- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 5d
- XI. PHẨM AN ỔN TRÚ
(I) (101) ĐÁNG SỢ HÃI
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm pháp
này làm cho bậc Hữu học không có sợ hãi. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có lòng tin, có giới, có nghe nhiều, có tinh cần tinh tấn, có trí tuệ.
Cái gì làm cho kẻ không có lòng tin sợ hãi, này các Tỷ-kheo, cái ấy
không làm cho người có lòng tin sợ hãi. Do vậy, pháp này là pháp làm cho
bậc Hữu học không sợ hãi. Cái gì làm cho kẻ ác giới sợ hãi. Do vậy,
pháp này là pháp làm cho bậc Hữu học không sợ hãi. Cái gì làm cho kẻ
ít nghe sợ hãi, này các Tỷ-kheo, cái ấy không làm cho người nghe nhiều sợ
hãi. Do vậy, pháp này là pháp làm cho bậc Hữu học không sợ hãi. Cái gì
làm cho kẻ biếng nhác sợ hãi, này các Tỷ-kheo, cái ấy không làm cho kẻ
tinh cần tinh tấn sợ hãi. Do vậy, pháp này là pháp làm cho bậc Hữu học
không sợ hãi. Cái gì làm cho kẻ ác tuệ sợ hãi, này các Tỷ-kheo, cái
ấy không làm cho người có trí tuệ sợ hãi. Do vậy, pháp này là pháp
làm cho bậc Hữu học không sợ hãi.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, là
các pháp làm cho bậc Hữu học không sợ hãi.
(II) (102) ĐÁNG NGHI NGỜ
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo bị mất tin tưởng và bị nghi ngờ là "ác Tỷ-kheo", dầu
cho vị ấy đã đạt được bất động. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đi đến chỗ dâm nữ, đi đến nhà đàn bà góa, đi đến nhà có con gái
già, hay đi đến nhà các hoạn quan, hay đi đến chỗ các Tỷ-kheo-ni.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo bị mất tin tưởng và bị nghi ngờ là ác Tỷ-kheo, dầu cho vị
ấy đã đạt được bất động.
(III) (103) KẺ ĂN TRỘM
1. - Thành tựu năm chi phần, này
các Tỷ-kheo, một kẻ ăn trộm lớn xâm nhập vào nhà cửa, mang đồ ăn trộm
ra đi, thành người ăn trộm riêng rẽ, thành người cướp chận đường.
Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ
ăn trộm lớn dựa vào sự hiểm trở (của con đường), dựa vào sự rậm
rạp (của núi rừng), dựa vào quyền thế, là kẻ hối lộ, là kẻ trộm
một mình. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự
hiểm trở?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ
ăn trộm lớn dựa vào các con sông khó lội qua hay núi non hiểm trở. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự hiểm trở. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự rậm rạp?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ
ăn trộm lớn dựa vào sự rậm rạp của cỏ, cây, bụi cây và của rừng
rậm hoang vu. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự
rậm rạp. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn dựa vào uy lực?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ
ăn trộm lớn dựa vào vua hay các vị đại thần của vua. Ta suy nghĩ như
sau: "Nếu có ai nói điều gì về ta, các vị vua này hay các vị đại
thần của vua sẽ nói những lời che chở cho ta". Nếu có ai nói điều
gì về anh ta, các vua và các vị đại thần ấy nói che chở cho anh ta. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn dựa vào uy lực. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là kẻ ăn trộm lớn dựa vào hối lộ tài sản?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ
ăn trộm lớn giàu có, có tiền của nhiều, có tài sản lớn. Anh ta nghĩ
như sau: "Nếu có ai nói gì đến ta, từ nay ta sẽ hối lộ người ấy
với tài sản". Nếu có người nói gì đến anh ta, anh ta liền hối lộ
với tài sản. Như vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn hối lộ với
tài sản. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn là kẻ ăn trộm
riêng rẽ?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ
ăn trộm lớn đoạt các tài vật một mình. Vì cớ sao? Anh ta suy nghĩ:
"Mong rằng không ai bàn bạc chỗ trốn với ta rồi làm ta rối loạn".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn thành kẻ ăn trộm riêng rẽ.
Thành tựu năm chi phần này, kẻ
ăn trộm lớn xâm nhập vào nhà cửa, mang đồ ăn trộm ra đi, thành người
ăn trộm riêng rẽ, thành người cướp chận đường.
8. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
thành tựu năm phần, kẻ ác Tỷ-kheo tự mình xử sự như kẻ mất gốc, bị
tổn thương, có tội lỗi, bị những bậc trí quở trách, và làm nhiều
điều vô phược. Thế nào là năm?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo
dựa vào hiểm trở, dựa vào rậm rạp, dựa vào uy lực, hối lộ tài sản
và hành động một mình. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa
vào hiểm trở?
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo
thành tựu thân nghiệp hiểm nạn, thành tựu ngữ nghiệp hiểm nạn, thành
tựu ý nghiệp hiểm nạn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo
dựa vào hiểm nạn. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo dựa vào rừng
rậm?
11. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo
có tà kiến và thành tựu tri kiến cực đoan. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là ác Tỷ-kheo dựa vào rừng rậm. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo
dựa vào uy lực?
12. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo
dựa vào vua và các vị đại thần của vua. Vị ấy suy nghĩ: "Nếu có
ai nói gì về ta, các vua ấy và các đại thần ấy nói lời với mục đích
che chở cho ta". Nếu có ai nói gì về vị ấy, các vua chúa hay các vị
đại thần của vua nói lời với mục đích che chở. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
ác Tỷ-kheo dựa vào uy lực. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo hối
lộ tài sản?
13. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo
nhận được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Nếu có ai nói gì về
ta, ta sẽ hối lộ người ấy với vật dụng thâu được!" Và nếu
có người nói gì về vị ấy, vị ấy hối lộ với vật dụng thâu được.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo hối lộ với tài sản. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo hành động một mình?
14. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo
sống một mình tức là ở các địa phương biên địa. Tại đấy, vị ấy
đến các gia đình và nhận được các lợi dưỡng. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là ác Tỷ-kheo hành động một mình.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
ác Tỷ-kheo tự mình xử sự như người bị mất gốc, bị tổn thương, có
phạm tội, bị các người trí quở trách, làm nhiều điều vô phước.
(IV) (104) ĐEM LẠI AN LẠC
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo là người đem lại an lạc, của Sa-môn cho các Sa-môn. Thế nào là
năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
được yêu cầu hưởng thụ nhiều y áo, không phải ít yêu cầu, được yêu
cầu hưởng thụ nhiều đồ ăn khất thực, không phải ít yêu cầu; được
yêu cầu hưởng thụ nhiều sàng tọa không phải ít yêu cầu; được yêu
cầu hưởng thụ nhiều dược phẩm trị bệnh, không phải ít yêu cầu. Vị
này sống với các vị đồng Phạm hạnh, và các vị này xử sự đối với
vị ấy với thân hành nhiều khả ý, không phải ít khả ý; xử sự với
khẩu hành nhiều khả ý, không phải ý khả ý; xử sự với ý hành nhiều
khả ý, không phải ít khả ý. Những vị này giúp đỡ vị ấy với sự
giúp đỡ khả ý, không phải ít khả ý. Và những cảm thọ nào do mật khởi
lên, do gió khởi lên, hay do sự phối hợp (của ba sự kiện trên), hay do sự
thay đổi thời tiết, hay do sự săn sóc bất cẩn, hay do sự xâm nhập của
một vài sự kiện (như một vài chứng bệnh), hay do kết quả của nghiệp,
những sự kiện ấy khởi lên không có nhiều. Vị ấy ít bệnh hoạn và
đối với bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú (vị
ấy) chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng
được không phí sức. Do đoạn diệt các lậu hoặc, vị ấy ngay trong hiện
tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo là người đem lại sự an lạc của Sa-môn, cho các hàng Sa-môn.
3. Này các Tỷ-kheo, nếu có ai nói
một cách chân chánh về vị đem lại an lạc của Sa-môn cho các Sa-môn, thời
này các Tỷ-kheo, vị ấy sẽ nói một cách chân chánh về Ta là người đã
đem lại an lạc của Sa-môn cho các Sa-môn. Này các Tỷ-kheo, Ta là người
được yêu cầu hưởng thọ nhiều y áo, không phải ít yêu cầu; được yêu
cầu hưởng thọ nhiều đồ ăn khất thực, không phải ít yêu cầu; được
yêu cầu, hưởng thọ nhiều sàng tọa, không phải ít yêu cầu; được yêu
cần hưởng thọ nhiều dược phẩm trị bệnh, không phải ít yêu cầu. Ta
sống với các vị đồng Phạm hạnh và các vị này xử sự đối với Ta
với thân hành nhiều khả ý, không phải ít khả ý; xử sự với khẩu
hành nhiều khả ý, không phải ít khả ý; xử sự với ý hành nhiều khả
ý, không phải ít khả ý. Những vị này giúp đỡ Ta với sự giúp đỡ
nhiều khả ý, không phải ít khả ý. Và những cảm thọ do mật khởi
lên, do đàm khởi lên, do gió khởi lên hay do sự phối hợp của ba sự kiện
trên, hay do sự thay đổi thời tiết, hay do sự săn sóc bất cẩn, hay do sự
xâm nhập của một vài sự kiện, hay do kết quả của nghiệp, những sự
kiện ấy khởi lên nơi Ta không có nhiều. Ta có ít bệnh hoạn, và đối với
bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, Ta chứng được
không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức.
Do đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong hiện tại, Ta tự mình với thắng
trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát.
