- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 10a
- CHƯƠNG MƯỜI :
- MƯỜI PHÁP
I. PHẨM LỢI ÍCH
(I) (1) Ý NGHĨA GI
ر. Như vầy tôi nghe :
Một thời, Thế Tôn trú ở
Savatthi, tại Jeta-vana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi Tôn gia Ànanda đi đến
Thế Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, Tôn
giả Ànanda bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, các thiện giới
có ý nghĩa gì, có lợi ích gì ?
- Này Ànanda, các thiện giới có ý
nghĩa không có hối tiếc, có lợi ích không có hối tiếc.
- Nhưng bạch Thế Tôn, không có hối
tiếc có ý nghĩa gì, có lợi ích gì ?
- Này Ànanda, không có hối tiếc
có ý nghĩa gì, có lợi ích gì ? Này Ànanda, không có hối tiếc có ý nghĩa
hân hoan, có lợi ích hân hoan.
- Bạch Thế Tôn, nhưng hân hoan có
ý nghĩa gì, có lợi ích gì ?
- Này Ànanda, hân hoan có ý nghĩa
hoan hỷ, có lợi ích hoan hỷ.
- Nhưng bạch Thế Tôn, hoan hỷ có
ý nghĩa gì, có lợi ích gì ?
- Này Ànanda, hoan hỷ có ý nghĩa
khinh an, có lợi ích khinh an.
- Nhưng bạch Thế Tôn, khinh an có
ý nghĩa gì, có lợi ích gì ?
- Này Ànanda, khinh an có ý nghĩa an
lạc, có ích lợi an lạc.
- Nhưng bạch Thế Tôn, an lạc có
ý nghĩa gì, có lợi ích gì ? Này Ànanda, an lạc có ý nghĩa định, có lợi
ích định
- Nhưng bạch Thế Tôn, định có ý
nghĩa gì, có lợi ích gì ?
- Này Ànanda, định có ý nghĩa như
thật tri kiến, có lợi ích như thật tri kiến.
- Nhưng bạch Thế Tôn, như thật
tri kiến có ý nghĩa gì, có lợi ích gì ?
- Này Ànanda, như thật tri kiến có
ý nghĩa nhàm chán, ly tham, có lợi ích nhàm cán, ly tham.
- Nhưng bạch Thế Tôn, nhàm cán, ly
tham có ý nghĩa gì, có lợi ích
Này Ànanda, nhàm chán, ly tham có ý
nghĩa giải thoát tri kiến, có lợi ích giải thoát tri kiến.
2. Như vậy, này Ànanda, các thiện
giới có ý nghĩa không hối tiếc, có lợi ích không hối tiếc, không hối
tiếc có ý nghĩa hân hoan, có lợi ích hân hoan. Hân hoan có ý nghĩa hoan hỷ,
có lợi ích khinh an. Khinh an có ý nghĩa an lạc, có lợi ích an lạc. An lạc
có ý nghĩa định, có lợi ích định. Định có ý nghĩa như thật tri kiến,
có lợi ích như thật tri kiến. Như thật tri kiến có ý nghĩa nhàm chán,
ly tham, có lợi ích nhàm chán, ly tham. Nhàm chán ly tham có ý nghĩa giải thoát
tri kiến, có lợi ích giải thoát tri kiến. Như vậy, này Ànanda, các thiện
giới thứ lớp dẫn tới tối thượng. Như vậy, này Ànanda, các thiện giới
thứ lớp đưa đến tối thượng.
(II) (2) NGHĨ VỚI DỤNG Ý
1. - Này các Tỷ-kheo, với người có
giới, có giới đầy đủ, không cần phải làm với dụng ý rằng :
"Mong rằng không hối tiếc sẽ sanh khởi nơi ta". Pháp nhĩ là vậy,
này Tỷ-kheo, với người có giới, có giới đầy đủ, không hối tiếc
sanh khởi. Này các Tỷ-kheo, với người không hối tiếc, không cần phải
làm với dụng ý rằng : "Mong rằng hân hoan sẽ sanh khởi nơi ta".
Pháp nhĩ là vậy, này các Tỷ-kheo, với người có không hối tiếc, hân
hoan sanh khởi. Này các Tỷ-kheo, với người có thân có hoan hỷ, không cần
phải làm với dụng ý rằng : "Mong rằng thân ta được khinh an",
Pháp nhĩ là vậy, này các Tỷ-kheo, với người có ý hoan hỷ, thân được
khinh an. Này các Tỷ-kheo, với người có thân khinh an, không cần phải làm
với dụng ý rằng : "Mong rằng ta cảm thọ an lạc". Pháp nhĩ là vậy,
này các Tỷ-kheo, với người có thân khinh an, an lạc được cảm thọ. Này
các Tỷ-kheo, với người có an lạc, không cần phải làm với dụng ý :
"Mong rằng tâm ta được Thiền định". Pháp nhĩ là vậy, này các
Tỷ-kheo, với người có an lạc, tâm được Thiền định. Này các Tỷ-kheo,
với người có Thiền định, không cần phải làm với dụng ý : "Mong
rằng ta biết, ta thấy như thật". Thật nhĩ là vậy, này các Tỷ-kheo,
người có tâm Thiện định, biết và thấy như thật". Pháp nhĩ là vậy,
này các Tỷ-kheo, người có tâm Thiền định, biết và thấy như thật. Này
các Tỷ-kheo, người biết vả thấy như thật, không cần phải làm với dụng
ý : "Mong rằng ta sẽ nhàm chán, ta sẽ ly tham" Pháp nhĩ là vậy,
này các Tỷ-kheo, người biết và thấy như thật, nhàm chán và ly tham. Này
các Tỷ-kheo, người nhàm chán, ly tham không cần phải làm với dụng ý :
"Mong rằng ta sẽ chứng ngộ giải thoát tri kiến". Pháp nhĩ là vậy,
này các Tỷ-kheo, người nhàm chán, ly tham, chứng ngộ giải thoát tri kiến.
2. Như vậy, này các Tỷ-kheo, nhàm
chán lý tham có ý nghĩa giải thoát tri kiến, có lợi ích giải thoát tri kiến
; như thật tri kiến có ý nghĩa nhàm chán, ly tham, có lợi ích nhàm chán,
ly tham ; định có ý nghĩa như thật tri kiến, có lợi như thật tri kiến ;
an lạc có ý nghĩa định, có lợi ích định ; khinh an có ý nghĩa an lạc có
lợi ích an lạc ; hỷ có ý nghĩa khinh an, có lợi ích khinh an ; hân hoan có
ý nghĩa hỷ, có lợi ích hỷ ; không nuối tiếc có ý nghĩa hân hoan, có lợi
ích hân hoan, các Thiện giới có ý nghĩa không nuối tiếc, có lợi ích
không hối tiếc. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các pháp khiến cho các pháp
(khác) tăng thịnh ; các pháp khiến các pháp khác viên mãn, đưa từ bờ bên
này qua bờ bên kia.
(III) (3) SỞ Y
1. - Này các Tỷ-kheo, với ác giới,
với phá giới, không hối tiếc, sơ y bị diệt. Với không có không hối
tiếc, với không hối tiếc không đầy đủ, hân hoan sở y bị diệt. Với
hân hoan không có, với hân hoan không đầy đủ, hỷ sở y bị diệt. Với
hỷ không có, với hỷ không đầy đủ, khinh an sở y bị diệt. Với khinh
an không có, với khinh an không đầy đủ, an lạc sở y bị diệt. Với an lạc
không có, với an lạc không đầy đủ, chánh định sở y bị diệt. Với
chánh định không có, với chánh định không đầy đủ, như thật tri kiến
sở y bị diệt. Với như thật tri kiến không có, với như thật tri kiến
không đầy đủ, nhàm chán, ly tham sở y bị diệt. Với nhàm chán, ly tham
không có, với nhàm chán, ly tham không đầy đủ, giải thoát tri kiến sở
y bị diệt. Ví như cây không đủ cành và lá, các mầm non (cũng có nghĩa
là vỏ ngoài) của cây ấy không đi đến viên mãn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
với ác giới, với phá giới, không hối tiếc sở y bị diệt. Với không
hối tiếc không có, với không hối tiếc không đầy đủ.... giải thoát
tri kiến sở y bị diệt.
Này các Tỷ- kheo, với giới có mặt,
với giới có đầy đủ, không hối tiếc có sở y. Với không hối tiếc
có mặt, với không hối tiếc có đầy đủ, hân hoan có sở y. Với hân
hoan có mặt, với hân hoan có đầy đủ, hoan hỷ có sở y. Với hoan hỷ
có mặt, với hoan hỷ có đầy đủ, khinh an có sở y. Với khinh an có mặt,
với khinh an có đầy đủ, an lạc có sở y. Với an lạc có mặt, với an lạc
có đầy đủ, chánh định có sở y. Với chánh định xóa mặt, với chánh
định có đầy đủ, như thật tri kiến có sở y. Với như thật tri kiến
có mặt, với như thật tri kiến có đầy đủ, nhàm chán, ly tham có sở y.
Với nhàm chán, ly tham có mặt, với nhàm chán, ly tham có đầy đủ, giải
thoát tri kiến có sở y. Ví như này các Tỷ-kheo, một cây có đầy đủ cành
và lá, các mầm non của cây ấy đi đến viên mãn, vỏ trong, giác cây,
lõi cây đi đến viên mãn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với giới có mặt,
với giới có đầy đủ, không hối tiếc có sở y. Với không hối tiếc
có mặt, với không hối tiếc có đầy đủ... giải thoát tri kiến có sở
y.
(IV) (4) CÓ SỞ Y ( DO SÀRIPUTTA THUYẾT)
(Như kinh 3, chỉ khác ở đây là
Tôn giả Sàriputta thuyết).
(V) (5) CÓ SỞ Y (DO TÔN GIẢ ÀNANDA
THUYẾT) (Như kinh 3, chỉ khác ở đây là Tôn giả ànanda thuyết).
(VI) (6) ĐỊNH DO BẬC ĐẠO SƯ THUYẾT
1. Bấy giờ Tôn giả Ànanda đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, có thể có chăng
một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong
đất không tưởng đến đất ; trong nước không tưởng đến nước ;
trong lửa ; trong gió không tưởng đến gió ; trong không vô biên xứ, không
tưởng đến Không vô biên xứ ; trong Thức vô biên xứ, không tưởng đến
Thức vô biên xứ ; trong Vô sở hữu xứ, không phi phi tưởng xứ, không tưởng
đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ ; trong thế giới hiện tại có thể
không tưởng đến thế giới hiện tại ; trong thế giới đời sau có thể
không tưởng đến thế giới đời sau ; tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng ?
- Này Ànanda, có thể như vậy, một
Tỷ-kheo khi chứng được Thiện định như vậy, vị ấy có thể trong đất
không tưởng đến đất ; trong nước không tưởng đến gió ; trong Không
vô biên xứ, không tưởng đến Không vô biên xứ ; trong Thức vô biên xứ,
không tưởng đến Vô sở hữu xứ ; trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không
tưởng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ ; trong thế giới hiện tại, không
tưởng đến thế giới hiện tại ; trong thế giới đời sau, không tưởng
đến thế giới đời sau. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
2. - Nhưng bạch Thế Tôn, như thế
nào một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể
trong đất, không tưởng đến đất... trong thế giới đời sau, không đến
thế giới đời sau ; tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng ?
