- Nhân Duyên Vào Đạo Phật
- Thích Phổ Huân
- 28
- Cao siêu của sự cung kính
lễ lạy
Vào Phật đạo bằng tâm cầu giải
thoát, không gì hơn sự cung kính lễ lạy, sự lễ lạy kính thành ươm lên
nét đẹp của một con người chân thiện. Sự lễ lạy chân thiện, làm sống
dậy giáo lý giải thoát của một nhân cách sáng ngời hướng về tánh thể
vô ngã vô phân biệt. Càng dâng tâm cung kính càng tô đẹp tư chất của mình,
càng khiến mình hòa vào dòng nước thanh lương, chân vị, vô úy (không sợ
hãi). Lý sự của hành động cung kính lễ lạy thật quá cao siêu, và công
đức không thể lường được. Ngày nay những người học Phật chúng ta
hình như đã xem nhẹ việc này, nhất là khi kiến thức Phật học được
tô bồi khá cao. Tiếc thay kiến thức đó chẳng là cứu cánh đi vào giải
thoát, có chăng chỉ giúp ta hiểu được giáo pháp bên ngoài, mà bên ngoài
đó là cái vỏ bản ngã to lớn ngăn chặn cái tâm bên trong; nhưng cái tâm
bên trong cũng chẳng phải là cứu cánh giải thoát, phải đạp phá cái
tâm đó luôn vì nó cũng là cái để biện hộ cho cái ngã vi tế.
Phải bỏ, bỏ tất cả, bỏ luôn
cái bỏ tất cả mới hòa vào được an lạc giải thoát. Kiến thức Phật
học là điều quan trọng đó, thật phải chấp nhận cho bước đầu,
nhưng bước giữa bước cuối nên cẩn thận, không thôi sẽ là cái kẹt,
tiêu phá mất đi bước đầu của chúng ta.
Lẽ nên vào Phật đạo ban đầu thế
nào, đến bước cuối cuộc đời phải như thế đó hoặc phải hơn là
khác. Người vào đạo giải thoát nào, có được kiến thức Phật học
cao mà chí tâm cung kính lễ lạy, người đó gặt hái phước đức càng
cao thêm. Tất nhiên là vậy, vì như trên đã nói, rất dễ bị kiến thức
bảo đừng: đừng hình thức nhiều nữa, hãy lạy bên trong, hãy phá chấp
hãy đạp tất cả những chướng ngại bên ngoài, nên quay về mình vì tất
cả chỉ là, chỉ là phương tiện khơi dậy Phật tại tâm mà thôi! Có lẽ
chúng ta ít nhiều trong giai đoạn tu học đã bị rơi vào kiến thủ chấp
này.
Đạo giải thoát là đạo sống, thể
hiện ra bên ngoài qua cách sống, cách đối xử - và lễ lạy cung kính là
căn gốc nền tảng nói lên bên trong đã thuần thục. Chấp tay xá chào là
sự kính nhường lễ lạy, mở miệng kính bạch kính thưa là sự chân
thành lễ kính, hình ảnh như thế chẳng những tác động vào tâm người
mà chính mình cũng dội lại sự an bình hòa ái. Người đứng ngoài cửa
đạo giải thoát, còn có thể xử sự cung kính tay bắt mặt mừng, huống
gì người học đạo giải thoát không vượt siêu hơn sao! Nói đúng ra, sự
cung kính lễ lạy, nào có phân biệt người tu hay kẻ không tu, chỉ có
khác là người tu hướng đến sự lễ lạy để được giải thoát. Sự lễ
lạy hóa thành hình thức khi thân lễ mà tâm chẳng lễ, nghĩa là chẳng
có cung kính nên phóng tâm đâu đâu.
Cao hơn nữa, nếu ta không thể lễ
như ‘năng lễ sở lễ tánh không tịch’ là không còn phân biệt người
lễ hay đối tượng được lễ, thì ta phải nhất định xem ảnh tượng
đó phải là thật, đây giúp ta nhiếp vào sự kính mộ hướng về. Tất
nhiên chúng ta đã hiểu, đức Phật không phải thần linh ban ơn giáng họa,
cho nên sự lễ lạy phải tự tại vô úy, nghĩa là không sợ gì cả, mà
chỉ sợ ma lực của vô minh đánh mất bản thể giác ngộ của ta thôi. Ma
lực vô minh đó cũng từ trong ta, chớ chẳng phải bên ngoài, thế nên lễ
lạy để hướng về tự tánh giác ngộ, NHƯNG không thể tìm được tự tánh
đó nếu không hướng về hình ảnh tuyệt vời giải thoát của Phật Đà.
