- Nhân Duyên Vào Đạo Phật
- Thích Phổ Huân
- 2
- Nhân duyên vào đạo Phật
Mỗi người mỗi nhân duyên làm
quen Phật pháp, từ việc làm quen trở thành gắn bó và từ gắn bó tới
thể nhập lần về giác ngộ giải thoát. Qua nhiều nhân duyên đến với
Phật pháp khiến chúng ta phải suy tư, trân quý, gìn giữ mãi buổi đầu
phát tâm vào đạo.
Có nhiều duyên ngộ dẫn ta đến cửa
đạo, ở đây xin được gợi lên một vài hình ảnh nhân duyên quen thuộc
dắt ta làm quen với đạo giải thoát, để từ đó vui mừng thấy rằng đó
là một thiện duyên.
Nhân duyên qua âm thanh
Như một nghệ thuật âm nhạc, đạo
Phật có những pháp cụ: chuông, mõ, khánh, tang...những thứ này tạo nên
âm thanh nhạc điệu, giữ được cách hòa tụng đều đặn nhịp nhàng, phụ
họa cho lời kinh trầm bỗng, khiến người tụng, người nghe đi sâu vào
thế giới âm điệu cao siêu, sâu thẩm giải thoát. Âm điệu chuông mõ
hòa theo âm điệu lời kinh, có tác động sâu kín vào tâm hồn người
nghe. Tác động này làm bừng dậy tâm thức, vơi nhẹ đi phiền não trong
tâm. Qua đó khiến một số người cảm nhận niềm rung cảm, lắng đọng
mà cho rằng chưa bao giờ tìm được một sự rung cảm lạ lùng như thế.
Một sự rung cảm gần như xúc động, cơ hồ kéo lôi ta về một thế giới
thanh tịnh sâu kín của âm thanh siêu thoát. Cho dù ta không hiểu trọn âm
nghĩa của kinh, nhưng âm thanh đã chuyên chở hết những rung động và vượt
lên trở ngại ngôn ngữ. Điều này đã làm chúng ta an tịnh, không cần thắc
mắc nghi vấn cũng không cần tìm cầu giải thích; duy chỉ có nghe và thanh
tịnh nghe, để được an lạc, để được trút bỏ tất cả âm thanh thô
kệch lộc cốc, phiền hà trong đời sống. Nghe như vậy ta đã cảm được
cái nghe huyền diệu, vượt lên...Cái nghe như Ngài Đơn Hà Thiền sư giải
thích: ‘Chấm dứt được vọng động phân biệt của nội tâm, tánh
nghe (chơn tâm) mới hiễn bày, trạng thái tâm lý này gọi là ‘Nhập lưu
văn tánh’ (Tánh nghe đã nhập vào thực tánh). Bấy giờ công năng tri giác
của tâm đối ngoại thì không còn ràng buộc bởi thanh trần (ngũ trần),
đối nội thì không trú trước vào không tuệ. Đó là điểm đạt đạo của
sơ tâm, và là cứu cánh của viên ngộ.*
Việc nghe Pháp do các vị giảng sư,
giúp người nghe tìm vào đạo dễ hơn, vì lời pháp rõ ràng cụ thể, giảng
dạy ngay vào chân lý đánh thức tánh giác đang say ngủ và hiển bày pháp
lý vi diệu bằng cách nhắc lại lời dạy của kinh điển. Người nghe pháp
vào đạo không hoàn toàn là do nghe từ vị tu sĩ, mà có khi từ một người
bạn, hay một người không quen biết, thậm chí từ một đứa nhỏ tình cờ
lập lại, nhái lại một vài tiếng trong kinh, hoặc một bài hát một vở
kịch diễn về Phật pháp v.v...
Những nhân duyên kỳ lạ ngẫu
nhiên ấy chỉ là một cớ duyên, đã hội đủ tàng chứa trong tâm thức
được thời duyên xuất phát để lãnh hội. Do đó có người khi chưa trọn
duyên trọn quả, tâm thức không thể đón nhận được những thanh âm Phật
pháp, và vậy âm thanh kinh kệ, thuyết giảng chẳng gợi một cảm xúc gì.
Tuy nhiên âm thanh kia vẫn không mất đi đối với người không duyên đón
nhận; nó sẽ là một thứ duyên xa, tàng trữ vào tâm thức (thức thứ
tám) một chỗ sâu sắc, vi tế chứa đựng làm mầm mống chủng tử cho kiếp
vị lai xa xôi; và chắc chắn sẽ nẩy mầm khi đủ duyên hội tụ. Vậy
thì chung quy cả hai âm thanh lời kinh tiếng mõ, những pháp ngữ đều khởi
lên nhân duyên vào đạo trong sứ mạng tác động và khơi dậy tánh giác.
Qua hình sắc:
Hình ảnh gợi nên cảm xúc cho ta rất
nhiều, có thể nói hình ảnh tác động rất mạnh vào tâm thức. Hình ảnh
dẫn duyên vào đạo, đại lược là phong cảnh thanh nhàn yên tịnh, tượng
hình Phật Thánh, và cảnh sống sinh hoạt của các vị tu sĩ nơi chốn già
lam.