- Ở đây, này Ànanda, Tỷ-kheo tưởng
như sau : "Đây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự tịnh chỉ
tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự đoạn diệt khát ái, ly
tham, đoạn diệt, Niết-bàn". Như vậy, này Ànanda, Tỷ-kheo khi chứng
được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không đến đất
; trong nước không tưởng đến nước... trong thế giới đời sau, không tưởng
đến thế giới đời sau. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
(VII) (7) ĐỊNH DO GIẢ SÀRIPUTA THUYẾT
1. Bấy giờ Tôn giả Ànanda đi đến
Tôn giả Sàriputta, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời
chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu,
liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ànanda nói với
Tôn giả Sàriputta :
Thưa Hiền giả Sàriputta, có thể
có chăng một Tỷ-kheo khi chứng Thiền định như vậy, vị ấy có thể
trong địa đại, không tưởng đến địa đại... trong thế giới đời
sau, không tưởng đến thế giới đời sau, tuy vậy, vị ấy vẫn tưởng ?
- Này Ànanda, có thể như vậy. Một
Tỷ-kheo khi chứng Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất không
tưởng đến đất... trong thế giới đời sau, không tưởng đến thế giới
đời sau. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
2.- Nhưng thưa Hiền giả Sàriputta,
như thế nào một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy
có thể trong đất, không tưởng đến đất... trong thế giới đời sau, không
tưởng đến thế giới đời sau ; tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng ?
- Này Hiền giả Ànanda, một thời
ở đây, tôi trú ở Sàvatthi, trong rừng Andha. Tại đây, tôi chứng được
Thiền định như sau : Trong đất, tôi không tưởng đến thế giới đời
sau. Tuy vậy, tôi vẫn có tưởng.
3- Nhưng trong lúc ấy, Tôn giả
Sàriputta tưởng đến gì ?
- Một tưởng khác khởi lên trong
tôi : "Hữu diệt là Niết-bàn". Một tưởng khác diệt đi trong tôi
: "Hữu diệt là Niết-bàn." Ví như, này Hiền giả, lửa được đốt
cháy từ mảnh đá nhỏ, một ngọn lửa khác khởi lên, một ngọn lửa
khác diệt đi. Cũng vậy, này Hiền giả, một tưởng khác khởi lên trong
tôi, thưa Hiền giả : "Hữu diệt là Niết-bàn." Một tưởng khác
diệt đi trong tôi : "Hữu diệt là Niết-bàn". Tuy vậy, trong lúc
ấy tôi vẫn có tưởng.
(VIII) (8) NGƯỜI CÓ LÒNG TIN
1. - Vị Tỷ-kheo có lòng tin, này
các Tỷ-kheo, nhưng không có giới. Như vậy, vị ấy về chi phần này
không được viên mãn. Vị ấy cần phải làm cho viên mãn chi phần ấy,
nghĩ rằng : "Làm thế nào để ta có lòng tin và có giới nữa ? ".
Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo có lòng tin và có giới, như vậy về chi
phần ấy, Tỷ-kheo có viên mãn.
2. Và này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có
lòng tin, có giới nhưng không có nghe nhiều... có nghe nhiều nhưng không có
nói pháp... có nói pháp nhưng không thường tham gia với hội chúng... thường
tham gia với hội chúng, nhưng không vô úy thuyết pháp chúng nhưng không
trì luật... có trì luật, nhưng không phải là người ở rừng, ở các
trú xứ xa vắng, nhưng đối với bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện
tại lạc trú, có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có
được không phí sức, nhưng không do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong
hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát. Như vậy, vị ấy về chi phần này không được viên
mãn. Vị ấy cần phải làm cho viên mãn chi phần ấy, nghĩ rằng : "Làm
thế nào, ta có lòng tin, có giới, có nghe nhiều, có thuyết pháp, thường
tham gia với chúng hội, vô úy thuyết pháp cho hội chúng, trì luật, là người
ở rừng, ở các trú xứ xa vắng, đối với bốn Thiền thuộc tăng thượng
tâm, hiện tại lạc thú, có được không khó khăn, có được không mệt
nhọc, có được không phí sức, và do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay
trong hiện tại, tự mình với thắng trí, ta có thể chứng đạt và an trú
vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát ? " Và này các Tỷ-kheo, khi
nào Tỷ-kheo có lòng tin, có giới, nghe nhiều, có thuyết pháp, thường tham
gia với hội chúng, vô úy thuyết pháp cho hội chúng, trì luật, là người
ở rừng, ở các trú xứ xa vắng, đối với bốn Thiền thuộc tăng thượng
tâm, hiện tại lạc trú, có được không phí sức, do đoạn diệt các lậu
hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng đạt và an trú
vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát ; như vậy về chi phần này, vị
ấy được viên mãn.
Thành tựu mười pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tịnh tín một cách phổ biến, và viên mãn trong mọi phương
diện.
(IX) (9) TỊCH TỊNH GIẢI THOÁT
(Như kinh trước 8 cho đến... là người
ở rừng ở các trú xứ vắng...)
.... là người trì luật, nhưng không
phải là người ở rừng, ở các trú xứ xa vắng... là người ở rừng,
ở các trú xa vắng... là người ở rừng, ở các trú xứ xa vắng, nhưng
đối với các tịch tịnh giải thoát vượt khỏi các sắc, thuộc về vô
sắc, vị ấy không cảm giác với thân và an trú, nhưng không do đoạn diệt
các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí chứng đạt và
an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát ; như vậy về chi phần này
không viên mãn. Vị ấy cần phải làm cho viên mãn chi phần ấy, nghĩ rằng
: "Làm thế nào, ta có lòng tin, có giới, có nghe nhiều, có thuyết
pháp, thường tham gia với hội chúng, vô úy thuyết pháp cho hội chúng,
trì luật, là người ở rừng, ở các trú xứ xa vắng, đối với các tịch
tịnh giải thoát, vượt khỏi các sắc, thuộc về vô sắc, ta có cảm
giác với thân và an trú ; do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại,
tự mình với thắng trí, ta chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát ? " Và này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo có lòng tin,
có giới, có nghe nhiều, có thuyết pháp cho hội chúng, là vị trí luật,
là vị ở rừng, ở các trú xứ xa vắng, đối với các tịch tịnh giải
thoát, vượt khỏi các sắc, thuộc về vô sắc, vị ấy có cảm giác với
thân và an trú ; do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự
mình với thắng trí, chứng đạt và an trú vô tâm giải thoát, tuệ giải
thoát ; như vậy về chi phần này, vị ấy được viên mãn.
Thành tựu mười pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tịnh tín một cách phổ biến, và viên mãn trong mọi phương
diện.
(X) (10) VỚI CÁC MINH
(Như kinh trước cho đến. Vị ấy
trì luật...) là người trì luật, nhưng không nhớ đến rất nhiều đời
sống trước, một đời, hai đời... vị ấy nhớ nhiều đời sống trước
với các chi tiết và các đặc điểm, nhớ đến rất nhiều đời sống
trước, như một đời, hai đời... vị ấy nhớ nhiều đời sống trước
với các chi tiết và các đặc điểm, nhưng không với thiên nhãn siêu
nhân... vị ấy rõ biết các chúng sanh tùy theo hạnh nghiệp của họ, nhưng
không do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng
trí chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát ; như vậy,
về chi phần này, vị ấy không được viên mãn. Vị ấy cần phải làm
cho viên mãn chi phần ấy, nghĩ rằng : "Làm thế nào ta có lòng tin, có
giới, có nghe nhiều, có thuyết pháp, thường tham gia với hội chúng, vô
úy thuyết pháp cho hội chúng, là vị trì luật, có thể nhớ đến nhiều
đời sống trước như một đời, hai đời... có thể nhớ đến nhiều đời
sống trước, với các chi tiết và các đặc điểm,... với thiên nhãn
thanh tịnh, siêu nhân có thể biết được các chúng sanh tùy theo hạnh nghiệp
của họ, do đoạn diệt các lậu hoặc... chứng ngộ, chứng đạt và an
trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát ? " Này các Tỷ-kheo, khi
nào Tỷ-kheo có lòng tin, có giới, có nghe nhiều, là vị thuyết pháp cho hội
chúng, là vị trì luật, nhớ đến nhiều đời sống trước, như một đời,
hai đời... có thể nhớ đến nhiều đời sống trước, với các chi tiết
và các đặc điểm.... với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân có thể biệt
được các chúng sanh tùy theo hạnh nghiệp của họ, do đoạn diệt các lậu
hoặc... chứng ngộ, chứng đạt và an trú ; như vậy về chi phần này, vị
ấy được viên mãn.
Thành tựu mười pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tịnh tín một cách phổ biến, có viên mãn trong mọi phương
diện.
II. PHẨM HỘ TRÌ
(I) (11) TRÚ XỨ
1. - Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thành
tựu năm chi phần, thân cận, chia xẻ xứ thành tựu năm chi phần, không
bao lâu, do d0oạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng
trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát.
Và này các Ty-kheo, Tỷ-kheo có lòng
tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai : "Dây là Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Diều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn". Vị
ấy ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh quá,
không nóng quá, trung bình, hợp với tinh tấn. Vị ấy không lừa đảo, man
trá, nêu rõ mình như chân đối với bậc Đạo Sư, đối với các vị
sáng suốt hay đối với các vị đồng Phạm hạnh. Vị ấy sống tinh cần
tinh tấn, từ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, nỗ lực,
kiên trì, tinh tấn, không từ bỏ gánh nặng trong các thiện pháp. Vị ấy
có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt (của các pháp), thể nhập
thánh quyết trạch đưa đến chơn chánh, đoạn diệt khổ đau.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thành tựu năm chi phần. Này các Tỷ-kheo, như thế nào là trú xứ thành tựu
năm chi phần ?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, trú xứ
không quá xa, không quá gần, thuận tiện cho đi và đến, ban ngày không đông
đủ, ban đêm không ồn ào, không huyên náo, ít xúc chạm với ruồi, muỗi,
gió, sức nóng mặt trời, và các loại rắn rít. Trú tại trú xứ ấy,
tìm được không mệt nhọc các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh. Tại trú xứ ấy, các trưởng lão Tỷ-kheo đến
ở là những bậc nghe nhiều, được trao truyền kinh điển, những bậc trì
Pháp, trì Luật, trì toát yếu, thường thường đến các vị ấy tìm hiểu,
hỏi han : "Thưa Tôn giả, cái này là thế nào ? Ý nghĩa cái này là gì
? " Các Tôn giả ấy mở rộng những gì chưa mở rộng, trình bày những
gì chưa trình bày, đối với những vấn đề còn khởi lên những nghi vấn,
vị ấy giải tỏa các nghi vấn ấy. Này các Tỷ-kheo, trú xứ như vậy thành
tựu năm chi phần.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thành tựu
năm chi phần, thân cận chia xẻ trú xứ thành tựu năm chi phần, không bao
lâu, do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng
trí có thể chứng ngộ chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát.
(II) (12) CÁC CHI PHẦN
1. - Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo d0oạn
tận năm chi phần, thành tựu năm chi phần được gọi trong Pháp và Luật
này là vị toàn hảo, đã thành tựu viên mãn, là bậc tối thượng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
d0oạn tận năm chi phần ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
d0oạn tận dục tham, đoạn tận sân, đoạn tận hôn trầm thụy miên, đoạn
tận trao hối, đoạn tận nghi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đoạn
tận năm chi phần.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
thành tựu năm chi phần ?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thành tựu vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu
vô học tuệ uẩn, thành tựu vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học
giải thoát tri kiến uẩn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thành tựu năm
chi phần.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đoạn tận
năm chi phần, thành tựu năm chi phần, được gọi trong Pháp và Luật này,
là vị toàn hảo, đã thành tựu viên mãn, là bậc tối thượng.
