- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 4d
- XI. PHẨM MÂY MƯA
(I) (101) MÂY MƯA (1)
1. Như vầy tôi nghe :
Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn
gọi các Tỷ-khao :
- Này các Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau :
2.- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại
mây mưa này. Thế nào là bốn ? Có sấm, không có mưa ; có mưa, không có sấm
; không có sấm, cũng không có mưa ; có sấm và có mưa. Này các Tỷ-kheo,
có bốn loại mây mưa này.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn
hạng người được ví dụ với các loại mây mưa này, có mặt hiện hữu
ở đời. Thế nào là bốn ? Hạng người có sấm, không có mưa ; hạng
người có mưa, không có sấm ; hạng người không có sấm, không có mưa ;
hạng người có sấm và có mưa.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người có sấm, không có mưa ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người có nói, không có làm. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người có
sấm không có mưa. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại mây có sấm, không có mưa
ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hạng người này giống như ví dụ ấy.
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người có mưa, không có sấm ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người có làm, không có nói. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người có
mưa, không có sấm. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại mây chỉ có mưa, không
có sấm ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví
dụ ấy.
6. Và này các Tỷ kheo, thế nào là
hạng người không có sấm, cũng không có mưa ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người không có nói, không có làm. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người
không có sấm, không có mưa. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại mây không có sấm,
không có mưa ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như
ví dụ ấy.
7. Và này các Tỷ kheo, thế nào là
hạng người có sấm và có mưa ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người có nói và có làm. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người có sấm
và có mưa. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại mây có sấm và có mưa ấy, Ta nói
rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví dụ ấy.
Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người
giống như loại mây này có mặt, hiện hữu ở đời.
(II) (102) MÂY MƯA (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, có bốn loại
mây mưa này. Thế nào là bốn ? Có sấm, không có mưa ; có mưa, không có sấm
; không có sấm không có mưa ; có sấm và có mưa. Này các Tỷ-kheo, có bốn
loại mây mưa này.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn
hạng người được ví dụ như các loại mây mưa này, có mặt, hiện hữu
ở đời. Thế nào là bốn ? Hạng người có sấm, không có mưa ; hạng
người có mưa, không có sấm ; hạng người không có sấm, không có mưa ;
hạng người có sấm và có mưa.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người có sấm không có mưa ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người thuộc lòng Pháp, Khế kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Bổn sanh, Vị tằng
hữu pháp, Quảng thuyết. Vị ấy không như thật quán tri : "Đây là Khổ"…,
không như thật quán tri : "Đây là con Đường đưa đến Khổ diệt".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người có sấm không có mưa Ví như, này
các Tỷ-kheo, loại mây có sấm, không có mưa ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo,
hạng người này giống như ví dụ ấy.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người có mưa, không có sấm ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người không có học thuộc lòng Pháp, như Khế kinh, Ứng tụng, … Quảng
thuyết. Vị ấy như thật quán tri : "Đây là Khổ"… như thật quán
tri : "Đây là con Đường đưa đến Khổ diệt". Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là hạng người có mưa, không có sấm. Ví như, này các Tỷ-kheo,
loại mây chỉ có mưa, không có sấm ấy. Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng
người này giống như ví dụ ấy.
5. Và này các Tỷ kheo, thế nào là
hạng người không có sấm và không có mưa ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người không học thuộc lòng Pháp như Khế kinh… Quảng thuyết. Vị ấy
không như thật quán tri : "Đây là Khổ"… không như thật quán tri
: "Đây là con Đường đưa đến Khổ diệt". Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là hạng người không có sấm, không có mưa. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại
mây không có sấm, không có mưa, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người
này giống như ví dụ ấy.
6. Và này các Tỷ kheo, thế nào là
hạng người có sấm và có mưa ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người học thuộc lòng Pháp như Khế kinh… Quảng thuyết. Người ấy như
thật quán tri : "Đây là Khổ"… như thật quán tri : "Đây là
con Đường đưa đến Khổ diệt". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng
người có sấm và có mưa. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại mây có sấm và
có mưa ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ
ấy.
Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người
giống như loại mây này có mặt, hiện hữu ở đời.
(III) (103) CÁI GHÈ
1. - Này các Tỷ-kheo, có bốn loại
ghè này. Thế nào là bốn ?
Trống và bịt ; đầy và mở ; trống
và mở ; đầy và bịt. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại ghè này.
2. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, có bốn
hạng người được ví như các loại ghè này có mặt, hiện hữu ở đời.
Thế nào là bốn ?
Trống và bịt, đầy và mở, trống
và mở, đầy và bịt.
3. Và này các Tỳ-kheo, thế nào là
hạng người trống và bịt ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người có thái độ khả ái, khi đi tới đi lui, khi ngó phía trước, ngó
hai bên, khi co tay duỗi tay, khi mang áo tăng-già-lê, bình bát và y, Vị ấy
không như thật quán tri : "Đây là Khổ"… không như thật quán tri
:"Đây là con Đường đưa đến Khổ diệt". Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là hạng người trống và bịt. Ví như, này các Tỷ-kheo, các ghè trống
và bịt ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ
ấy.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người đầy và mở ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người không có thái độ dễ thương, khi đi tới đi lui, khi ngó phía trước,
ngó hai bên, khi co tay duỗi tay, khi mang áo tăng-già-lê, bình bát và y, Vị
ấy như thật quán tri : "Đây là Khổ"… như thật quán tri : "Đây
là con Đường đưa đến Khổ diệt". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng
người đầy và mở. Ví như, này các Tỷ-kheo, các ghè đầy và mở ấy,
Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người trống và mở ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người không có thái độ dễ thương, khi đi tới đi lui, khi ngó phía trước,
ngó hai bên, khi co tay duỗi tay, khi mang áo tăng-già-lê, bình bát và y, Vị
ấy không như thật quán tri : "Đây là Khổ"… không như thật quán
tri : "Đây là con Đường đưa đến Khổ diệt". Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là hạng người trống và mở, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người
này giống như ví dụ ấy.
6. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người đầy và bịt ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người có thái độ dễ thương, khi đi tới, đi lui, khi ngó phía trước,
ngó hai bên, khi co tay, duỗi tay, khi mang áo tăng-già-lê, mang y bát, vị ấy
như thật quán tri : "Đây là Khổ"… như thật quán tri : "Đây
là con Đường đưa đến Khổ diệt". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng
người đầy và bịt. Ví như, này các Tỷ-kheo, các ghè đầy và bịt ấy,
Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.
Này các Tỷ-kheo, bốn hạng người
giống như các loại ghè này có mặt, hiện hữu ở đời.
(IV) (104) HỒ NƯỚC (1)
- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại hồ
nước này. Thế nào là bốn ? Cạn nhưng có vẻ sâu, sâu nhưng thấy cạn,
cạn và thấy cạn, sâu và thấy sâu. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại hồ nước
này…
(V) (105) CÁC HỒ NƯỚC (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, có bốn loại
hồ nước này. Thế nào là bốn ? Cạn có vẻ sâu, sâu có vẻ cạn, cạn
có vẻ cạn, sâu có vẻ sâu. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại hồ nước này.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn
hạng người được ví dụ với hồ nước này có mặt, hiện hữu ở đời.
Thế nào là bốn ?
Cạn có vẻ sâu, sâu có vẻ cạn.
Cạn có vẻ cạn, sâu có vẻ sâu.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người cạn có vẻ sâu ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người có thái độ khả ái… (như kinh 103, từ số 3 cho đến số 6).
(VI) (106) CÁC TRÁI XOÀI
1. - Này các Tỷ-kheo, có bốn loại
xoài này. Thế nào là bốn ?
Chưa chín có vẻ chín, chín có vẻ
chưa chín, chưa chín có vẻ chưa chín, chín có vẻ chín, Này các Tỷ-kheo,
có bốn loại xoài này.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn
hạng người được ví dụ với bốn loại xoài này. Thế nào là bốn
(như kinh 103, từ số 3 đến số 6).
(VII) (107) CÁC LOẠI CHUỘT
1. - Này các Tỷ-kheo, có bốn loại
chuột này. Thế nào là bốn ?
Đào hang không ở, ở không đào
hang, không đào hang không ở, có đào hang có ở. Này các Tỷ-kheo, có bốn
loại chuột này.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn
hạng người được ví dụ với các loại chuột này có mặt, hiện hữu
ở đời. Thế nào là bốn ?
Đào hang không ở, ở không đào
hang, không đào hang không ở, có đào hang có ở. Này các Tỷ-kheo, có bốn
hạng người này.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người có đào hang, nhưng không ở ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người thuộc lòng Pháp như Khế kinh… Quảng thuyết. Vị ấy không như thật
quán tri : "Đây là Khổ"… "Đây là con Đường đưa đến Khổ
diệt". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người đào hang, nhưng không
ở. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại chuột có đào hang, nhưng không ở ấy,
Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví dụ ấy.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người có ở, không đào hang ? (xem như kinh 102).
(VIII) (108) CÁC LOẠI BÒ ĐỰC
1. - Này các Tỷ-kheo, có bốn loại
bò đực này. Thế nào là bốn ?
Hung dữ với đàn bò của mình,
không hung dữ với đàn bò của người ; hung dữ với đàn bò của người,
không hung dữ với đàn bò của mình ; hung dữ với đàn bò của mình, hung
dữ với đàn bò của người ; không hung dữ với đàn bò của mình, không
hung dữ với đàn bò của người. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại bò đực
này.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn
hạng người được ví như các loại bò đực này, có mặt, hiện hữu ở
đời. Thế nào là bốn ?
