- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 9b
- (VI) (26) TRỤ ĐÁ
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Tôn giả Sàriputta và
Tôn giả Candikàputta trú ở Ràjagaha (Vương Xá) tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng
các con sóc. Tại đấy, Tôn giả Candikàputta gọi các Tỷ-kheo, nói rằng:
- Này các Hiền giả, Devadatta thuyết
pháp cho các Tỷ-kheo như sau: "Thưa các Hiền giả, khi nào tâm vị Tỷ-kheo
được khéo tích tậﰠvới trí tuệ, thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy
trả lời như sau: "Ta rõ biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã
thành, việc nên là đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"".
2. Được nói vậy, Tôn giả
Sàriputta nói với Tôn giả Candikàputta:
- Này Hiền giả Candikàputta,
Devadatta không có thuyết pháp cho các Tỷ-kheo nh7 sau: "Thưa các Hiền giả,
khi nào tâm Tỷ-kheo được khéo tích tạo với trí tuệ thời thật hợp
lý cho Tỷ-kheo ấy trả lời như sau: "Ta rõ biết: "Sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng
thái này nữa"". Này Hiền giả Candikàputta. Devadatta thuyết pháp
cho các Tỷ-kheo như sau: "Thưa các Hiền giả, khi nào tâm vị Tỷ-kheo
được khéo tích tập với tâm ý thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy trả
lời như sau: "Ta rõ biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc
nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
3. Lần thứ hai... Lần thứ ba, Tôn
giả Candikàputta bảo các Tỷ-kheo nói rằng:
- Thưa các Hiền giả, Devadatta thuyết
pháp cho các Tỷ-kheo như sau: "Khi nào tâm Tỷ-kheo được khéo tích tập
với trí tuệ thời thật hợp lý cho vị Tỷ-kheo ấy trả lời như sau:
"Ta rõ biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã
làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"".
Lần thứ ba, Tôn giả Sàriputta nói
với Tôn giả Candikàputta:
- Này Hiền giả Candikàputta,
Devadatta không có thuyết pháp cho các Tỷ-kheo như sau: "Thưa các Hiền
giả, khi nào tâm Tỷ-kheo được khéo tích tập với trí tuệ thời thật hợp
lý cho Tỷ-kheo ấy trả lời như sau: "Ta rõ biết: "Sanh đã tận...
không còn trở lui trạng thái này nữa"". Này Hiền giả
Candikàputta. Devadatta thuyết pháp cho các Tỷ-kheo như sau: "Thưa các Hiền
giả, khi nào tâm vị Tỷ-kheo được khéo tích tập với tâm ý thời thật
hợp lý cho Tỷ-kheo ấy trả lời như sau: "Ta rõ biết: "Sanh đã tận...
không còn trở lui trạng thái này nữa".
4. - Và như thế nào, này Hiền giả,
tâm vị Tỷ-kheo được khép tích tập với tâm ý?
- "Ly tham là tâm của ta",
như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với tâm ý. "Ly sân là tâm
của ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với tâm ý.
"Ly si là tâm của ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập
với tâm ý. "Tánh không có tham là tâm của ta", như vậy tâm vị
ấy được khéo tích tập với tâm ý. "Tánh không có sân là tâm của
ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với tâm ý. "Tánh
không có si là tâm của ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập
với tâm ý. "Tánh không chuyển hướng về dục hữu là tâm của
ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với tâm ý. "Tánh
không chuyển hướng về sắc hữu là tâm của ta", như vậy tâm vị
ấy được khéo tích tập với tâm ý. "Tánh không chuyển hướng về vô
sắc hữu là tâm của ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập
với tâm ý.
5. Như vậy, này Hiền giả, với Tỷ-kheo
có tâm chánh giải thoát như vậy, nếu các sắc do mắt nhận thức mạnh mẽ
đi vào giới vực của con mắt, các sắc không chinh phục tâm vị ấy, tâm
được an trú, không bị tạp nhiễm, không bị lay động. Vị ấy tùy quán
sự diệt tận của chúng; nếu các tiếng do tai nhận thức mạnh mẽ đi vào
giới vực của lỗ tai... nếu các hương do mũi nhận thức mạnh mẽ đi vào
giới vực của lỗ mũi... nếu các vị do lưỡi nhận thức mạnh mẽ đi vào
giới vức của lưỡi... nếu các xúc do thân nhận thức mạnh mẽ đi vào
giới vức của ý. Các pháp không chinh phục, tâm vị ấy, tâm được an trú,
không bị tạp nhiễm, không bị lay động. Vị ấy tùy quán sự diệt tận
của chúng. Ví như, này Hiền giả, một trú đá cao mười sáu khuỷu tay,
tám khuỷu tay chôn sâu xuống đất, tám khuỷu tay nổi lên trên, nếu từ
phương Đông, mưa to gió lớn đến, không làm rung động, không làm chuyển
động, không làm chuyển động mạnh trụ đá ấy; nếu từ phương Tây...