Không dục tham, không sân,
Không hôn trầm thụy miên
Không trạo cử, không nghi,
Tỷ-kheo hoàn toàn không
Với vô học giới uẩn,
Với vô học định uẩn,
Đầy đủ với giải thoát,
Với tri kiến như vậy.
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Đầy đủ năm chi phần,
Đoạn tận năm chi phần,
Trong Pháp và Luật này,
Được gọi vị đầy đủ
Hoàn toàn mọi phương diện.
(III) (13) CÁC KIẾT SỬ
1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết
sử này. Thế nào là mười ?
2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng
phần kiết sử.
Thế nào là năm hạ phần kiết sử
?
3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ,
dục tham, sân. Đây là năm hạ phần kiết sử.
Thế nào là năm thượng phần kiết
sử ?
4. Sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo
cử, vô minh. Đây là năm thượng phần kiết sử.
Này các Tỷ-kheo, đây là mười kiết
sử.
(IV) (14) TÂM HOANG VU
1. - Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo
hay Tỷ-kheo-ni nào năm tâm hoang vu chưa đoạn tận, năm tâm triền phược
chưa được cắt đứt, với vị ấy, đêm đến hay ngày đến, chờ đợi
là tổn giảm trong các thiện pháp, không phải là tăng trưởng.
Như thế nào là năm tâm hoang vu chưa
được đoạn tận ?
2. Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo
nghi ngờ bậc Đạo Sư, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín. Chư
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni nào nghi ngờ bậc Đạo Sư, do dự, không quyết đoán,
không có tịnh tín, thời tâm vị ấy không hướng về nhiệt tâm, chuyên
chú, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nhiệt tâm,
chuyên chú, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ nhất chưa được
đoạn tận.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào nghi ngờ Pháp... không có tịnh tín (như trên), nghi ngờ Tăng... không
có tịnh tín, nghi ngờ các Học pháp, do dự, không quyết đoán, không có tịnh
tín. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ các Học Pháp... không có tịnh
tín, tâm vị này không hướng về nhiệt tâm, chuyên chú, kiên trì, tinh tấn.
Nếu tâm của ai không hướng về nhiệt tâm, chuyên chú, kiên trì, tinh tấn,
như vậy là tâm hoang vu thứ tư chưa được đoạn tận. Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phẫn nộ đối với các vị đồng Phạm hạnh,
không có hoan hỷ, tâm tư chống đối, cứng rắn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni
nào phẫn nộ đối với các vị đồng Phạm hạnh, không có hoan hỷ, tâm
tư chống đối, cứng rắn, thời tâm của vị này không hướng về nhiệt
tâm, chuyên chú, kiên trì, tinh tấn. Nếu tân của ai không hướng về nhiệt
tâm, chuyên chú, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ năm chưa
được đoạn tận. Như vậy là năm tâm hoang vu chưa được đoạn tận.
Thế nào là năm tâm triền phược
chưa cắt đứt ?
4. Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo,
đối với những dục, không tham ái, không phải không tham dục, không phải
không luyến ái, không phải không khao khát, không phải không nhiệt não,
không phải không tham ái... không phải không khát ái, tâm của vĩ ấy không
hướng về nhiệt tâm, chuyên chú, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai
không hướng về nhiệt tâm, chuyên chú, kiên trì, tinh tấn, như vậy là
tâm triền phược thứ nhất chưa được cắt đứt.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào đối với tự thân không phải không tham ái... (như trên)... như vậy là
tâm triền phược thứ hia chưa được cắt đứt. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo nào đối với các sắc pháp không phải không tham ái... (như trên)...
như vậy là tâm triền phược thứ ba chưa được cắt đứt. Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào ăn cho đến thỏa thuê, cho đến bụng chức đầy,
sống nào ăn thiên về khoái lạc sàng tọa, khoái lạc ngủ nghỉ, khoái lạc
thụy miên. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào ăn cho thỏa thuê, cho đến bụng
chức đầy... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ tư chưa được
cắt đứt. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống Phạm hạnh với
mong cầu được sanh Thiên giới, có ý nghĩa : "Ta với giới này, với
hạnh này, với khổ hạnh này, hay với Phạm hạnh này sẽ được sanh làm
chư Thiên này hay chư Thiên khác". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống
Phạm hạnh (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ năm chưa được
cắt đứt.
Như vậy là năm tâm triền phược
chưa được cắt đứt.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni
nào, năm tâm hoang vu chưa d0oạn tận, năm tâm triền phược này chưa cắt
đứt, với vị ấy, đêm đến hay ngày đến, chờ đợi là sự tổn giảm
trong các thiện pháp, không phải là tăng trưởng.
6. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni
nào tâm hoang vu đã đoạn tân, năm tâm triền phược đã cắt đứt, với
vị ấy, đêm đến hay ngày đến, chờ đợi là sự lớn mạnh trong các
thiện pháp, không phải là tổn giảm. Thế nào là năm tâm hoang vu đã được
đoạn tận ?
7. Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo
không nghi ngờ bậc Đạo Sư, không do dự, quyết đoán, tịnh tín. Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ bậc Đạo Sư, không do dự, quyết đoán,
tịnh tín, thời tâm vị ấy hướng về nhiệt tâm, chuyên chú, kiên trì,
tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nhiệt tâm, chuyên chú kiên trì, tinh
tấn, như vậy là tâm hoang thứ nhất đã được đoạn tận.
8. Lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào không nghi ngờ pháp... (như trên)... không nghi ngờ Học Pháp, không do dự,
quyết đoán, tịnh tín. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ Học
pháp, không do dự, quyết đoán, tịnh tín, thời tâm vị ấy hướng về
nhiệt tâm, chuyên chú, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nhiệt
tâm là tâm hoang vu thứ tư đã được đoạn tận. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo nào không phẫn nộ đối với các vị đồng Phạm hạnh, hoan hỷ,
tâm tư không chống đối, không cứng rắn. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào
không phẫn nộ đối với các vị d0ồng Phạm hạnh, hoan hỷ, tâm tư không
chống đối, không cứng rắn, thời tâm vị ấy hướng về nhiệt tâm,
chuyên chú, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nhiệt tâm,
chuyên chú, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ năm đã được
đoạn tận.
Như vậy là năm tâm hoang vu đã
được đoạn tận.
Thế nào là năm tâm triền phược
đã được cắt đứt ?
9. Này các Tỷ-kheo, ở d0ây, Tỷ-kheo
đối với những dục không có tham ái, không có tham dục, không có ái luyến,
không có khao khát, không có nhiệt não, không có khát ái. Này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo nào đối với những dục không có luyến ái, không có khao khát,
không có tham dục, không có luyến ái, không có khao khát, không có nhiệt
não, không có khái ái, tâm vị ấy hướng về nhiệt tâm, chuyên chú, kiên
trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nhiệt tâm, chuyên chú, kiên
trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ nhất đã được cắt đứt.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào đối với tự thân không có tham ái... (như trên)... như vậy là tâm
triền phược thứ hai đã được cắt đứt. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nào đối với các sắc pháp không có tham ái... (như trên)... như vậy là
tâm triền phược thứ ba đã được cắt đứt. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo nào không ăn cho đến thỏa thuê, cho đến bụng chức đầy, không
thiên nặng về khoái lạc sàng tọa, khoái lạc ngủ nghĩ, khoái lạc thụy
miên... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ tư đã được cắt
đứt. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống Phạm hạnh, không mong
cầu được sanh Thiên giới với ý nghĩa : "Ta với giới này, với hạnh
này, với khổ hạnh này, hay với Phạm hạnh này, sẽ được sanh làm chư
Thiên này hay chư Thiên khác", tâm vị ấy hướng về nhiệt tâm,
chuyên chú, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nhiệt tâm,
chuyên chú, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ năm đã
được cắt đứt.
Như vậy là năm tâm triền phược
đã được cắt đứt.
Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni
nào, năm tâm hoang vu đã được đoạn tận, năm tâm triền phược này đã
được cắt đứt, với vị ấy, đêm hay ngày đến, chờ đợi là sự lớn
mạnh trong thiện pháp, không phải tổn giảm. Ví như, này các Tỷ-kheo,
trong độ trăng trưởng về dung sắc, được tăng trưởng về hình tròn,
được tăng trưởng về ánh sáng, được tăng trưởng về bề cao, bề rộng
của quỷ đạo. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Với Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni
nào, năm tâm hoang vu đã được cắt đứt, với vị ấy, đêm đến hay ngày
đến, chờ đợi là sự lớn mạnh trong các thiện pháp, không phải là tổn
giảm.
(V) (15) KHÔNG PHÓNG DẬT
1. Này các Tỷ-kheo, cho đến các
loài hữu tình không chân, hay hai chân, hay nhiều chân, hay có sắc, hay
không sắc, hay có tưởng, hay không tưởng, hay phi tưởng phi phi tưởng.
Như lai được gọi là tối thượng giữa họ, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có những thiện pháp nào, tất cả
những pháp ấy lấy không phóng dật làm căn bản, lấy không phóng dật
làm chỗ quy tụ, không phóng dật được gọi là tối thượng tong các
pháp ấy.
2. Ví như, này các Tỷ-kheo, phàm
có những dấu chân của các loại chúng sanh bộ hành nào, tất cả đều hôi
tập trong chân con voi và chân con voi được gọi là tối thượng trong tất
cả loại chân, tức là về phần to lớn. cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm
có những thiện pháp nào, tất cả chúng lấy không phóng dật làm căn bản,
lấy không phóng dật làm chỗ quy tụ, không phóng dật được gọi là tối
thượng trong tất cả thiện pháp. Ví như, các đòn tay nào của một ngôi
nhà có nóc nhọn, tất cả đều đi đến mái nhọn, hướng đến mái nhọn,
quy tụ vào mái nhọn. Mái nhọn đối với chúng được gọi là tối thượng.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có những thiện pháp nào, tất cả chúng
lấy không phóng dật làm căn bản, lấy không phóng dật làm chỗ quy tụ,
không phóng dật được gọi là tối thượng trong tất cả thiện pháp.
Ví như, này các Tỷ-kheo, phàm có
những loại rể hương nào, loại mủ keo đen được gọi là tối thượng.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có hững thiện pháp nào.. trong tất cả
các thiện pháp. Ví như, này các Tỷ-kheo, phàm có những loại lõi hương nào,
loại chiên-đàn đỏ được gọi là tối thượng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
phàm có những thiện pháp nào... trong tất cả thiện pháp. Ví như, này
các Tỷ-kheo, phàm có những loại hương nào, vũ quý hoa được gọi là tối
thượng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có những thiện pháp nào... trong
tất cả thiện pháp. Ví như, này các Tỷ-kheo, phàm có những tiểu vương
nào, tất cả đều tùy thuộc vua Chuyển luân vương. Chuyển luân vương đối
với họ được gọi là tối thượng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có
những thiện pháp nào... trong tất cả thiện pháp. Ví như, này các Tỷ-kheo,
phàm ánh sáng của bất loại sao nào, tất cả đều không bằng một phần
mười sáu ánh sáng của mặt trăng. Ánh sáng mặt trăng đố với chúng
được gọi là tối thượng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có những
thiện pháp nào... trong tất cả thiện pháp. Ví như, này các Tỷ-kheo, vào
mùa thu, khi hư không mở rộng, không có mây mù, mặt trời vươn thẳng lên
trời, không quét sạch mọi tối tăm trên trời, chói sáng, rực sáng, bừng
sáng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có những thiện pháp nào... trong tất
cả thiện pháp. Ví như, này các Tỷ-kheo, phàm có con sông ấy lớn nào,
ví như sông Hằng, sông Aciravatì, sông Sarabhù, sông Maihì, tất cả con
sông ấy đều đi đến biển, hướng đến biển, thuận xuôi về biển, hướng
nhập vào biển, biển lớn được gọi là tối thượng với chúng. cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, phàm có những thiện pháp nào, tất cà những pháp ấy
không phóng dật làm căn bản, lấy không phóng dật làm chỗ quy tụ, không
phóng dật được gọi là tối thượng trong các pháp ấy.