Hạng người hung dữ với đàn bò
của mình, không hung dữ với đàn bò của người ; hạng hung dữ với đàn
bò của người, không hung dữ với đàn bò của mình ; hạng hung dữ với
đàn bò của mình và hung dữ với đàn bò của người ; hạng không hung dữ
với đàn bò của mình, không hung d74 với đàn bò của người.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người hung dữ với đàn bò của mình, không hung dữ với đàn bò của
người ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người là một khiếp đảm cho hội chúng của mình, không là một khiếp
đảm cho hội chúng của người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người
hung dữ với đàn bò của mình, không hung dữ với đàn bò của người. Ví
như, này các Tỷ-kheo, loại bò đực hung dữ với đàn bò của mình, không
hung dữ với đàn bò của người ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng
người này giống như ví dụ ấy.
4. Thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng
người hung dữ với đàn bò của người, không hung dữ với đàn bò của
mình ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người là một khiếp đảm cho hội chúng của người, không là một khiếp
đảm cho hội chúng của mình. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người
hung dữ với đàn bò của người, không hung dữ với đàn bò của mình.
Ví như, này các Tỷ-kheo, loại bò đực hung dữ với đàn bò của người,
không hung dữ với đàn bò của mình ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng
người này giống như ví dụ ấy.
5. Thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng
người hung dữ với đàn bò của mình, hung dữ với đàn bò của người ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người là một khiếp đảm cho hội chúng của mình và cho hội chúng của
người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người… (như trên)… giống
như ví dụ ấy.
6. Thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng
người không hung dữ với đàn bò của mình và không hung dữ với đàn bò
của người ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người không là một khiếp đảm cho đàn bò của mình, không là một khiếp
đảm cho đàn bò của người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người
không hung dữ với đàn bò của mình, không hung dữ với đàn bò của người.
Ví như, này các Tỷ-kheo, loại bò đực không hung dữ với đàn bò của
mình và không hung dữ với đàn bò của người. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng,
người này giống như ví dụ ấy.
Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người
được ví dụ với các loại bò đực này, có mặt, hiện hữu ở đời.
(IX) (109) CÁC CÂY
1.- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại
cây này. Thế nào là bốn ?
Có giác cây, bao vây với giác cây
; có giác cây bao vây với lõi cây ; có lõi cây bao vây với giác cây ; có
lõi cây bao vây với lõi cây. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại cây này.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn
hạng người được ví dụ như bốn loại cây này có mặt, hiện hữu ở
đời. Thế nào là bốn ?
Hạng người là giác cây, bao vây với
giác cây ; hạng người là giác cây, bao vây với lõi cây ; hạng người là
lõi cây, bao vây với giác cây ; hạng người là lõi cây, bao vây với lõi
cây.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người là giác cây bao vây với giác cây ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người ác giới, theo ác pháp, hội chúng người ấy cũng ác giới, theo ác
pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người giác cây bao vây với
giác cây. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại cây là giác cây, bao vây với
giác cây ấy. Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví
dụ ấy.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người là giác cây bao vây với lõi cây ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người ác giới, theo ác pháp, hội chúng người ấy có giới, theo thiện
pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người giác cây bao vây với lõi
cây. Ví như… giống như ví dụ ấy.
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người là lõi cây bao vây với giác cây ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người có giới, theo thiện pháp, nhưng hội chúng của người ấy theo ác
giới, ác pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người lõi cây bao vây
với giác cây. Ví như… giống như ví dụ ấy.
6. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người là lõi cây bao vây với lõi cây ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người có giới, theo thiện pháp, hội chúng người ấy cũng có giới, theo
thiện pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người có lõi cây bao vây
với lõi cây. Ví như, này các Tỷ-kheo, là hạng người lõi cây bao vây với
lõi, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví dụ ấy.
Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người
giống như ví dụ các cây này, có mặt hiện hữu ở đời.
(X) (110) CÁC CON RẮN
1. - Này các Tỷ-kheo, có bốn loại
rắn. Thế nào là bốn ?
Loại rắn có nọc độc, nhưng không
ác độc ; loại ác độc nhưng không nọc độc ; loại có nọc độc và
ác độc ; loại không có nọc độc, không có ác độc. Này các Tỷ-kheo,
có bốn loại rắn độc này.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn
hạng người được ví dụ với các loại rắn này có mặt, hiện hữu ở
đời. Thế nào là bốn ?
Hạng người có nọc độc nhưng không
ác độc ; hạng người ác độc nhưng không nọc độc ; hạng người có nọc
độc, có ác độc ; hạng người không có nọc độc, không có ác độc.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người có nọc độc, nhưng không ác độc ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người rất mau phẫn nộ, nhưng phẫn nộ không tồn tại lâu dài. Như vậy
là hạng người có nọc độc, nhưng không ác độc. Ví như, này các Tỷ-kheo,
loại rắn có nọc độc, nhưng không ác độc ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo,
hạng người này giống như ví dụ ấy.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người có ác độc, nhưng không có nọc độc ?
Ơ ۠đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người không mau phẫn nộ, nhưng phẫn nộ tồn tại lâu dài. Như vậy là
hạng người có ác độc, nhưng không có nọc… giống như ví dụ ấy.
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người có nọc độc và có ác độc ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người rất mau phẫn nộ và phẫn nộ tồn tại lâu dài. Như vậy là hạng
người có nọc độc và có ác độc... giống như ví dụ ấy.
6. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người không có nọc độc và không có ác độc ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người rất mau phẫn nộ và phẫn nộ không tồn tại lâu dài. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là hạng người không có nọc độc, và không có ác độc. Ví
như, này các Tỷ-kheo, loại rắn không có nọc độc, không có ác độc ấy,
Ta nói rằng, hạng người này giống như ví dụ ấy.
Có bốn hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.
XII. PHẨM KESI
(I) (101) KESI
1. Rồi Kesi, người đánh xe điều
phục ngựa đi đến Thế tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế tôn rồi ngồi
xuống một bên. Thế tôn nói với Kesi, người đánh xe điều phục ngựa
đang ngồi một bên :
2. - Này Kesi, Ông là người đánh
xe điều phục ngựa, có chế ngự. Và này Kesi, Ông nhiếp phục ngựa như
thế nào ?
- Bạch Thế tôn, con nhiếp phục ngựa
đáng được điều phục với lời nói mềm mỏng ; con nhiếp phục ngựa
đáng được điều phục với lời thô ác ; con nhiếp phục ngựa đáng
được điều phục với lời nói mềm mỏng và thô ác.
- Này Kesi, nếu con ngựa đáng được
điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, không chịu
nhiếp phục với lời nói thô ác, không chịu nhiếp phục với lời nói mềm
mỏng và thô ác, thời Ông làm gì với con ngựa ấy ?
- Bạch Thế tôn, nếu con ngựa đáng
được điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, không
chịu nhiếp phục với lời nói thô ác, không chịu nhiếp phục với lời
nói mềm mỏng và thô ác của con, thời bạch Thế tôn, con giết nó. Vì
sao ? Vì mong rằng nó không làm mất danh dự cho gia đình thầy của con ! Nhưng
bạch Thế tôn, Thế tôn là bậc Vô thượng, đánh xe điều ngự những ai
đáng được điều ngự, như thế nào Thế tôn nhiếp phục những ai đáng
được điều phục ?
3 - Này Kesi, Ta nhiếp phục người
đáng được nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, Ta nhiếp phục với lời
nói cứng rắn, Ta nhiếp phục với lời nói vừa mềm mỏng, vừa cứng rắn.
Tại đây, này Kesi, đây là với lời
nói mềm mỏng : Đây là thân làm thiện, đây là quả báo thân làm thiện.
Đây là lời nói thiện, đây là quả báo lời nói thiện. Đây là ý nghĩ
thiện, đây là quả báo ý nghĩ thiện, Đây là chư thiện. Đây là loài Người.
Tại đây, này Kesi, đây là với lời
nói cứng rắn : Đây là thân làm ác, đây là quả báo thân làm ác. Đây
là lời nói ác, đây là quả báo lời nói ác. Đây là ý nghĩ ác, đây là
quả báo ý nghĩ ác. Đây là địa ngục. Đây là loài bàng sanh. Đây là loại
ngạ quỷ.
Tại đây, này Kesi, đây là lời
nói vừa mềm mỏng vừa cứng rắn : Đây là thân làm thiện, đây là quả
báo thân làm thiện. Đây là thân làm ác, đây là quả báo thân làm ác. Đây
là lời nói thiện, đây là quả báo lời nói thiện. Đây là lời nói ác,
đây là quả báo lời nói ác. Đây là ý nghĩ thiện, đây là quả báo ý
nghĩ thiện. Đây là ý nghĩ ác, đây là quả báo ý nghĩ ác. Đây là chư
Thiên. Đây là loài Người. Đây là địa ngục. Đây là loài bàng sanh. Đây
là ngạ quỷ.
- Bạch Thế tôn, nếu người đáng
được điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng của
Thế tôn, không chịu nhiếp phục với lời nói cúng rắn, không chịu nhiếp
phục với lời nói mềm mỏng và cúng rắn, thời Thế tôn làm gì với người
ấy ?
