- Nhân Duyên Vào Đạo Phật
- Thích Phổ Huân
- 15
- Xả bỏ
Chúng ta hiểu đạo Phật qua ý niệm
thoát ly, giải thoát. Thoát ly căn bản trước tiên, là những gì thô kệch
có thể thấy được, rồi tiến cao hơn là điều không thấy được như là
tư tưởng, nhận thức v.v.. Người học Phật sơ cơ như chúng ta, thấy rõ
vấn đề này khi nhìn vào các vị tu sĩ. Họ thật có thoát ly, xả bỏ đó.
Họ thoát ly gia đình, xả bỏ nhà cửa thế gian, để vào nơi chốn không
gia đình vợ chồng con cái, không cảnh vật chất điểm tô trang trí như cảnh
thế gian; nơi họ sống gọi là chùa, am, tự viện và chùa am tự viện đó
có điểm tô đi nữa cũng là nơi mà mọi người có thể viếng thăm, không
ngại ngùng như chỗ riêng rẽ một ngôi nhà thế tục. Người cư sĩ tu Phật
còn ngoài thế gian cũng đã thoát ly, xả bỏ. Thoát ly nơi ồn ào kích động,
có tánh cách kích thích khơi dục vọng tâm, nếu họ quyết giữ năm giới,
mười điều thiện. Họ xả bỏ những gì đấu tranh, nếu không là chánh
nghĩa mang yêu thương hòa bình đến cho nhân loại v.v...Vậy người tu sĩ và
cư sĩ về việc thoát ly và xả bỏ căn cứ vào lý giải thoát hướng đến
quả giác ngộ (Phật) không khác biệt, tuy nhiên về sự giải thoát thì
có khác biệt rõ ràng như trên đã nói.
Tuy vậy để được giải thoát rốt
ráo, chúng ta phải thoát ly cả hai mặt lý sự.
Với người sơ cơ học Phật, việc
xả bỏ nào cũng quan trọng. Và hẳn nhiên tuần tự thoát ly xả bỏ trước
tiên là những gì thô kệch, những gì có thể thấy được đụng chạm
được mà có thể trói buộc ta vào sự tham đắm, si mê thì ta phải từ bỏ.
Chẳng hạn xả bỏ sát sanh không hại vật, xả bỏ nói dối v.v...Chúng ta
vẫn băn khuăn rằng, vì phương tiện đời sống nên việc thoát ly xả bỏ
không thể như ý; cũng như nếu xả bỏ như ý thì ảnh hưởng đến hoàn
cảnh chung quanh. Chẳng hạn vai trò của một người chồng đang còn gánh
vác việc sinh sống nuôi gia đình, thì người chồng đó không thể xả bỏ
hoàn cảnh và trách nhiệm mình. Vai trò người vợ đang còn đảm đương
việc chăm sóc dạy dỗ con cái, lại không thể xả bỏ được bổn phận,
và vai trò của người con đang phụng dưởng cha mẹ già, hay đàn em nhỏ dại
cũng không thể xả bỏ trọng trách đó.
Tất nhiên trong tình huống nào, mà
ta cảm thấy sự xả bỏ có thể tạo ra một thực cảnh đau buồn dằn vặt
lương tâm, thì điều xả bỏ đó chưa phải là hợp lý. Tuy vậy việc học
Phật để đạt được an định tâm hồn, chúng ta phải tập dần việc xả
bỏ. Trong những tiền thân đức Phật, Ngài dạy rằng, để đạt được
quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài đã từng xả bỏ, bố thí không biết
bao nhiêu là thân mạng. Dù trong những kiếp làm súc sanh, Ngài vẫn là những
con vật chấp nhận hy sinh xả bỏ, để có thể cứu nguy, đem lại an ổn
cho các loài khác. Nay đến đời sống cuối trong cảnh đế vương, Ngài cũng
xả bỏ tất cả trước khi thành đạo. Và sự xả bỏ như vậy cho thấy,
là việc tự nhiên của vấn đề, bởi không thể vừa còn ôm giữ vật chất
mà an định được tinh thần. Ta có thể thấy rõ hơn, khi còn vương vấn
việc gì, tất nhiên tinh thần phải do dự lo lắng.
Việc xả bỏ hướng đến giải
thoát là vấn đề siêu xuất thế gian, nên không thể đặt ra một tiêu
chuẩn nào. Và ngược lại, thế gian là đối tượng của vấn đề giải
thoát, cho nên ta vẫn xả bỏ theo cái nhìn của mỗi hoàn cảnh chứ không
chấp chặt một quy luật nào, nhưng được vậy phải có trí huệ, nghĩa là
phải học hiểu Phật pháp mới thực hành được hạnh xả ly.
Giản dị mà hiểu, nếu ta muốn xả
bỏ tham, cụ thể chúng ta phải sống giản dị vừa đủ, ít ham muốn; muốn
xả bỏ sân giận phải tập tánh vui vẻ, yêu thương hài hòa tôn trọng tất
cả, và muốn xả bỏ si mê phải thường chăm đọc kinh sách hay nghe pháp,
niệm Phật tọa thiền...nói chung tập gần gũi phương tiện gì mang khuynh
hướng giải thoát.
Như thế, nếu không xả bỏ thì
không giải thoát. Do đó dù học Phật cách nào, việc xả ly những gì có
thể làm trói buộc tạo ra phiền não sinh tử, là việc đứng đầu.