(VI) (16) ĐÁNG ĐƯỢC CÚNG DƯỜNG
1. - Này các Tỷ-kheo, mười hạng
người này đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng
dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế
náo là mười ?
2. Như lai, bậc A-la-hán, Chánh đẳng
Giác, bậc Độc giác, bậc Giải thoát cả hai phần, bậc tuệ giải thoát,
bậc Thân chứng, bậc Kiến chí, bậc Tín giải thoát, bậc Tùy pháp hành,
bậc Tùy tín hành, bậc Chuyển tánh.
Này các Tỷ-kheo, mười hạng người
này đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường,
đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời.
(VII) (17) VỊ HỘ TRÌ (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, hãy trú với
vị hộ trì, chớ trú không có vị hộ trì. Này các Tỷ-kheo, đau khổ là
người sống không có vị hộ trì. Này các Tỷ-kheo, mười pháp này tạo
thảnh vị hộ trì. Thế nào là mười ?
2. Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo
có giới, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy
đủ oai nghi, chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp
nhận và tu học trong các học pháp. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này có giới,
sống chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy
nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và tu học trong các học
pháp ; đây là pháp tác thành vị hộ trì.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nghe nhiều, thọ trì những gì đã nghe, chất chứa những gì đã nghe. Những
pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời
sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh, những pháp ấy, vị ấy đã
nghe nhiều, đã thọ trì, đã tụng đọc bằng lời, đã quán sát với ý,
đã thề nhập với chánh kiến ; đây là pháp tác thành vị hộ trì.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện. Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào làm nào bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao
thiệp với thiện ; đây là pháp tác thành vị hộ trì.
5.Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
dễ nói, thành tựu những pháp tác thành người dễ nói, kham nhẫn và
khéo chấp nhận những lời giáo giới. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào dễ
nói, thành tựu những pháp tác thành người dễ nói, kham nhẫn, và khéo chấp
nhận những lời giáo giới ; đây là pháp tác thành vị hộ trì.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có những công việc gì cần phải làm, hoặc lớn, hoặc nhỏ, đối với các
vị đồng Phạm Hạnh ; ở đây, vị ấy khéo léo và tinh cần, thành tựu
sự quán sát các phương tiện, vừa đủ để làm, vừa đủ để tổ chức.
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào, phàm có những công việc gì... vừa đủ để
tổ chức ; đây là pháp tác thành vị hộ trì.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ưa pháp, cùng nói chuyện một cách dễ thương, hân hoan trong thắng Pháp,
tong thắng Luật. Này các Tỷ-kheo, phàm Tỷ-kheo nào ưa pháp, cùng nói chuyện
một cách dễ thương, hân hoan trong thắng Pháp, trong thắng Luật ; đây là
pháp tác thành vị hộ trì.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống tinh cần tinh tấn, đoạn trừ các pháp bất thiện, làm cho đầy đủ
các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không bỏ rơi gánh nặng đối với các
thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, phàm Tỷ-kheo nào sống tinh cần tinh tấn, đoạn
trừ các pháp bất thiện, làm cho đầy đủ các thiện pháp, nỗ lực kiên
trì không bỏ rơi gánh nặng đối với các thiện pháp ; đây là pháp tác
thành vị hộ trì.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
bei61t đủ d0ối với các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh. Này các Tỷ-kheo, phàm Tỷ-kheo nào biết đủ đối
với các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị
bệnh ; đây là pháp tác thành vị hộ trì.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chánh niệm, thành tựu niệm tuệ tối thắng ức niệm, tùy niệm việc đã
làm từ lâu, đã nói từ lâu. Này các Tỷ-kheo, phàm Tỷ-kheo nào chánh niệm...
đã nói từ lâu ; đây là pháp tác thành vị hộ trì.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có trí tuệ, thành tựu với trí tuệ về sanh diệt, trí tuệ thuộc bậc
Thánh, thể nhập và hướng đến chơn chánh đoạn tận khổ đau. Này các
Tỷ-kheo, phẩm Tỷ-kheo nào có trí tuệ... đoạn tận khổ đau ; đây là
pháp tác thành vị hộ trì.
Này các Tỷ-kheo, hãy trú với vị
hộ trì, chớ trú không có vị hộ trì. Này các Tỷ-kheo, đau khổ là người
trú không có vị hộ trì.
Này các Tỷ-kheo, đây là mười pháp
tác thành vị hộ trì.
(VIII) (18) VỊ HỘ TRÌ (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, hãy trú với
vị hộ trì, chớ trú không có vị hộ trì. Đau khổ, này các Tỷ-kheo, là
người trú không có vị hộ trì. Này các Tỷ-kheo, có mười pháp tác
thành vị hộ trì này. thế nào là mười ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
là người có giới... chấp nhân và học tập trong các hoc pháp, nghĩ rằng
: "Thật sự có giới là Tỷ-kheo này. Vị này trú, được bảo vệ với
sự bảo vệ của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ oai nghi chanh hạnh, thấy
sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học
pháp". Các trưởng lão Tỷ-kheo nghĩ đến Tỷ-kheo ấy đáng nói đến,
đáng được giáo giới... Các trung niên Tỷ-kheo... Các tân học Tỷ-kheo
nghĩ đến Tỷ-kheo ấy đáng được nói đến, đáng được giác giới. Với
vị ấy, được các trưởng lão thương tưởng, được các trung niên thương
tưởng, được các tân học thương tượng, chờ đợi là sự lớn mạnh
trong các thiện pháp, không phải là sự tổn giảm, đây là pháp tác thành
vị hộ trì.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo. Tỷ-kheo
là vị nghe nhiều... khéo thông đạt nhờ chánh kiến, nghĩ rằng : "Thật
sự Tỷ-kheo này là vị nghe nhiều, thọ trì những gì đã nghe, chất chứa
những gì đã nghe. Những pháp ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có
nghĩa, có văn, đề cao đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh.
Những pháp ấy, vị ấy đã nghe nhiều, đã thọ trì, đã tụng đọc bằng
lời, đã quán sát bằng ý, khéo thông đạt nhờ chánh kiến". Các trưởng
lão Tỷ-kheo... Các trung niên Tỷ-kheo... Các tân học Tỷ-kheo nghĩ đến Tỷ-kheo
ấy đáng được nói đến, đáng được giáo giới. Với vị ấy, được
các trưởng lão thương tưởng, được các trung niên thương tưởng, được
các tân học thương tưởng, chờ đợi là sự lớn mạnh trong các thiện
pháp, không phải là sự tổn giảm. Đây là pháp tác thành sự hộ trì.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện, nghĩ rằng
: "Thật sự Tỷ-kheo này làm bạn với hiện, thân hữu với thiện,
giao thiệp với thiện". Các Tỷ-kheo trưởng lão... Các tân học Tỷ-kheo
ấy đáng được nói đến, đáng được giáo giới. Với vị ấy... tác
thành vị hộ trì.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
dễ nói, thành tựu những pháp tác thành người dễ nói, kham nhẫn và
khéo chấp nhận những lời giáo giới nghĩ rằng : "Thật sự Tỷ-kheo
này, dễ nói, thành tựu những pháp tác thành người dễ nói, kham nhẫn
và khéo chấp nhận những lời giáo giới". Các Tỷ-kheo trưởng lão...
Các trung niên Tỷ-kheo... Các tân học Tỷ-kheo nghĩ đến Tỷ-kheo ấy đáng
được nói đến, đáng được giáo giới. Với vị ấy... tác thành vị hộ
trì.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo,
phàm có những công việc gì cần phải làm hoặc lớn hoặc nhỏ, đối với
các đồng Phạm hạng, ở đây vị ấy khéo léo và tinh cần, thành tựu
suy tư đến các phương tiện vừa đủ để làm, vừa đủ để tổ chức.
Các trưởng lão Tỷ-kheo... Các trung niên Tỷ-niên... Các tân học Tỷ-kheo
nghĩ đến Tỷ-kheo ấy đáng được nói đến, đáng được giáo giới...
Đây là pháp tác thành vị hộ trì.
7. Lại nữ, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
ưa pháp, cùng nói chuyên, một cách dễ thương, hân hoan trong thắng Pháp,
thắng Luật nghĩ rằng : " Thật sự vị Tỷ-kheo này ưa Pháp, cùng nói
chuyện một cách dễ thương, hân hoan trong thắng Pháp, Thắng Luật".
Các trưởng lão Tỷ-kheo... Các trung niên Tỷ-kheo... Các tân học Tỷ-kheo
nghĩ đến Tỷ-kheo ấy đáng được nói đến, đáng được giáo giới...
tác thành vị hộ trì.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ưa sống tinh cần, tinh tấn, đoạn trừ các pháp bất thiện, làm cho đầy
đủ các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không bỏ rơi gánh nặng đối với
các thiện pháp, nghĩ rằng : "Thật sự Tỷ-kheo này sống tinh cần,
tinh tấn, đoạn trừ các pháp bất diệt, làm cho đầy đủ các thiện
pháp, nỗ lực, kiên trì, không bỏ rơi gánh nặng đối với các biện
pháp". Các trưởng lão Tỷ-kheo... Các trung niên Tỷ-kheo ấy đáng được
nói đến, đáng được giáo giới... tác thành vị hộ trì.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
biết đủ với các vật dụng như y, ẩm thực, sàng tọa, dược phẩm trị
bệnh, nghĩ rằng : "Thật sự Tỷ-kheo này biết đủ với các vật dụng
như y, ẩm thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh". Các Tỷ-kheo trưởng
lão... nghĩ đến Tỷ-kheo ấy đáng được nói đến, đáng được giáo giới...
tác thành vị hộ trì.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chánh niệm, thành tựu tuệ tối thắng, ức niệm, tùy niệm việc đã
làm, đã nói từ lâu, nghĩ rằng : "Thật sự Tỷ-kheo này chánh niệm,
thành tựu tuệ tối thắng... đã làm, đã nói từ lâu". Các Tỷ-kheo
trưởng lão... Các trung niên Tỷ-kheo... Các tân học Tỷ-kheo ấy đáng được
nói đến, đáng được giáo giới... tá thành vị hộ trì.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, thể nhập Thánh quyết trạch,
đưa đến chọn chánh đoạn diệt khổ đau, nghĩ rằng : " Thật sự Tỷ-kheo
này có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, thể nhập Thánh quyết
trạch đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau". Các Tỷ-kheo trưởng
lão nghĩ đến Tỷ-khoe đáng được nói đến, đáng được giáo giới.
Các trung niên Tỷ-khoe nghĩ đến Tỷ-khoe ấy được nói đến, đáng được
giáo giới. Các dân tộc Tỷ-kheo ấy đáng được nói đến, đáng được
giáo giới. Với vị ấy được các trưởng lão thương tưởng, được các
trung niên thương tưởng, được các tân họ thương tưởng, chờ đợi là
sự lớn mạnh trong các thiện pháp, không phải là sự tổn giảm. Đây là
pháp tác thành vị họ trì.