- Này Kesi, nếu người đáng được
điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng của Ta, không
chịu nhiếp phục với lời nói cúng rắn, không chịu nhiếp phục với lời
nói vừa mềm mỏng vừa cứng rắn, này Kesi, thời Ta giết hại người ấy
!
4. - Nhưng bạch Thế tôn, sát sanh
không xứng đáng với Thế tôn. Tuy vậy, Thế tôn nói : "Này Kesi, Ta giết
hại người ấy".
- Thất vậy, này Kesi, sát sanh
không xứng đáng với Như Lai. Nhưng người đáng được điều phục ấy
không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, không chịu nhiếp phục với
lời nói cứng rắn, không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng và cứng
rắn, Như Lai nghĩ rằng người ấy không xứng đáng đẻ được nói đến,
để được giáo giới. Và các vị đồng Phạm hạnh có trí nghĩ rằng
người ấy không xứng đáng để được nói đến, để được giáo giới.
Bị giết hại, này Kesi là con người này, trong giới luật của bậc
Thánh, bị Như Lai nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được
giáo giới, bị các vị đồng Phạm hạnh có trí nghĩ rằng không đáng
được nói đến, không đáng được giáo giới.
- Bạch Thế tôn, người ấy bị bậc
Thiện Thệ giết hại là người nào bị Như Lai nghĩ rằng không xứng đáng
được nói đến, không xứng đáng được giáo giới, bị các vị đồng
Phạm hạnh có trí nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được
giáo giới. Thật vi diệu thay, bạch Thế tôn ! Thật vi diệu thay, bạch Thế
tôn ! … bắt đầu từ nay, mong Thế tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ, cho
đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(II) (112) TỐC ĐỘ
1. - Thành tựu với bốn chi phần,
này các Tỷ-kheo, một con ngựa thuần thục hiền thiện của vua, xứng đáng
cho nhà vua, là vật sở hữu của vua, được xem là biểu tượng của vua.
Thế nào là bốn ? Với trực tánh, với tốc độ, với nhẫn nhục, với
thiện ngôn.
Thành tựu với bốn chi phần này,
này các Tỷ-kheo, một con ngựa thuần thục, hiền thiện của vua, xứng đáng
cho nhà vua, là vật sở hữu của vua, được xem là biểu tượng của vua.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
thành tựu với bốn pháp, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính, xứng đáng
được tôn trọng, xứng đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng
ở đời. Thế nào là với bốn ? Với trực tánh, với tốc độ, với kham
nhẫn, với thiện ngôn.
Thành tựu với bốn pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính, xứng đáng được tôn
trọng, xứng đáng được chắp tay, xứng đáng được cúng dường, là ruộng
phước vô thượng ở đời.
(III) (113) GẬY THÚC NGỰA
1. - Có bốn loài ngựa hiền thiện
thuần thục này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào
là bốn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loài
ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa liền bị dao
động, kích thích nghĩ rằng : "Hôm nay, người đánh xe điều ngự ngựa
sẽ bảo ta làm gì, và ta đáp ứng thế nào ?" Như vậy, này các Tỷ-kheo,
ở đây là loại ngựa hiền thiện thuần thục. Này các Tỷ-kheo, đây là
loại ngựa hiền thiện thuần thục thứ nhất, có mặt, hiện hữu ở đời.
2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa,
không bị dao động, kích thích. Nhưng khi bị gậy thúc ngựa đâm vào
lông, nó liền bị dao động, kích thích, nghĩ rằng : "Hôm nay, người
đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm gì, và ta đáp ứng thế nào
?" Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là loài ngựa hiền thiện thuần
thục. Này các Tỷ-kheo, đây là loài ngựa hiền thiện thuần thục thứ
hai, có mặt, hiện hữu ở đời.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa,
không bị dao động, kích thích. Khi bị gậy thúc ngựa đâm vào lông, nó
không bị dao động, kích thích. Nhưng khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào
thịt, liền bị dao động, kích thích, nghĩ rằng : "Hôm nay, người đánh
xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm gì và ta đáp ứng thế nào ?" Như
vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là loài ngựa hiền thiện, thuần thục.
Này các Tỷ-kheo, đây là loài ngựa hiền thiện thuần thục thứ ba, có mặt,
hiện hữu ở đời.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa,
không bị dao động, kích thích ; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào lông,
không bị dao động, kích thích ; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào thịt,
không bị dao động, kích thích ; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào xương, bị
dao động, kích thích, nghĩ rằng : "Hôm nay, người đánh xe điều ngự
ngựa sẽ bảo ta làm gì và ta đáp ứng thế nào ?" Như vậy, này các
Tỷ-kheo, ở đây là loài ngựa hiền thiện, thuần thục. Này các Tỷ-kheo,
đây là loài ngựa hiền thiện, thuần thục thứ tư, có mặt, hiện hữu
ở đời.
Này các Tỷ-kheo, có bốn loài ngựa
hiền thiện, thuần thục, có mặt, hiện hữu ở đời.
5. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn
hạng người hiền thiện, thuần thục này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế
nào là bốn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người hiền thiện, thuần thục nghe tại một làng hay thị trấn kia, có
người đàn bà hay người đàn ông bị khổ đau hay bị mạng chung ; người
ấy do vậy bị dao động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lý tinh cần.
Do tinh cần, với thân, vị ấy chứng ngộ được tối thắng sự thật ; với
trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví như, này
các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện, thuần thục ấy, thấy bóng cây gậy
thúc ngựa, bị dao động kích thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người
hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
ở đây có hạng người hiền thiện. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người
hiền thiện thuần thục thứ nhất có mặt, hiện hữu ở đời.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có hạng người hiền thiện, thuần thục không có nghe tại một làng
hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị đau khổ hay bị
mệnh chung, nhưng khi tự mình thấy người đàn bà hay người đàn ông khổ
đau hay mệnh chung, người ấy do vậy bị dao động, kích thích. Bị kích
thích, vị ấy như lý tinh cần. Do tinh cần, với thân, vị ấy chứng ngộ
được sự thật tối thắng ; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy
được sự thật ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện thuần
thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào da, bị dao động, kích
thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người hiền thiện thuần thục này
giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người
hiền thiện. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người hiền thiện thuần thục
thứ hai có mặt, hiện hữu ở đời.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có hạng người hiền thiện, thuần thục không có nghe tại một làng
hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị khổ đau hay bị
mệnh chung, không có tự mình thấy người đàn bà hay người đàn ông khổ
đau hay mệnh chung. Nhưng, khi có một người bà con hay người đồng một
huyết thống khổ đau hay bị mệnh chung, người ấy do vậy bị dao động,
kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lý tinh cần. Do tinh cần, với thân
vị ấy chứng ngộ được sự thật tối thắng ; với trí tuệ, vị ấy
sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, con
ngựa hiền thiện thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào thịt,
bị dao động, kích thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người hiền
thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
ở đây có hạng người hiền thiện. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người
hiền thiện thuần thục thứ ba có mặt, hiện hữu ở đời.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có hạng người hiền thiện thuần thục không có nghe tại một làng
hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị khổ đau hay mệnh
chung, không có tự mình thấy người đàn bà hay người đàn ông khổ đau
hay bị mệnh chung, không có người bà con hay người đồng một huyết thống
khổ đau hay bị mệnh chung. Nhưng khi tự mình cảm xúc những cảm thọ về
thân khổ đau, nhói đau, chói đau, mãnh liệt, kịch liệt, không phải khả
hỷ, không khả ý, đoạt mạng sống, vị ấy bị dao động, kích thích. Bị
kích thích, vị ấy như lý tinh cần. Do tinh cần, với thân, vị ấy chứng
ngộ được sự thật tối thắng ; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập,
thấy được sự thật ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện
thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào xương mới bị dao động,
kích thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người hiền thiện thuần thục
này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người
hiền thiện thuần thục. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người hiền thiện
thuần thục thứ tư có mặt, hiện hữu ở đời.
Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người
hiền thiện thuần thục này có mặt, hiện hữu ở đời.
(IV) (114) CON VOI
1. - Thành tựu bốn chi phần này,
này các Tỷ-kheo, con voi của vua xứng đáng cho vua, là tài sản của Vua,
được xem là biểu tượng của vua. Thế nào là bốn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi của
vua biết nghe, biết sát hại, biết nhẫn, biết đi đến.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
con voi của vua biết nghe ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi của
vua, khi người nài sai làm một công tác, hoặc đã làm từ trước hay chưa
làm từ trước, sau khi nhiệt tâm tác ý, hoàn toàn chú tâm lóng tai và lắng
nghe. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết nghe.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
con voi của vua biết sát hại ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi của
vua sau khi đi đến chiến trận, giết voi, giết người cưỡi voi, giết ngựa,
giết người cưỡi ngựa, giết hại xe, giết hại người cưỡi xe, giết
các bộ binh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết sát hại.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
con voi của vua biết kham nhẫn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi của
vua sau khi đi đến chiến trường, chịu đựng cây giáo đâm, chịu đựng
kiếm chém, chịu đựng tên bắn, chịu đựng búa chặt, chịu đựng tiếng
trống lớn, tiếng thanh la, tiếng tù và, tiếng trống nhỏ và các tiếng
ồn ào khác. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết kham nhẫn.
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
con voi của vua biết đi đến ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi của
vua, khi người nài sai đi đến hướng nào, hoặc trước kia đã có đi hay
trước kia không có đi, liền đi đến chỗ ấy một cách mau mắn. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết đi đến.