Khi xả bỏ được những hình ảnh,
hành động thô kệch, bây giờ chúng ta mới tập xả bỏ những cái vi tế.
Vấn đề vi tế cũng vẫn là tham, sân, si nhưng bây giờ cái tham có phần
tinh tế hơn. Theo giáo lý nhà Phật, thì phần tham vi tế này thường được
đề cập đến hàng nhị thừa, tức các vị Thanh Văn, Duyên Giác; các vị
xả bỏ cảnh ô trược phiền não để tìm an lạc trong cảnh an tịch của
các cảnh trời vô sắc, hay những cảnh giới mà các vị chiêu cảm ra. Điều
này đức Phật đã thường nhắc nhở, và cho đó chỉ là giai đoạn đi đến
giải thoát, chứ chưa thể coi là đạt đến cứu cánh giải thoát; và nếu
ngừng tại đây thì cảnh giới Phật vẫn còn xa. Chúng ta, hàng sơ cơ học
Phật căn tánh còn quá đổi u mê không thể so sánh với các vị Thanh Văn,
có đâu lại dám nói là xả bỏ được cái tham sân si vi tế. Tuy nhiên một
điều thành thật thấy rằng, khi ta móng tâm lên hay vọng tưởng một điều
gì bất thiện, thì đó là những tham sân vi tế. Nhận được sự động tâm
như vậy, rồi ngăn chặn, tức thực hành được việc xả bỏ phiền não
vi tế. Nhưng không chỉ điều bất thiện nhỏ là vi tế mà cả chính điều
thiện cũng có thể sinh ra phiền não vi tế, tức là sự cố chấp việc
thiện, tự thị cho mình đã làm việc thiện rồi phân biệt nhân ngã, bỉ
thử (có người, có ta, có đây có kia). Trong tứ Thánh Quả, quả Dự lưu
là quả Tu Đà Hoàn, quả này chỉ mới bước vào dòng Thánh lấy đà tiến
đến quả vô sanh là A La Hán. Muốn đạt quả này hành giả phải đạt
được pháp vô chấp về nhân ngã. Đây thấy rằng tầm mức xả bỏ ở
phần vi tế khó khăn hơn, do đó hành giả nào thực hiện được việc xả
ly vi tế tức đã đi gần đến quả Thánh.
Trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo
có pháp Tứ Chánh Cần, thiết nghĩ đây là phương cách giúp chúng ta xả bỏ
những vi tế trói buộc. Tứ Chánh Cần là bốn điều chuyên cần hướng về
chánh pháp: thứ nhất là chuyên cần ngăn chặn những điều bất thiện
chưa phát sanh. Thứ hai chuyên cần dứt trừ sự việc bất thiện nào ta đã
lỡ phạm, tức sẽ không tái phạm nữa. Thứ ba chuyên cần phát huy, khai
thác những điều tốt đẹp thiện lành nào chưa phát sanh trong tâm. Và thứ
tư, nếu ta đang sống hành động việc thiện, thì cố gắng chuyên cần tiếp
tục duy trì phát huy điều hay đẹp đó. Bốn điều này nhắc ta có đủ
thời gian suy niệm để đối phó vấn đề thiện ác, khi chưa biến thành
hành động.
Khi tư tưởng dằn co với vấn đề,
đây là lúc ta đương đầu với sự buông bỏ và trói buộc. Tư tưởng nắm
giữ điều thiện để thực hành không trái với điều xả ly, chỉ khi nào
tâm tư ta hướng đến điều thiện theo chánh pháp giải thoát. Nghĩa là nương
vào thiện để thoát ly ác, nương vào thiện để thấy chánh thiện là xả
ly. Chính ngay điểm này ta lại thấy vấn đề học Phật là quan trọng cho
việc giải thoát. Tuy nhiên việc đầu tiên của người sơ cơ là xả bỏ
những gì có thể làm động tâm ta. Và vì sự sống của ta còn lệ thuộc
nhiều vấn đề vật chất, nên tâm chúng ta phải ảnh hưởng theo, lại thấy
rằng còn vây kết với hình ảnh bên ngoài nhiều chừng nào thì tâm càng
dao động chừng đó. Do đó không thể xả bỏ bên trong được, khi bên
ngoài còn quá nhiều vương vấn. Tóm lại chúng ta phải giảm thiểu tối
đa bên ngoài để bên trong nhẹ vấn vương đi, từ đây ta có thể từng bước
phối hợp trong và ngoài, nghĩa là ngăn chặn tham muốn bằng cách sống
trong hoàn cảnh không khiêu gợi sự tham muốn. Đến khi bên trong đã an ổn
chừng ấy ta sẽ khắc phục được bên ngoài nhiều hơn. Bậc Thánh giả cũng
từ bước xả bỏ theo cách sơ cơ này, và khi đến mức độ điều tâm
thuần thục, các vị xả bỏ luôn cả ý niệm muốn xả bỏ, bấy giờ
các vị có thể tự tại đi đâu cũng được, làm gì cũng xong mà nhà Thiền
gọi là phỏng tay vào chợ!
________________
*Thanh Văn: Tu theo pháp Tứ Diệu Đế,
đắc quả A La Hán. Duyên Giác: Tu theo Thập nhị nhơn duyên, đắc quả Độc
giác.