tri như sau : "Nếu
ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Hư không
vô biên xứ... Thức vô biên xứ... Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng
xứ, và tu tập tâm của ta tùy theo pháp ấy, thời (xả) ấy trở thành
pháp hữu vi". Vị ấy không tác thành, không suy tưởng đến hữu hay
phi hữu. Do không tác thành, không suy tưởng đến hữu hay phi hữu, vị ấy
không chấp thủ một sự vật gì ở đời; chấp thủ không quấy rối vị
ấy; do chấp thủ không quấy rối vị ấy, vị ấy tự chứng Niết-bàn,
và vị ấy tuệ tri : "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những điều
nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái như thế này nữa". Nếu
vị ấy cảm giác lạc thọ, vị ấy tuệ tri : "Thọ ấy là vô thường";
vị ấy tuệ tri : "Không nên đắm trước"; vị ấy tuệ tri :
"Không phải là đối tượng để hoan hỷ". Nếu vị ấy cảm giác
khổ thọ, vi ấy tuệ tri : "Thọ ấy là vô thường"; vị ấy tuệ
tri : "Không nên đắm trước"; vị ấy tuệ tri : "Không phải
là đối tượng để hoan hỷ". Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc
thọ, vị ấy tuệ tri : "Thọ ấy là vô thường"; vị ấy tuệ tri
: "Không nên đắm trước"; vị ấy tuệ tri : "Không phải là
đối tượng để hoan hỷ". Nếu cảm giác lạc thọ, không có hệ phược,
vị ấy cảm giác thọ ấy. Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, không có hệ
phược, vị ấy cảm giác thọ ấy. Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất
lạc thọ, không có hệ phược, vị ấy cảm giác thọ ấy. Khi vị ấy cảm
giác một cảm thọ với thân là tối hậu, vị ấy tuệ tri : "Ta cảm
giác một cảm thọ với thân là tối hậu. Khi vị ấy cảm giác một cảm
thọ với sinh mạng là tối hậu, vị ấy tuệ tri : "Ta cảm giác một
cảm thọ với sinh mạng là tối hậu "; vị ấy tuệ tri : "Sau khi
thân hoại mạng chung, mọi cảm thọ hoan hỷ ở nơi đây trở thành thanh lương".
Ví như, này Tỷ-kheo, như ngọn đèn
dầu được cháy đỏ nhờ dầu và tim. Khi dầu và tim diệt tận, và không
có vật liệu khác được đem đến, ngọn đèn dầu ấy bị diệt tắt...
Cũng vậy, này Tỷ-kheo, khi cảm giác một cảm thọ lấy thân làm tối hậu,
vị ấy tuệ tri : "Tôi cảm giác một cảm thọ lấy thân làm tối hậu".
Khi cảm giác một cảm thọ lấy sinh mạng làm tối hậu, vị ấy tuệ tri
: "Tôi cảm giác một cảm thọ lấy sinh mạng làm tối hậu"; vị
ấy tuệ tri : "Sau khi thân hoại mạng chung, mọi cảm thọ hoan hỷ ở
nơi đây trở thành thanh lương". Do vậy, Tỷ-kheo thành tựu như vậy là
thành tựu với tối thắng tuệ thắng xứ này. Vì rằng, này Tỷ-kheo, như
vậy là tối thắng Thánh tuệ, nghĩa là trí, biết sự đoạn tận mọi
đau khổ. Sự giải thoát ấy của vị này, an trú vào chân đế, không bị
dao động. Này Tỷ-kheo, cái gì có thể đưa đến hư vọng, thời thuộc về
hư vọng. Cái gì không thể đưa đến hư vọng, thời thuộc về chân đế,
Niết-bàn. Do vậy, vị Tỷ-kheo thành tựu như vậy là thành tựu với tối
thắng đế thắng xứ này. Vì rằng, này Tỷ-kheo, như vậy là tối thắng
Thánh đế, tức là Niết-bàn, không có thể đưa đến hư vọng. Và những
sanh y vô trí thức trước của nó đã được đầy đủ, đã được thành
tựu. Chúng được đoạn tận, chặt tận gốc rễ, làm cho như thân cây