nếu từ phương Bắc... nếu từ phương Nam, mưa to gió lớn đến, không
làm rung động, không làm chuyển động, không làm chuyển động mạnh trụ
đá ấy. Vì sao? Này Hiền giả, vì trụ đá được đào sâu, được chôn
sâu. Cũng vậy, này Hiền giả, với Tỷ-kheo có tâm chánh giải thoát như vậy,
nếu các sắc do mắt nhậﮠthức mạnh mẽ đi vào giới vức của con mắt,
các sắc không chinh phục tâm của vị ấy, tâm được an trú không bị tạp
nhiễm, không bị lay động. Vị ấy tùy quán sự diệt tận của chúng. Nếu
các tiếng do tai nhận thức... nếu các pháp do ý nhận thức mạnh mẽ đi
vào giới vức của ý, các pháp không chinh phục tâm vị ấy, tâm được
an trú, không bị tạp nhiễm, không bị lay động. Vị ấy tùy quán sự diệt
tận của chúng.
(VII) (27) SỢ HÃI HẬN THÙ (1)
1. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến
Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế
Tôn nói với gia chủ Anàthapindika đang ngồi xuống một bên:
2. - Này Gia chủ, khi nào năm sợ hãi
hận thù của vị Thánh đệ tử được chỉ tức, thời vị ấy thành tựu
được bốn Dự lưu phần. Nếu vị ấy muốn, có thể tuyên bố về ngã
đối với tự ngã: "Địa ngục đối với ta được đoạn tận, loài
bàng sanh đối với ta được đoạn tận, cõi ngạ quỷ đối với ta được
đoạn tận, cõi dữ, ác thú, đọa xứ đối với ta được đoạn tận. Ta
là vị Dự lưu, không còn thối đọa, chắc chắn đạt đến Chánh
giác".
3. Thế nào là năm sợ hãi hận
thù được chỉ tức?
Này Gia chủ, sợ hãi hận thù do
sát sanh, vì duyên sát sanh, đưa đến trong hiện tại; sợ hãi hận thù
đưa đến trong tương lai, kể cả tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ.
Từ bỏ sát sanh, sợ hãi hận thù không đưa đến trong hiện tại, sợ hãi
hận thù không đưa đến trong tương lai, kể cả không có tâm khổ, tâm
ưu người ấy cảm thọ... Đối với vị từ bỏ sát sanh, như vậy sợ hãi
hận thù được nhiếp phục.
Này Gia chủ, sợ hãi hận thù do lấy
của không cho, vì duyên lấy của không cho đưa đến trong hiện tại; sợ
hãi hận thù đưa đến trong tương lai, kể cả tâm khổ, tâm ưu người
ấy cảm thọ... Đối với vị từ bỏ lấy của không cho, như vậy sự sợ
hãi hận thì được nhiếp phục.
Này Gia chủ, sợ hãi hận thù do sống
tà hạnh trong các dục, vì duyên sống tà hạnh trong các dục đưa đến
trong hiện tại; sợ hãi hận thù đưa đến trong tương lai, kể cả tâm khổ,
tâm ưu người ấy cảm thọ... Đối với vị từ bỏ sống tà hạnh trong
các dục, như vậy sợ hãi hận thù được nhiếp phục.
Này Gia chủ, sợ hãi hận thù do
nói láo, vì duyên nói láo đưa đến trong hiện tại; sự sợ hãi hận thù
đưa đến trong tương lai, kể cả tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ...
Đối với vị từ bỏ nói láo, như vậy sợ hãi hận thù được nhiếp phục.
Này Gia chủ, sợ hãi hận thù do đắm
say rượu men, rượu nấu, vì duyên đắm say rượu men, rượu nấu đưa đến
trong hiện tại; sự sợ hãi hận thù đưa đến trong tương lai, kể cả tâm
khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ... Đối với vị từ bỏ đắm say rượu
men, rượu nấu, như vậy sợ hãi hận thù được nhiếp phục.
Năm sự sợ hãi hận thù này được
nhiếp phục.
4. Thế nào là bốn Dự lưu phần
được đầy đủ?
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ
tử, đầy đủ lòng tin tuyệt đối với đức Phật: "Đây là Thế
Tôn, bậc Ư鮧 Cúng, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn".
Vị ấy đầy đủ lòng tin tuyệt
đối với Pháp: "Đây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện
tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng,
do người trí tự mình giác hiểu".
Vị ấy đầy đủ lòng tin tuyệt
đối đối với chúng Tăng: "Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc
Thiên hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Trực hạnh; chúng Tăng đệ
tử Thế Tôn là bậc Chánh hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Như
pháp hạnh, tức là bốn đôi tám chúng. Chúng Tăng đệ tử này của Thế
Tôn, đáng được cung kính, đang được tôn trọng, đáng được cúng dường,
đáng được chắp tay, là vô thượng phước điền ở trên đời. Các vị
ấy đầy đủ các giới đức được bậc Thánh quý mến, không bị bể vụn,
không bị hủy hoại, không có tỳ vết, không có vết nhơ, đưa đến tự
do, được người trí tán thán, không bị nhiễm trước, đưa đến Thiền
định. Bốn Dự lưu phần này được thành tựu.