Này các Tỷ-kheo, nếu có ai nói một
cách chân chánh về vị đem lại an lạc của Sa-môn cho các Sa-môn, thời
này các Tỷ-kheo, vị ấy sẽ nói một cách chân chánh về Ta là người đã
đem lại an lạc của vị Sa-môn cho các vị Sa-môn.
(V) (105) AN ỔN TRÚ
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm an ổn
trú này, Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
an trú từ thân nghiệp đối với các đồng Phạm hạnh, cả trước mặt và
sau lưng; an trú từ khẩu nghiệp đối với các đồng Phạm hạnh, trước
mặt và sau lưng; an trú từ ý nghiệp đối với các đồng Phạm hạnh,
trước mặt và sau lưng; đối với các giới không bị bể vụn, không bị
sứt mẻ, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát,
được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định,
vị ấy song thành tựu các giới như vậy đối với các đồng Phạm hạnh,
trước mặt và sau lưng, và đối với tri kiến này, thuộc bậc Thánh đưa
đến xuất ly, được người thực hành chân chánh đoạn diệt khổ đau, vị
ấy sống thành tựu tri kiến như vậy đối với các đồng Phạm hạnh,
trước mặt và sau lưng.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, là
năm an ổn trú.
(VI) (106) TÔN GIẢ ÀNANDA
1. Một thời, Thế Tôn ở Kosambì,
tại khu vườn Ghosita. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế Tôn; sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn
giả Ànanda bạch Thế Tôn:
- Cho đến như thế nào, bạch Thế
Tôn, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú?
- Này Ànanda, khi nào vị Tỷ-kheo tự
mình đầy đủ giới và không làm phiền hà người khác với tăng thượng
giới. Cho đến như vậy, này Ànanda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.
- Bạch Thế Tôn, có pháp môn nào
khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú?
- Có thể có, này Ànanda!
Thế Tôn nói:
- Này Ànanda, khi nào Tỷ-kheo đầy
đủ giới và không làm phiền hà người khác với tăng thượng giới, tự
quán sát mình không quán sát người khác. Cho đến như vậy, này Ànanda,
chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.
- Bạch Thế Tôn, có pháp môn nào
khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú?
- Có thể có, này Ànanda!
Thế Tôn nói:
- Này Ànanda, khi nào vị Tỷ-kheo đầy
đủ giới và không làm phiền hà người khác với tăng thượng giới, tự
quán sát mình, không quán sát người khác, chưa trở thành có danh tiếng,
và không cảm thấy bực phiền vì không được có danh tiếng. Cho đến
như vậy, này Ànanda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.
- Bạch Thế Tôn, có pháp môn nào
khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú?
- Có thể có, này Ànanda!
Thế Tôn nói:
- Này Ànanda, khi nào Tỷ-kheo đầy
đủ giới và không làm phiền hà người khác với tăng thượng giới, tự
quán sát mình, không quán sát người khác, chưa trở thành có danh tiếng,
và không cảm thấy bực phiền vì không được có danh tiếng, đối với bốn
thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không
khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức. Cho
đến như vậy, này Ànanda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.
- Bạch Thế Tôn, có pháp môn nào
khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú?
- Có thể có, này Ànanda!
Thế Tôn nói:
- Này Ànanda, khi nào Tỷ-kheo đầy
đủ giới và không làm phiền hà người khác với tăng thượng giới, tự
quán sát mình, không quán sát người khác, chưa trở thành có danh tiếng,
và không cảm thấy bực phiền vì không được có danh tiếng, đối với bốn
thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không
khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức. Do
đoạn tận các lậu hoặc, vị ấy tự mình với thắng trí ngay trong hiện
tại chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Cho đến
như vậy, này Ànanda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.
Ngoài các an ổn trú này, này
Ànanda, Ta tuyên bố không có một an ổn trú nào khác cao thượng hơn, thù
diệu hơn.
(VII) (107) GIỚI
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng
dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời. Thế
nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ giới, đầy đủ định, đầy đủ tuệ, đầy đủ giải thoát,
đầy đủ giải thoát tri kiến.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được
cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời.
(VIII) (108) VÔ HỌC
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng
dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời.
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thành tựu vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu
vô học tuệ uẩn, thành tựu vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học
giải thoát tri kiến uẩn.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đáng được cung kính... là phước điền vô thượng ở đời.
(IX) (109) NGƯỜI BỐN PHƯƠNG
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo là người bốn phương. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có giới, sống được bảo vệ với sự bảo vệ của giới bổn, đầy đủ
oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các tội nhỏ nhiệm, chấp nhận và
học tập trong các học pháp, là bậc nghe nhiều, thọ trì điều đã được
nghe, tích tập điều đã được nghe. Đối với các pháp sơ thiện, trung
thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, tán thán đời sống Phạm hạnh hoàn
toàn viên mãn thanh tịnh, các pháp như vậy, vị ấy nghe nhiều, thọ trì
nhiều đã ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý quán sát, khéo thành tựu
nhờ chánh kiến, biết đủ với các vật dụng nhu yếu như y áo, đồ ăn
khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Đối với bốn Thiền thuộc
tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, vị ấy chứng đắc không khó khăn,
chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức. Do đoạn diệt các
lậu hoặc, vị ấy ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí chứng ngộ,
chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo là vị bốn phương hướng.
(X) (110) KHU RỪNG
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo sử dụng sàng tọa (trú xứ) thuộc rừng núi cao nguyên xa vắng.
Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có giới... (xem # 109) chấp nhận và học tập trong các học pháp, là bậc
nghe nhiều... chuyên ý quán sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến, sống tinh
cần tinh tấn... nỗ lực kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các
thiện pháp, đối với bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc
trú, chứng đắc không phí sức, do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện
tại, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo là vừa đủ để sử dụng các sàng tọa thuộc rừng núi cao
nguyên xa vắng.
XII. PHẨM ANDHAKAVINDA
(I) (111) ĐI ĐẾN CÁC GIA ĐÌNH
1. - Thành tự năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thân cận các gia đình, không được các gia đình ái mộ, thích
ý, kính trọng, noi gương để tu tập. Thế nào là năm?
2. Vị ấy thân mật với người không
thân tín, can thiệp vào việc không có thẩm quyền, ra vào với các phần tử
chống đối, nói riêng một bên tai, xin quá nhiều.
Thành tự năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thân cận các gia đình, không được các gia đình ái mộ, thích
ý, kính trọng, noi gương để tu tập.
3. Thành tự năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thân cận các gia đình, được các gia đình ái mộ, thích ý, kính
trọng, noi gương để tu tập. Thế nào là năm?
Vị ấy không thân mật với người
không thân tín, không can thiệp vào việc không có thẩm quyền, không ra
vào với các phần tử chống đối, không nói riêng một bên tai, không xin
quá nhiều.
Thành tự năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thân cận các gia đình, được các gia đình ái mộ, thích ý, kính
trọng, noi gương để tu tập.
(II) (112) SA-MÔN TÙY TÙNG
1. - Này các Tỷ-kheo, thành tựu năm
pháp, một Tỷ-kheo không đáng được nhận làm Sa-môn tùy tùng. Thế nào
là năm?
2. Đi quá xa hay quá gần, không cầm
lấy bình bát đã được chứa đầy, không ngăn chặn lời nói đưa đến
phạm tội, ngắt lời nói của người khác, người ác tuệ đần độn, câm
điếc.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo không đáng được nhận làm Sa-môn tùy tùng.
3. Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo đáng được nhận làm Sa-môn tùy tùng. Thế nào là năm?
4. Không đi quá xa hay không quá gần,
cầm lấy bình bát đã được chứa đầy, ngăn chặn lời nói đưa đến
phạm tội, không ngắt lời nói của người khác, người có trí tuệ,
không đần độn, không câm điếc.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo đáng được nhận làm Sa-môn tùy tùng.
(III) (113) THIỀN ĐỊNH
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không có thể đạt đến và an trú chánh định. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không kham nhẫn các sắc, không kham nhẫn các tiếng, không kham nhẫn các hương,
không kham nhẫn các vị, không kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không có thể đạt đến và an trú chánh định.
3. Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo có thể đạt đến và an trú chánh định. Thế nào là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
kham nhẫn các sắc, kham nhẫn các tiếng, kham nhẫn các hương, kham nhẫn các
vị, kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo có thể đạt đến và an trú chánh định.
(IV) (114) TẠI ANDHAKAVINDA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa
dân chúng Magadha, tại Andhakavinda. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế Tôn;
sau khi đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với
Tôn giả Ànanda đang ngồi một bên:
- Những Tỷ-kheo nào, này Ànanda,
là tân học xuất gia không bao lâu, mới đến trong Pháp và Luật này, các
Tỷ-kheo ấy, này Ànanda, thật sự cần phải khích lệ, cần phải làm cho
nhập vào và làm cho an trú trong năm pháp. Thế nào là trong năm pháp?
2. "Hãy đến, này các Hiền giả,
các Thầy cần phải giữ giới, sống được bảo vệ với sự bảo vệ của
giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ
nhiệm, chấp nhận và học tập trong các học pháp". Như vậy, họ cần
được khích lệ, cần phải làm cho nhập vào và làm cho an trú trong sự bảo
vệ của giới bổn.
3. "Hãy đến, này các Hiền giả,
các Thầy cần phải sống với các căn môn phải được chế ngự, thành tựu
với niệm được phòng hộ, với niệm thận trọng sáng suốt, với ý được
khéo phòng hộ, với tâm được chánh niệm bảo vệ". Như vậy, họ cần
được khích lệ, cần phải làm cho nhập vào, cần làm cho an trú trong sự
bảo vệ các căn.