Này các Tỷ-khoe, hãy trú có vị hộ
trì, chớ trú không có vị hộ trì. Đau khổ, này các Tỷ-khoe, là người
trú không có vị hộ trì.
Này các Tỷ-khoe, đây là mười pháp
tác thành vị hộ trì.
(IX) (19) THÁNH CƯ (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có mặt Thánh
cư này, với những Thánh cư này, các bậc Thánh đã sống, đang sống và sẽ
sống. Thế nào là mười ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đoạn tận năm chi phần, thành tựu sáu chi phần, hộ trì một sự, đầy
đủ bốn y cứ, trừ khử sự thật cá nhân, đã đoạn tận hoàn toàn các
tầm cầu, các tư duy không có uế trược, thân hành được khinh an, tâm
được khéo giải thoát, tuệ được khéo giải thoát.
Này các Tỷ-kheo, đây là mười Thánh
cư, với những Thánh cư này, các bậc Thánh đã sống, đang sống và sẽ sống.
(X) (20) THÁNH CƯ (2)
1. Một thời, Thế Tôn trú giữa
dân chúng Kuuru tại một thị trấn của dân tộc Kuru gọi là Kammàsadhama.
Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo... Thế Tôn nói như sau :
2. - Này các Tỷ-kheo, có mười Thánh
cư này, với những Thánh cư này, các vị Thánh đã sống, đang sống, và sẽ
sống. Thế nào là mười ?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đoạn tận năm chi phần, thành tựu sáu chi phần, hộ trì một sự, đầy
đủ bốn y cứ, trừ khử sự thật cá nhân, đã đoạn tận hoàn toàn các
tầm cầu, các tư duy không có uế trược, thân hành được khinh an, tâm
được khéo giải thoát, tuệ được giải thoát.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
đã đoạn tận năm chi phần ?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đoạn tận dục tham, đoạn tận sân, đoạn tận hôn trầm thụy miên, đoạn
tận trao hối, đoạn tận nghi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đoạn tận
năm chi phần.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
thành tựu sáu chi phần ?
5. Ở đây, này các Tỷ kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc không có hân hoan, không có thất vọng, trú xa chánh niệm
tỉnh giác ; khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị...
khi thân cảm xúc, khi ý biết pháp, không có hân hoan, không có thất vọng,
trú xa, chánh niệm tỉnh giác. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo thành
tựu sáu chi phần.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
hộ trì một sự ?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo thành tựu
với tâm được niệm hộ trì. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hộ trì
một sự. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đầy đủ bốn cứ ?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có đắn đo thân cận một sự, có đắn đo kham nhẫn một sự, có đắn
đo tránh né một sự, có đắn đo trừ khử một sự. Như vậy này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đầy đủ bốn y cứ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
trừ khử sự thật cá nhân ?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối
với những sự sai biệt phổ thông được các Sa-môn, Bà-la-môn phổ thông
chấp nhận, như : "Thế nào là thường còn, thế giới là không thường
còn ; thế giới có giới hạn, thế giới không giới hạn, sinh mạng với
thân thể là một, sinh mạng với thân thể là khác ; Như Lai có tồn tại
sau khi chết ; Như Lai không tồn tại sau khi chết ; Như Lai có tồn tại và
không có tồn tại sau khi chết ; Như Lai không tồn tại và không và không
không tồn tại sau khi chết" Tất cả những tin tưởng được trừ diệt,
trừ bỏ, xả bỏ, quăng bỏ giải tỏa, đoạn tận, từ bỏ Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo trừ khử những sự thật cá nhân.
Và này các Tỷ-kheo, như thế là Tỷ-kheo
đã được tận hoàn toàn các tầm cầu ?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đoạn tận dục tầm cầu, đã đoạn tận hữu tầm cầu, Phạm hạnh
tầm cầu được khinh an. Như vậy, này Tỷ-kheo, Là Tỷ-kheo đã đoạn tận
hoàn toàn các tầm cầu.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào
là Ty-kheo các tư duy không có uế trược ?
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Ty-kheo đã đoạn tận dục tư duy, đã đoạn tận sân tư duy, đã đoạn tận
hại tư duy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là các tư duy không có uế trược.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
tâm hành được khinh an ?
11. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đoạn khổ, đoạn lạc chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng đạt
và an trú Thiền Thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo tâm hành được khinh an.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào
là Tỷ-kheo tâm được giải thoát ?
12. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tâm được giải thoát khỏi tham, tâm được giải thoát khỏi sân, tâm
được giải thoát khỏi si. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo được
tâm khéo giải thoát.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào
là Tỷ-kheo với tuệ khéo giải thoát ?
13. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
biết rằng : "Tham ái đã được đoạn tận nơi ta, được chặt đứt
từ gốc rễ, làm cho như thân cây tàla, làm cho không thể tái sanh, làm cho
không thể sanh khởi trong tương lai" rõ biết rằng : "Sân đã được
đoạn tận nơi ta... trong tương lai", rõ biết rằng : "Si đã được
đoạn tận nơi ta, được chặt đứt từ gốc rễ, làm cho thân cây tàla,
làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.
"Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo với tuệ khéo giải thoát.
14. Này các Tỷ-kheo, tất cả những
vị Thánh nào trong quá khứ đã sống theo Thánh cư, tất cả những vị ấy
đã sống theo mười Thánh cư này. Này các Tỷ-kheo, tất cả những vị
Thánh nào trong tương lai sẽ sống theo Thánh cư, tất cả những vị ấy sẽ
sống theo mười Thánh cư này. Này các Tỷ-kheo, tất cả những vị Thánh
nào trong hiện tại sống theo Thánh cư, tất cả những vị ấy đang sống
theo mười Thánh cư này.
Này các Tỷ-kheo, đây là mười Thánh
cư mà các vị Thánh đã sống đang sống, và sẽ sống.
III. PHẨM LỚN
(I) (21) CON SƯ TỬ
1. - Này các Tỷ-kheo, con sư tử,
vua các loài thú, vào buổi chiều, từ hang đi ra. Sau khi từ hang đi ra, nó
duỗi chân ; sau khi duỗi chân, nó nhìn xung quanh bốn phương, sau khi nhìn
xung quanh bốn phương, nó rống lên ba lần tiếng rống con sư tử ; sau khi
rống lần tiếng rống con sư tử, nó ra đi tìm mồi. Vì sao ? Nó tống với
ý nghĩ : "Mong rằng ta không làm tàn hại các loài thú nhỏ đi lạc
đường." Này các Tỷ-kheo, con sư tử là đồng nghĩa với Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. "Này các Tỷ-kheo, Như Lai thuyết pháp trong
hôi chúng, đây chỉ cho tiếng rống con sư tử. Này các Tỷ-kheo, có mười
Như Lai lực này của Như Lai, thành tựu những lực này, Như Lai tự nhận
cho mình địa vị Ngưu vương, rống tiếng con sư tử giữa các hội chúng
và chuyển Phạm luân. Thế nào là mười ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như
lai như thật rõ biết xứ là xứ, phi xứ là phi xứ. Như vậy là Như Lai lực
của Như Lai. Như vậy, chính nhờ Như Lai lực này, Như Lai tự nhận cho mình
địa vị Ngưu vương, rống lên tiếng rống con sư tử trong các hội chúng
và chuyển Phạm luân.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Như
Lai như thật rõ biết quả báo tùy thuộc sở do, tùy thao sở nhân của
các hành nghiệp quá khứ, vị lai, hiện tại. Này Các Tỷ-kheo, Như Lai như
thật rõ biết... (như trên)... và chuyển Pháp luân.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Như
lai như thật rõ biết con đường đưa đến tất cả sanh thú. Này các Tỷ-kheo,
Nư Lai như thật biết... (như trên)... và chuyển Phạm luân.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Như
Lai như thật rõ biết thế giới với nhiều giới, nhiều sai biệt. Này
các Tỷ-kheo, Như Lai như thật biết... (như trên)... và chuyển Phạm luân.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Như
Lai như thật rõ biết chí hướng sai biệt của các loài chúng sanh. Này
các Tỷ-kheo, Như lai như thật biết... (như trên)... và chuyển Phạm luân.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Như
Lai như thật rõ biết những căn thượng hạ của các loại chúng sanh,
loài Người. Này các Tỷ-kheo, Như Lai như thật biết... (như trên)... và
chuyển Phạm luân.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Như
Lai như thật rõ biết sự tạp nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất khởi của
các Thiền chứng về Thiền, về giải thoát, về định. Này các Tỷ-kheo,
Như Lai như thật biết... (như trên)... và chuyển Phạm luân.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Như
lai nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời,
bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn
mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn
đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều thành hoại kiếp. Như
lai nhớ rằng : "Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế
này, giai cấp như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết
tại chỗ kia, Ta được sanh ra chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế
này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế
này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, Ta được
sanh ra ở đây". Như vậy, Như Lai nhớ đến nhiều đời nhiều đời sống
quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này các Tỷ-kheo,
Như Lai như thật biết... (như trên)... và chuyển Phạm luân.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Như
Lai với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của
chúng sanh. Như Lai biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao
sang... người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều
do hạnh nghiệp của họ. Các chúng sanh này làm những ác hạnh về thân, về
lời và về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp
theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Các chúng sanh này làm những thiện
hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến,
tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên đời này. Như vậy,
Như Lai với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của
chúng sanh. Như Lai biết rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người
đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp do hạnh
nghiệp của họ. Này Các Tỷ-kheo, Như Lai như thật biết... (như trên)...
và chuyển Phạm luân.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Như
lai nhờ đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí, chứng ngộ,
chứng đạt vá an trú ngay trong hiện tại, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát. Này các Tỷ-kheo, Như Lai nhờ đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với
thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Chính nhờ Như Lai lực này, Như Lai tự
nhận cho mình địa vị Ngưu vương, rống tiếng rống con sư tử trong các
hội chúng và chuyển Phạm luân.
Này các Tỷ-kheo, đây là những Như
lai lực của Như lai, chính nhờ thành tựu những lực này, Như lai tự nhận
cho mình địa vị Ngưu vương, rống tiếng rống con sư tử giữa các hội
chúng và chuyển Phạm luân.
(II) (22) NHỮNG TUYÊN BỐ VỀ PHÁP
1. Bây giờ có Tôn giả Ànanda đi
đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Ànanda, đang ngồi xuống một bên :
2. - Này Ànanda, phàm những pháp
nào đưa đến sự chứng ngộ với thắng trí, các tuyên bố về giáo lý,
này Ànanda, ở đây, Ta vô úy tự nhận thuyết pháp về chúng, về chúng như
thế ấy, như thế ấy khiến cho người nào như vậy, như vậy thật hành
; nếu là có ; nếu là không có, sẽ biết là không có ; nếu là hạ liệt,
sẽ biết là hạ liệt ; nếu là thù thắng sẽ biết là thù thắng ; nếu
là có trên, sẽ biết là có trên ; nếu là vô thượng, sẽ biết là vô thượng.