(VIII) (28) SỢ HÃI HẬNT HÙ (2)
(Thế Tôn thuyết lại kinh 26 cho
các Tỷ-kheo).
(IX) (29) XUNG ĐỘT SỰ
1. - Này các Tỷ-kheo, có chín xung
đột sự. Thế nào là chín?
2. "Vị ấy đã làm hại
tôi", xung đột khởi lên. "Vị ấy đang làm hại tôi", xung đột
khởi lên. "Vị ấy sẽ làm hại tôi", xung đột khởi lên. "Vị
ấy đã làm hại người tôi thương, tôi mến". "Vị ấy đang làm
hại... Vị ấy sẽ làm hại người tôi thương, tôi mến", xung đột
khởi lên. "VỊ ấy đã làm lợi cho người tôi không thương, không mến"...
Vị ấy đang làm lợi..." Vị ấy sẽ làm lợi cho người tôi không thương,
không mến", xung đột khởi lên.
Này các Tỷ-kheo, đây là chín xung
đột sự.
(X) (30) ĐIỀU PHỤC XUNG ĐỘT SỰ
1. - Này các Tỷ-kheo, có chín điều
phục xung đột sự. Thế nào là chín ?讠"Vị
ấy đã làm hại tôi; có ích lợi gì mà nghĩ như vậy", nhờ vậy xung
đột được điều phục. "Vị ấy sẽ làm hại tôi; có ích lợi gì
mà nghĩ như vậy", nhờ vậy xung đột được điều phục. "Vị
ấy đã làm hại người tôi thương mến; có ích lợi gì mà nghĩ như vậy",
nhờ vậy xung đột được điều phục. "Vị ấy đã làm hại... vị
ấy làm hại người tôi thương tôi mến; có ích lợi gì mà nghĩ như vậy",
nhờ vậy xung đột được điều phục. "Vị ấy đã làm lợi cho người
tôi không thương, không mến"... "Vị ấy đang làm lợi... vị ấy
sẽ làm lợi cho người tôi không thương, không mến, có lợi ích gì mà
nghĩ như vậy", nhờ vậy xung đột được điều phục
Này các Tỷ-kheo, đây là chín xung
đột sự được điều phục.
(XI) (31) CHÍN THỨ ĐỆ DIỆT
1. - Này các Tỷ-kheo, có chín thứ
đệ diệt. Thế nào là chín?
2. Thành tựu sơ Thiền, các dục tưởng
bị đoạn diệt. Thành tựu đệ nhị Thiền, các tầm tứ bị đoạn diệt.
Thành tựu đệ tam Thiền, hỷ bị đoạn diệt. Thành tựu đệ tứ Thiền,
hơi thở vào, hơi thở ra bị đoạn diệt. Thành tựu Không vô biên xứ, sắc
tưởng bị đoạn diệt. Thành tựu Thức vô biên xứ, Không vô biên xứ tưởng
bị đoạn diệt. Thành tựu Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Vô sở hữu xứ
bị đoạn diệt. Thành tựu Diệt thọ tưởng định, các tưởng và các cảm
thọ bị đoạn diệt.
Này các Tỷ-kheo, đây là chín thứ
đệ diệt.
IV. ĐẠI PHẨM
(I) (32) THỨ ĐỆ TRÚ (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có chín thứ
đệ trú này. Thế nào là chín?
2. Này Hiền giả, ở đây có Tỷ-kheo
ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và an trú Thiền thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm và tứ. Diệt tầm và tứ... đệ nhị
Thiền... đệ tam Thiền... chứng và trú Thiền thứ tư. Sau khi vượt qua sắc
tưởng một cách hoàn toàn, sau khi chấm dứt các đối ngại tưởng, không
tác ý các tưởng sai biệt, biết rằng: "Hư không là vô biên", chứng
và trú Không vô biên xứ. Sau khi vượt qua Không vô biên xứ một cách
hoàn toàn, biết rằng: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô
biên xứ. Sau khi vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng:
"Không có sự gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Sau khi vượt qua
Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng
xứ. Sau khi vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, chứng
và trú Diệt thọ tưởng định.
Này các Tỷ-kheo, đây là chín thứ
đệ trú.
(II) (33) THỨ ĐỆ TRÚ (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
về chín Thiền chứng thứ đệ trú này. Hãy lắng nghe... Này các Tỷ-kheo,
thế nào là chín thứ đệ trú Thiền chứng?