4. "Hãy đến, này các Hiền giả,
hãy nói ít lại, hãy hạn chế lời nói". Như vậy, họ cần được khích
lệ, cần phải làm cho nhập vào, cần làm cho an trú trong sự hạn chế lời
nói.
5. "Hãy đến, này các Hiền giả,
hãy là những người sống trong rừng, hãy sử dụng các trú xứ núi rừng
cao nguyên xa vắng". Như vậy, họ cần phải được khích lệ, cần
làm cho nhập vào, cần làm cho an trú trong nếp sống thân viễn ly.
6. "Hãy đến, này các Hiền giả,
hãy có chánh trị kiến, thành tựu chánh kiến". Như vậy, họ cần phải
được khích lệ, cần làm cho nhập vào, cần làm cho an trú trong chánh kiến.
Này Ànanda, các Tỷ-kheo nào tân học,
xuất gia không bao lâu, mới đến trong Pháp Luật này, này Ànanda, các Tỷ-kheo
ấy cần phải được thầy khích lệ, cần phải làm cho nhập vào, cần
làm cho an trú trong năm pháp này.
(V) (115) XAN LẪN
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy bị rơi vào địa ngục. Thế nào là
năm?
2. Xan tham về chỗ ở, xan tham về
sự giúp đỗ các gia đình, xan tham về các vật dụng được cúng dường,
xan tham tán thán, xan tham về pháp.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy bị rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy được sanh lên cõi Trời. Thế nào là
năm?
4. Không xan tham về chỗ ở, không
xan tham về sự giúp đỗ các gia đình, không xan tham về các vật dụng
được cúng dường, không xan tham về tán thán, không xan tham về pháp.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy được sanh lên cõi Trời.
(VI) (116) TÁN THÁN
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy bị rơi vào địa ngục. Thế
nào là năm?
2. Không suy xét, không thẩm sát,
tán thán người không đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm
sát, không tán thán người đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm
sát, đặt lòng tin vào những chỗ không đáng được tịnh tín; không suy
xét, không thẩm sát, không đặt lòng tin vào những chỗ đáng được tịnh
tín; bác bỏ các vật dụng tín thí.
Do thành tựu năm pháp này, Tỷ-kheo-ni
như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy được sanh lên cõi Trời. Thế
nào là năm?
Có suy xét, có thẩm sát, không tán
thán người không đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, tán
thán người đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, không đặt lòng
tin vào những chỗ không đáng được tịnh tín; có suy xét, có thẩm sát,
đặt lòng tin vào những chỗ đáng được tịnh tín; không bác bỏ các vật
dụng tín thí.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời.
(VII) (117) GANH TỊ
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.
Thế nào là năm?
2. Không suy xét, không thẩm sát,
tán thán người không đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm
sát, không tán thán người đáng được tán thán; ganh tị; xan tham; bác bỏ
các vật dụng tín thí.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời.
4. Có suy xét, có thẩm sát, không
tán thán người không đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, tán
thán người đáng được tán thán; không có ganh tị; không có xan tham;
không bác bỏ các vật tín thí.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời.
(VIII) (118) TRI KIẾN
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.
Thế nào là năm?
2. Không suy xét, không thẩm sát,
tán thán người không đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm
sát, không tán thán người đáng được tán thán; có tà kiến; có tà tư
duy; bác bỏ các vật tín thí.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời. Thế
nào là năm?
Có suy xét, có thẩm sát, không tán
thán người không đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, tán
thán người đáng được tán thán; có chánh tri kiến; có chánh tư duy; không
bác bỏ các vật tín thí.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời.
(IX) (119) LỜI NÓI
...(Giống như kinh số #118) ở trên,
chỉ có khác trong kinh này: tà tinh tấn, tà niệm thế cho tà tri kiến, tà
tư duy và chánh tinh tấn, chánh niệm thế cho chánh tri kiến, chánh tư duy của
kinh trước).
(X) (120) TINH TẤN
...(Giống như kinh số #118) ở trên,
chỉ có khác trong kinh này: tà tinh tấn, tà niệm thế cho tà tri kiến, tà
tư duy và chánh tinh tấn, chánh niệm thế cho chánh tri kiến, chánh tư duy của
kinh trước).
XIII. PHẨM BỆNH
(I) (121) NGƯỜI BỊ BỆNH
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Vesàlì, tạo Đại Lâm, giảng đường có nóc nhọn. Rồi Thế Tôn vào buổi
chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến hành lang người bệnh. Thế Tôn
thấy một Tỷ-kheo ốm yếu bệnh hoạn, thấy vậy ngồi xuống trên chỗ
đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nếu năm pháp
này không rời bỏ một kẻ ốm yếu bệnh hoạn, thời người ấy được
chờ đợi như sau: Không bao lâu, do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện
tại, với thắng trí sẽ chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
sống quán bất tịnh trên thân, với tưởng ghê gớm đối với các món
ăn, với tưởng không thích thú đối với tất cả thế giới, quán vô thường
trong tất cả hành, và nội tâm khéo an trú trong tưởng về chết.
(II) (122) NIỆM XỨ
1. - Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào, này
các Tỷ-kheo, tu tập làm cho sung mãn năm pháp, một trong hai quả sau đây
được chờ đợi cho vị ấy: Ngay trong hiện tại, được chánh trí, hay nếu
có dư y, chứng quả Bất hoàn. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
nội tâm niệm được khéo an trú với trí tuệ về sự sanh diệt của các
pháp; sống quán bất tịnh trên thân, với tưởng ghê tởm đối với các
món ăn, với tưởng không thích thú đối với tất cả thế giới, quán
vô thường đối với tất cả hành.
Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào, này các
Tỷ-kheo, tu tập năm pháp này, làm cho sung mãn năm pháp này, một trong hai
quả sau đây được chờ đợi cho vị ấy: Ngay trong hiện tại, được chánh
trí, hay nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn.
(III) (123) SĂN SÓC BỆNH (1)
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, một người bị bệnh tự săn sóc bệnh không được tốt đẹp.
Thế nào là năm?
2. Làm điều không thích đáng;
không biết vừa phải trong khi chữa trị; không sử dụng thuốc; với người
săn sóc bệnh muốn lợi ích (cho mình, cho người bệnh); không có như thật
nói rõ bệnh hoạn: Khi tăng tiến là tăng tiến như vậy, khi giảm thiểu là
giảm thiểu như vậy, khi đứng lại là đứng lại như vậy; đối với các
khổ thọ thuộc về thân khởi lên, khốc liệt, cường liệt, mãnh liệt,
không thích thú, không thích ý, đoạt mạng, khó lòng nhẫn thọ.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một người bị bệnh là người săn sóc bệnh mình được tốt
đẹp. Thế nào là năm?
2. Làm điều thích đáng; biết vừa
phải trong khi chữa trị; có sử dụng thuốc; với người săn sóc bệnh muốn
lợi ích (cho mình); như thật nói rõ bệnh hoạn: Khi tăng tiến là tăng tiến
như vậy, khi giảm thiểu là giảm thiểu như vậy, khi đứng lại là đứng
lại như vậy; đối với các khổ thọ thuộc về thân khởi lên khốc liệt,
cường liệt, mãnh liệt, không thích thú, không thích ý, đoạt mạng, có
thể nhẫn chịu.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một người bị bệnh là người săn sóc bệnh mình được tốt đẹp.
(IV) (124) SĂN SÓC BỆNH (2)
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, một người săn sóc bệnh không đủ khả năng để săn sóc
người bệnh. Thế nào là năm?
2. Không có năng lực pha thuốc; không
biết cái gì thích đáng, cái gì không thích đáng; đưa cái gì không thích
đáng, không đưa cái gì thích đáng, vì muốn lợi ích vật chất, săn sóc
người bệnh, không phải vì lòng từ, cảm thấy ghê tởm khi phải dọn
phân, nước tiểu, đồ mửa ra, hay đờm; không có năng lực thỉnh thoảng
với pháp thoại trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ
người bệnh.
Thành tựu năm pháp này, một người
săn sóc bệnh không đủ khả năng để săn sóc người bệnh.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một người săn sóc bệnh có đủ khả năng để săn sóc người
bệnh. Thế nào là năm?
4. Có năng lực pha thuốc; biết cái
gì thích đáng, cái gì không thích đáng; đưa cái gì thích đáng, không
đưa cái gì không thích đáng, vì lòng từ săn sóc người bệnh, không vì
lợi ích vật chất, không cảm thấy ghê tởm khi phải dọn phân, nước tiểu,
đồ mửa ra, hay đờm; có năng lực thỉnh thoảng với pháp thoại trình
bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ người bệnh.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một người săn sóc bệnh có đủ khả năng để săn sóc người bệnh.
(V) (125) TUỔI THỌ (1)
1. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
không gia tăng tuổi thọ. Thế nào là năm?
2. Làm việc không thích đáng,
không biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ không tiêu hóa,
du hành phi thời, và sống không Phạm hạnh.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
không gia tăng tuổi thọ.
3. Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
gia tăng tuổi thọ. Thế nào là năm?
4. Làm việc thích đáng, biết vừa
phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời,
và sống Phạm hạnh.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, gia
tăng tuổi thọ.
(VI) (126) TUỔI THỌ (2)
(...Như kinh trên, chỉ khác hai pháp
sau cùng du hành phi thời và sống không Phạm hạnh được thế vào với
ác giới và bạn bè ác. Và hai thiện pháp du hành phải thời và sống Phạm
hạnh được thế vào với có giới và bạn bè thiện...)