Thành tựu với bốn pháp này, này
các Tỷ-kheo, là con voi của vua xứng đáng là của vua, là tài sản của
vua, đi đến làm biểu tượng của vua.
6. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
thành tựu với bốn pháp, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính, xứng đáng
được tôn trọng, xứng đáng được chắp tay, xứng đáng được cúng dường,
là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là bốn ? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết nghe, biết sát hại, biết nhẫn, biết đi đến.
7. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo biết nghe ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi Pháp và Luật do Như Lai thuyết được thế thuyết giảng, sau khi nhiệt
tâm tác ý hoàn toàn, chú tâm và lắng nghe. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
Tỷ-kheo biết nghe.
8. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo biết sát hại ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không có chấp nhận dục tầm đã khởi lên, từ bỏ, gạn lọc, chấm dứt,
làm cho không hiện hữu, không có chấp nhận sân tầm đã khởi lên …
không có chấp nhận hại tầm đã khởi lên, từ bỏ, gạn lọc, chấm dứt,
làm cho không hiện hữu. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết sát hại.
9. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo biết kham nhẫn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
kham nhẫn lạnh, kham nhẫn nóng, kham nhẫn đói, khát, sự xúc chạm của ruồi,
muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát, kham nhẫn những cách
nói chửi mắng, phỉ báng, chịu đựng các cảm thọ về thân, khổ đau,
nhói đau, mãnh liệt, không khả hỷ, không khả ý, chết điếng người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết kham nhẫn.
10. Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là Tỷ-kheo biết đi ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
theo phương hướng nào từ trước chưa từng đi, tại đấy, mọi hành được
chỉ tịnh, mọi sanh y được từ bỏ, ái được đoạn diệt. Niết-bàn, vị
ấy đi đến chỗ ấy một cách mau chóng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
biết đi.
Thành tựu với bốn pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính, xứng đáng được tôn
trọng, xứng đáng được chắp tay, xứng đáng được cúng dường, là ruộng
phước vô thượng ở đời.
(V) (115) CÁC TRƯỜNG HỢP
- Này các Tỷ-kheo, có bốn trường
hợp này. Thế nào là bốn ?
Có trường hợp, này các Tỷ-kheo,
làm không thích ý, đưa đến không lợi ích cho người làm. Có trường hợp,
này các Tỷ-kheo, làm không thích ý, đưa đến lợi ích cho người làm. Có
trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm được thích ý, không đưa đến lợi
ích cho người làm. Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm được thích ý,
đưa đến lợi ích cho người làm.
2. Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường
hợp này làm không thích ý; không đem lại lợi ích cho người làm; trong trường
hợp này, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện không nên
làm. Trường hợp này làm không thích ý, đây là trường hợp nghĩ rằng
không nên làm. Trường hợp làm không đem lại lợi ích cho người làm, đây
là trường hợp nghĩ rằng không nên làm. Đây là trường hợp, này các Tỷ-kheo,
nghĩ rằng về cả hai phương diện không nên làm.
3. Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường
hợp này làm không thích ý, nhưng đem lại lợi ích cho người làm; trong trường
hợp này, này các Tỷ-kheo, người ta có thể biết kẻ ngu, bậc trí, về sức
kiên trì của con người, tinh tấn của con người, nỗ lực của con người.
Và này các Tỷ-kheo, người ngu không suy xét rằng : "Dầu trường hợp
này không thích ý, nhưng trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm".
Người ấy không làm trường hợp này. Do không làm trường hợp này, nên
không đưa lại lợi ích cho người ấy. Còn người trí, này các Tỷ-kheo,
suy xét rằng : "Dầu trường hợp này làm không được thích ý, nhưng
trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm". Người ấy làm trường
hợp này. Do làm trường hợp này, nên đem lại lợi ích cho người ấy.
4. Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường
hợp này làm được thích ý, nhưng không đem lại lợi ích cho người làm;
trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, người ta có thể biết kẻ ngu, bậc
trí, về sức kiên trì của con người, tinh tấn của con người, nỗ lực
của con người. Này các Tỷ-kheo, người ngu không suy xét rằng : "Dầu
trường hợp này, làm được thích ý, nhưng trường hợp này không đem lại
lợi ích cho người làm". Người ấy làm trường hợp này không đem lại
lợi ích cho người làm. Người ấy làm trường hợp này, và trường hợp
này không đem lại lợi ích cho người ấy. Còn người trí, này các Tỷ-kheo,
suy xét như sau : "Dầu trường hợp này làm được thích ý, nhưng không
đem lại lợi ích cho người làm". Vị ấy không làm trường hợp này,
do không làm trường hợp này, nên đem lại lợi ích cho người ấy.
5. Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường
hợp này làm được thích ý, và đem lại lợi ích cho người làm; trong trường
hợp này, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện đều nên
làm. Trường hợp này, làm được thích ý, đây là trường hợp nghĩ rằng
cần phải làm. Trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm, đây là
trường hợp nghĩ rằng cần phải làm. Trường hợp này, này các Tỷ-kheo,
nghĩ rằng về cả hai phương diện đều phải làm.
Này các Tỷ-kheo, có bốn trường hợp
này.
(VI) (116) KHÔNG PHÓNG DẬT
1. - Trong bốn trường hợp, này
các Tỷ-kheo, cần phải không phóng dật. Thế nào là bốn ?
Hãy từ bỏ thân làm ác, này các Tỷ-kheo,
hãy tu tập thân làm lành, và ở đây chớ có phóng dật. Hãy từ bỏ lời
nói ác, này các Tỷ-kheo, hãy tu tập lời nói lành, và ở đây chớ có
phóng dật. Hãy từ bỏ ý nghĩ ác, này các Tỷ-kheo, hãy tu tập ý nghĩ lành,
và ở đây chớ có phóng dật. Hãy từ bỏ tà kiến, này các Tỷ-kheo, hãy
tu tập chánh kiến, và ở đây chớ có phóng dật.
2. Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã từ bỏ thân làm ác, tu tập thân làm lành … (như trên) … đã từ bỏ
tà kiến, đã tu tập chánh kiến, vị ấy không sợ hãi về đời sau, về
chết.
(VII) (117) HỘ TRÌ
1. - Trong bốn trường hợp, này
các Tỷ-kheo, không phóng dật, niệm và tâm hộ trì cần phải làm do tự
mình. Thế nào là bốn ?
Với ý nghĩ : "Mong rằng đối
với các pháp khiến cho tham đắm, tâm ta chớ có tham đắm !", không
phóng dật, niệm và tâm hộ trì cần phải làm do tự mình. Với ý nghĩ :
"Mong rằng đối với các pháp khiến cho sân hận, tâm ta chớ có sân hận
!", không phóng dật, niệm … do tự mình. Với ý nghĩ : "Mong rằng
đối với các pháp khiến cho si mê, tâm ta chớ có si mê !", không
phóng dật, niệm … do tự mình. Với ý nghĩ : "Mong rằng đối với các
pháp khiến cho say đắm, tâm ta chớ có say đắm !", không phóng dật,
niệm và tâm hộ trì cần phải làm do tự mình.
2. Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đối với các pháp khiến cho tham đắm, tâm không tham đắm, tự ngã được
ly tham; đối với các pháp khiến cho sân hận, tâm không sân hận, tự ngã
được ly sân đối với các pháp khiến cho si mê, tâm không si mê, tự ngã
được ly si ; đối với các pháp khiến cho say đắm, tâm không say đắm, tự
ngã được ly đắm say; thời vị ấy không có sợ hãi, không có dao động,
không có hốt hoảng, không rơi vào hoảng sợ, không có đi do nhân các
Sa-môn có nói gì.
(VIII) (118) XÚC ĐỘNG
1. - Có bốn trú xứ, này các Tỷ-kheo,
khi một tín nam thấy cần phải xúc động mãnh liệt. Thế nào là bốn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai
sanh. Đây là trú xứ khi một tín nam thấy, cần phải xúc động mãnh liệt.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai đã giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.
Đây là trú xứ khi một tín nam thấy, cần phải xúc động mãnh liệt. Ở
đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai chuyển pháp luân vô thượng. Đây là trú xứ
khi một tín nam thấy, cần phải xúc động mãnh liệt. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Như Lai đã nhập Niết-bàn giới, không có dư. Đây là trú xứ khi một
tín nam thấy, cần phải xúc động mãnh liệt.
Có bốn trú xứ, này các Tỷ-kheo,
khi một tín nam thấy cần phải xúc động mãnh liệt.
(IX) (119) SỢ HÃI (1)
- Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sợ
hãi này. Thế nào là bốn ? Sợ hãi về sanh, sợ hãi về già, sợ hãi về
bệnh, sợ hãi về chết.
- Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sợ
hãi này.
(X) (120) SỢ HÃI (2)
- Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sợ
hãi này. Thế nào là bốn ? Sợ hãi về lửa, sợ hãi về nước, sợ hãi
về vua, sợ hãi về ăn trộm.
- Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sợ
hãi này.