2. Chỗ nào các dục đoạn diệt, và
những ai sau khi đoạn diệt các dục, sống an trú, Ta nói rằng: "Chắc
chắn Tôn giả ấy không có dục ái, được tịch tịnh, đã vượt qua, đã
đến bờ bên kia với Thiền chi ấy". Chỗ nào các dục được đoạn
diệt? Những ai sau khi đoạn diệt các dục, sống an trú: "Ta không biết
vậy, Ta không thấy vậy", ai nói như vậy, người ấy cần được nói
như sau: "Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo ly các dục... chứng và an
trú Thiền thứ nhất. Tại đây, các dục được đoạn diệt các dục, sống
an trú". Chắc chắn, này các Tỷ-kheo, người không lường gạt, không
man trá sẽ hoan hỷ, sẽ tùy hỷ với lời nói "Lành thay". Sau khi
hoan hỷ, tùy hỷ với lời nói "Lành thay" người ấy sẽ đảnh lễ,
chắp tay và hầu hạ.
3. Chỗ nào các tầm và tứ được
đoạn diệt, và những ai sau khi đoạn diệt, đoạn diệt tầm và tứ, sống
không an trú, Ta nói rằng: "Chắc chắn các Tôn giả ấy không bỏ dục
ái, được tịch tịnh, đã vượt qua , đã đến bờ bên kia với Thiền
chi ấy". Chỗ nào các tầm và tứ, sống an trú? "Ta không biết vậy,
Ta không thấy vậy", ai nói như vậy, người ấy cần được nói như
sau: "Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo được nói như sau: "Ở đây,
này Hiền giả, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ... chứng và trú Thiền thứ hai.
Tại đây, các tầm và tứ được đoạn diệt, các vị ấy sau khi đoạn
diệt, đoạn diệt tầm và tứ, sống an trú". Chắc chắn, này các Tỷ-kheo,
người không lường gạt, không man trá sẽ hoan hỷ, tùy hỷ với lời nói
"Lành thay". Sau khi hoan hỷ, tùy hỷ với lời nói "Lành
thay" sẽ đảnh lễ, chắp tay và hậu hạ.
4. Chỗ nào hỷ được đoạn diệt,
và những ai sau khi đoạn diệt, đoạn diệt hỷ, sống an trú, Ta nói rằng:
"Chắc chắn các Tôn giả ấy không có dục ái, được tịch tịnh, đã
vượt qua, đã đến bờ bên kia với Thiền chi ấy". Chỗ nào hỷ được
đoạn diệt? Những ai sau khi đoạn diệt, đoạn diệt hỷ, sống an trú.
"Ta không biết vậy, ta không thấy vậy", ai nói như vậy, người
ấy cần được nói như sau: "Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo ly hỷ
trú xả, chứng và trú Thiền thứ ba. Tại đây, hỷ được đoạn diệt. Các
vị ấy sau khi đoạn diệt, đoạn diệt hỷ, sống an trú". Chắc chắn,
này các Tỷ-kheo, người không lường gạt, không man trá sẽ hoan hỷ, sẽ
tùy hỷ với lời nói "Lành thay". Sau khi hoan hỷ, sau khi tùy hỷ với
lời nói "Lành thay" sẽ đảnh lễ, chắp tay và hậu hạ.
5. Chỗ nào xả lạc được đoạn
diệt, và những ai sau khi đoạn diệt, đoạn diệt xả lạc, sống an trú,
Ta nói rằng: "Chắc chắn các Tôn giả ấy không có dục ái, được tịch
tịnh, đã vượt qua, đã đến bờ bên kia với Thiền chi ấy". Chỗ
nào xả lạc được đoạn diệt? Những ai sau khi đoạn diệt, đoạn diệt
xả lạc, sống an trú. "Ta không biết vậy, ta không thấy vậy", ai
nói như vậy, người ấy cần được nói như sau: "Ở đây, này Hiền
giả, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ,... chứng và trú Thiền thứ tư. Tại đây,
xả lạc được đoạn diệt. Các vị ấy sau khi đoạn diệt, đoạn diệt
xả lạc, sống an trú". Chắc chắn, này các Tỷ-kheo, người không giả
dối, không lường gạt sẽ hoan hỷ, sẽ tùy hỷ với lời nói "Lành
thay". Sau khi hoan hỷ, sau khi tùy hỷ với lời nói "Lành thay" sẽ
đảnh lễ, chắp tay và hậu hạ.
6. Chỗ nào sắc tưởng được đoạn
diệt, và những ai sau khi đoạn diệt, đoạn diệt sắc tưởng, sống an trú,
Ta nói rằng: "Chắc chắn các Tôn giả ấy không có dục ái, được tịch
tịnh, đã vượt qua, đã đến bờ bên kia với Thiền chi ấy". Chỗ
nào sắc tưởng được đoạn diệt? Những ai sau khi đoạn diệt, đoạn diệt
sắc tưởng, sống an trú. "Ta không biết vậy, ta không thấy vậy",
ai nói như vậy, người ấy cần được nói như sau: "Ở đây, này Hiền
giả, Tỷ-kheo vượt qua sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các chướng
ngại tưởng, không tác ý các sai biệt tưởng, biết rằng: "Hư không
là vô biên", chứng đạt và an trú "Không vô biên xứ". Ở đây,
các sắc tưởng được đoạn diệt. Các vị ấy sau khi đoạn diệt, đoạn
diệt hỷ, sống an trú". Chắc chắn, này các Tỷ-kheo, người không lường
gạt, không man trá sẽ hoan hỷ, sẽ tùy hỷ với lời nói "Lành
thay". Sau khi hoan hỷ, sau khi tùy hỷ với lời nói "Lành thay" sẽ
đảnh lễ, chắp tay và hậu hạ.