(VII) (127) SỐNG BIỆT LẬP
1. - Thành tựu năm pháp này, vị Tỷ-kheo
không đủ điều kiện để sống biệt lập chúng Tăng. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không tự vừa đủ với y nhận được chỗ này chỗ kia; không tự vừa đủ
với đồ ăn khất thực nhận được chỗ này chỗ kia; không tự vừa đủ
với sàng tọa nhận được chỗ này chỗ kia; không tự vừa đủ với dược
phẩm trị bệnh nhận được chỗ này chỗ kia; và sống với nhiều tư duy
về dục.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo không đủ điều kiện để sống biệt lập chúng Tăng.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo đủ điều kiện để sống biệt lập với chúng Tăng.
Thế nào là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tự vừa đủ với y nhận được chỗ này chỗ kia; tự vừa đủ với đồ
ăn khất thực nhận được chỗ này chỗ này; tự vừa đủ với sàng tọa
nhận được chỗ này chỗ kia; tự vừa đủ với dược phẩm nhận được
chỗ này chỗ kia; sống nhiều tư duy về viễn ly.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đủ điều kiện để sống biệt lập với chúng Tăng.
(VIII) (128) CÁC ĐIỀU KHỔ CHO SA-MÔN
1. - Có năm điều khổ này cho
Sa-môn. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo không tự
vừa đủ với y nhận được chỗ này chỗ kia; không tự vừa đủ với đồ
ăn khất thực nhận được chỗ này chỗ kia; không tự vừa đủ với sàng
tọa nhận được chỗ này chỗ kia; không tự vừa đủ với dược phẩm
trị bệnh nhận được chỗ này chỗ kia; sống không vui thích trong Phạm hạnh.
Này các Tỷ-kheo, có năm điều khổ
này cho Sa-môn.
3. Có năm an lạc này, này các Tỷ-kheo,
cho Sa-môn. Thế nào là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tự vừa đủ với y nhận được chỗ này chỗ kia; tự vừa đủ với đồ
ăn khất thực nhận được chỗ này chỗ kia; tự vừa đủ với sàng tọa
nhận được chỗ này chỗ kia; tự vừa đủ với dược phẩm trị bệnh
nhận được chỗ này chỗ kia; sống vui thích trong Phạm hạnh.
Này các Tỷ-kheo, có năm an lạc này
cho vị Sa-môn.
(IX) (129) NGŨ NGHỊCH
1. - Có năm nghịch tội này, này
các Tỷ-kheo, đưa đến đọa xứ, đưa đến địa ngục, không có thể chữa
trị. Thế nào là năm?
2. Đoạt mạng mẹ, đoạt chương
cha, đoạt mạng vị A-la-hán, với ác tâm làm Như Lai chảy máu, phá hòa hợp
Tăng.
Này các Tỷ-kheo, năm pháp ngũ nghịch
này, đưa đến đọa xứ, đưa đến địa ngục, không thể chữa trị.
(X) (130) THÀNH TỰU
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm điều
tổn thất này. Thế nào là năm?
2. Tổn thất bà con, tổn thất tài
sản, tổn thất tật bệnh, tổn thất giới, tổn thất tri kiến. Này các
Tỷ-kheo, không do nhân tổn thất bà con, hay không do nhân tổn thất tài sản,
hay không do nhân tổn thất bệnh hoạn mà các loài hữu tình sau khi thân hoại
mạng chung sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Tỷ-kheo,
chính do nhân tổn thất giới, hay tổn thất tri kiến mà các loài hữu
tình sau khi thân hoại mạng chung sanh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục. Này
các Tỷ-kheo, có năm tổn thất này.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm thành tựu
này. Thế nào là năm?
4. Thành tựu bà con, thành tựu tài
sản, thành tựu vô bệnh, thành tựu giới, thành tựu tri kiến. Này các Tỷ-kheo,
không do nhân thành tựu bà con, hay không do nhân thành tựu tài sản, hay
không do nhân thành tựu vô bệnh, mà các loài hữu tình sau khi thân hoại mạng
chung sanh được lên cõi lành, Thiên giới, cõi đời này. Này các Tỷ-kheo,
do nhân thành tựu giới hay do nhân thành tựu tri kiến, mà các loài hữu
tình sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên cõi lành, Thiên giới, cõi
đời này.
Này các Tỷ-kheo, có năm thành tựu
này.
XIV. PHẨM VUA
(I) (131) CHUYỂN LUÂN VƯƠNG (1)
1. - Thành tựu năm chi phần, này
các Tỷ-kheo, vua Chuyển Luân chuyển bánh xe với pháp; bánh xe ấy không một
bàn tay ai có thể chuyển ngược lại, dầu là con của người thù địch.
Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vua
Chuyển Luân biết nghĩa, biết pháp, biết vừa phải, biết thời và biết
hội chúng.
Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ-kheo,
vua Chuyển Luân chuyển bánh xe với pháp; bánh xe ấy, không một bàn tay ai
có thể chuyển ngược lại, dầu là con của người thù địch.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
thành tựu năm pháp, Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chuyển Pháp
luân Vô thượng với pháp; bánh xe ấy, không do một ai ở đời có thể
chuyển ngược lại, dầu là Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm thiên hay bất
cứ ai ở đời. Thế nào là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác biết nghĩa, biết pháp, biết vừa phải,
biết thời và biết hội chúng.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chuyển Pháp luân Vô Thượng với
pháp; bánh xe ấy, không một ai có thể chuyển ngược lại, dầu là
Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm thiên hay bất cứ ai ở đời.
(II) (132) CHUYỂN LUÂN VƯƠNG (2)
1. - Thành tựu năm chi phần, này
các Tỷ-kheo, con trưởng vua Chuyển Luân tiếp tục chuyển vận bánh xe
pháp do phụ vương đã chuyển vận; bánh xe ấy, không một bàn tay ai có thể
chuyển ngược lại, dầu là con của người thù địch. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con trưởng
vua Chuyển Luân biết nghĩa, biết pháp, biết vừa phải, biết thời và biết
hội chúng.
Thành tựu năm chi phần này, này
các Tỷ-kheo, con trưởng vua Chuyển Luân tiếp tục chuyển vận bánh xe
pháp do phụ vương đã chuyển vận; bánh xe ấy, không một bàn tay ai có thể
chuyển ngược lại, dầu là con của người thù địch.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Sàriputta thành tựu năm pháp chơn chánh tiếp tục chuyển vận Vô thượng
pháp luân do Như Lai đã chuyển vận; bánh xe ấy, không do một ai có thể
chuyển ngược lại, dầu là Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm thiên hay bất
cứ ai ở đời. Thế nào là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo
Sàriputta biết nghĩa lợi, biết pháp, biết vừa đủ, biết thời và biết
hội chúng.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Sàriputta chơn chánh tiếp tục chuyển vận Vô thượng pháp luân do Như Lai
đã chuyển vận; bánh xe ấy, không do một ai có thể chuyển ngược lại,
dầu là Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm thiên hay bất cứ ai ở đời.
(III) (133) CHUYỂN LUÂN VƯƠNG (3)
1. - Này các Tỷ-kheo, ai là vua Chuyển
Luân đúng pháp pháp vương, vị ấy chuyển vận bánh xe không phải không
thuộc của vua.
Khi nghe nói vậy, một vị Tỷ-kheo
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, ai là vua cho vua
Chuyển Luân đúng pháp pháp vương?
- Chính là pháp, này Tỷ-kheo.
Thế Tôn nói vậy.
2. - Ở đây, này Tỷ-kheo, vua Chuyển
Luân đúng pháp pháp vương, y cứ pháp, tôn kính pháp, kính trọng pháp,
tôn trọng pháp, lấy pháp làm tràng phan, lấy pháp làm ngọn cờ, lấy
pháp làm tăng thượng. Vị này sắp đặt một sự phòng hộ, bảo vệ, chế
ngự đúng pháp cho dân chúng trong nước.
3. Lại nữa, này Tỷ-kheo, vua Chuyển
Luân đúng pháp pháp vương, y cứ pháp, tôn kính pháp, kính trọng pháp,
tôn trọng pháp, lấy pháp làm tràng phan, lấy pháp làm ngọn cờ, lấy
pháp làm tăng thượng. Vị này sắp đặt một sự phòng hộ, bảo vệ, chế
ngự đúng pháp cho các Sát-đế-ly, tùy hành, cho quân đội, cho các
Bà-la-môn gia chủ, cho dân chúng chấn và quốc độ, cho các Sa-môn,
Bà-la-môn, cho các loài thú và loài chim.
Như vậy, này Tỷ-kheo, vua Chuyển
Luân đúng pháp pháp vương ấy, y cứ pháp, tôn kính pháp, kính trọng
pháp, tôn trọng pháp, lấy pháp làm tràng phan, lấy pháp làm ngọn cờ, lấy
pháp làm tăng thượng, sau khi sắp đặt một sự phòng hộ, bảo vệ, chế
ngự đúng pháp cho dân chúng trong nước. Sau khi sắp đặt một sự phòng hộ
bảo vệ, chế ngự đúng pháp cho các Sát-đế-ly, tùy tùng, cho quân đội,
cho các Bà-la-môn gia chủ, cho dân chúng chấn và quốc độ, cho các Sa-môn,
Bà-la-môn, cho các loài thú và loài chim, vị ấy chuyển vận bánh xe với
pháp; bánh xe ấy, không một bàn tay ai có thể chuyển ngược lại dầu là
con của người thù địch. Cũng vậy, này Tỷ-kheo, Như Lai, bậc A-la-hán
Chánh Đẳng Giác đúng pháp pháp vương, : Thân nghiệp như vậy cần phải
thực hành, thân nghiệp như vậy không nên thực hành; khẩu nghiệp như vậy
cần phải thực hành, khẩu nghiệp như vậy không nên thực hành; ý nghiệp
như vậy cần phải thực hành, ý nghiệp như vậy không nên thực hành; mạng
sống như vậy cần phải thực hành, mạng sống như vậy không nên thực
hành; làng, thị trấn như vậy cần phải đi đến; làng, thị trấn như vậy
không nên đi đến.