XIII. PHẨM SỢ HÃI
(I) (121) TỰ TRÁNH
1. - Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sợ
hãi này. Thế nào là bốn ? Sợ hãi tự mình trách, sợ hãi người khác
trách, sợ hãi hình phạt, sợ hãi ác thú.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự
sợ hãi tự mình trách ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người suy xét : "Nếu thân ta làm ác, lời nói ta ác, ý nghĩa ta ác, thời
tự ngã có thể trách ta về phương diện giới : "Sao lại làm nghiệp
ấy ?". Người ấy do sợ hãi tự trách, đoạn tận thân làm ác, tu tập
thân làm lành, đoạn tận lời nói ác, tu tập lời nói lành, đoạn tận
ý nghĩ ác, tu tập ý nghĩ lành; sống tự ngã trong sạch. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là sợ hãi tự trách.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
sợ hãi về người khác trách ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người suy xét : "Nếu thân ta làm ác, lời nói ta ác, ý nghĩ ta ác, thời
người khác có thể trách ta về phương diện giới : "Sao lại làm nghiệp
ấy ?". Người ấy do sợ hãi người khác trách, đoạn tận thân làm
ác, tu tập thân làm lành, đoạn tận lời nói ác, tu tập lời nói lành,
đoạn tận ý nghĩ ác, tu tập ý nghĩ lành; sống tự ngã trong sạch. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là sợ hãi người khác trách.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sợ
hãi hình phạt ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
thấy vua chúa khi bắt được người ăn trộm, kẻ đi cướp đường, liền
áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy,
họ đánh bằng côn, họ chặt tay, họ chặt chân, họ chặt tay chân, họ xẻo
tai, họ cắt mũi, họ dùng hình phạt vạc dầu, họ dùng hình phạt bối
đồi hình (xẻo đỉnh đầu thành hình con sò), họ dùng hình phạt la hầu
khẩu hình (lấy xương và thịt cho rộng ra, rồi đổ dầu sôi vào miệng),
hỏa man hình (lấy lửa đốt thành vòng hoa), đốt tay, lấy rơm bện lại
rồi siết chặt, lấy vỏ cây làm áo, hình phạt con dê núi, lấy câu móc
vào thịt, quẳng sắt chảy trên thân đầy vết thương rồi chà mạnh,
chuyển hình (bắt nằm dưới đất, đâm một gậy sắt qua hai lỗ tai rồi
xoay tròn), cao đạp đài (lột da phần trên, lấy chày giã cho nát thân). Họ
tưới bằng dầu sôi, họ cho chó ăn, họ đóng cọc những người sống, họ
lấy gương chặt đầu. Người ấy suy nghĩ như sau : "Do nhân làm các
nghiệp ác như vậy, các vua chúa khi bắt được người ăn trộm, kẻ đi
cướp đường, liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác … họ lấy gươm
chặt đầu". Người ấy vì sợ hãi sự sợ hãi hình phạt, không có
đi ăn trộm, cướp tài sản người khác.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sự
sợ hãi hình phạt.
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
sự sợ hãi ác thú ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người suy nghĩ như sau : "Với ai thân làm ác, có ác dị thục trong tương
lai, với ai lời nói ác … với ai ý nghĩ ác, có ác dị thục trong tương
lai. Làm thế nào cho ta sau khi thân hoại mạng chung, không có sanh tại cõi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục ?". Người ấy vì sợ hãi ác thú,
đoạn tận thân làm ác, tu tập thân làm lành; đoạn tận lời nói ác, tu
tập lời nói lành; đoạn tận ý nghĩ ác, tu tập ý nghĩ lành; sống với
tự ngã trong sạch. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sợ hãi ác thú.
Này các Tỷ-kheo, có bốn sợ hãi
này.
(II) (122) SÓNG BIỂN
1. - Có bốn sự sợ hãi này, này
các Tỷ-kheo, được chờ đợi với người đi xuống nước. Thế nào là bốn
? Sợ hãi về sóng, sợ hãi về cá sấu, sợ hãi về nước xoáy, sợ hãi
về cá dữ. Có bốn sự sợ hãi này, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi với
người đi xuống nước.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở
đây, đối với một số thiện nam tử đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình trong Pháp và Luật này, có bốn sự sợ hãi được chờ đợi.
Thế nào là bốn ? Sợ hãi về sóng, sợ hãi về cá sấu, sợ hãi về nước
xoáy, sợ hãi về cá dữ.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
sợ hãi về sóng ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có thiện
nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vị
ấy suy nghĩ như sau : "Ta nay bị sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não
áp bức, bị khổ áp bức, bị khổ chi phối. Tuy vậy, ta mong có thể thấy
được sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này". Khi được xuất gia như
vậy, vị này được các vị đồng Phạm hạnh giảng dạy, khuyên giáo :
"Thầy cần phải đi ra như vậy, Thầy cần phải đi về như vậy, Thầy
cần phải ngó tới như vậy, Thầy cần phải ngó quanh như vậy. Thầy cần
phải co tay như vậy, Thầy cần phải duỗi tay như vậy, Thầy cần phải
mang y sanghati như vậy, mang bát y như vậy". Vị ấy suy nghĩ như sau :
"Trước kia, khi chúng ta chưa xuất gia, chính chúng ta giảng dạy,
khuyên giáo người khác. Những người này giống như con chúng ta, giống như
cháu chúng ta, lại nghĩ rằng cần phải giảng dạy chúng ta, cần phải
khuyên giáo chúng ta". Vị ấy phẫn nộ, không hoan hỷ, từ bỏ học tập
và trở về hoàn tục. Như vậy, này các Tỷ-kheo, người này được gọi
là vị Tỷ-kheo sợ hãi về sóng.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
sợ hãi về cá sấu ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có thiện
nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vị
ấy suy nghĩ như sau : "Ta nay bị sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não
áp bức, bị khổ áp bức, bị khổ chi phối. Tuy vậy, ta mong có thể thấy
được sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này". Khi được xuất gia như
vậy, vị này được các vị đồng Phạm hạnh giảng dạy, khuyên giáo :
"Thầy cần phải nhai cái này, Thầy không nên nhai cái này; Thầy nên
ăn cái này, Thầy không nên ăn cái này; Thầy nên nếm cái này, Thầy
không nên nếm cái này; Thầy nên uống cái này, Thầy không nên uống cái
này; cái gì Thầy được phép, Thầy nên nhai, cái gì Thầy không được phép,
Thầy không nên nhai; cái gì được phép, Thầy nên ăn, cái gì không được
phép, Thầy nên ăn; cái gì được phép, Thầy nên nếm, cái gì không được
phép, Thầy nên nếm; cái gì được phép, Thầy nên uống, cái gì không
được phép, Thầy nên uống ; đúng thời Thầy nên nhai, không đúng thời
Thầy không nên nhai; đúng thời Thầy nên ăn, không đúng thời Thầy không
nên ăn; đúng thời Thầy nên nếm, không đúng thời Thầy không nên nếm;
đúng thời Thầy nên uống, không đúng thời Thầy không nên uống". Vị
ấy suy nghĩ như sau : "Trước kia, khi chúng ta chưa xuất gia, cái gì
chúng ta muốn, chúng ta nhai, cái gì chúng ta không muốn, chúng ta không nhai.
Cái gì chúng ta muốn, chúng ta ăn, cái gì chúng ta không muốn, chúng ta
không ăn. Cái gì chúng ta muốn, chúng ta nếm, cái gì chúng ta không muốn,
chúng ta không nếm. Cái gì chúng ta muốn, chúng ta uống, cái gì chúng ta
không muốn, chúng ta không uống. Cái gì được phép, chúng ta nhai, cái gì
không được phép, chúng ta cũng nhai. Cái gì được phép, chúng ta ăn, cái
gì không được phép, chúng ta cũng ăn. Cái gì được phép, chúng ta nếm,
cái gì không được phép, chúng ta cũng nếm. Cái gì được phép, chúng ta
uống, cái gì không được phép, chúng ta cũng uống. Cái gì đúng thời,
chúng ta nhai, cái gì không đúng thời, chúng ta nhai. Cái gì đúng thời,
chúng ta ăn, cái gì không đúng thời, chúng ta ăn. Cái gì đúng thời,
chúng ta nếm, cái gì không đúng thời, chúng ta nếm. Cái gì đúng thời,
chúng ta uống, cái gì không đúng thời, chúng ta uống. Khi các gia đình có
tín tâm cúng dường chúng ta ban ngày, phi thời, những món ăn thượng vị
loại cứng và loại mềm, hình như những món này, chúng ta bị chận đứng
lại trên miệng". Như vậy, vị ấy từ bỏ học tập và trở về
hoàn tục. Sợ hãi về cá sấu, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với tham
ăn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sự sợ hãi về cá sấu.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sợ
hãi về nước xoáy ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có thiện
nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vị
ấy suy nghĩ như sau : "Ta nay bị sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não
áp bức, bị khổ áp bức, bị khổ chi phối. Tuy vậy, ta mong có thể thấy
được sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này". Khi được xuất gia như
vậy, vị này buổi sáng đắp y, tay cầm y bát, đi vào làng hay thị trấn
để khất thực, không phòng hộ thân, không phòng hộ lời, không phòng hộ
tâm, niệm không an trú, các căn không phòng hộ, hưởng thụ được cung cấp
đầy đủ, được thực hiện năm dục trưởng dưỡng và cảm thấy hoan hỷ
trong ấy. Vị này suy nghĩ như sau : "Chúng ta xưa kia chưa xuất gia đã
hưởng thọ, được cung cấp đầy đủ, được thực hiện năm dục trưởng
dưỡng và cảm thấy hoan hỷ trong đó. Vì nhà ta có tài sản, ta có thể vừa
hưởng thị tài sản, vừa làm các công đức". Vị ấy từ bỏ học tập
và trở về hoàn tục. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là vị Tỷ-kheo bị
sợ hãi bởi sự sợ hãi về nước xoáy, từ bỏ học tập, trở về hoàn
tục. Này các Tỷ-kheo, sợ hãi về nước xoáy là đồng nghĩa với năm dục
trưởng dưỡng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sự sợ hãi về nước xoáy.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sợ
hãi về cá dữ ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có thiện
nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vị
ấy suy nghĩ như sau : "Ta nay bị sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não
áp bức, bị khổ áp bức, bị khổ chi phối. Tuy vậy, ta mong có thể thấy
được sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này". Khi được xuất gia như
vậy, vị này buổi sáng đắp y, tay cầm y bát, đi vào làng hay thị trấn
để khất thực, không phòng hộ thân, không phòng hộ lời, không phòng hộ
tâm, niệm không an trú, các căn không chế ngự. Vị này thấy ở đây những
phụ nữ mặc y phục không đoan chánh hay đắp y phục không đoan chánh. Khi
thấy những phụ nữ mặc y phục không đoan chánh hay đắp y phục không
đoan chánh, ái dục phá hoại tâm của vị ấy. Vị này, tâm bị ái dục
phá hoại, từ bỏ học tập, trở về hoàn tục. Này các Tỷ-kheo, đây
được gọi là vị Tỷ-kheo bị sợ hãi bởi sự sợ hãi về cá dữ, từ
bỏ học tập, trở về hoàn tục. Này các Tỷ-kheo, sợ hãi về cá dữ là
đồng nghĩa với phụ nữ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sự sợ hãi về
cá dữ.
Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sợ
hãi này, ở đây, một số thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình trong Pháp và Luật này.
(III) (123) HẠNG NGƯỜI SAI KHÁC (1)
1. - Có bốn hạng người này có mặt,
hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người ly dục, ly pháp bất thiện, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Vị ấy nếm được
vị ngọt của Thiền ấy, ái luyến Thiền ấy và do vậy tìm được an lạc;
an trú trên ấy, chú tâm trên ấy, sống phần lớn với Thiền ấy, không
có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên
ở Phạm chúng thiên. Tại đấy, kẻ phàm phu, sau khi an trú cho đến hết
tuổi thọ ấy, sau khi sống trọn vẹn tuổi thọ của chư Thiên, đi đến
địa ngục, đi đến bàng sanh, đi đến ngạ quỷ. Còn đệ tử Như Lai, tại
đấy, sau khi an trú cho đến hết vẹn tuổi thọ của chư Thiên ấy, nhập
Niết-bàn trong hiện hữu ấy. Này các Tỷ-kheo, đây là sự đặc thù, đây
là sự thù thắng, đây là sự sai khác giữa Thánh đệ tử có nghe pháp
và kẻ phàm phu không nghe pháp, tức là vấn đề sanh thú.
2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có hạng người làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú
Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ,
nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy nếm được vị ngọt của Thiền ấy … được
sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi Quang âm Thiên. Hai kiếp này, này các Tỷ-kheo,
là tuổi thọ vô lượng của chư Thiên ở Quang A⭠thiên. Tại đấy, kẻ
phàm phu, sau khi an trú … Đây là sự đặc thu, đây là sự thù thắng, đây
là sự sai khác giữa Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ phàm phu không nghe
pháp, tức là vấn đề sanh thú.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có hạng người ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự
lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt và an
trú Thiền thứ ba, vị ấy nếm được vị ngọt của Thiền ấy … được
sanh cộng trú với chư Thiên ở Biến tịnh Thiên. Bốn kiếp, này các Tỷ-kheo,
là tuổi thọ vô lượng của chư Thiên ở Biến tịnh Thiên. Tại đấy, kẻ
phàm phu, sau khi an trú … Đây là sự đặc thù, đây là sự thù thắng, đây
là sự sai khác giữa Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ phàm phu không nghe
pháp, tức là vấn đề sanh thú.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có hạng người xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước,
chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Vị ấy nếm được vị ngọt của Thiền ấy, ái luyến Thiền ấy và do vậy
tìm được an lạc; an trú trên ấy, chú tâm trên ấy, sống phần lớn với
Thiền ấy, không có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng
trú với chư Thiên ở Quảng quả Thiên. Năm kiếp, này các Tỷ-kheo, là tuổi
thọ vô lượng các chư Thiên ở Quảng quả Thiên. Tại đấy, kẻ phàm
phu, sau khi an trú cho đến hết tuổi thọ ấy, sau khi sống trọn vẹn tuổi
thọ của chư Thiên, đi đến địa ngục, đi đến bàng sanh, đi đến ngạ
quỷ. Còn đệ tử Như Lai, tại đấy, sau khi an trú cho đến hết vẹn tuổi
thọ của chư Thiên ấy, nhập Niết-bàn trong hiện hữu ấy. Này các Tỷ-kheo,
đây là sự đặc thù, đây là sự thù thắng, đây là sự sai khác giữa
Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ phàm phu không nghe pháp, tức là vấn đề
sanh thú.
Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người
này có mặt, hiện hữu ở đời.
(IV) (124) CÁC HẠNG NGƯỜI SAI KHÁC
(2)
1. - Có bốn hạng người này có mặt,
hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người ly dục, ly ác pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất. Ở đây,
về các pháp thuộc sắc, thuộc thọ, thuộc trưởng, thuộc hành, thuộc thức,
vị ấy tùy quán là vô thường, là khổ, là bệnh, là ung nhọt, là mũi tên,
là bất hạnh, là bệnh hoạn, là hướng ngoại, là hoại diệt, là trống
không, là vô ngã. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh cộng trú
với chư Thiên ở Tịnh cư Thiên. Sự sanh khởi này, này các Tỷ-kheo,
không có chung cùng các hàng phàm phu.
2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có hạng người làm cho tịnh chỉ tầm và tứ … Thiền thứ hai …
Thiền thứ ba … Thiền thứ tư và an trú. Vị ấy, ở đây về các pháp
thuộc sắc, thuộc thọ, thuộc trưởng, thuộc hành, thuộc thức, vị ấy
tùy quán là vô thường, là khổ, là bệnh, là ung nhọt, là mũi tên, là bất
hạnh, là bệnh hoạn, là hướng ngoại, là hoại diệt, là trống không,
là vô ngã. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh cộng trú với
chư Thiên ở Tịnh cư Thiên. Sự sau khi này, này các Tỷ-kheo, không có
chung cùng các hàng phàm phu.
Có bốn hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.
(V) (125) TỪ (1)
1. - Có bốn hạng người này, này
các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người với tâm, cùng khởi với từ, biến mãn một phương rồi an trú; cũng
vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư,
như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ,
cùng khắp vô biên giới. Vị ấy an trú biến mãn với tâm cùng khởi với
từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy nếm được vị
ngọt của Thiền ấy, ái luyến Thiền ấy và do vậy tìm được an lạc;
an trú trên ấy, chú tâm trên ấy, sống phần lớn với Thiền ấy, không
có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên
ở cõi Phạm chúng Thiên. Tại đấy, kẻ phàm phu, sau khi an trú cho đến hết
tuổi thọ ấy, sau khi sống trọn vẹn tuổi thọ của chư Thiên, đi đến
địa ngục, đi đến bàng sanh, đi đến ngạ quỷ. Còn đệ tử Như Lai, tại
đấy, sau khi an trú cho đến hết vẹn tuổi thọ của chư Thiên ấy, nhập
Niết-bàn trong hiện hữu ấy. Này các Tỷ-kheo, đây là sự đặc thù, đây
là sự thù thắng, đây là sự sai khác giữa Thánh đệ tử có nghe pháp
và kẻ phàm phu không nghe pháp, tức là vấn đề sanh thú.
2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có hạng người với tâm cùng khởi với bi … với tâm cùng khởi với
hỷ … với tâm cùng khởi với xả, biến mãn một phương rồi an trú; cũng
vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư,
như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ,
cùng khắp vô biên giới. Vị ấy an trú biến mãn với tâm cùng khởi với
từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy nếm được vị
ngọt của Thiền ấy, ái luyến Thiền ấy và do vậy tìm được an lạc;
an trú trên ấy, chú tâm trên ấy, sống phần lớn với Thiền ấy, không
có thối đọa; khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên
ở cõi Quang âm Thiên. Hai kiếp, này các Tỷ-kheo, là thọ mạng của các chư
Thiên ở Quang âm Thiên … được sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi Biến
tịnh Thiên … được sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi Quảng quả
Thiên. Năm kiếp, này các Tỷ-kheo, là thọ mạng của các chư Thiên ở cõi
Quảng quả Thiên. Tại đấy, kẻ phàm phu, sau khi an trú cho đến hết tuổi
thọ ấy, sau khi sống trọn vẹn tuổi thọ của chư Thiên, đi đến địa
ngục, đi đến bàng sanh, đi đến ngạ quỷ. Còn đệ tử Như Lai, tại đấy,
sau khi an trú cho đến hết vẹn tuổi thọ của chư Thiên ấy, nhập Niết-bàn
trong hiện hữu ấy. Này các Tỷ-kheo, đây là sự đặc thù, đây là sự
thù thắng, đây là sự sai khác giữa Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ
phàm phu không nghe pháp, tức là vấn đề sanh thú.
Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người
này có mặt, hiện hữu ở đời.