7. Chỗ nào Không vô biên xứ tưởng
được đoạn diệt, và những ai sau khi đoạn diệt, đoạn diệt Không vô
biên xứ tưởng, sống an trú, Ta nói rằng: "Chắc chắn các Tôn giả
ấy không có dục ái, được tịch tịnh, đã vượt qua, đã đến bờ bên
kia với Thiền chi ấy". Chỗ nào Không vô biên xứ tưởng được đoạn
diệt? Những ai sau khi đoạn diệt, đoạn diệt Không vô biên xứ tưởng,
sống an trú. "Ta không biết vậy, ta không thấy vậy", ai nói như vậy,
người ấy cần được nói như sau: "Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo
vượt qua Không vô biên xứ tưởng một cách hoàn toàn, biết rằng:
"Thức là vô biên", chứng và trú "Thức vô biên xứ". Tại
đây, Không vô biên xứ tưởng được đoạn diệt. Các vị ấy sau khi đoạn
diệt Không vô biên xứ tưởng, sống an trú". Chắc chắn, này các Tỷ-kheo,
người không lường gạt, không man trá sẽ hoan hỷ, sẽ tùy hỷ với lời
nói "Lành thay". Sau khi hoan hỷ, sau khi tùy hỷ với lời nói
"Lành thay" sẽ đảnh lễ, chắp tay và hậu hạ.
8. Chỗ nào Thức vô biên xứ tưởng
được đoạn diệt, và những ai sau khi đoạn diệt, đoạn diệt Thức vô
biên xứ tưởng, sống an trú, Ta nói rằng: "Chắc chắn các Tôn giả
ấy không có dục ái, được tịch tịnh, đã vượt qua, đã đến bờ bên
kia với Thiền chi ấy". Chỗ nào Thức vô biên xứ tưởng được đoạn
diệt? Những ai sau khi đoạn diệt, đoạn diệt Thức vô biên xứ tưởng,
sống an trú. "Ta không biết vậy, ta không thấy vậy", ai nói như vậy,
người ấy cần được nói như sau: "Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo
vượt qua Thức vô biên xứ tưởng một cách hoàn toàn, biết rằng:
"Không có vật gì", chứng và trú "Vô sở biên xứ". Tại
đây, Thức vô biên xứ tưởng được đoạn diệt. Các vị ấy, sau khi đoạn
diệt Thức vô biên xứ tưởng, sống an trú". Chắc chắn, này các Tỷ-kheo,
người không lường gạt, không man trá sẽ hoan hỷ, sẽ tùy hỷ với lời
nói "Lành thay". Sau khi hoan hỷ, sau khi tùy hỷ với lời nói
"Lành thay" sẽ đảnh lễ, chắp tay và hậu hạ.
9. Chỗ nào Vô sở hữu xứ tưởng
được đoạn diệt, và những ai sau khi đoạn diệt, đoạn diệt Vô sở hữu
xứ tưởng, sống an trú, Ta nói rằng: "Chắc chắn các Tôn giả ấy
không có dục ái, được tịch tịnh, đã vượt qua, đã đến bờ bên kia
với Thiền chi ấy". Chỗ nào Vô sở hữu xứ tưởng được đoạn diệt?
Những ai sau khi đoạn diệt, đoạn diệt Thức vô biên xứ tưởng, sống
an trú?
"Ta không biết vậy, ta không thấy
vậy", ai nói như vậy, người ấy cần được nói như sau: "Ở đây,
này Hiền giả, Tỷ-kheo vượt Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng
và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ". Tại đây, Vô sở hữu xứ tưởng
được đoạn diệt. Các vị ấy, sau khi đoạn diệt, đoạn diệt Vô sở hữu
xứ tưởng, sống an trú. Chắc chắn, này các Tỷ-kheo, người không lường
gạt, không man trá sẽ hoan hỷ, sẽ tùy hỷ với lời nói "Lành
thay". Sau khi hoan hỷ, sau khi tùy hỷ với lời nói "Lành thay" sẽ
đảnh lễ, chắp tay và hậu hạ.