4. Lại nữa, này Tỷ-kheo, Như Lai,
bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đúng pháp pháp vương, y cứ pháp, tôn kính
pháp, kính trọng pháp, tôn trọng pháp, lấy pháp làm tràng phan, lấy pháp
làm ngọn cờ, lấy pháp làm tăng thượng, sắp đặt một sự phòng hộ, bảo
vệ, chế ngự đúng pháp giữa các Tỷ-kheo, giữa các Tỷ-kheo-ni, giữa
các nam cư sĩ, giữa các nữ cư sĩ: Thân nghiệp như vậy cần phải thực
hành, thân nghiệp như vậy không nên thực hành; khẩu nghiệp như vậy cần
phải thực hành, khẩu nghiệp như vậy không nên thực hành; ý nghiệp như
vậy cần phải thực hành, ý nghiệp như vậy không nên thực hành; mạng sống
như vậy cần phải thực hành, mạng sống như vậy không nên thực hành;
làng, thị trấn như vậy cần phải đi đến; làng, thị trấn như vậy không
nên đi đến.
Như vậy, này Tỷ-kheo, Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đúng pháp pháp vương y cứ pháp, y cứ pháp,
tôn kính pháp, kính trọng pháp, tôn trọng pháp, lấy pháp làm tràng phan, lấy
pháp làm ngọn cờ, lấy pháp làm tăng thượng, sắp đặt một sự phòng hộ,
bảo vệ, chế ngự đúng pháp giữa các Tỷ-kheo, sau khi sắp đặt một sự
phòng hộ, bảo vệ, chê ngự đúng pháp giữa các Tỷ-kheo ni, sau khi sắp
đặt một sự bảo vệ, phòng hộ đúng pháp giữa các nữ cư sĩ, Như Lai
làm cho chuyển vận Vô thượng pháp luân với pháp, bánh xe ấy không một
Sa-môn hay Bà-la-môn, Thiên Ma hay Phạm thiên, hay bất cứ ai ở đời có thể
chuyển ngược lại.
(IV) (134) TẠI MỖI PHƯƠNG HƯỚNG
1. - Thành tựu năm chi phần, này
các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh sống tại phương hướng
nào, vị ấy sống trong lĩnh vực mình chiếm đoạt được. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vua
Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh, thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ,
huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào,
một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; là nhà giàu có, đại
phú, sung túc tài sản, ngân khố, kho lúa sung mãn; có uy lực, đầy đủ bốn
loại binh chủng trung thành và sẵn sàng tuân lệnh. Vị tư lệnh là bậc
Hiền trí, tinh luyện, sáng suốt và có suy tư về những vấn đề quá khứ,
vị lai, hiện tại. Và bốn pháp này khiến danh xưng vị ấy được chín
muồi. Thành tựu với pháp danh xưng thứ năm này, tại phương hướng nào
vị ấy trú ở, vị ấy sống trong lãnh vực mình chiếm đoạt được. Vì
sao? Vì như vậy là địa hạt của những người thắng trận. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, thành tựu nam pháp, Tỷ-kheo sống tại phương hướng nào, vị
ấy sống với tâm giải thoát. Thế nào là năm?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có giới, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn, đầy đủ oai
nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhiệm, chấp nhận, và học
tập trong các học pháp. Như vậy giống như vua Sát-đế-ly đã làm lễ
quán đảnh, đầy đủ về thọ sanh. Vị ấy là bậc nghe nhiều, thọ trì
điều được nghe, tích tập điều được nghe, đối với các pháp sơ thiện,
trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, tán thán Phạm hạnh hoàn toàn
viên mãn thanh tịnh, đối với các pháp như vậy được nghe nhiều, được
thọ trì, được ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý quan sát, khéo thể
nhập nhờ chánh kiến. Giống như vua Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh,
giàu có, đại phú, sung túc tài sản, ngân khố, kho lúa sung mãn, phóng tinh
cần tinh tấn đoạn trừ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp,
nỗ lực, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp. Giống
như vua Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh, đầy đủ uy lực, có trí tuệ,
thành tựu với trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập thuộc bậc
Thánh vào con đường đưa đến đoạn tận khổ đau. Giống như vua Sát-đế-ly
đã làm lễ quán đảnh, đầy đủ với vị tư lệnh. Bốn pháp này khiến
sự giải thoát của vị ấy được chín muồi. Thành tựu với pháp giải
thoát thứ năm này, vị ấy trú tại phương hướng nào, vị ấy trú với
tâm giải thoát. Vì sao? Vì như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là (địa hạt)
của những tâm giải thoát.
(V) (135) MỤC ĐÍCH (1)
1. - Thành tựu năm chi phần, này
các Tỷ-kheo, con trưởng của vua Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh có hy
vọng về quốc độ. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con trưởng
của vua Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh, thiện sanh cả từ mẫu hệ và
phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một
vết nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; đẹp
trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người với dung sắc thù thắng như hoa
sen, được cha mẹ thương yêu ưa thích, được dân chúng quốc độ thị
trấn thương yêu ưa thích; đối với các nghề nghiệp thuộc vua Sát-đế-ly
đã làm lễ quán đảnh, như nghề voi, ngựa, xe, cung và chuôi gươm, vị
ấy hoàn toàn được huấn luyện. Vị ấy suy nghĩ như sau : "Ta được
thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến
bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề
huyết thống thọ sanh; tại sao ta lại không đặt hy vọng về quốc độ?
Ta đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người với dung sắc thù thắng
như hoa sen, tại sao ta lại không đặt hy vọng về quốc độ? Ta được
cha mẹ thương yêu ưa thích, tại sao ta lại không đặt hy vọng về quốc
độ? Ta được dân chúng quốc độ thị trấn thương yêu ưa thích, tại
sao ta lại không đặt hy vọng về quốc độ? Đối với các nghề nghiệp
thuộc vua Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh như nghề voi, ngựa xe, cung và
chuôi gươm ta hoàn toàn được huấn luyện, tại sao ta lại không đặt hy
vọng về quốc độ?"
Thành tựu năm chi phần này, này
các Tỷ-kheo, con trưởng của vua Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh đặt
hy vọng vào quốc độ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu năm pháp, Tỷ-kheo
đặt hy vọng vào sự đoạn diệt các lậu hoặc. Thế nào là năm?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ
kheo có lòng tin ở sự giác ngộ của Như Lai: "Đây là Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn". Tỷ-kheo
ấy ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh quá,
không nóng quá, trung bình, hợp với tinh tấn. Tỷ-kheo ấy không lừa đảo,
dối gạt, nêu rõ tự mình như chân đối với bậc Đạo sư, đối với các
vị sáng suốt, hay đối với các vị đồng Phạm hạnh. Tỷ-kheo ấy sống
tinh cần tinh tấn, từ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu với các thiện
pháp. Tỷ-kheo ấy. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Ta có lòng tin ở sự giác
ngộ của Như Lai: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán,...Phật, Thế
Tôn". Tại sao ta lại không đặt hy vọng vào sự đoạn diệt các lậu
hoặc? Ta ấy ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh
quá, không nóng quá, trung bình, hợp với tinh tấn,. Ta không lừa đảo, dối
gạt, nêu rõ tự mình như chân đối với bậc Đạo sư, đối với các vị
sáng suốt, hay đối với các vị đồng Phạm hạnh, tại sao ta lại không
đặt hy vọng vào sự đoạn diệt các lậu hoặc?. Ta sống tinh cần tinh tấn,
từ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, nỗ lực, kiên
trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp, tại sao ta lại
không đặt hy vọng vào sự đoạn diệt các lậu hoặc? Ta có trí tuệ,
thành tựu trí tuệ hướng đến sanh diệt của các pháp, thành tựu sự thể
nhập thuộc bậc Thánh, đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau, tại
sao ta lại không đặt hy vọng vào sự đoạn diệt các lậu hoặc?"
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đặt hy vọng và sự đoạn diệt các lậu hoặc.
(VI) (136) MỤC ĐÍCH (2)
1. - Thành tựu năm chi phần, này
các Tỷ-kheo, con trưởng của vua Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh đặt
hy vọng về phó vương. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con trưởng
của vua Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh, thiện sanh cả từ mẫu hệ và
phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một
vết nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; đẹp
trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người với dung sắc thù thắng như hoa
sen; được cha mẹ thương yêu, ưa thích; được quân đội thương yêu, ưa
thích; có trí tuệ, thiện xảo, thông minh, có khả năng suy nghĩ những vấn
đề quá khứ, tương lai, hiện tại. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Ta được
thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến
bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề
huyết thống thọ sanh; tại sao ta lại không đặt hy vọng vào địa vương
phó vương? Ta đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người với dung sắc
thù thắng như hoa sen, tại sao ta lại không đặt hy vọng vào địa vị phó
vương? Ta được cha mẹ thương yêu, ưa thích, tại sao ta lại không đặt
hy vọng vào địa vị phó vương? Ta được quân đội thương yêu, ưa thích;
tại sao ta lại không đặt hy vọng vào địa vị phó vương? Ta là bậc có
trí tuệ, thiện xảo, thông minh, có khả năng suy nghĩ những vấn đề quá
khứ, tương lai, hiện tại; tại sao ta lại không đặt hy vọng vào địa vị
phó vương?".