tala, không thể hiện hữu nữa trong tương lai, không có khả năng sanh khởi
nữa. Do vậy, một Tỷ-kheo thành tựu như vậy là thành tựu với tối thắng
huệ thí thắng xứ này. Vì rằng này Tỷ-kheo, như vậy là tối thắng
Thánh huệ thí, tức là sự xả ly tất cả sanh y. Và tham ái vô trí thức
trước của nó, thuộc tham dục, tham nhiễm; pháp ấy được đoạn tận,
chặt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala, không thể hiện hữu nữa
trong tương lai, không có khả năng sanh khởi nữa. Và sự phẫn nộ vô trí
thức trước của nó, thuộc sân hận, thuộc tội quá; pháp ấy được đoạn
tận, cắt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala, không thể hiện hữu nữa
trong tương lai, không có khả năng sanh khởi nữa. Và vô minh vô trí thức
trước của nó, thuộc si mê, thuộc tội quá; pháp ấy được đoạn tận
cắt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala, không thể hiện hữu trong tương
lai, không có khả năng sanh khởi nữa. Do vậy, Tỷ-kheo thành tựu như vậy
là thành tựu tối thắng tịch tịnh thắng xứ. Này Tỷ-kheo, như vậy là
tối thắng Thánh tịch tịnh, tức là sự tịch tịnh tham sân si.
Khi được nói đến "Chớ có
buông lung trí tuệ, hãy hộ trì chân đế, hãy làm cho sung mãn huệ thí,
hãy tu học tịch tịnh", chính do duyên này được nói đến như vậy.
Khi được nói đến "Khi được
an trú, vọng tưởng không có chuyển động. Khi vọng tưởng không chuyển
động, vị ấy được gọi là một ẩn sĩ tịch tịnh", do duyên gì
được nói đến như vậy ? Này Tỷ-kheo, "Tôi là", như vậy là vọng
tưởng. "Tôi là cái này", như vậy là vọng tưởng. "Tôi sẽ
là", như vậy là vọng tưởng. "Tôi sẽ không là", như vậy là
vọng tưởng. "Tôi sẽ có sắc", như vậy là vọng tưởng. "Tôi
sẽ không có sắc" như vậy là vọng tưởng. "Tôi sẽ có tưởng",
như vậy là vọng tưởng. "Tôi sẽ không có tưởng", như vậy là
vọng tưởng. "Tôi sẽ không có tưởng, không không có tưởng",
như vậy là vọng tưởng. Vọng tưởng, này Tỷ-kheo, là bệnh, vọng tưởng
là cục bướu, vọng tưởng là mũi tên. Này Tỷ-kheo, khi vượt khỏi mọi
vọng tưởng, vị ẩn sĩ được gọi là tịch tịnh. Nhưng này Tỷ-kheo, vị
ẩn sĩ tịch tịnh không sanh, không già, không có dao động, không có hy cầu.
Vì không có cái gì do đó có thể sanh, này Tỷ-kheo, không sanh làm sao già
được ? Không già, làm sao chết được ? Không chết làm sao dao động được
? Không dao động, làm sao hy cầu ? Khi được nói đến "Khi được an
trú, vọng tưởng không có chuyển động; khi vọng tưởng không chuyển động,
vị ấy được gọi là một ẩn sĩ tịch tịnh do chính duyên này được nói
đến như vậy. Này Tỷ-kheo, hãy thọ trì sự phân biệt tóm tắt của Ta về
sau giới.
Rồi Tôn giả Pukkusati nghĩ như sau
: "Thật sự bậc Đạo sư đã đến với ta ! Thật sự bậc Thiện Thệ
đã đến với ta ! Thật sự bậc Chánh Đẳng Giác đã đến với ta !"
Rồi Tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, cúi đầu
đảnh lễ chân Thế Tôn, và bạch Thế Tôn :
– Con đã rơi vào một lỗi lầm,
bạch Thế Tôn, vì rằng, ngu đần, si mê và không khéo léo như con, đã nghĩ
rằng con có thể xưng hô với Thế Tôn với danh từ Hiền giả. Bạch Thế
Tôn, mong Thế Tôn chấp nhận cho con lỗi lầm ấy là một lỗi lầm để
con có thể ngăn ngừa trong tương lai.