Vì rằng, cái gì người ấy có thể biết, có thể thấy, có thể chứng
ngộ, người đó sẽ biết được, sẽ thấy được, sẽ chứng ngộ, người
đó sẽ biết được, sẽ thấy được, sẽ chứng ngộ được, sự kiện
này có xảy ra. Này Ànanda, cái này là vô thượng đối với các trí,
chính là như thật trí đối với vấn đề này hay vấn đề khác. Và này
Ànanda, do vậy Ta tuyên bố rằng ngoài trí này, không có một trí nào khác
cao thượng hơn, thù thắng hơn. Này Ànanda, có mười Như Lai lực này của
Như Lai, chính nhờ thành tựu những lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa
vị Ngưu vương, rống tiếng con sư tử giữa các hội chúng và chuyển Phạm
luân. Thế nào là mười ?
3. Ở đây, này Ananda, Như Lai như
thật biết xứ là xứ, phi xứ là phi xứ. Như vậy là Như Lai lực của
Như Lai. Như vậy, chính nhờ Như Lai lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa
vị Ngưu vương, rống lên tiếng rống con sư tử trong các hội chúng và
chuyển Phạm luân.
4. Lại nữa, này Ananda, Như Lai như
thật rõ biết quả báo tùy thuộc sở do, tùy theo sở nhân của các hành
nghiệp quá khứ, vị lai, hiện tại. Này Ànanda, Như Lai như thật rõ biết...
(như trên)... và chuyển Phạm luân.
5. Lại nữa, này Ànanda, Như Lai
như thật rõ biết con đường đưa đến tất cả sanh thú. Này Ànanda, Như
Lai như thật rõ biết... (như trên)... và chuyển Phạm luân.
6. Lại nữa, này Ànanda, Như Lai
như thật rõ biết thế giới với nhiều giới, nhiều sai biệt. Này Ananda,
Như Lai như thật rõ biết... (như trên)... và chuyển Phạm luân.
7. Lại nữa, này Ananda, Như Lai thật
rõ biết chí hướng sai biệt của các loài chúng sanh. Này Ànanda, Như Lai
như thật rõ biết... (như trên)... và chuyển Phạm luân.
8. Lại nữa, này Ànanda, Như Lai
như thật rõ biết những căn thượng hạ của các loài chúng sanh, loài Người.
Này Ànanda, Như Lai như thật rõ biết... (như trên)... và chuyển Phạm
luân.
9. Lại nữa, này Ànanda, Như Lai
như thật rõ rọ biết sự tạp nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất khởi của
các Thiền chứng về Thiền, về giải thoát, về định. Này Ànanda, Như
Lai như thật rõ biết... (như trên)... và chuyển Phạm luân.
10. Lại nữa, này Ànanda, Như Lai nhớ
đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời... như vật
Như lai nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại
dương và các nét đại cương và các chi tiết. Này Ànanda, Như Lai như thật
rõ biết... (như trên)... và chuyển Phạm luân.
11. Lại nữa, này Ananda, Như Lai với
thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh.
Ngài biết rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ,
kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
Này Ànanda, Như Lai như thật rõ biết... (như trên)... và Phạm luân.
12. Lại nữa, này Ananda, Như Lai nhờ
Đoạn trừ các Lậu hoặc, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt
và an trú ngay trong hiện tại, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Này Ànanda, Như Lai nhờ đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng
trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát. Chính nhờ Như Lai lực này, Như Lai tự nhận cho mình
địa vị Ngưu vương, rống tiếng rống con sư tử trong các hội chúng và
chuyển Phạm luân.
- Này Ànanda, đây là những Như Lai
lực của Như Lai, chính nhờ thành tựu những lực này, Như Lai tự nhận
cho mình địa vị Ngưu vương, rống tiếng rống con sư tử giữa các hội
chúng và chuyển Phạm luân.
(III) (23) VỚI THÂN
1. - Này các Tỷ-kheo, có những
pháp cần phải tận với thân, không phải với lời. Này các Tỷ-kheo, có
những pháp cần phải đoạn tận với lời, không phải với thân. Này các
Tỷ-kheo, có những pháp cần phải đoạn tận không phải với thân, không
phải với lời mà sau khi thấy cần phải đoạn tận với trí tuệ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là những
pháp cần phải đoạn tận với thân, không phải với lời ?
2. Ờ đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có phạm điều bất thiện về thân, về một vấn đề gì. Sau khi suy xét
về vấn đề ấy, các đồng Phạm hạnh có trí đã nói với vị ấy :
"Tôn giả có phạm điều bất thiện về thân, về một vấn đề này.
Thật tốt là nó thay, nếu Tôn giả từ bỏ thân làm ác và tu tập thân
làm thiện". Vị ấy được các đồng Phạm hạnh có trí sau khi suy
xét nói như vậy, đoạn tận thân làm ác, tu tập thân làm thiện.
Này các Tỷ-kheo, những pháp này
được gọi là những pháp cần phải đoạn tận với nhà, không phải với
lời.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là những
pháp cần phải đoạn tận với lời, không phải với thân ?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
phạm điều bất thiện với lời, về một vấn đề gì. Sau khi suy xét về
vấn đề ấy, các đồng Phạm hạnh có trí đã nói vị ấy : "Tôn giả
có phạm điều bất thiện về lời, về một vấn đề này. Thật tốt
lành thay, nếu Tôn giả từ bỏ lời nói ác, tu tập lời nói thiện".
Vị ấy được các đồng Phạm hạnh có trí sau khi suy xét nói như vậy,
đoạn tận lời nói ác. Tu tập lời nói thiện.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
các pháp cần phải đoạn tận, không phải với thân, cũng không phải với
lời mà sau khi thấy, sau khi thấy với trí tuệ, cần phải đoạn tận ?
4. Tham, này các Tỷ-kheo, cần phải
đoạn tập không phải với thân, cũng không phải với lời mà sau khi thấy,
sau khi thấy với trí tuệ, cần phải đoạn tận. Sân, này các Tỷ-kheo...
Si, này các Tỷ-kheo... Phẫn nộ, này các Tỷ-kheo... Não hại, này các Tỷ-kheo...
Xan tham, này các Tỷ-kheo cần phải đoạn tận, không phải với thân,
không phải với lời mà sau khi thấy, sau khi thấy với trí tuệ, cần phải
đoạn tận. Ác tật đố, này các Tỷ-kheo cần phải đoạn tận, không phải
với thân, không phải với lời mà sau khi thấy, sau khi thấy với trí tuệ,
cần phải đoạn tận.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
ác tật đố ?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
gia chủ, hay con người gia chủ, dồi dào phong phú về tài sản, về lúa gạo,
về bạc hay vàng. Ở đây, một người nô tỳ hay người phục vụ khởi lên
ý nghĩ như sau : "Ôi, sự dồi dào phong phú về tài sản, về lúa gạo,
về bạc hay vàng thật sự không ràng buộc về người gia chủ hay con người
gia chủ này. "Hay một Sa-môn, Bá-la-môn có được các vật dụng như y
áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ở đây, một
Sa-môn, hay Bà-la-môn khác khởi lên ý nghĩ như sau : "Ôi, mong rằng vị
Tôn giả này không nhận được các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực,
sàng tọa, dược phẩm trị bệnh".
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ác tật
đố.
Ác tật đố, này các Tỷ-kheo, cần
phải đoạn tận không phải với thân, cũng không phải với lời mà sau
khi thấy, sau khi thấy với trí tuệ, cần phải đoạn tận.
6. Này các Tỷ-kheo, ác dục cần phải
đoạn tận, không phải với thân, cũng không phải với lời mà sau khi, sau
khi thấy với trí tuệ, cần phải đoạn tận.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
ác dục ?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
không có lòng tin, lại muốn rằng : "Mong rằng họ biết ta có lòng
tin" ; có ác giới hạn lại muốn rằng : "Mong rằng họ biết ta
là người nghe nhiều" ; là người ưa thích hội chúng, lại muốn rằng
: "Mong rằng họ biết ta là người sống viễn ly" ; là người biếng
nhác loại muốn rằng : "Mong rằng họ biết ta là người tinh tấn"
; là người thất niệm lại muốn rằng : "Mong rằng họ biết ta là người
được an trú" ; là người không có định, lại muốn rằng : "Mong
rằng họ biết ta là người có định" ; là người ác tuệ, lại muốn
rằng : "Mong rằng họ biết ta là người có trí tuệ" ; là người
chưa đoạn tận các lậu hoặc lại muốn : "Mong rằng họ biết ta là
người đã đoạn tận các lậu hoặc".
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ác dục.
Ác dục này, này các Tỷ-kheo, cần
phải đoạn tận, không phải với thân, cũng không phải với lời mà sau
khi thấy, sau khi thấy với trí tuệ, cần phải đoạn tận.
8. Này các Tỷ-kheo, nếu tham chinh
phục Tỷ-kheo và phát triển, nếu sân... nếu si... nếu phẫn nộ... nếu
hiềm hận... nếu gièm pha... nếu não hại... nếu xan tham... nếu ác tật
đố... nếu ác dục chinh phục Tỷ-kheo và phát triển, vị ấy cần phải
được hiểu như sau : "Tôn giả này không rõ biết như thế nào để
tham không có mặt. Như vậy tham chinh phục vị ấy và phát triển, Tôn giả
này không rõ biết như thế nào để sân không có mặt... Tôn giả này
không rõ biết như thế nào để si không có mặt... phẫn nộ không có mặt...
hiềm hận không có mặt... gièm pha không có mặt... não hại không có mặt...
xan tham không có mặt... ác tật đố không có mặt... Tôn giả không rõ biết
như thế nào, để ác dục không có mặt. Như vậy, ác dục chinh phục Tôn
giả này và phát triển."
9. Nhưng, này các Tỷ-kheo, nếu tham
không chinh phục và không phát triển, nếu sân... nếu si... nếu phẫn nộ...
nếu thiềm hận... nếu gièm pha... nếu não hại... nếu xan tham... nếu ác
tật đố... nếu ác dục không chinh phục vị Tỷ-kheo và không phát triển,
vị ấy cần phải được biết như sau : "Tôn giả này rõ biết như thế
nào để tham không có mặt. Như vậy, tham không chinh phục Tôn giả này và
không phát triển. Tôn giả này rõ biết như thế nào để sân không có mặt...
si... phẫn nộ... hiềm hận... gièm pha... não hại... xan tham... ác tật đố...
ác dục không có mặt. Như vậy, ác dục không có chinh phục vị Tôn giả
này và không phát triển."
(IV) (24) MAHA CUNDA
1. Một thời, Tôn giả Mahàcunda
trú giữa dân chúng Cetì tại Sahajàti. Tại đấy, tôn giả Mahàcunda gọi
các Tỷ-kheo.
- Này các Hiền giả Tỷ-kheo.
- Thưa Hiền giả.
- Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Mahàcunda. Tôn giả Mahàcunda nói như sau :
2. - Thưa các Hiền giả, nếu một
Tỷ-kheo thuyết về trí nói rằng : "Tôi biết pháp này, tôi thấy pháp
này". Nếu tham chinh phục Tỷ-kheo ấy và tồn tại, nếu sân... nếu
si... nếu phẫn nộ... nếu hiềm hận... nếu gièm pha... nếu não lại... nếu
xan tham... nếu ác tật đố... nếu ác dục chinh phục vị ấy và tồn tại,
vị ấy cần phải được hiểu như sau : " Tôn giả này không rõ biết
như thế nào để tham không có mặt. Như vậy tham chinh phục Tôn Giả ấy
và tồn tại. Tôn giả này không rõ biết như thế nào để sân không có mặt...
si không có mặt... phẫn nộ không có mặt... hiềm không có mặt... gièm
pha không có mặt... não hại không có mặt... xan tham không có mặt... ác tật
đố không có mặt... ác dục không có mặt. Như vậy, các ác dục chinh phục
Tôn giả này và tồn tại."