Thành tựu năm chi phần này, này
các Tỷ-kheo, con trưởng của vua Sát-đế-ly đã làm lễ quán đảnh đặt
hy vọng vào địa vị phó vương. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thành tựu năm pháp đặt hy vọng vào sự đoạn diệt các lậu hoặc. Thế
nào là năm?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có giới, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn, đầy đủ oai
nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhiệm, chấp nhận, và học
tập trong các học pháp; là bậc nghe nhiều, giữ gìn điều được nghe, tích
tập điều được nghe, đối với các pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện,
có nghĩa, có văn, tán thán Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh, đối
với các pháp như vậy, được nghe nhiều, được thọ trì, đã được ghi
nhớ nhờ đọc tụng, chuyên ý quán sát, khéo thể nhập nhờ chánh kiến;
đối với Bốn niệm xứ, tâm khéo an trú; vị ấy sống tinh cần tinh tấn
đoạn trừ các pháp bất thiện, làm cho thành tựu các thiện pháp, nỗ lực,
kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp; có trí tuệ,
thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập thuộc bậc Thánh
vào con đường đưa đến đoạn tận khổ đau. Vị ấy suy nghĩ như sau:
"Ta có giới, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn, đầy đủ
oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhiệm, ta chấp nhận
và học tập các thiện pháp; tại sao ta lại không đặt hy vọng vào sự
hoại diệt các lậu hoặc? Ta là người nghe nhiều, gìn giữ điều được
nghe, tích tập điều được nghe. Đối với các pháp sơ thiện, trung thiện,
hậu thiện, có nghĩa, có văn, tán thán Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh
tịnh, đối với các pháp như vậy, ta được nghe nhiều, được thọ trì,
được ghi nhớ nhờ đọc tụng, chuyên ý quán sát, khéo thể nhập nhờ
chánh kiến; tại sao ta lại không đặt hy vọng vào sự hoại diệt các lậu
hoặc? Ta khéo an trú tâm ta vào Bốn niệm xứ; tại sao ta lại không đặt
hy vọng vào sự hoại diệt các lậu hoặc? Ta sống tinh cần tinh tấn, đoạn
trừ các pháp bất thiện, làm cho thành tựu các thiện pháp, nỗ lực,
kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp; tại sao ta lại
không đặt hy vọng vào sự hoại diệt các lậu hoặc? Ta là bậc có trí
tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập thuộc bậc
Thánh vào con đường đưa đến đoạn tận khổ đau; tại sao ta lại không
đặt hy vọng vào sự hoại diệt các lậu hoặc?"
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đặt hy vọng vào sự hoại diệt các lậu hoặc.
(VII) (137) NGỦ RẤT ÍT
1. - Năm hạng người này, này các
Tỷ-kheo, ban đêm ngủ ít, thức nhiều. Thế nào là năm?
2. Người đàn bà, này các Tỷ-kheo,
thao thức đến đàn ông, ban đêm ngủ ít thức nhiều. Người đàn ông,
này các Tỷ-kheo, thao thức đến đàn bà, ban đêm ngủ ít thức nhiều. Người
ăn trộm, này các Tỷ-kheo, thao thức đến đồ ăn trộm, ban đêm ngủ ít
thức nhiều. Vị vua, này các Tỷ-kheo, lo lắng các công việc của vua, ban
đêm ngủ ít thức nhiều. Vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, thao thức đến ly
hệ phược, ban đêm ngủ ít thức nhiều.
Năm hạng người này, này các Tỷ-kheo,
ban đêm ngủ ít thức nhiều.
(VIII) (138) ĂN CÁC ĐỒ THỰC VẬT
1. - Thành tựu năm chi phần, này
các Tỷ-kheo, một con voi của vua ăn đồ ăn nhiều, choán chiếm nhiều chỗ,
vung vãi đại tiện, nắm giữ thẻ đồ ăn được gọi là con voi của vua.
Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua không kham nhẫn các sắc, không kham nhẫn các tiếng, không kham nhẫn
các hương, không kham nhẫn các vị, không kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ-kheo,
một con voi của vua ăn đồ ăn nhiều, choán chiếm nhiều chỗ, vung vãi đại
tiện, nắm giữ thẻ đồ ăn được gọi là con voi của vua. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, thành tựu năm pháp, Tỷ-kheo ăn đồ ăn nhiều, choán chiếm
nhiều chỗ, làm đổ giường nằm và nắm giữ thẻ đồ ăn, được xem chỉ
là một Tỷ-kheo. Thế nào là năm?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không kham nhẫn các sắc, không kham nhẫn các tiếng, không kham nhẫn các hương,
không kham nhẫn các vị, không kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo ăn đồ ăn nhiều, choán chiếm nhiều chỗ, làm đổ giường
nằm và nắm giữ phiếu đồ ăn, vị ấy được gọi chỉ là một Tỷ-kheo.
(IX) (139) KHÔNG CÓ THỂ KHAM NHẪN
1. - Thành tựu năm chi phần, này
các Tỷ-kheo, con voi của vua không xứng đáng cho vua, không là tài sản của
vua không được xem là một biểu tượng của vua. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua không kham nhẫn các sắc, không kham nhẫn các tiếng, không kham nhẫn
các hương, không kham nhẫn các vị, không kham nhẫn các xúc. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là con voi của vua không kham nhẫn các sắc?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua, khi đi đến chiến trận, thấy đoàn voi hay thấy đoàn ngựa, hay
thấy đoàn xe, hay thấy đoàn bộ binh đã chùn chân, rủn chí, không còn
can đảm, không thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua không kham nhẫn đối với các sắc. Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là con voi của vua không kham nhẫn các tiếng?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua, đi đến chiến trận, khi nghe tiếng voi, nghe tiếng ngựa, nghe tiếng
xe, nghe tiếng bộ binh, hay nghe tiếng trống lớn, thanh la, tiếng tù và, tiếng
trống nhỏ, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể tham
gia chiến trận. Như vậy, này các Tỷ-kheo, con voi của vua không kham nhẫn
các tiếng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua không kham nhẫn
các hương?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua đi đến chiến trận, khi đó ngửi mùi phân và nước tiểu của các
con voi của vua thuộc loại quý chủng đã quen chiến trận, liền chùn
chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể tham gia chiến trận. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là con voi của vua không kham nhẫn các hương. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua không kham nhẫn các vị?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua khi đi đến chiến trận, chán ngấy một máng cỏ và nước, hay chán
ngấy hai, ba, bốn hay năm máng cỏ và nước, liền chùn chân, rủn chí,
không còn can đảm, không thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là con voi của vua không kham nhẫn các vị. Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là con voi của vua không kham nhẫn các xúc?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua đi đến chiến trận, khi bị trúng một mũi tên, hay hai, hay ba, hay
bốn, hay năm mũi tên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không
thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua
không kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ-kheo,
một con voi của vua không xứng đáng của vua, không là tài sản của vua,
không được xem là một biểu tượng của vua. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
một vị Tỷ-kheo thành tựu năm pháp không đáng cung kính, không đáng tôn
trọng, không đáng cúng dường, không đáng chắp tay, không còn là phước
điền vô thượng ở đời. Thế nào là năm?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không kham nhẫn các sắc, không kham nhẫn các tiếng, không kham nhẫn các hương,
không kham nhẫn các vị, không kham nhẫn các xúc. Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là vị Tỷ-kheo không kham nhẫn các sắc?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc liền tham đắm các sắc khả ái, tâm không thể động
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không kham nhẫn các sắc. Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không kham nhẫn các tiếng?
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi tai nghe tiếng liền tham đắm các tiếng khả ái, tâm không thể động
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không kham nhẫn các tiếng. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không kham nhẫn các hương?
11. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mũi ngửi hương liền tham đắm các hương khả ái, tâm không thể động
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không kham nhẫn các hương. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không kham nhẫn các vị?
12. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi lưỡi nếm vị liền tham đắm các vị khả ái, tâm không thể động
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không kham nhẫn các vị. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo không kham nhẫn các xúc?
13. Ở đây, này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi thân cảm xúc liền tham đắm các xúc khả ái, tâm không thể động
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không đáng được cung kính, không đáng được tôn trọng, không
đáng được cúng dường, không đáng được chắp tay, không còn là vô thượng
phước điền ở đời.
14. Thành tựu năm chi phần, này
các Tỷ-kheo, con voi của vua xứng đáng cho vua dùng, là tài sản của vua,
và được xem là một biểu tượng của vua. Thế nào là năm?
15. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con
voi của vua kham nhẫn các sắc, kham nhẫn các tiếng, kham nhẫn các hương,
kham nhẫn các vị, kham nhẫn các xúc. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con
voi của vua kham nhẫn các sắc?
16. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con
voi của vua, đi đến chiến trận, khi thấy đoàn voi hay khi thấy đoàn ngựa,
hay khi thấy đoàn xe, hay khi thấy đoàn bộ binh, liền không chùn chân, rủn
chí, có đủ can đảm, có thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
con voi của vua kham nhẫn các sắc. Và thế nào, này các Tỷ-kheo, con voi của
vua kham nhẫn các tiếng?
17. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con
voi của vua, đi đến chiến trận, khi nghe tiếng voi, hay khi nghe tiếng ngựa,
hay khi nghe tiếng xe, hay khi nghe tiếng bộ binh, hay khi nghe tiếng trống lớn,
thanh la, tù và, trống nhỏ, không chùn chân, không rủn chí, có đủ can đảm,
có thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua
kham nhẫn các tiếng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua kham
nhẫn các hương?
18. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con
voi của vua đi đến chiến trận, đối với các con voi của vua thuộc loại
quý chủng, quen thuộc chiến trận, khi nó ngửi mùi phân và nước tiểu của
những con voi ấy, nó không chùn chân, không rủn chí, có đủ can đảm, có
thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các Tỷ-kheo, con voi của vua kham nhẫn
các hương. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua kham nhẫn các vị?
19. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con
voi của vua đi đến chiến trận, khinh miệt một máng cỏ và nước, hoặc
hai, hoặc ba, hoặc bốn hoặc năm máng cỏ và nước, không chùn chân,
không rủn chí, có đủ can đảm, có thể tham gia chiến trận. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, con voi của vua kham nhẫn các vị. Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là con voi của vua kham nhẫn các xúc?
20. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con
voi của vua đi đến chiến trận, khi bị một mũi tên bắn trúng, hoặc
hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, không chùn chân, không rủn chí, có đủ
can đảm, có thể tham gia chiến trận. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con
voi của vua kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm chi phần này, này
các Tỷ-kheo, con voi của vua xứng đáng cho vua, là tài sản của vua, và
được gọi là biểu tượng của vua. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu
năm pháp, vị Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng
được cúng dường, đáng được chắp tay, là vô thượng phước điền
ở đời. Thế nào là năm?
21. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
kham nhẫn các sắc, kham nhẫn các tiếng, kham nhẫn các hương, kham nhẫn các
vị, kham nhẫn các xúc. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo kham nhẫn
các sắc?
22. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc, không tham đắm các sắc khả ái, có thể giữ tâm định
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn các sắc. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là Tỷ-kheo kham nhẫn các tiếng?
23. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi tai nghe tiếng, không tham đắm các tiếng khả ái, có thể giữ tâm định
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn các tiếng. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo kham nhẫn các hương?
24. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mũi ngửi các hương, không tham đắm các hương khả ái, có thể giữ
tâm định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn các hương. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo kham nhẫn các vị?
25. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi lưỡi nếm các vị, không tham đắm các vị khả ái, có thể giữ tâm
định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn các vị. Và thế
nào, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo kham nhẫn các xúc?
26. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi thân cảm các xúc, không tham đắm các xúc khả ái, có thể giữ tâm định
tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn các xúc.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường,
đáng được chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời.
(X) (140) BIẾT NGHE
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, con voi của vua xứng đáng cho vua, là tài sản của vua, và
được xem là một biểu tượng của vua. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua biết nghe, biết sát hại, biết phòng hộ, biết kham nhẫn, biết
đi đến. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua biết nghe?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua, khi người nài sai làm một công tác hoặc đã làm từ trước, hoặc
chưa làm từ trước, nhiệt tâm tác ý, hoàn toàn chú tâm, lóng tai và nghe.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết nghe. Và này các T3-kheo,
thế nào là con voi của vua biết sát hại?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua đi đến chiến trận, giết voi, giết kẻ cưỡi voi, giết ngựa,
giết kẻ cưỡi ngựa, phá xe, giết kẻ cưỡi xe, giết các bộ binh. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết sát hại. Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là con voi của vua biết phòng hộ?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đi đến
chiến trận, con voi của vua phòng hộ phần thân trước, phòng hộ phần
thân sau, phòng hộ đầu, phòng hộ tai, phòng hộ ngà, phòng hộ vòi, phòng
hộ đuôi, phòng hộ người cưỡi voi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, con voi của
vua biết phòng hộ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua biết
kham nhẫn?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua khi lâm trận, kham nhẫn bị thương đâm, kham nhẫn bị kiếm đâm,
kham nhẫn bị trúng tên, kham nhẫn các thứ tiếng, như tiếng trống lớn,
tiếng thanh la, tiếng tù và, tiếng trống nhỏ. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
con voi của vua biết kham nhẫn. Này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của
vua biết đi đến?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi
của vua, khi người nài (huấn luyện voi) sai đi về hướng nào, hoặc trước
kia đã có đi, hay trước kia chưa có đi, liền mau mắn đi về chỗ ấy.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, con voi của vua biết đi đến.
Thành tựu năm chi phần này, này
các Tỷ-kheo, con voi của vua xứng đáng là của vua, là tài sản của vua,
và được gọi là một biểu tượng của vua. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
thành tựu năm pháp, vị Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính, xứng đáng
được tôn trọng, xứng đáng được cúng dường, xứng đáng được chắp
tay, là vô thượng phước điền ở đời. Thế nào là năm?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
là người biết nghe, biết sát hại, biết phòng hộ, biết kham nhẫn, biết
đi đến. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết nghe?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi Pháp và Luật do Như Lai thuyết được thuyết giảng, nhiệt tâm, tác
ý, hoàn toàn chú tâm lắng tai nghe pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
biết nghe. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết sát hại?
10. Ở dây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đối với các dục tâm đã khởi lên, không có gìn giữ, nhưng từ bỏ, gột
sạch, làm cho hoại diệt, làm cho đi đến không hiện hữu; đối với sân
tầm đã sanh...đối với các hại tầm đã sanh...đối với các pháp ác, bất
thiện đã sanh hay chưa sanh, không có gìn giữ nhưng từ bỏ, gột sạch, làm
cho hoại diệt, làm cho đi đến không hiện hữu. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là Tỷ-kheo biết sát hại. Và thế nào, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết
phòng hộ?
11. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì vì nhãn căn không được bảo vệ, khiến cho tham ái,
ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo tự chế ngự nguyên nhân
ấy hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng...khi
mũi ngửi hương...khi lưỡi nếm vị...khi thân cảm xúc...khi ý nhận thức
các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì vì ý căn không được chế ngự, khiến cho tham ái,
ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy,
hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Như vậy, này các Ty-kheo, là
Tỷ-kheo biết phòng hộ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết
kham nhẫn?
12. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
kham nhẫn lạnh, nóng, đói khát, sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức
nóng mặt trời, các loài bò sát, những cách nói mạ lỵ, phỉ báng, các cảm
thọ về thân, những cảm thọ thống khổ, khốc liệt, nhói đau, chói
đau, không sung sướng, không thích thú, chết điếng người. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo kham nhẫn. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo
biết đi đến?
13. Ở đây, này các Tỷ-kheo, phương
hướng nào trước kia chưa từng đi, tại đây mọi hành được chỉ tịnh,
mọi sanh y được từ bỏ, ái được đoạn diệt, ly tham, hoại diệt, Niết-bàn,
vị ấy đi đến chỗ ấy một cách mau chóng. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là vị Tỷ-kheo biết đi đến.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng
dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời.
XV. PHẨM TIKANDAKI
(I) (141) CHO LÀ KHINH
1. - Năm hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là năm?
2. Sau khi cho, khinh rẽ; sau khi cùng
sống, khinh rẽ; miệng nuốt tất cả; người không vững chắc; người ám
độn ngu si. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người sau khi cho, khinh miệt?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người cho người khác các đồ nhu yếu như y áo, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh. Vị ấy suy nghĩ: "Ta là người cho, người
này là người nhận". Sau khi cho, vị ấy khinh rẽ (người nhận).
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng
người sau khi cho, khinh rẽ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người,
sau khi sống chung, khinh rẽ?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người cùng sống với người, hai hay ba năm. Do sống với người ấy, vị
ấy khinh rẽ người ấy.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng
người sau khi sống chung, khinh rẽ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người miệng nuốt tất cả?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
khi nghe người ta tán thán hay chỉ trích người khác, liền mau mắn thích
thú.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng
người miệng nuốt tất cả. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người
không vững chắc?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
có lòng tin nhỏ bé, có lòng tín ngưỡng nhỏ bé, có lòng ái mộ nhỏ bé,
có tịnh tín nhỏ bé.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng
người không vững chắc. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người ám
độn ngu si?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
không biết các pháp thiện, bất thiện, không biết các pháp tội, không tội,
không biết các pháp hạ liệt, thù thắng, không biết các pháp dự phần
đen trắng.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng
người ám độn ngu si.
Năm hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, hiện hữu ở đời.
(II) (142) LÀM SAI LẠC
1. - Có năm hạng người này, này
các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
làm điều vi phạm và hối hận, không như thật biết tâm giải thoát, tuệ
giải thoát ấy; chính ở đây, các pháp ác bất thiện ấy khởi lên được
đoạn diệt, không có dư tàn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm điều
vi phạm, nhưng không hối hận, không như thật biết tâm giải thoát, tuệ
giải thoát ấy; chính ở đây, các pháp ác bất thiện ấy khởi lên được
đoạn diệt, không có dư tàn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người
không làm điều vi phạm, có hối hận, không như thật biết tâm giải
thoát, tuệ giải thoát ấy; chính ở đây, các pháp ác bất thiện ấy khởi
lên được đoạn diệt, không có dư tàn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người không làm điều vi phạm, không có hối hận, không như thật biết
tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; chính ở đây, các pháp ác bất thiện
ấy khởi lên được đoạn diệt, không có dư tàn. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
có hạng người không làm điều vi phạm, không có hối hận, và như thật
biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy; chính ở đây, các pháp ác bất
thiện ấy khởi lên được đoạn diệt, không có dư tàn.