– Này Tỷ-kheo, thật vậy, Ông đã
rơi vào một lỗi lầm, vì rằng ngu đần, si mê và không khéo léo vì Ông
đã nghĩ rằng Ông có thể xưng hô với Ta với danh từ Hiền giả. Nhưng này
Tỷ-kheo, nếu Ông thấy một lỗi lầm là một lỗi lầm, và như pháp phát
lộ, thời chúng ta chấp nhận (lỗi lầm) ấy cho Ông. Vì rằng này Tỷ-kheo,
đây là sự tăng ích trong giới luật của bậc Thánh, khi nào một ai thấy
lỗi lầm là một lỗi lầm, như pháp phát lộ, để ngăn ngừa trong tương
lai.
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy cho
con được thọ cụ túc giới trước mặt Thế Tôn.
– Này Tỷ-kheo, Ông có đủ y bát
không ?
– Bạch Thế Tôn, con không có đủ
y bát.
– Này Tỷ-kheo, các Như Lai không
có trao cụ túc giới cho ai không đủ y bát.
Rồi Tôn giả Pukkusati sau khi hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn,
thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi tìm y bát. Trong khi Tôn giả
Pukkusati đi tìm y bát, một con bò cuồng chạy, đoạt mất mạng sống (của
Tôn giả).
Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến
Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, các vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Thiện gia nam tử
Pukkusati được Thế Tôn thuyết giảng một cách vắn tắt đã mệnh chung.
Sanh thú của vị ấy như thế nào, đời sống tương lai như thế nào ?
Này Tỷ-kheo, thật là bậc Hiền giả,
Thiện gia nam tử Pukkusati, đã chấp hành Chánh pháp và tùy pháp. Và không
có phiền nhiễu Ta với những kiện tụng về Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo,
Thiện gia nam tử Pukkusati, sau khi đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được
hóa sanh và từ chỗ ấy nhập Niết-bàn, không phải trở lui đời ấy nữa.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
- 141. KINH
PHÂN BIỆT VỀ SỰ THẬT [^]
- (Saccavibhangacittasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Baranasi (Ba
la nại), Isipatana (chỗ chư Tiên đọa), tại Migadaya (Lộc Uyển). Tại đấy
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo". – "Bạch Thế
Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :
– Vô thượng Pháp luân đã được
Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chuyển vận ở vườn Lộc Uyển,
chỗ chư Tiên đọa, tại Ba-la-nại. Không một Sa-môn, Bà-là-môn, chư Thiên,
Ma (vương), Phạm thiên hay một ai ở đời có thể chận đứng, chuyển vận
ngược lại, tức là sự khai thị, tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở
rộng, phân biệt, hiển lộ bốn Thánh-đế.
Thế nào là bốn ? Sự khai thị,
tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở rộng, phân biệt, hiển lộ Khổ
Thánh đế; sự khai thị, tuyên thuyết.. về Tập khổ Thánh đế; sự khai
thị, tuyên thuyết... về Khổ diệt Thánh đế; sự khai thị, tuyên thuyết...
về Khổ diệt đạo Thánh đế. Vô thượng Pháp luân, này các Tỷ-kheo, đã
được Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chuyển vận ở vườn Lộc
Uyển, chỗ chư Tiên đọa, tại Ba la nại. Không một Sa-môn, Bà-la-môn ..
hay một ai ở đời có thể chận đứng.. tức là sự khai thị, tuyên thuyết..
bốn Thánh đế. Này các Tỷ-kheo, hãy thân cận Sariputta và Moggallana, Này
các Tỷ-kheo, hãy gần gũi Sariputta và Moggallana; các vị ấy là những Tỷ-kheo
hiền trí (pandita), là những vị sách tấn các đồng Phạm hạnh. Như một
sanh mẫu, này các Tỷ-kheo, như vậy là Sariputta ! Như một dưỡng mẫu,
như vậy là Moggalana ! Này các Tỷ-kheo, Sariputta hướng dẫn đến quả Dự
lưu, còn Moggallana hướng dẫn đến tối thượng nghĩa. Này Tỷ-kheo,
Sariputta có thể khai thị, tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở rộng,
phân biệt hiển lộ một cách rộng rãi bốn Thánh đế.