10. Chỗ nào Phi tưởng phi phi tưởng
xứ tưởng được đoạn diệt, và những ai sau khi đoạn diệt, đoạn diệt
Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng, sống an trú, Ta nói rằng: "Chắc
chắn các Tôn giả ấy không có dục ái, được tịch tịnh, đã vượt
qua, đã đến bờ bên kia với Thiền chi ấy". Chỗ nào Phi tưởng phi
phi tưởng xứ tưởng được đoạn diệt? Những ai sau khi đoạn diệt, đoạn
diệt Thức vô biên xứ tưởng, sống an trú. "Ta không biết vậy, ta
không thấy vậy", ai nói như vậy, người ấy cần được nói như sau:
"Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo vượt Phi tưởng phi phi tưởng xứ một
cách hoàn toàn... chứng và trú Diệt thọ tưởng định". Tại đây,
Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng được đoạn diệt. Các vị ấy, sau
khi đoạn diệt, đoạn diệt Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng, sống an
trú. Chắc chắn, này các Tỷ-kheo, người không lường gạt, không man trá
sẽ hoan hỷ, sẽ tùy hỷ với lời nói "Lành thay". Sau khi hoan hỷ,
sau khi tùy hỷ với lời nói "Lành thay" sẽ đảnh lễ, chắp tay và
hậu hạ.
Này các Tỷ-kheo, đây chín là thứ
đệ trú Thiền chứng.
(III) (34) NIẾT-BÀN
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Tôn giả Sàriputta trú
ở Ràjagaha, tại Veluvana, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Tại đấy, Tôn giả
Sàriputta bảo các Tỷ-kheo:
- Này các Hiền giả, lạc là Niết-bàn
này; này các Hiền giả, lạc là Niết-bàn này.
2. Khi nghe nói vậy, Tôn giả Udàyi
nói với Tôn giả Sàriputta:
- Thưa Hiền giả Sàriputta, sao đây
là lạc, khi ở đây không có cái gì được cảm thọ?
3. - Này Hiền giả, cái này ở đây
là lạc, dầu rằng lạc ấy ở đây không được cảm thọ. Này Hiền giả,
có năm dục trưởng dưỡng này. Thế nào là năm?
Các sắc do mắt nhận thức, khả lạc,
khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai
nhận thức... Các hương do mũi nhận thức... Các vị do lưỡi nhận thức...
Các xúc do thân nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ
đến dục, hấp dẫn.
Này Hiền giả, có năm dục trưởng
dưỡng này. Này Hiền giả do duyên năm dục trưởng dưỡng này khởi lên
lạc hỷ, này Hiền giả, đây gọi là dục lạc.
4. Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo
ly các dục, ly ác, bất thiện pháp... chứng đạt và an trú sơ Thiền. Này
Hiền giả, nếu trong khi Tỷ-kheo ấy trú với an trú này, các tưởng tác
ý câu hữu với dục vẫn hiện hành; như vậy, đối với Tỷ-kheo ấy là
một chứng bệnh. Ví như, này chư Hiền, với một người sung sướng, khổ
đau có thể khởi lên như một chứng bệnh. Cũng vậy, với Tỷ-kheo ấy, các
tưởng tác ý, câu hữu với dục vẫn hiện hành; như vậy, đối với Tỷ-kheo
ấy là một chứng bệnh. Này chư Hiền, chứng bệnh được Thế Tôn gọi
là khổ. Với pháp môn này, này chư Hiền, cần phải hiểu Niết-bàn là lạc.
5. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo
diệt tầm và tứ... đạt được Thiền thứ hai và an trú. Này chư Hiền,
nếu trong khi Tỷ-kheo ấy trú với an trú này, các tưởng tác ý câu hữu với
tầm vẫn hiện hành; như vậy, đối với Tỷ-kheo ấy là một chứng bệnh.
Ví như, này chư Hiền, với một người sung sướng, khổ đau có thể khởi
lên như một chứng bệnh. Cũng vậy, với Tỷ-kheo ấy, các tưởng tác ý
câu hữu với tầm vẫn hiện hành; như vậy đối với Tỷ-kheo ấy là một
chứng bệnh. Này chư Hiền, chứng bệnh được Thế Tôn gọi là khổ. Với
pháp môn này, này chư Hiền, cần phải hiểu Niết-bàn là lạc.
6. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo
ly hỷ... đạt được Thiền thứ ba. Này chư Hiền, nếu trong khi Tỷ-kheo
ấy trú với an trú này, các tưởng tác ý câu hữu với hỷ vẫn hiện
hành; như vậy, đối với Tỷ-kheo ấy là một chứng bệnh. Ví như, này chư
Hiền, với một người sung sướng, khổ đau có thể khởi lên như một chứng
bệnh. Cũng vậy, với Tỷ-kheo ấy, các tưởng tác ý câu hữu với hỷ vẫn
hiện hành; như vậy đối với Tỷ-kheo ấy là một chứng bệnh. Này chư
Hiền, chứng bệnh được Thế Tôn gọi là khổ. Với pháp môn này, này chư
Hiền, cần phải hiểu Niết-bàn là lạc.
7. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo
đoạn lạc... đạt được Thiền thứ tứ. Này chư Hiền, nếu trong khi Tỷ-kheo
ấy trú với an trú này, các tưởng tác ý câu hữu với xả vẫn hiện
hành; như vậy, đối với Tỷ-kheo ấy là một chứng bệnh. Ví như, này chư
Hiền, với một người sung sướng, khổ đau có thể khởi lên như một chứng
bệnh. Cũng vậy, với Tỷ-kheo ấy, các tưởng tác ý câu hữu với xả vẫn
hiện hành; như vậy đối với Tỷ-kheo ấy là một chứng bệnh. Này chư
Hiền, chứng bệnh được Thế Tôn gọi là khổ. Với pháp môn này, này chư
Hiền, cần phải hiểu Niết-bàn là lạc.
8. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo
vượt khỏi các sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các chướng ngại
tưởng, không tác ý đến các tưởng sai biệt, biết rằng: "Hư không
là vô biên" chứng đạt và an trú Không vô biên xứ鮠Này chư Hiền, nếu trong khi Tỷ-kheo ấy trú với an trú
này, các tưởng tác ý câu hữu với sắc vẫn hiện hành; như vậy, đối
với Tỷ-kheo ấy là một chứng bệnh. Ví như, này chư Hiền, với một
người sung sướng, khổ đau có thể khởi lên như một chứng bệnh. Cũng
vậy, với Tỷ-kheo ấy, các tưởng tác ý câu hữu với sắc vẫn hiện
hành; như vậy đối với Tỷ-kheo ấy là một chứng bệnh. Này chư Hiền,
chứng bệnh được Thế Tôn gọi là khổ. Với pháp môn này, này chư Hiền,
cần phải hiểu Niết-bàn là lạc.
9. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo
vượt khỏi Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Thức
là vô biên" chứng và an trú Thức vô biên xứ鮍 Này chư Hiền, nếu trong khi Tỷ-kheo ấy trú với an
trú này, các tưởng tác ý câu hữu với Không vô biên xứ vẫn hiện
hành; như vậy, đối với Tỷ-kheo ấy là một chứng bệnh. Ví như, này chư
Hiền, với một người sung sướng, khổ đau có thể khởi lên như một chứng
bệnh. Cũng vậy, với Tỷ-kheo ấy, các tưởng tác ý câu hữu với Không
vô biên xứ vẫn hiện hành; như vậy đối với Tỷ-kheo ấy là một chứng
bệnh. Này chư Hiền, chứng bệnh được Thế Tôn gọi là khổ. Với pháp
môn này, này chư Hiền, cần phải hiểu Niết-bàn là lạc.
10. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo
vượt khỏi Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Không
có vật gì" chứng và an trú Vô sở hữu xứ鮠Này chư Hiền, nếu trong khi Tỷ-kheo ấy trú với an trú
này, các tưởng tác ý câu hữu với Thức vô biên xứ vẫn hiện hành; như
vậy, đối với Tỷ-kheo ấy là một chứng bệnh. Ví như, này chư Hiền, với
một người sung sướng, khổ đau có thể khởi lên như một chứng bệnh.
Cũng vậy, với Tỷ-kheo ấy, các tưởng tác ý câu hữu với Thức vô biên
xứ vẫn hiện hành; như vậy đối với Tỷ-kheo ấy là một chứng bệnh.
Này chư Hiền, chứng bệnh được Thế Tôn gọi là khổ. Với pháp môn
này, này chư Hiền, cần phải hiểu Niết-bàn là lạc.
11. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo
vượt khỏi Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Phi tưởng
phi phi tưởng xứ鮠Này chư Hiền, nếu trong
khi Tỷ-kheo ấy trú với an trú này, các tưởng tác ý câu hữu với Vô sở
hữu xứ vẫn hiện hành; như vậy, đối với Tỷ-kheo ấy là một chứng bệnh.
Ví như, này chư Hiền, với một người sung sướng, khổ đau có thể khởi
lên như một chứng bệnh. Cũng vậy, với Tỷ-kheo ấy, các tưởng tác ý
câu hữu với Vô sở hữu xứ vẫn hiện hành; như vậy đối với Tỷ-kheo
ấy là một chứng bệnh. Này chư Hiền, chứng bệnh được Thế Tôn gọi
là khổ. Với pháp môn này, này chư Hiền, cần phải hiểu Niết-bàn là lạc.
12. Này chư Hiền, Tỷ-kheo vượt khỏi
Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Diệt thọ
tưởng định. Vị ấy, sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được
đoạn tận. Với pháp môn này, này chư Hiền, cần phải hiểu Niết-bàn
là lạc.