3. Thưa các Hiền giả, nếu Tỷ-kheo
thuyết về tu tập nói rằng : "tôi được tu tập về thân, được tu
tập về giới, được tu tập về tâm, được tu tập về tuệ". Thưa
chư Hiền, nếu tham chinh phục Tỷ-kheo ấy và tồn tại, nếu sân... nếu
si... nếu phẫn nộ... nếu hiềm hận... nếu gièm pha... nếu não hại... nếu
xan tham... nếu ác tật đố... nếu ác dục chinh phục vị Tỷ-kheo ấy và
tồn tại, vị ấy cần phải được hiểu như sau : "Vị Tôn giả này
không rõ biết như thế nào để tham không có mặt, vì rằng tham chinh phục
vị ấy và tồn tại. Vị Tôn giả này không rõ biết như thế nào để sân
không co mặt... si không có mặt... phẫn nộ không có mặt... hiềm hận
không có mặt... gièm pha không có mặt... não hại không có mặt... xan tham
không có mặt... ác tật không có mặt...các dục không có mặt. Như vậy,
các ác dục chinh phục Tôn giả này và tồn tại."
4. Và này chư hiền, Tỷ-kheo thuyết
về trí và thuyết về tu tập, nói rằng : "Tôi biết pháp này, tôi thấy
pháp này, tôi được tu tập về tâm, tôi được tu tập về giới, tôi
được tu tập về tâm, tôi được tu tập về tuệ". Này chư Hiền, nếu
tham chinh phục Tỷ-kheo ấy và tồn tại, nếu sân... nếu si... nếu phẫn nộ....
nếu hiềm hận... nếu gièm pha... nếu ác dục chinh phục Tỷ-kheo ấy và tồn
tại, Tỷ-kheo ấy cần phải được hiểu như sau : "Vị Tôn giả này
không cần rõ biết như thế nào để tham không có mặt... sân không có mặt...
si không có mặt... Như vậy, ác dục chinh phục Tỷ-kheo này và tồn tại".
5. Ví như, này chư Hiền, có người
nghèo khổ có thể nói về giàu sang ; không có tài sản có thể nói về
tài sản ; không có sở hữu có thể nói về sở hữu, nhưng khi có cơ hội
tạo ra tái sản, vị ấy không có thể tạo thành tài sản, lúa gạo, bạc
hay vàng. Người ta có thể biết về người ấy như sau : "Vị ấy, tuy
nghèo khổ, lại nói về giàu sang ; vị này, tuy không có tài sản, lại
nói về tài sản ; vị này tuy không có sở hữu, lại nói về sở hữu.
Vì cớ sao ? Vì rằng vị này, khi có cơ hội tạo ra tài sản, vị ấy
không có thể tạo thành tài sản, lúa gạo, bạc hay vàng". Cũng vậy,
này chư hiền, vị Tỷ-kheo thuyết về trí và thuyết về tu tập, nói rằng
: "Tôi biết pháp này, tôi thấy pháp này, tôi được tu tập về thân,
tôi được tu tập về giới, tôi được tu tập về tâm, tôi được tu tập
về tuệ". Này chư hiền, nếu tham chinh phục Tỷ-kheo ấy và tồn tại
; nếu sân... nếu si... nếu phẫn nộ... nếu hiềm hận... nếu gièm pha...
nếu não hại... nếu xan tham... nếu ác tật đố... nếu ác dục chinh phục
Tỷ-kheo ấy và tồn tại, Tỷ-kheo ấy cần phải được hiểu như sau :
"Vị này không rõ biết như thế nào để tham không có mặt... sân
không có mặt... si không có mặt... Như bậy, ác dục chinh phục Tỷ-kheo
này và tồn tại".
6. Này chư Hiền, Tỷ-kheo thuyết về
trí nói rằng : "Tôi biết pháp này, tôi thấy pháp này". Này chư
Hiền, nếu tham không chinh phục Tỷ-kheo ấy và tồn tại, nếu sân... nếu
si... nếu phẫn nộ... nếu hiềm hận... nếu ác tật đố... nếu ác dục
không chinh phục vị ấy và tồn tại, thời vị ấy cần phải được biết
như sau : "Vị này rõ biết như thế nào để tham không có mặt... Như
vậy, tham không chinh phục vị ấy và tồn tại... sân không có mặt... si
không có mặt... phẫn nộ không có mặt... hiềm hận không có mặt... não
hại không có mặt... xan tham không có mặt... ác tật đố không có mặt...
ác dục không có mặt. Như vậy, ác dục không chinh phục vị này và tồn
tại".
7. Này chư Hiền, Tỷ-kheo thuyết về
tu tập nói rằng : "Tôi có tu tập về thân, tôi có tu tập về giới,
tôi có tu tập về tâm, tôi có tu tập về tuệ". Này chư Hiền, nếu
tham không chinh phục Tỷ-kheo ấy và tồn tại... nếu sân... nếu si... nếu
phẫn nộ... nếu gièm pha... nếu não hại... nếu xan tham... nếu ác đố...
nếu ác dục không chinh phục Tỷ-kheo ấy và tồn tại, vị ấy cần phải
được biết như sau : "Vị này rõ biết như thế nào để tham không
có mặt. Như vậy tham không chinh phục vị này và tồn tại... sân không
có mặt... si không có mặt... hiềm hận không có mặt... gièm pha không có
mặt... não hại không có mặt... xan tham không có mặt... ác tật đố không
có mặt... ác dục không có mặt... Như vậy, ác dục không chinh phục vị
này và tồn tại".
8. Này chư hiền, Tỷ-kheo thuyết về
trí và thuyết về tu tập, nói rằng : "Tôi biết pháp này, tôi thấy
pháp này. Tôi có tu tập về thân, tôi có tu tập về giới, tôi có tu tập
về tâm, tôi có tu tập về tuệ. "Này chư Hiền, nếu tham không chinh
phục Tỷ-kheo ấy và tồn tại... nếu sân... nếu si... nếu phẫn nộ... nếu
hiềm hận... nếu gièm pha... nếu não hại... nếu xan tham... nếu ác tật
đố... nếu ác dục không chinh phục Tỷ-kheo ấy và tồn tại, thời vị
ấy cần phải được biết như sau : "Tôn giả này biết rõ như thế nào
để được tham không có mặt. Như vậy tham không chinh phục vị ấy và tồn
tại. Sân không có mặt... si không có mặt... phẫn nộ không có mặt... hiềm
hận không có mặt... gièm pha không có mặt... não hại không có mặt... xan
tham không có mặt... ác tật đố không có mặt... ác dục không có mặt.
Như vậy, ác dục không chinh phục vị Tôn giả này và không tồn tại."
9. Này các Hiền, ví như một người
giàu sang có thể nói về giàu sang ; một người có tài sản có thể nói về
tài sản ; một người có sở hữu có thể nói về sở hữu. Khi có cơ hội
tạo ra tài sản, vị ấy có thể tạo thành tài sản, lúa gạo, bạc hay
vàng. Và người ta có thể biết về người ấy như sau : "Có giàu
sang, vị này nói về giàu sang ; có tài sản, vị này nói về tài sản ;
có của cải, vị này nói về của cải. Vì sao ? Vì rằng vị này, khi có
cơ hôi tạo ra tài sản, vị ấy có thể tạo thành tài sản, lúa gạo, bạc
hay vàng". Cũng vậy, này chư Hiền, Tỷ-kheo thuyết về trí và thuyết
về tu tập, nói rằng : "Tôi biết pháp này, tôi thấy pháp này. Tôi
có tu tập về thân, tôi có tu tập về giới, tôi có tu tập về tâm, tôi
có tu tập về tuệ". Này chư Hiền, nếu tham không chinh phục vị ấy
và tồn tại... nếu sân... nếu si... nếu phẫn nộ... nếu tật đố... nếu
ác dục không chinh phục vị ấy và tồn tại, vị ấy cần phải được
biết như sau : "Vị Tôn giả này rõ biết như thế nào để tham không
có mặt. Như vậy tham không chinh phục vị này và tồn tại. Vị Tôn giả
này rõ biết như thế nào để sân không có mặt... si... phẫn nộ... hiềm
hận... gièm pha... não hại... xan tham... ác tật đố... ác dục không có mặt.
Như vậy ác dục không chinh phục vị Tôn giả này và tồn tại".
(V) (25) THIỀN ÁN XỨ
1. - Này các Tỷ-kheo, có mười Thiền
xứ này. Thế nào là mười ?
2. Một người tưởng tri Thiền án
đấy, phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng. Một người
tưởng tri Thiền án nước... một người tưởng tri Thiền án lửa... một
người tưởng tri Thiền án gió... một người tưởng tri Thiền án xanh...
một người tưởng tri Thiền án vàng... một người tưởng tri Thiền án
đỏ... một người tưởng tri án hư không... một người tưởng tri Thiền
án thức, phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng.
Này các Tỷ-kheo, có mười Thiền
án cứ này.
(VI) (26) KÀLÌ
1. Một thời, Tôn giả Mahàkaccàna
trú giữa dân chúng Avanti, ở Kuraraghara, tại một vực núi cao. Bấy giờ
có nữ cư sĩ Kàlì, trú ở Kuraraghara, đi đến Tôn giả Mahàkaccàna rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nữ cư sĩ Kàlì trú ở
Kuraraghara thứ với Tôn giả Mahàkaccàna :
2. - Thưa Tôn giả, Thế Tôn có nói
như sau trong các câu hỏi thiếu nữ :
"Ta đạt được mục đích,
Tâm Ta được an tịnh,
Sau khi đã chiến thắng,
Đội quân sắc khả ái,
Ta thiền định một mình,
Được an lạc Chánh giác.
Do vậy, Ta không có,
Làm bạn với quần chúng,
Làm bạn với một ai,
Không phải việc Ta làm."
Thưa Tôn giả, lời nói vắn tắt
này của Thế Tôn cần phải được hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như
thế nào ?
3. - Này Nữ cư sĩ, có số Sa-môn,
Bá-la-môn tối thượng xảo trong sự chứng đạt Thiền án đất, có thể
thực hiện được mục đích của họ. Này nữ tu sĩ, nhưng Thế Tôn đã
được thắng tri tối thượng thiện xảo trong sự chứng đạt Thiền án
đất, sau khi thắng tri như vậy, Thế Tôn đã thấy sự tập khởi, đã thấy
sự nguy hại, đã thấy sự xuất ly, đã thấy sự tri kiến về đạo và
phi đạo. Do nhân thấy được sự tập sự, do nhân thấy được sự nguy hại,
do sự thấy được sự xuất ly, do nhân thấy được tri kiến về đạo và
phi đạo, Ngài rõ biết mục đích đã đạt được, tâm đã được an tịnh.
Này Nữ cư sĩ, có một số Sa-môn, Bà-la-môn tối thượng thiện xảo trong
sự chứng đạt Thiền án nước... Thiền án lửa... Thiền án gió... Thiền
án xanh... Thiền án lửa... Thiền án gió... Thiền án xanh... Thiền án đỏ...