(VI) (126) TỪ (2)
- Có bốn hạng người này, này
các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn ?
ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người có tâm cùng khởi với từ … (như kinh 125, 1…) không hận, không
sân. … (như kinh 121, 1…) là vô ngã. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở Tịnh cư Thiên. Này các Tỷ-kheo,
sự sanh khởi này, này các Tỷ-kheo, không có chung cùng các hàng phàm phu.
Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người có mặt, hiện hữu ở đời.
(VII) (127) VI DIỆU (1)
- Này các Tỷ-kheo, khi Như Lai, bậc
A-la-hán, xuất hiện, có bốn pháp vi diệu chưa từng có xuất hiện. Thế
nào là bốn ?
Này các Tỷ-kheo, khi Bồ-tát từ bỏ
thân ở cõi trời Đâu-suất, chánh niệm, tỉnh giác, nhập vào mẫu thai,
khi ấy, một hào quang vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của chư
Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm có thế giới của chư Thiên, thế
giới Ma vương và Phạm thiên, quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và
loài Người. Cho đến những thế giới ở chặng giữa bất hạnh, không
có nền tảng, tối tăm u ám, tại đấy, mặt trăng, mặt trời với đại
thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu ánh sáng.
Trong những cảnh giới ấy, một hào quang vô lượng, thâm diệu thắng xa
uy lực chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh, sanh tại đấy, nhờ hào quang
ấy mới thấy nhau và nói : "Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây".
Này các Tỷ-kheo, khi Như Lai, bậc A-la-hán, xuất hiện, có bốn pháp vi diệu
chưa từng thứ nhất có xuất hiện.
2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi Bồ-tát
chánh niệm tỉnh giác, từ bụng mẹ sanh ra, khi ấy, một hào quang vô lượng,
thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới,
gồm có thế giới của chư Thiên, thế giới Ma vương và Phạm thiên, quần
chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Cho đến những thế giới
ở chặng giữa bất hạnh, không có nền tảng, tối tăm u ám, tại đấy,
mặt trăng, mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng
không thể chiếu thấu ánh sáng. Trong những cảnh giới ấy, một hào quang
vô lượng, thâm diệu thắng xa uy lực chư Thiên hiện ra. Và các chúng
sanh, sanh tại đấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói : "Cũng có
những chúng sanh khác sống ở đây". Này các Tỷ-kheo, khi Như Lai, bậc
A-la-hán, xuất hiện, có bốn pháp vi diệu chưa từng có thứ hai xuất hiện.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi
Như Lai chứng ngộ được vô thượng Chánh Đẳng Giác, khi ấy trong thế
giới chư Thiên … (như kinh 127,2) …"Cũng có những chúng sanh khác sống
ở đây". Này các Tỷ-kheo, khi Như Lai, bậc A-la-hán, xuất hiện, có bốn
pháp vi diệu chưa từng có thứ ba xuất hiện.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi
Như Lai chuyển bánh xe pháp vô thượng, khi ấy trong thế giới chư Thiên..
(như kinh số 127,2 …)"Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây".
Này các Tỷ-kheo, khi Như Lai, bậc A-la-hán, xuất hiện, có bốn pháp vi diệu
chưa từng có thứ tư xuất hiện.
Này các Tỷ-kheo, khi Như Lai, bậc
A-la-hán, xuất hiện, có bốn pháp vi diệu chưa từng có này xuất hiện.
(VIII) (128) VI DIỆU (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, khi Như Lai, bậc
A-la-hán, xuất hiện, có bốn pháp vi diệu chưa từng có này xuất hiện.
Thế nào là bốn ?
Này các Tỷ-kheo, quần chúng ưa thích
chấp giữ, thích thú chấp giữ, hoan hỷ chấp giữ, khi pháp không chấp giữ
được Như Lai thuyết giảng, họ khéo nghe, lắng tai, chánh trí an trú tâm.
Này các Tỷ-kheo, khi Như Lai, bậc A-la-hán, xuất hiện, đây là sự vi diệu
chưa từng có thứ nhất xuất hiện.
2. Này các Tỷ-kheo, quần chúng ưa
thích kiêu mạn, thích thú kiêu mạn, hoan hỷ kiêu mạn, khi pháp không kiêu
mạn được Như Lai thuyết giảng, họ khéo nghe, lắng tai, chánh trí an trú
tâm. Này các Tỷ-kheo, khi Như Lai, bậc A-la-hán, xuất hiện, đây là sự vi
diệu chưa từng có thứ hai xuất hiện.
3. Này các Tỷ-kheo, quần chúng ưa
thích không an tịnh, thích thú không an tịnh, hoan hỷ không an tịnh, khi
pháp an tịnh được Như Lai thuyết giảng, họ khéo nghe, lắng tai, chánh
trí an trú tâm. Này các Tỷ-kheo, khi Như Lai, bậc A-la-hán, xuất hiện, đây
là sự vi diệu chưa từng có thứ ba xuất hiện.
4. Này các Tỷ-kheo, quần chúng đi
đến vô minh, trở thành mù quáng, bị trói buộc che đậy, khi Như Lai thuyết
pháp nhiếp phục vô minh, họ khéo nghe, lắng tai, chánh trí an trú tâm. Này
các Tỷ-kheo, khi Như Lai, bậc A-la-hán, xuất hiện, đây là sự vi diệu chưa
từng có thứ tư xuất hiện.
Này các Tỷ-kheo, khi Như Lai, bậc
A-la-hán, xuất hiện, có bốn pháp vi diệu chưa từng có này xuất hiện
(IX) (129) VI DIỆU (3)
1. - Này các Tỷ-kheo, khi Như Lai, bậc
A-la-hán, xuất hiện, có bốn pháp vi diệu chưa từng có này xuất hiện.
Thế nào là bốn ?
Này các Tỷ-kheo, nếu chúng Tỷ-kheo
đi đến yết kiến Ànanda, hội chúng ấy hoan hỷ được yết kiến
Ànanda. Ở đây, nếu Ànanda thuyết pháp, hội chúng ấy hoan hỷ với lời
thuyết giảng. Chúng Tỷ-kheo không được vui vẻ, này các Tỷ-kheo, nếu
Ànanda giữ im lặng.
2. Này các Tỷ-kheo, nếu chúng Tỷ-kheo-ni
… nếu chúng nam cư sĩ … nếu chúng nữ cư sĩ đi đến yết kiến
Ànanda. Tại đấy, nếu Ànanda thuyết pháp, hội chúng ấy được hoan hỷ
với lời thuyết giảng. Chúng Tỷ-kheo-ni … nếu chúng nam cư sĩ, chúng nữ
cư sĩ sẽ không được vui vẻ, này các Tỷ-kheo, nếu Ànanda giữ im lặng.
(X) (130) VI DIỆU (3)
1. - Này các Tỷ-kheo, khi Như Lai, bậc
A-la-hán, xuất hiện, có bốn pháp vi diệu chưa từng có này xuất hiện.
Thế nào là bốn ?
Này các Tỷ-kheo, nếu có chúng
Sát-đế-lỵ đến yết kiến vua Chuyển Luân, hội chúng ấy được hoan hỷ
vì được yết kiến vua Chuyển Luân. Tại đấy, nếu vị vua Chuyển Luân
nói chuyện, hội chúng được hoan hỷ với bài nói chuyện. Và nếu vua
Chuyển Luân im lặng, chúng Sát-đế-lỵ bị thất vọng.
2. Này các Tỷ-kheo, nếu có chúng
Bà-la-môn, … nếu có chúng gia chủ …, nếu có chúng Sa-môn đến yết kiến
vua Chuyển Luân, hội chúng ấy được hoan hỷ vì được yết kiến vua
Chuyển Luân. Tại đấy, nếu vị vua Chuyển Luân nói chuyện, hội chúng
được hoan hỷ với bài nói chuyện. Và nếu vua Chuyển Luân im lặng,
chúng Sa-môn bị thất vọng.
Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp vi diệu
chưa từng có này về vua Chuyển Luân.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn
pháp vi diệu chưa từng có này về Ànanda. Thế nào là bốn ?
Này các Tỷ-kheo, nếu chúng Tỷ-kheo
đến để yết kiến Ànanda … nếu Ànanda giữ im lặng.
Này các Tỷ-kheo, nếu chúng Tỷ-kheo-ni
…
Này các Tỷ-kheo, nếu chúng nam cư
sĩ …
Này các Tỷ-kheo, nếu chúng nữ cư
sĩ …
Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp vi diệu
chưa từng có này về Ànanda.
XIV. PHẨM LOÀI NGƯỜI
(I) (131) KIẾT SỬ
1. Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng
người này có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với
một hạng người, các hạ phần kiết sử không được đoạn tận, các kiết
sử khiến được sanh không được đoạn tận, các kiết sử khiến được
hữu không được đoạn tận.
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, đối
với một hạng người, các hạ phần kiết sử được đoạn tận, nhưng các
kiết sử khiến được sanh không được đoạn tận, các kiết sử khiến
được hữu không được đoạn tận.
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, đối
với một hạng người, các hạ phần kiết sử được đoạn tận, các kiết
sử khiến được sanh được đoạn tận, nhưng các kiết sử khiến được
hữu không được đoạn tận.
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, đối
với một hạng người, các hạ phần kiết sử được đoạn tận, các kiết
sử khiến được sanh được đoạn tận, các kiết sử khiến được hữu
được đoạn tận.