Do vậy lễ lạy, chỉ là chân thành biểu lộ niềm tri ân sâu kín nhất đối
với bậc Đạo sư đã chỉ bày giáo pháp giải thoát. Thế là ngay lúc lễ
lạy ta tức khắc vừa tìm được lại mình, là tự tánh Giác, tự tánh
Chánh, tự tánh Tịnh mà còn dâng lên được sự cúng dường tri ân đức
Phật. Nếu nói phước báo sẽ thế nào? Câu trả lời sẽ là vô lượng
phước báo không thể tưởng được. Phước báo vô lượng là ta sẽ
thành Phật trong tương lai, bởi ta đã tìm được tự tánh không tịch của
mình. Trong kinh ‘Đại Thừa Công Đức Tạo Tượng Phật’, Phật có kể
công đức tạo tượng, nói về Ông Kiều Phạm Ba Đề như sau: ‘®g Kiều
Phạm Ba Đề xưa là thân trâu, nhơn tìm cỏ nước đi quanh tịnh xá, ăn cỏ
trong những bụi tre, do thấy tôn dung của Phật, phát tâm vui mừng, nhờ phước
đó mà nay được giải thoát’
Ngay loài vật, chỉ thấy thân Phật,
tỏ sự vui mừng mà được phước báo giải thoát, thì chúng ta là loài hiếm
quý, tức loài người lại còn được quy y, nay thành kính chí tâm lễ lạy
lại không được giải thoát sao! Điều này phải thật tin như vậy.
Nhưng thực tế của lễ lạy còn tạo
cho ta sự an tâm thanh thản, ta có thể nhẹ nhàng dẹp đi tánh tự kiêu
ngã mạn, tánh bảo thủ tự tôn, tánh nhìn người bằng con mắt dò xét
khinh thị...Nếu không được vậy, thì làm sao ta có thể nào mang tâm niệm
bất kính đó trong khi phủ phục kính lễ dưới chân tượng Đấng Thế Tôn!
Ta phải tàm quý lắm! Đấng Điều Ngự chắc chắn soi rõ tâm ta như vậy,
và Ngài sẽ trải tâm Ngài vào tâm ta, bấy giờ bao nhiêu tâm xấu hèn đó
trở nên rơi rụng, ta bỗng thấy mình lắng tĩnh thật sâu vào bên trong
và hòa thành tâm từ bi vô ngã. Ngay đây có một số người cảm nhận
được niềm chân cảm vô biên của tự tâm mà xúc động đến rơi lệ. Có
lẽ họ nghĩ Phật từ bi quá! Phật cao siêu quá! Và Phật, Ngài đã bình
thường quá đến nổi tội lỗi vô minh như con mà Ngài vẫn hòa vào một
điệu...
Hiện thời chúng ta hãy tự nghĩ,
xem mình đã thực hành đúng nghĩa lễ lạy chưa! Riêng vấn đề lễ lạy
vái chào các vị tôn đức thì thế nào? Tùy theo chức phẩm đạo vị các
Ngài mà đảnh lễ, và thế nào chăng nữa ta cũng nên cung kính đảnh lễ
là hơn, vì phước báo lợi ích đó tự dội ngược về ta chẳng mất đâu
cả. Trường hợp so sánh lễ lạy này cũng đáng lưu ý, đôi khi ta chỉ
cung kính lễ lạy ảnh tượng Phật, nhưng đối với các bậc tôn túc có
khi ta không đảnh lễ lại còn có tâm niệm thất kính. Chỉ nghĩ có Phật
mới đáng lễ lạy! Ý tưởng này đã tự làm ta rơi ngay vào tánh ngã mạn;
ta đã quên rằng các vị tôn túc trưởng lão là hình ảnh truyền thừa
sanh ra hàng tăng trẻ. Và nếu ta cung kính đảnh lễ, thì hình ảnh đó sẽ
là những hình ảnh đẹp tiếp nối mãi, duy trì mãi cho những người đi
sau. Truyền thống Phật giáo ở Nhật, họ hành lễ hướng về chư Tổ còn
lớn hơn là Phật, vì họ quan niệm không có các Tổ đem đạo Phật đến
cho họ, thì làm sao họ hiểu được Phật pháp! Thế đó, nếu vì lý do
gì ta không thể đảnh lễ được các vị tôn túc trưởng lão nào đó,
thì thôi chớ không nên thất kính. Trường hợp nữa, đôi khi ta chỉ quá
kính lễ một vài bậc tôn túc, thể hiện qua việc đảnh lễ cúng dường,
nhưng lại xem nhẹ phần lễ Phật; để thành lạy Phật qua loa cho có, chẳng
bằng vui mừng hơn, lễ lạy các vị Tôn túc mình kính trọng. Điều này lại
phải coi chừng ta mất hết công đức, vì ta quên rằng các vị tôn túc
mà ta kính trọng đó, cũng phải thành kính đảnh lễ ảnh tượng kia! Lại
không chừng các Ngài còn thành kính đảnh lễ hơn cả ta nữa. Ấn Quang đại
sư, bậc cao Tăng chứng đạo ở Trung Hoa thường dạy người học Phật chớ
nên xem thường sự kính lễ hình tượng Phật, Bồ Tát vì bao nhiêu phần
kính lễ thì sanh công đức bấy nhiêu.
Vậy thì lễ lạy rõ ràng đưa ta
quay về lại bản tâm thanh tịnh, giác ngộ tự tánh của mình, cho nên xưa
nay không biết bao nhiêu các vị cao tăng hành đạo đều nương vào việc
cung kính lễ bái này. Và hình ảnh một hành giả trong tư thế nhiếp cả
thân tâm hạ người cung kính đầu chấm sát đất trước tôn tượng Thế
Tôn, là một hình ảnh tuyệt đẹp, mà cả chính người nhìn xem cũng phát
tâm hoan hỷ, hà huống tự mình dâng thân đảnh lễ thì sự an lạc chắc
phải là hơn...
____________
*Kinh Công Đức Tạo Tượng Phật,
T.T Thiện Thông dịch, 1995.