Thiền án trắng... Thiền án hư không... Thiền án thức, có thể thực hiện
được mục đích của họ. Này Nữ cư sĩ, nhưng thế Tôn đã thắng tri tối
thượng thiện xảo tong sự chứng đạt Thiền án thức, sau khi thắng thiện
tri như vậy, Thế Tôn đã thấy sự tập khởi, đã thấy sự nguy hại, đã
thấy sự xuất ly, đã thấy tri khiến về đạo và phi đạo. Do nhân thấy
được sự xuất ly, do nhân thấy được tri kiến về đạo và phi đạo,
Ngài rõ biết mục đích đã đạt được, tâm đã được an tịnh. do vậy,
này nữ cư sĩ. Thế Tôn có nói như sau, trong các câu hỏi của thiếu nữ
:
"Ta đạt được mục đích,
Tâm Ta được an tịnh,
Sau khi đã chiến thắng,
Đội quân sắc khả ái,
Ta Thiền định một mình,
Được an lạc Chánh giác.
Do vậy, Ta không có
Làm bạn với quần chúng
Làm bạn với một ai,
Không phải việc Ta làm."
Này Nữ cư sĩ, Lời vắn tắt này
của Thế Tôn cần phải được thấy ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
(VII) (27) NHỬNG CÂU HỎI LỚN (1)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại etavana, ở khu vườn ông Anàthàpindika.Bấy giờ có rất nhiều
Tỷ-kheo vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào Sàvatthi để khất thực. Rồi
các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ như sau : "Thật là quá sớm để đi vào
Sàvatthi khất thực. Chúng ta hãy đi đến khu vườn của các du sĩ ngoại
đạo". Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến khu vườn các du sĩ ngoại đạo
; sau khi đến, nói lên với những du sĩ ngoại đạo ấy những lời chào
đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền
ngồi xuống một bên. Các du sĩ ngoại đạo ấy nói với các Tỷ-kheo đang
ngồi một bên :
2.- Thưa các Hiền giả, Sa-môn
Gotama thuyết pháp như sau cho các đệ tử : "Hãy đến, này các Tỷ-kheo,
hãy thắng tri tất cả pháp ; sau khi tri, thắng tri tất cả pháp, hãy an
trú. "Thưa các Hiền giả, chúng tôi cũng thuyết pháp như sau cho các đệ
tử : "Hãy thắng tri tất cả pháp ; sau khi thắng tri, thắng tri tất cả
pháp, hãy an trú" .Ở đây, này chư Hiền, có sự đặc thù gì, có sự
thù thắng gì, có sự thù thắng gì, có sự sai biệt gì giữa Sa-môn Gotama
và chúng tôi, về thuyết pháp và thuyết pháp, hay về giáo giới và giáo
giới ?
3. Rồi các Tỷ-kheo ấy, không hoan
hỷ lời nói của các du sĩ ngoại đạo ấy, cũng không phỉ báng, không
hoan hỷ, không phỉ báng, các vị ấy đứng dậy và ra đi, nghĩ rằng :
"Chúng ta sẽ hiểu ý nghĩa lời nói này từ Thế Tôn" Rồi các Tỷ-
kheo ấy, sau khi đe khất thực ở Sàvatthi xong, sau buổi ăn, trên con đường
đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế
Tôn :
4.- Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng
con vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Sàvatthi để khất thực. Rồi
chúng con suy nghĩ như sau : "Thật là quá sớm để vào Sàvatthi khất thực,
vậy chúng ta hãy đi đến khu vườn các du sĩ ngoại đạo". Rồi bạch
Thế Tôn, chúng con đi đến khu vườn của các du sĩ ngoại đạo, sau khi đến,
chúng con với các du sĩ ngoại đạo những lời chào hỏi thăm, sau khi nói
lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, chúng con ngồi xuống một
bên. Bạch Thế Tôn, các du sĩ ngoại đạo ấy nói với chúng con đang ngồi
xuống một bên : "Thưa các Hiền giả, Sa-môn Gotama thuyết pháp như sau
cho các đệ tử : "Hãy đến, này các Tỷ-kheo, hãy thắng tri tất cả
pháp ; sau khi thắng tri, thắng tri tất cả pháp, hãy an trú". Thưa các
Hiền giả, chúng tôi cũng thuyết pháp như sau cho các để tử : "Hãy
đến, này chư Hiền, hãy thắng tri tất cả pháp ; sau khi thắng tri, thắng
tri tất cả pháp, hãy an trú". Ở đây, này chư Hiền, có sự đặc thù
gì, có sự sai biệt gì giữa Sa-môn Gotama và chúng tôi về thuyết pháp và
thuyết pháp, hay về giáo giới và giáo giới ? " Rồi bạch Thế Tôn,
chúng con không hoan hỷ lời nói của các du sĩ ngoại đạo ấy, cũng không
phỉ báng, không hoan hỷ, không phỉ báng, chúng con đứng dậy và ra đi,
nghĩ rằng : "Chúng ta sẽ hiểu ý nghĩa của lời nói này của Thế
Tôn".
5 - Này các Tỷ-kheo, được nói vậy,
các du sĩ ngoại đạo ấy cần phải được nói như sau : "Này chư Hiền,
một câu hỏi, một câu tuyên bố, một câu trả lời ; hai câu hỏi, hai
câu tuyên bố, hai câu trả lời, ba câu hỏi, ba câu tuyên bố, ba câu trả
lời ; bốn câu hỏi, bốn câu tuyên bố ; bốn câu trả lời ; năm câu hỏi,
năm câu tuyên bố, năm câu trả lời ; sáu câu hỏi, sáu câu tuyên bố,
sáu câu trả lời ; bảy câu hỏi, bảy câu tuyên bố, bảy câu trả lời ;
tám câu hỏi, tám câu tuyên bố, tám câu trả lời ; chín câu hỏi, chín
câu tuyên bố, chín câu trả lời ; mười câu hỏi, mười câu tuyên bố, mười
câu trả lời". Được hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo
ấy, sẽ không thể trả lời, hơn nữa sẽ rơi vào bối rối. Vì sao ? Này
các Tỷ-kheo, vì vấn đề ấy vượt ngoài địa hạt của họ. Này các Tỷ-kheo,
Ta không thấy một ai trong thế giới chư Thiên, với chư Thiên, Ma giới, Phạm
thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn với chư Thiên và loài Người,
với tâm thích thú trả lời những câu hỏi này, trừ Như Lai, hay những ai
được từ hai vị này.
6. Một câu hỏi, một câu tuyên bố,
một câu trả lời được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến
như vậy ?
Trong một pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chơn chánh nhàm chán, chơn chánh ly tham, chơn chánh giải thoát, chơn chánh
thấy được sự cứu cánh, sau khi chơn chánh thắng tri ý nghĩa ngay trong hiện
tại, là người chấm dứt khổ đau. Thế nào là trong một pháp ?
Tất cả chúng sanh đều tồn tại
nhờ đồ ăn.
Trong một pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo chơn chánh nhàm chán, chơn chánh ly tham, chơn chánh giải thoát, chơn
chánh thấy được sự cứu cánh, sau khi chơn chánh thắng tri ý nghĩa, ngay
trong hiện tại, là người chấm dứt khổ đau.
Một câu hỏi, một câu tuyên bố,
một câu trả lời được nói đến như vậy. Do duyên này được nói đến
như vậy.
7. Hai câu hỏi, hai câu tuyên bố,
hai câu trả lời được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến
như vậy ?
Trong hai pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chơn chánh nhàm chán, chơn chánh ly tham, chơn chánh giải thoát, chơn chánh
thấy được sự cứu cánh, sau khi chơn chánh thắng tri ý nghĩa, ngay trong
hiện tại, là người chấm dứt khổ đau. Thế nào là trong hai pháp ?
Trong danh và trong sắc.
Trong hai pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo chơn chánh nhàm chán... là người chấm dứt khổ đau.
Hai câu hỏi, hai câu tuyên bố, hai
câu trả lời, được nói đến như vậy. Do duyên này được nói đến
như vậy.
8. Ba câu hỏi, ba tuyên bố, ba câu
trả lời được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến như vậy
?
Trong ba pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chơn chánh nhàm chán... là người chấm dứt khổ đau. Thế nào là trong ba
pháp ?
Trong ba thọ.
Trong ba pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo chơn chánh nhàm chán... là chấm dứt khổ đau.
Ba câu hỏi, ba câu tuyên bố, ba
câu trả lời, được nói đến như vậy. Do duyên này được nói đến
như vậy.
9. Bốn câu hỏi, bốn câu tuyên bố,
bốn câu trả lời, được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến
như vậy ?
Trong bốn pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chơn chánh nhàm chán... là người chấm dứt khổ đau. Thế nào là trong bốn
pháp ?
Trong bốn đồ ăn.
Trong bốn pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo chơn chánh nhàm chán... là người chấm dứt khổ đau.
Bốn câu hỏi, bốn câu tuyên bố,
bốn câu trả lời, được nói đến như vậy. Do duyên này được nói đến
như vậy.
10. Năm câu hỏi, năm câu tuyên bố,
năm câu trả lời, được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến
như vậy ?
Trong năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chơn chánh nhàm chán... là người chấm dứt khổ đau. Thế nào là trong năm
pháp ?
Trong năm thủ uẩn.
Trong năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo chơn chánh nhàm chán... là người chấm dứt khổ đau.
Năm câu hỏi, năm câu tuyên bố, năm
câu trả lời, được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến như
vậy ?
Trong sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chơn chánh nhàm chán... là người chấm dứt khổ đau. Thế nào là trong
sáu pháp ?
Trong sáu hội xứ.
Trong sáu pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo chơn chánh nhàm chán... là người chấm dứt khổ đau.
Sáu câu hỏi, sáu câu tuyên bố,
sáu câu trả lời, được nói đến như vậy. Do duyên này được nói đến
như vậy.
12. Bảy câu hỏi, bảy câu tuyên bố,
bảy câu trả lời, được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến
như vậy ?
Trong bảy pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chơn chánh nhàm chán... là người chấm dứt khổ đau. Thế nào là trong bảy
pháp ?
Bảy câu hỏi, bảy câu tuyên bố,
bảy câu trả lời được nói đến như vậy. Do duyên này được nói đến
như vậy.
13. Tám câu hỏi, tám câu tuyên bố,
tám câu trả lời, được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến
như vậy ?
Trong tám pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chơn chánh nhàm chán... là người chấm dứt khổ đau. Thế nào là trong
tám pháp ?
Trong tám thế gian pháp.
Trong tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo chơn chánh nhàm chán... là người chấm dứt khổ đau.
Tám câu hỏi, tám câu tuyên bố,
tám câu trả lời được nói đến như vậy. Do duyên này được nói đến
như vậy.
14. Chín câu hỏi, chín câu tuyên bố,
chín câu trả lời, được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến
như vậy ?
Trong chín pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chơn chánh nhàm chán... là người chấm dứt khổ đau... Thế nào là trong
chín pháp ?
Chín hữu tình cư.
15. Mười câu hỏi, mười câu
tuyên bố, mười câu trả lời được nói đến như vậy. Do duyên gì được
nói đến như vậy ?
Trong mười pháp này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chơn chánh, nhàm chán, chơn chánh ly tham, chơn chánh giải thoát, chơn chánh
thấy được sự cứu cánh, sau khi chơn chánh thắng tri ý nghĩa, ngay trong
hiện tại, là người chấm dứt khổ đau. Thế nào là mười pháp ?
Trong mười thiện nghiệp đạo.
Trong mười pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo chơn chánh nhàm chán, chơn chánh ly tham, chơn chánh giải thoát, chơn
chánh thấy được sự cứu cánh, sau khi chơn chánh thắng tri ý nghĩa, ngay
trong hiện tại, là người chấm dứt khổ đau.
Mười câu hỏi, mười câu tuyên bố,
mười câu trả lời, được nói lên như vậy. Do duyên này, được nói đến
như vậy.