- Nhân Duyên Vào Đạo Phật
- Thích Phổ Huân
- 22
- Thiền
Thiền là một pháp tu không thể
thiếu trong nhà Phật, dù là tu theo tông phái nào cũng đều nên thực tập.
Trong Phật Học Từ Điển ĐTC, giải thích:..Thiền là một cõi đạo nói
không cùng, biên ra không xiết. Ấy là môn giải thoát. Những nhà học đạo
giữ giới cần phải thiền định. Nhờ thiền định mới đắc Trí huệ,
giải thoát khỏi các sự phiền não: tham, sân, si. Thật vậy trong Lục
Độ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ đã
nói về thiền, và do thiền là tâm mối của người tu Phật, nên người học
Phật nào lại chẳng không nghe. Nhưng thiền không phải do đức Phật tìm
ra, vì trước khi Ngài thành đạo cũng có các môn thiền của những đạo
sĩ khác. Tuy vậy thiền để vào giải thoát thì duy nhất chỉ Phật tìm
ra. Thiền lưu truyền đến ngày nay đã gần thành môn khoa học, người không
biết đạo Phật họ cũng học thiền, cả luôn tôn giáo khác cũng học thiền
mà không phân biệt chi cả. Quyển ‘The Elements of MEDITATION’ (Những yếu
tố về Thiền) của giáo sư David Fontana, phần trang tựa sau sách có ghi ‘Thiền
là một kỹ thuật thời xưa tạo cho sự thư thả thân và tâm, cũng như làm
phát triển tinh thần của cá nhân’ (Meditation is an ancient technique
which is used for physical and mental relaxation as well as for personal and spiritual
growth...)* . Định nghĩa về thiền gần đây hơn, trong quyển BUDDHA - A
Beginner’s Guide (Hướng dẫn Phật pháp cho người bắt đầu) xuất bản
năm nay (2000), Tác giả viết:"....Thiền là yếu tố quan trọng trong
việc thực hành Phật pháp, nó được phát triển phù hợp với giới hạnh
bên trong" (Meditation is a vital component of Buddhist practice, to be
developed in conjunction with inner discipline and morality).*
Chúng ta thấy, đời sống vật chất
thế nào rồi cũng quay về bồi dưỡng nền tâm linh, nhưng bồi dưỡng bằng
cách nào thì không có món thuốc chi bằng thiền định. Dù vậy thiền phải
liên đới với đời sống hiện tại, nếu không cũng chỉ là món ăn tạm
thời xoa bóp vết thương bên ngoài, mà hết cơn đau này lại nhiễm cơn
đau khác. Thiền theo pháp giải thoát không thể định nghĩa, vì an lạc của
tâm hồn thế nào có ai định nghĩa được không? Tạm hiểu rằng thiền
là phương tiện khéo léo làm cho thân dừng lại và tâm trở nên trong sáng
- thân dừng lại phải trong tư thế vững vàng, tức phải ngồi xuống
chân chéo lại nhau (crossed-leg), hay gọi là bán già, kiết già. Hiểu tới
đây chỉ là giai đoạn đầu, giai đoạn tiến cao hơn là thiền luôn cả
khi đi, khi đứng, khi nằm và cả lúc ăn uống nói năng nữa. Nên nhớ giai
đoạn này có kết quả hay không là do giai đoạn đầu. Như vậy tất cả
tư thế hành động thiền đây chỉ là làm sao cho tâm được an trụ và an
lạc. Tới đây chúng ta lưu ý rằng mục đích của việc học Phật là
làm sao được giải thoát, làm sao được vào nhà chư Phật, nếu quên mất
điểm này, thiền chỉ giúp ta hưởng lạc ở cõi trời vô sắc mà thôi,
và còn cách xa nhà chư Phật đến ức ức Phật độ. Thế thì ta phải tu
học giữ giới theo chánh pháp để có trí huệ, áp dụng vào Thiền, và
có thể đạt được chánh định như là Định trong lục độ hay trong Định
của Bát Thánh Đạo. Nhưng rồi sao nữa! Đây cũng chỉ là phương tiện!
Ngày nay hiếm thấy được người hành thiền đúng pháp, thiền như Lục Tổ
Huệ Năng lại càng không thấy, Ngài thiền đến bậc Tổ thiền mà không
tự cho mình là thiền gì cả. Trước khi được truyền y bát làm Tổ, cũng
không ai thấy Ngài ngồi thiền. Quả thật phi thường, khi THI"N được
ngay trong lúc sống làm việc đông chúng như vậy.