Thế Tôn nói như vậy; nói như vậy
xong, Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá.
Tại đấy, Tôn giả Sariputta, sau
khi Thế Tôn đi không bao lâu, liền gọi các Tỷ-kheo : "Này chư Hiền".
– "Thưa vâng, Hiền giả". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Sariputta. Tôn giả Sariputta nói như sau :
– Chư Hiền, Vô thượng Pháp luân
đã được Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chuyển vận ở vườn
Lộc Uyển, chỗ chư Tiên đọa, tại Ba la nại... sự khai thị, tuyên thuyết,
thi thiết, kiến lập, mở rộng, phân biệt, hiển lộ về Khổ diệt đạo
Thánh đế.
Và này chư Hiền, thế nào là Khổ
Thánh đế ? Sanh là khổ, già là khổ, (bệnh là khổ), chết là khổ, sầu,
bi, khổ, ưu, não là khổ; cầu không được là khổ. Tóm lại năm thủ uẩn
là khổ.
Này chư Hiền, thế nào là sanh ? Mỗi
mỗi hạng chúng sanh, trong từng giới loại, sự xuất sản, xuất sanh, xuất
thành, tái sanh của chúng, sự xuất hiện các uẩn, sự hoạch đắc các căn.
Này chư Hiền, như vậy gọi là sanh.
Này chư Hiền, thế nào là già ? Mỗi
mỗi hạng chúng sanh, trong từng giới loại, sự niên lão, sự hủ hoại,
trạng thái rụng răng, trạng thái tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ rút ngắn,
các căn hủy hoại. Này chư Hiền, như vậy gọi là già.
Này chư Hiền, thế nào là chết ?
Mỗi mỗi hạng chúng sanh trong từng giới loại, sự tạ thế, sự từ trần,
thân hoại, sự diệt vong, sự chết, sự tử vong, thời đã đến, các uẩn
đã tận diệt, sự vất bỏ tử thi. Này chư Hiền như vậy gọi là chết.
Này chư Hiền, thế nào là sầu ?
Này chư Hiền, với những ai gặp phải tai nạn này hay tai nạn khác; với
những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự sầu của người
ấy. Này chư Hiền, như vậy gọi là sầu.
Này chư Hiền, thế nào là bi ? Này
chư Hiền, với những ai gặp phải tai nạn này hay tai nạn khác; với những
ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự bi ai, sự bi thảm,
sự than van, sự than khóc, sự bi thán, sự bi thống của người ấy. Này
chư Hiền, như vậy gọi là bi.
Này chư Hiền, thế nào là khổ ?
Này chư Hiền, sự đau khổ về thân, sự không sảng khoái về thân, sự
đau khổ do thân cảm thọ, sự không sảng khoái do thân cảm thọ. Này chư
Hiền, như vậy gọi là khổ.
Này chư Hiền, thế nào là ưu ? Này
chư Hiền, sự đau khổ về tâm, sự không sảng khoái về tâm, sự đau khổ
do tâm cảm thọ, sự không sảng khoái do tâm cảm thọ. Này chư Hiền, như
vậy gọi là ưu.
Này chư Hiền, thế nào là não ?
Này chư Hiền, với những ai gặp tai nạn này hay tai nạn khác; với những
ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự áo não, sự bi
não, sự thật vọng, sự tuyệt vọng của người ấy. Này chư Hiền, như
vậy gọi là não.
Này chư Hiền, thế nào là cầu bất
đắc khổ ? Này chư Hiền, chúng sanh bị sanh chi phối, khởi sự mong cầu
: "Mong rằng ta khỏi bị sanh chi phối ! Mong rằng ta khỏi phải đi thác
sanh". Lời mong cầu ấy không được thành tựu. Như vậy gọi là cầu
bất đắc khổ. Này chư Hiền, chúng sanh bị già chi phối... chúng sanh bị
bệnh chi phối... chúng sanh bị chết chi phối... chúng sanh bị sầu, bi, khổ,
ưu, não chi phối, khởi sự mong cầu : "Mong rằng ta khỏi bị sầu, bi,
khổ, ưu, não chi phối !" Mong rằng ta khỏi đương chịu sầu, bi, khổ,
ưu não !" Lời mong cầu ấy không được thành tựu. Như vậy gọi là
cầu bất đắc khổ.