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng
người này làm điều vi phạm và hối hận, không như thật biết tâm giải
thoát, tuệ giải thoát ấy; chính ở đây, các pháp ác bất thiện ấy khởi
lên được đoạn diệt không có dư tàn. Hạng người này cần phải được
nói như sau: "Các lậu hoặc được sanh do làm điều vi phạm đã có mặt
nơi Tôn giả. Các lậu hoặc được sanh do hối hận được tăng trưởng.
Lành thay, nếu Tôn giả sau khi đoạn tận các lậu hoặc được sanh do làm
điều vi phạm, sau khi loại bỏ các lậu hoặc được sanh do hối hận, hãy
tu tập tâm và tuệ! Như vậy, Tôn giả sẽ trở thành đồng đẳng với hạng
người thứ năm ấy".
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng người
làm điều vi phạm, nhưng không hối hận, và không như thật rõ biết tâm
giải thoát, tuệ giải thoát ấy; chính ở đây các pháp ác bất thiện ấy
đã sanh, được đoạn diệt không có dư tàn. Người này cần phải được
nói như sau: "Các lậu hoặc được sanh do làm điều vi phạm đã có mặt
nơi Tôn giả. Các lậu hoặc được sanh do hối hận không có tăng trưởng.
Lành thay, nếu Tôn giả sau khi đoạn tận các lậu hoặc được sanh do làm
điều vi phạm, hãy tu tập tâm và tuệ! Như vậy, Tôn giả sẽ trở thành
đồng đẳng với hạng người thứ năm ấy".
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng người
này không làm điều vi phạm, có hối hận, không như thật biết tâm giải
thoát, tuệ giải thoát ấy; chính ở đây các pháp ác bất thiện ấy đã
sanh, được đoạn diệt không có dư tàn. Người này cần phải được nói
như sau: "Các lậu hoặc được sanh do làm điều vi phạm không có mặt
nơi Tôn giả. Các lậu hoặc được sanh do hối hận có tăng trưởng. Lành
thay, nếu Tôn giả sau khi loại bỏ các lậu hoặc được sanh do hối hận,
hãy tu tập tâm giải thoát, tuệ giải thoát! Như vậy, Tôn giả sẽ trở
thành đồng đẳng với hạng người thứ năm ấy".
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng người
này không làm điều vi phạm, không hối hận, không như thật biết tâm giải
thoát, tuệ giải thoát ấy; chính ở đây các pháp ác bất thiện ấy đã
sanh được đoạn diệt không có dư tàn. Người này cần phải được nói
như sau: "Các lậu hoặc được sanh do làm điều vi phạm không có mặt
nơi Tôn giả. Các lậu hoặc được sanh do hối hận không có tăng trưởng.
Lành thay, Tôn giả hãy tu tập tâm và tuệ! Như vậy, Tôn giả sẽ trở
thành đồng đẳng với hạng người thứ năm ấy".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, bốn hạng
người này, với hạng người thứ năm được giáo giới như vậy, được
khuyên dạy như vậy, dần dần đạt đến sự đoạn diệt các lậu hoặc.
(III) (143) TẠI ĐỀN SÀRANDADA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Vesàlì, tại Đại Lâm, chỗ giảng đường có nóc nhọn. Rồi Thế Tôn
vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Vesàlì để khất thực.
Lúc bấy giờ, khoảng 500 người
Licchavì đang ngồi tụ họp tài đền Sàrandada, và câu chuyện sau đây được
khởi lên:
2. "Sự hiện hữu của năm châu
báu khó tìm được ở đời. Thế nào là năm?
Sự hiện hữu của voi báu khó tìm
được ở đời; Sự hiện hữu của ngựa báu khó tìm được ở đời; Sự
hiện hữu của ngọc báu khó tìm được ở đời; Sự hiện hữu của nữ
báu khó tìm được ở đời; Sự hiện hữu của cư sĩ báu khó tìm được
ở đời.
Sự hiện hữu của năm châu báu
này khó tìm được ở đời".
3. Rồi các người Licchavì ấy đặt
một người ở trên đường và nói:
- Này Bạn, khi nào Bạn thấy Thế
Tôn đi đến, hãy báo cho chúng tôi biết.
Người ấy thấy Thế Tôn từ xa
đi đến, thấy vậy, liền đi đến các người Licchavì và nói:
- Thưa Quý vị, Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ấy đã đến. Nay Quý vị hãy làm những gì Quý
vị nghĩ là hợp thời!
Rồi các người Licchavì ấy đi đến
Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một
bên, các người Licchavì ấy bạch Thế Tôn:
- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế
Tôn đi đến đền Sàrandada vì lòng thương tưởng chúng con!
Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi
Thế Tôn đi đến đền Sàrandada, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã
soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với các người Licchavì ấy:
- Này các Licchavì, hôm nay các Ông
ngồi tụ họp, nói đến vấn đề gì? Và vấn đền gì giữa các Ông đã
bị gián đoạn?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con
đang ngồi tụ họp, vấn đề này được khởi lên: "Sự hiện hữu của
năm châu báu khó tìm được ở đời. Thế nào là năm? Sự hiện hữu của
voi báu khó tìm được ở đời; Sự hiện hữu của ngựa báu khó tìm được
ở đời; Sự hiện hữu của ngọc báu khó tìm được ở đời; Sự hiện
hữu của nữ báu khó tìm được ở đời; Sự hiện hữu của cư sĩ báu
khó tìm được ở đời. Sự hiện hữu của năm châu báu này khó tìm được
ở đời!".
4. - Đối với các Ông, người
Licchavì đang thiên nặng về dục, cuộc nói chuyện y cứ trên đục được
khởi lên. Này các Licchavì, sự hiện hữu của năm châu báu này khó tìm
được ở đời. Và thế nào là năm?
Sự hiện hữu của Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khó tìm được ở đời. Hạng người có thể
thuyết giảng Pháp và Luật do Như Lai tuyên bố khó tìm được ở đời.
Người hiểu được lời thuyết giảng về Pháp là Luật do Như Lai tuyên bố
khó tìm được ở đời. Người đem thực hành các pháp và tùy pháp được
hiểu từ lời thuyết giảng về Pháp và Luật do Như Lai tuyên bố khó tìm
được ở đời. Người biết ơn, và nhớ ơn khó tìm được ở đời.
Sự hiện hữu của năm châu báu
này, này các Licchavì, khó tìm được ở đời.
(IV) (144) TẠI RỪNG TIKANDAKI
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàketa, tại rừng Tikandaki. Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo!
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Lành thay, này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo thỉnh thoảng sống với tưởng ghê tởm đối với các vật không
ghê tởm! Lành thay, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo thỉnh thoảng sống với
tưởng không ghê tởm đối với vật ghê tởm! Lành thay, này các Tỷ-kheo,
nếu Tỷ-kheo thỉnh thoảng sống với tưởng ghê tởm đối với các vật
không ghê tởm và ghê tởm! Lành thay, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo thỉnh thoảng sống với tưởng không ghê tởm! Lành thay, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sau khi từ bỏ cả hai vật không ghê tởm và ghê tởm,
trú xả, chánh niệm tỉnh giác! Và này các Tỷ-kheo, do duyên lợi ích gì,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể trú với tưởng ghê tởm đối với vật
không ghê tởm?
3. "Mong rằng, đối với các
pháp khả ái, tham chớ có khởi lên nơi ta". Do duyên lợi ích này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nên sống với tưởng ghê tởm đối với vật không
ghê tởm. Và này các Tỷ-kheo, do duyên lợi ích thế nào. Tỷ-kheo nên sống
với tưởng không ghê tởm đối với vật ghê tởm?
4. "Mong rằng đối với các
pháp đáng sân hận, lòng sân chớ có khởi lên nơi ta" Do duyên lợi
ích này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nên sống với tưởng không ghê tởm đối
với vật ghê tởm. Và này các Tỷ-kheo, do duyên lợi ích thế nào. Tỷ-kheo
nên sống với tưởng ghê tởm đối với vật không ghê tởm?
5. "Mong rằng đối với các
pháp khả ái, lòng tham chớ có khởi lên nơi ta. Mong rằng đối với các
pháp đáng sân hận, lòng sân chớ có khởi lên nơi ta". Do duyên lợi
ích này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nên sống với tưởng ghê tởm đối với
vật không ghê tởm và ghê tởm. Và này các Tỷ-kheo, do duyên lợi ích thế
nào. Tỷ-kheo nên sống với tưởng không ghê tởm đối với vật ghê tởm
và không ghê tởm?
6. "Mong rằng đối với các
pháp đáng được sân hận, lòng sân chớ khởi lên nơi ta". Do duyên lợi
ích này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nên sống với tưởng không ghê tởm đối
với vật ghê tởm và không ghê tởm. Và này các Tỷ-kheo, do duyên lợi
ích thế nào, Tỷ-kheo sau khi từ bỏ cả hai vật không ghê tởm và ghê tởm,
trú xả, chánh niệm tỉnh giác?
7. "Mong rằng dầu là vật gì,
tại chỗ nào và như thế nào, đối với các pháp khả ái, lòng tham chớ
có khởi lên nơi ta! Mong rằng dầu là vật gì, tại chỗ nào là như thế
nào, đối với các pháp đáng được sân hận, lòng sân chớ có khởi lên
nơi ta! Mong rằng dầu là vật gì, tại chỗ nào, đối với các pháp có thể
làm cho si mê, lòng si không khởi lên nơi ta!" do duyên lợi ích này,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sau khi từ bỏ cả hai vật không ghê tởm và ghê
tởm, trú xả, chánh niệm tỉnh giác?