Với người đang bị vây bủa bởi
lo toan, khích động tinh thần trong môi trường vật chất hỗn độn, họ sẽ
dễ dàng tìm được cảm giác dễ chịu trong cảnh thanh tịnh. Nhưng không
chỉ những người này mới cần đến cảnh yên bình như vậy, mà chính người
đã sống nơi thôn quê vốn đã yên tịnh, vẫn thấy được cảm giác yên
tịnh lạ lùng trong cảnh yên tịnh của đạo. Phong cảnh chùa có một sự
yên lạ như thế, một sự yên lạ thoảng niềm vui, một sự yên lạ như
vỗ về an ủi, thì thầm trong tâm, một sự yên lạ giữ được dung hòa
giửa tâm và cảnh... Sự yên lạ này hẳn khác biệt sự yên lạ cô liêu,
u tịch bên ngoài của thế gian, chỉ tìm thấy được bằng nhỉ căn, nhãn
căn (tai, mắt) là giác quan thô kệch. Và thường thì cảnh yên lạ đó phải
tọa lạc không gần quá thị tứ, mới tạo được cái yên tịnh thường
tình để biến thành cái yên tịnh đạo.
Có người sau khi viếng chùa họ bỗng
phát tâm. Sự phát tâm của họ càng bộc phát mạnh hơn, khi đối trước
Phật đài. Hình tượng Phật với nụ cười từ bi, trí tuệ với tư thế
hoa sen (kiết già) thiền tọa tự tại xuất trần. Chỉ cần nhìn thấy vậy
thôi, đã đủ nhân duyên vào đạo. Lại có người tìm vào đạo khi chiêm
ngưỡng phong cách các vị tu sĩ qua chiếc y vàng, nhất là chiếc y của
phái nguyên thủy; hình ảnh này gần gũi với ảnh tượng đức Phật khi
Ngài còn tại thế.
Khơi dậy lòng ước vọng, ngưỡng
mộ hơn nữa, khi đối trước cảnh tụ hội của chư tăng trong mùa an cư
kiết hạ, cảnh tượng này chẳng những rực rỡ màu y vàng giải thoát, lại
làm sống dậy trong mắt người xem, một thế giới của những con người
sống đời thanh tịnh.
Duyên vào đạo bằng hình ảnh có
thể còn nhiều, tùy vào sự cảm nhận của mỗi người, nhưng tất cả hình
ảnh như vậy đều có một tác động đưa họ về nguồn tâm Phật tánh.
Qua biến cố
Vào đạo bằng con đường thuận
duyên, thiện lành là điều dễ thấy, ngược lại do từ nghịch duyên
trong cuộc sống khiến người ta quay về tìm đạo cũng không phải chuyện
lạ. Thời Phật tại thế, có câu chuyện thương tâm của vị tín nữ con
Trưởng giả dòng Phạm Chí, đã trải qua cực cùng đau khổ; cảnh chết
chồng, chết con xảy ra ngay trong một ngày đêm, rồi tiếp theo là hung tin,
nhà bị cháy, cha mẹ cô và người trong nhà tất cả đều chết...Cô như
điên dại, nhưng không bao lâu chưa được nguôi ngoai lại sa vào sự thương
yêu chết chóc với những đời chồng khác. Đau đớn ghê rợn hơn, cô bị
người chồng điên loạn buộc phải ăn thịt con mình...Trong khổ đau như
vậy, cô bỗng nhớ về đấng Giác Ngộ rồi lần tìm đến... Không bao
lâu cô trở thành vị Tỳ kheo ni đầy đủ phẩm hạnh và chứng Thánh quả
Vô sanh (A La Hán).* Ngày nay trường hợp đau buồn, phát tâm vào đạo cũng
khá nhiều. Tuy nhiên những đau thương biến cố cùng cách ấy khi đã nguội
dần, sau thời gian về với đạo người ta lại hay quên đi, và những gì
tàn tích xưa lại được khơi dậy, rồi từ đó nhen nhúm bộc phát hồi
nào không hay biết, để rồi đánh mất đi nhân duyên ban đầu. Nguyên
nhân này cũng có thể là bước vào đạo qua con đường mong được xoa dịu
cứu vớt khó cảm được cái cảm vị của mùi hương giải thoát, để từ
đó khó giữ được bước đi lâu dài hơn. Tuy vậy cũng có người từ sự
đau thương đưa họ vào đạo một cách nhiệt thành, tinh tấn đến cuối
cuộc đời.
Xét cho cùng, trong đời người ai
cũng ít nhiều trải qua những biến cố khổ đau. Từ biến cố như thế làm
nên những suy tư cho cuộc sống, và do đây tìm hiểu vấn đề nhân sinh đạo
lý; mà Phật pháp là con đường diệt khổ cho nên thấy rằng, qua biến cố
khổ đau người ta có cơ hội nhận ra con đường giải thoát hơn.