Cận đại đây, có Ngài Hư Vân
lão Hòa Thượng cũng là bậc cao tăng thiền, hành tung của Ngài khó mà hiểu,
có lần Ngài ngồi thiền nhập định đến cả tuần lễ, và lực tu của
Ngài còn cảm hóa được thú dữ. Các vị Thiền sư chứng đạo vậy, hầu
như không bao giờ lên tiếng phát ngôn những gì không phải là chánh pháp.
Vì các Ngài thấy sao thì nói vậy! Chúng ta ngày nay phần lớn nặng tu về
kiến thức, nên nói ra cũng chỉ là kiến thức nhiều hơn. Chúng ta đọc
trong sách, rồi mượn ý lập lại không khác, điều này vẫn tốt theo mặt
thường thức phổ thông, trên phương diện duy trì phát triển truyền thống
văn hóa. Tuy nhiên phương diện liễu đạo chứng đạo chỉ là nhân duyên
hiếm hoi, do vì không nói bằng cái thấy của tâm nên khó thể truyền cảm
đến thính giả được. Thế đó mà ta thường nghe trong nhà Thiền nói ‘dĩ
tâm truyền tâm’, ‘bất lập văn tự’, ‘giáo ngoại biệt truyền’ (lấy
tâm truyền tâm, không lập văn tự, truyền giáo không từ kinh văn) ý nghĩa
là vậy.
Dù sao thì thiền cũng là cần thiết
cho người Phật tử sơ cơ như chúng ta, hay nói đúng hơn cho tất cả người
đang trong cái xã hội rền vang ngày nay. Như đã biết, chúng ta luôn luôn bị
vòng quay sai sử, phải bù đầu tối tăm đủ chuyện, nếu ta không chịu
ngồi xuống suy tư (Thiền), tìm ra đáp số thì muôn đời vẫn không ra khỏi
vòng quay. Nếu không giải đáp được đáp số, ít ra ta cũng thấy được
ta đang bị nó quay trói đến mức độ nào! Chỉ cần thấy nó thôi cũng mừng
rồi, vì vấn đề chịu ngồi xuống, thật quả khó khăn. Đã nói tối tăm
đủ chuyện không có thời gian, nên việc buộc thân này dám ngồi xuống
là một cuộc cách mạng lớn. Nhưng đôi khi không phải sợ bỏ thời gian
để ngồi xuống, mà sợ tâm nó phóng ra bộ mặt thật của mình. Bộ mặt
mà bấy lâu nay mình cứ tưởng nó là một, nay thì nó đổi đủ hình; khi
mang diện hình người tốt người hiền, lúc mang hình hèn hạ, ghê tởm...Rồi
bên trong, nó (tâm) vẽ không biết bao nhiêu dị cảnh, nó cố tình hay vô
tình ta không biết, nhưng rõ ràng ta không chịu nổi với cảnh ghê tởm xấu
xa mà nó vẽ ra. Không chỉ nó lên án ta, mà nó còn làm ta nghĩ đến việc
xấu xa với người khác, có khi đến cả người tôn kính.
Rơi vào tình cảnh này, vẫn là thường
của một tâm thức đã vô minh tung hoành ngang dọc trong quá khứ kiếp, và
do không có dịp hiển hình phóng ảnh, nên nằm yên đó; nay thân tâm kia chịu
ngồi lại lắng nghe, đã cho nó một cơ hội phóng thoát ra ngoài. Nhưng rồi
theo luật vô thường, nó cũng phải ra đi, bấy giờ ta tìm lại được cái
thật của cội nguồn thanh tịnh. Đây là chỗ mà người ngồi thiền nào
cũng mong đợi, và chính như thế mà người Tây Phương đa số đã tìm về
Thiền trước tiên khi bước vào đạo Phật. Hay nói cách khác trong xã hội
điện năng cơ khí, khi con người bị quay nhừ quá mức, họ đâm hoảng sợ
rồi cố tìm sự bình an đâu đó. Gặp được Thiền, tưởng chừng không
gì sung sướng hơn trên đời này - qua đó họ có dịp thư thả thân tâm một
cách tuyệt vời...
__________
*The Elements of Meditation của David
Fontane, xuất bản ở Anh năm 1991, by Element Books Limited.
__________
*Buddha - a beginner’s Guide, tác giả
Gillian Stokes, nxb Hodder & Stoughton (Great Britain).