2. Đối với hạng người nào, này
các Tỷ-kheo, các hạ phần kiết sử không được đoạn tận, các kiết sử
khiến được tái sanh không được đoạn tận, các kiết sử khiến được
hữu không được đoạn tận ?
Đối với vị Nhất Lai. Đối với
hạng người này, này các Tỷ-kheo, các hạ phần kiết sử … các kiết sử
khiến được sanh … các kiết sử khiến được hữu không được đoạn
tận.
3. Đối với hạng người nào, này
các Tỷ-kheo, các hạ phần kiết sử được đoạn tận, các kiết sử khiến
được tái sanh không được đoạn tận, các kiết sử khiến được hữu
không được đoạn tận ?
Đối với hạng người Thượng
lưu, đi đến Sắc cứu kính. Đối với hạng người này, này các Tỷ-kheo,
… các kiết sử khiến được hữu không được đoạn tận.
4. Đối với hạng người nào, này
các Tỷ-kheo, các hạ phần kiết sử được đoạn tận, các kiết sử khiến
được sanh được đoạn tận, các kiết sử khiến được hữu không được
đoạn tận ?
Đối với hạng người Trung gian Bát-Niết-bàn.
Đối với hạng người này, này các Tỷ-kheo, các hạ phần kiết sử được
đoạn tận, các kiết sử khiến được sanh được đoạn tận, các kiết
sử khiến được hữu không được đoạn tận.
5. Đối với hạng người nào, này
các Tỷ-kheo, các hạ phần kiết sử được đoạn tận, các kiết sử khiến
được sanh được đoạn tận, các kiết sử khiến được hữu được đoạn
tận ?
Đối với bậc A-la-hán. Đối với
hạng người này, này các Tỷ-kheo, các hạ phần kiết sử được đoạn tận,
các kiết sử khiến được sanh được đoạn tận, các kiết sử khiến
được hữu được đoạn tận.
Có bốn hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
(II) (123) TRẢ LỜI
1. Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng
người này có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn ?
Trả lời tương ứng, trả lời không
tự tại, ; trả lời tự tại, trả lời không tương ứng; trả lời
tương ứng và trả lời tự tại; trả lời không tương ứng và trả lời
không tự tại.
Có bốn hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
(III) (133) LANH TRÍ
1. Có bốn hạng người này, này
các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn ?
Biết một cách tổng quát, biết một
cách rộng rãi với các chi tiết, biết cần phải hướng dẫn chỉ giỏi về
chữ nghĩa.
Có bốn hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
(IV) (134) NỖ LỰC
- Có bốn hạng người này, này
các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn ?
Sống nhờ kết quả của nỗ lực,
sống nhờ kết quả của hành động, sống không nhờ kết quả của hành
động, sống không nhờ kết quả của nỗ lực; Sống nhờ kết quả của
nỗ lực và sống nhờ kết quả của hành động; Sống không nhờ kết quả
của nỗ lực và sống không nhờ kết quả của hành động.
Có bốn hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
(V) (135) CÓ TỘI
1. - Có bốn hạng người này, này
các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn ?
Có tội, nhiều tội, ít tội,
không có tội.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người có tội ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người thành tựu với thân nghiệp có tội, thành tựu với khẩu nghiệp
có tội, thành tựu với ý nghiệp có tội. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
hạng người có tội.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người nhiều tội ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người thành tựu với thân nghiệp có tội nhiều, không tội ít, thành tựu
với khẩu nghiệp có tội nhiều, không tội ít, thành tựu với ý nghiệp
có tội nhiều, không tội ít. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người
với nhiều tội.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người với ít tội ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người thành tựu thân nghiệp với không tội nhiều, với có tội ít,
thành tựu khẩu nghiệp với không tội nhiều, với có tội ít, thành tựu
ý nghiệp với không tội nhiều, với có tội ít. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là hạng người ít tội.
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người không tội ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người thành tựu với thân nghiệp không có tội, thành tựu với khẩu
nghiệp không có tội, thành tựu với ý nghiệp không có tội. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là hạng người không có tội.
Có bốn hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
(VI) (136) CÓ GIỚI (1)
1. - Có bốn hạng người này, này
các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người không đầy đủ về giới, không đầy đủ về định, không đầy
đủ về tuệ. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người đầy đủ về giới,
không đầy đủ về định, không đầy đủ về tuệ. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
có hạng người đầy đủ về giới, đầy đủ về định, không đầy đủ
về tuệ. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người đầy đủ về giới,
đầy đủ về định, đầy đủ về tuệ.
Có bốn hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
(VII) (137) CÓ GIỚI (2)
1. - Có bốn hạng người này, này
các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn ?
ở đây, này các tỷ-kheo, có hạng
người không kính trọng giới, không xem giới là tốt thượng, không kính
trọng định, không xem định là tốt thượng, không kính trọng tuệ,
không xem tuệ là tốt thượng, Ở đây, này các tỷ-kheo, có hạng người
kính trọng giới, xem giới là tốt thượng, không kính trọng định, không
xem định là tốt thượng, không kính trọng tuệ, không xem tuệ là tốt thượng.
Ở đây, này các tỷ-kheo, có hạng người kính trọng giới, xem giới là tốt
thượng, kính trọng định, xem định là tốt thượng, không kính trọng tuệ,
không xem tuệ là tốt thượng, Ở đây, này các tỷ-kheo, có hạng người
kính trọng giới, xem giới là tốt thượng, kính trọng định, xem định là
tốt thượng, kính trọng tuệ, xem tuệ là tốt thượng,
Có bốn hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
(VIII) (138) VIỄN LY
1. - Có bốn hạng người này, này
các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn ?
Thân viễn ly, tâm không viễn ly;
thân không viễn ly, tâm viễn ly; thân không viễn ly, tâm không viễn ly;
thân viễn ly và tâm viễn ly.
2. Này các Tỷ-kheo, thế nào là
thân viễn ly, tâm không viễn ly ?
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, các hạng
người sống tại các núi non, khóm rừng, các trú xứ xa vắng; vị ấy nghĩ
đến dục tầm, nghĩ đến sân tầm, nghĩ đến hại tầm. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là hạng người thân viễn ly, nhưng tâm không viễn ly.
3. Này các Tỷ-kheo, thế nào là
thân không viễn ly, nhưng tâm viễn ly ?
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, các hạng
người không sống tại các núi non, khóm rừng, các trú xứ xa vắng; vị
ấy tại đó nghĩ đến tầm xuất ly, nghĩ đến tầm vô sân, nghĩ đến tầm
bất hại. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người thân không viễn ly,
nhưng tâm viễn ly.
4. Này các Tỷ-kheo, thế nào là
thân không viễn ly, tâm không viễn ly ?
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, các hạng
người không sống tại các núi non, khóm rừng, các trú xứ xa vắng; Tại
đấy, vị ấy nghĩ đến dục tầm, nghĩ đến sân tầm, nghĩ đến hại tầm.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người thân viễn ly, nhưng tâm không
viễn ly.
5. Này các Tỷ-kheo, thế nào là
thân viễn ly và tâm viễn ly ?
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, các hạng
người sống tại các núi non, khóm rừng, các trú xứ xa vắng; vị ấy tại
đó nghĩ đến tầm xuất ly, nghĩ đến tầm không sân, nghĩ đến tầm không
hại. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người thân viễn ly và tâm viễn
ly.
Có bốn hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
(IX) (139) THUYẾT PHÁP
1. - Có bốn hạng người này, này
các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người thuyết pháp, ít nói và không liên hệ đến vấn đề; và hội
chúng không thiện xảo về liên hệ hay không liên hệ. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là hạng người thuyết pháp và vị ấy được xem là hạng người thuyết
pháp cho một hội chúng tương tự.
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người thuyết pháp, ít nói và liên hệ đến vấn đề; và hội chúng thiện
xảo về liên hệ hay không liên hệ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng
người thuyết pháp và vị ấy được xem là hạng người thuyết pháp cho
một hội chúng tương tự.
3. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
có hạng người thuyết pháp, nói nhiều và không liên hệ đến vấn đề;
và hội chúng không thiện xảo về liên hệ hay không liên hệ. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là hạng người thuyết pháp và vị ấy được xem là hạng
người thuyết pháp cho một hội chúng tương tự.
4. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
có hạng người thuyết pháp, nói nhiều và liên hệ đến vấn đề; và hội
chúng thiện xảo về liên hệ hay không liên hệ. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là hạng người thuyết pháp và vị ấy được xem là hạng người thuyết
pháp cho một hội chúng tương tự.
Có bốn hạng người thuyết pháp
này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
(X) (140) HẠNG THUYẾT TRÌNH
- Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng
thuyết trình này. Thế nào là bốn ?
Có hạng thuyết trình, này các Tỷ-kheo,
đi đến ngõ bí về nghĩa, không về văn; Có hạng thuyết trình, này các Tỷ-kheo,
đi đến ngõ bí về văn, nhưng không về nghĩa; Có hạng thuyết trình, này
các Tỷ-kheo, đi đến ngõ bí về nghĩa cũng như về văn; Có hạng thuyết
trình, này các Tỷ-kheo, không đi đến ngõ bí về nghĩa cũng như về văn.
Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng thuyết
trình này.
Không có trường hợp nào, này các
Tỷ-kheo, không có cơ hội này, là một người thành tựu bốn vô ngại giải,
lại đi đến ngõ bí về nghĩa cũng như về văn.