Này chư Hiền, như thế nào là tóm
lại, năm thủ uẩn là khổ ? Như sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ
uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này chư Hiền, như vậy tóm lại, năm
thủ uẩn là khổ.
Này chư Hiền, thế nào là Khổ tập
Thánh đế ? Sự tham ái đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm
cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia; như dục ái, hữu ái, vô hữu ái. Này chư
Hiền, như vậy gọi là Khổ tập Thánh đế.
Này chư Hiền, và thế nào là Khổ
diệt Thánh đế ? Sự diệt tận không còn luyến tiếc tham ái ấy, sự xả
ly, sự khí xả, sự giải thoát, sự vô nhiễm (tham ái ấy). Này chư Hiền,
như vậy gọi là Khổ diệt Thánh đế.
Này chư Hiền, thế nào là Khổ diệt
đạo Thánh đế ? Đó là Thánh đạo tám ngành, tức là chánh tri kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm,
chánh định.
Này chư Hiền, thế nào là chánh
tri kiến ? Này chư Hiền, tri kiến về Khổ, tri kiến về Khổ tập, tri kiến
về Khổ diệt, tri kiến về Khổ diệt đạo. Này chư Hiền, như vậy gọi
là chánh tri kiến.
Này chư Hiền, thế nào là chánh tư
duy ? Tư duy về ly dục, tư duy về vô sân, tư duy về bất hại. Này chư Hiền,
như vậy gọi là chánh tư duy.
Này chư Hiền, thế nào là chánh ngữ
? Tự chế không nói láo, tự chế không nói hai lưỡi, tự chế không ác
khẩu, tự chế không nói lời phù phiến. Này chư Hiền, như vậy gọi là
chánh ngữ.
Này chư Hiền, thế nào là chánh
nghiệp ? Tự chế không sát sanh, tự chế không trộm cắp, tự chế không
tà dâm. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh nghiệp.
Này chư Hiền, thế nào là chánh mạng
? Này chư Hiền, ở đây vị Thánh đệ tử từ bỏ tà mạng, sinh sống bằng
chánh mạng. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh mạng.
Này chư Hiền, và thế nào là
chánh tinh tấn ? Này chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo, đối với các ác, bất
thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn không cho sanh khởi; vị này nỗ lực,
tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Đối với cái ác, bất thiện pháp đã sanh,
khởi lên ý muốn trừ diệt; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì
chí. Đối với các thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn khiến cho sanh
khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Đối với các thiện
pháp đã sanh khởi, khởi lên ý muốn khiến cho an trú, không cho băng hoại,
khiến cho tăng trưởng, phát triển, viên mãn; vị này nỗ lực, tinh tấn,
quyết tâm, trì chí. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh tinh tấn.
Này chư Hiền, thế nào là chánh niệm
? Này chư Hiền, ở đây, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời... trên các cảm thọ...
trên các tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm
để chế ngự tham ưu ở đời. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh niệm.
Này chư Hiền, thế nào là chánh định
? Này chư Hiền, ở đây, Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và
trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với
tứ. (Vị Tỷ-kheo ấy) diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai,
một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất
tâm, (Tỷ-kheo) ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc
thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ
ba (Tỷ-kheo ấy) xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng
và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này chư
Hiền, như vậy gọi là chánh định.
Này chư Hiền, như vậy gọi là Khổ
diệt đạo Thánh đế.
Chư Hiền, Vô thượng Pháp luân đã
được Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chuyển vận ở vườn Lộc
Uyển, chỗ chư Tiên đọa, tại Ba-la-nại, Không một Sa-môn, Bà-la-môn, chư
Thiên, Ma (vương), Phạm thiên hay một ai ở đời có thể chuyển vận ngược
lại, tức là sự khai thị, tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở rộng,
phân biệt, hiển lộ bốn Thánh đế.
Tôn giả Sariputta thuyết giảng như
vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Sariputta dạy.