Qua những tìm tòi nghiên cứu
Nhân duyên vào đạo qua con đường
sách vở, chữ nghĩa, số người này có thể khá nhiều so với thời gian
cách đây khoảng hơn 1000 năm, hay gọi là thời tượng pháp. Lý do xã hội
bây giờ là xã hội văn minh cơ khí, điện tử. Người ta làm việc gì cũng
cần có kiểm chứng, thực nghiệm. Vấn đề nào thiếu luận cứ, biện chứng
khoa học xem như mê tín, vô bổ. Do vậy tìm về đạo người ta thật cẩn
trọng, mà cẩn trọng bằng cách nào nếu không phải là bằng sự uy tín
qua sách vở, nghiên cứu có tính cách triết học, khoa học do những tác giả
bác học, học giả, sử gia viết ra.
Trong các đại đệ tử của Phật,
Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên trước kia là hai nhà du sĩ trí thức,
khao khát tìm cầu chân lý. Khi chưa gặp Phật các Ngài đã tự tìm đạo
qua kiến thức hiểu biết của chính mình, do sức hiểu biết cao rộng như
thế khiến không một danh sư nào trong thời đó lôi cuốn hai Ngài được.
Cuối cùng, nhân duyên gặp vị tu sĩ trong dáng điệu xuất trần, đệ tử
của đấng Thiên nhân sư (Đức Phật), rồi chỉ thưa thỉnh vài câu đã
đưa hai vị trí thức tìm đến đạo giải thoát. Khi đã nhận hiểu chân
lý giải thoát, các Ngài mới thấy sự hiểu biết của hai Ngài chỉ là những
hạt bụi lăn tăn trong vũ trụ, khi so với vô số mây bụi là những giáo
pháp mà đức Thế Tôn giảng dạy. Từ đó hai Ngài bừng sáng niềm tin, bắt
đầu dấn thân vào đạo, rồi không bao lâu đắc quả Thánh.
Ngày nay việc nghiên tầm giáo điển
trước khi vào đạo cũng là một phương tiện phổ thông. Do vậy một số
người đến với đạo bằng con đường này đã giúp họ có lòng tin sâu
sắc, vì đơn giản rằng Phật pháp đã vượt cao hơn những gì họ tưởng.
Nếu nói về khoa học thì giáo lý đạo Phật được diễn bày thật khoa học
qua cái nhìn về vũ trụ, nhân sinh. Điều này được thấy, qua nhận định
của nhà học giả Âu Châu, Henri Percheron mà Giáo sư Nghiêm Xuân Hồng đã
viết trong sách "Lăng Kính Đại Thừa": Giáo lý Phật hiện nay
đương lan tràn sang cõi trời Tây, và lạ thay, kẻ đồng minh lớn nhất của
giáo lý đó lại chính là khoa học ..."
Nếu nói về triết học, thì nền
triết học Phật pháp chẳng những rõ ràng khúc chiết mang lại cái nhìn
thiết thực trong đời sống, trả lời nhiều nghi vấn về nhân sinh, vũ trụ
và nhất là giúp người giải thoát khỏi khổ đau, chứ không là nền triết
học chỉ làm thỏa mãn đầu óc phiêu lưu văn chương chữ nghĩa, khó phổ
cập vào mọi tầng lớp quần chúng. Trong quyển Sử Cương Triết Học Ấn
Độ đã tóm tắc nêu rõ mục đích triết học Phật giáo như sau:
-Triết học Phật Giáo trong thực
tế cải tạo đời sống hiện hữu.
-Triết học Phật Giáo phải đi đôi
với thực hành không phải lý thuyết suông.
-Nhờ sự uyển chuyển và khai
phóng của Triết học Phật giáo mà thích hợp căn cơ của chúng sanh.
-Mục đích của Phật giáo là để
đi đến chỗ cứu cánh giải thoát hoàn toàn, không phải món đồ thẩm mỹ
ngoạn mục.*
Đó là phương diện đến với đạo
giác ngộ bằng đường hướng trí thức, tuy nhiên dù sao số người vì hiếu
kỳ, tìm hiểu, so sánh tôn giáo đã mặc nhiên tạo duyên đi vào con đường
giải thoát.
_____________
*Kinh Thủ Lăng Nghiêm trực chỉ,
(quyển 2 trang 685) Viện Triết lý Việt nam & Triết học thế giới xuất
bản 1995
____________________
*Xem ‘Kinh Hiền Ngu’, Phẩm thứ
32, Tỷ khưu ni Vi Diệu, HT Thích Trung Quán dịch.
*A La Hán là quả chứng cao nhất
trong bốn Thánh quả như: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, tuy
nhiên quả vị (A La Hán) này chỉ là giai đoạn chính thức là vị Thánh trọn
vẹn đi vào giải thoát, chứ chưa thể giải thoát rốt ráo như là quả
Viên Giác Niết Bàn, cho nên các vị A La Hán còn phải tiếp tục đi nữa
cho đến quả vị Phật.
_______________
*Sử Cương Triết Học Ấn Độ,
TT.Thích Quảng Liên, Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