(IV) (35) CON BÒ CÁI
1. - Ví như, này các Tỷ-kheo, mộﴍ
con bò cái sống ở rừng núi, ngu si, không thông minh, không biết đồng ruộng,
không thiện xảo đi đến các núi non hiểm trở. Nó suy nghĩ: "Ta hãy
đi đến phương hướng trước kia chưa đi, ta hãy ăn cỏ trước kia chưa
được ăn, ta sẽ uống nước trước kia chưa được uống", và con bò
cái ấy đã giơ chân sau lên, trước khi nó khéo đặt một cách tốt đẹp
bàn chân trước, và nó không có thể đi đến phương hướng trước kia
chưa đi, không có thể ăn cỏ trước kia chưa được ăn, và không có thể
uống nước trước kia chưa được uống. Tại chỗ mà trước kia nó đặt
chân, nó nghĩ: "Ta hãy đi đến phương hướng trước kia chưa đi, ta hãy
ăn cỏ trước kia chưa ăn ta sẽ uống nước trước kia chưa uống", nó
không có thể trở lui chỗ ấy một cách an toàn. Vì sao? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, vì con bò cái ấy sống ở rừng núi, ngu si, không biết chỗ đồng
ruộng, không thiện xảo đi đến các núi con hiểm trở. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, ở đây có một số Tỷ-kheo ngu si, không thông minh, không biết
chỗ đồng ruộng, không thiện xảo, ly dục, ly ác pháp... chứng và trú
Thiền thứ nhất. Vị ấy không thực hành, không tu tập tướng ấy không
làm cho sung mãn, không trú một cách khéo trú, vị ấy lại suy nghĩ:
"Ta hãy diệt tầm và tứ... chứng và trú Thiền thứ hai". Vị ấy
không có thể diệt các tầm và tứ... không có thể chứng và trú Thiền
thứ hai. Dầu cho vị ấy có suy nghĩ: "Ta hãy ly dục... chứng và an
trú Thiền thứ nhất", vị ấy cũng không thể ly dục... chứng đạt và
an trú Thiền thứ nhất. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo rơi vào cả
hai phía, đọa vào cả hai phía, ví như con bò cái ấy sống ở rừng núi,
ngu si , không thông minh, không biết chỗ đồng ruộng, không thiện xảo đi
đến các núi non hiểm trở.
2. Ví như, này các Tỷ-kheo, mộﴠcon
bò cái sống ở rừng núi, hiền trí, thông minh, biết đồng ruộng, biết
thiện xảo đi đến các núi non hiểm trở. Nó suy nghĩ: "Ta hãy đi đến
phương hướng trước kia chưa đi, ta hãy ăn cỏ trước kia chưa được
ăn, ta sẽ uống nước trước kia chưa được uống", và con bò cái ấy,
sau khi nó khéo đặt một cách tốt đẹp bàn chân trước rồi giơ chân sau
lên, và nó có thể đi đến phương hướng trước kia chưa đi, ăn cỏ trước
kia chưa được ăn, và uống nước trước kia chưa được uống. Tại chỗ
mà trước kia nó đặt chân, nó nghĩ: "Ta hãy đi đến phương hướng
trước kia chưa đi, ta hãy ăn cỏ trước kia chưa ăn ta sẽ uống nước
trước kia chưa uống", nó có thể trở lui chỗ ấy một cách an toàn.
Vì sao? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vì con bò cái ấy sống ở rừng núi, hiền
trí, thông minh, biết chỗ đồng ruộng, thiện xảo đi đến các núi con hiểm
trở. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có một số Tỷ-kheo hiền trí,
thông minh, biết chỗ đồng ruộng, biết thiện xảo, ly dục, ly ác pháp...
có thể chứng và trú Thiền thứ nhất. Vị ấy thực hành, tu tập làm cho
sung mãn tướng ấy, trú một cách khéo trú. Vị ấy lại suy nghĩ: "Ta
hãy diệt tầm và tứ... chứng và trú Thiền thứ hai". Vị ấy không lẫn
lộn Thiền thứ hai". Vị ấy không lẫn lộn Thiền thứ hai, diệt các
tầm và tứ... chứng và trú Thiền thứ hai. Vị ấy thực hành, tu tập,
làm cho sung mãn tướng ấy, trú một cách khéo trú. Vị ấy suy nghĩ:
"Ta hãy ly hỷ... chứng đạt và an trú Thiền thứ ba". Vị ấy thực
hành, tu tập, làm cho sung mãn tướng ấy, trú một cách khéo trú. Vị ấy
suy nghĩ: "Ta hãy đoạn lạc, đoạn khổ... chứng đạt và an trú Thiền
thứ ba". Vị ấy thực hành, tu tập, làm cho sung mãn tướng ấy, trú một
cách khéo trú. Vị ấy suy nghĩ: "Ta hãy đoạn lạc, đoạn khổ... chứng
đạt và an trú Thiền thứ tư". Vị ấy không lẫn lộn Thiền thứ tư,
đoạn lạc, đoạn khổ... chứng và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy thực hành,
tu tập, làm cho sung mãn tướng ấy, trú một cách khéo trú. Vị ấy suy nghĩ:
"Ta hãy vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các
chướng ngại tưởng, không tác ý đến các tưởng sai biệt, biết rằng:
"Hư không là vô biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Vị
ấy không lẫn lộn Không vô biên xứ, vượt qua các sắc tưởng một cách
hoàn toàn... không tác ý đến các tưởng sai biệt, biết rằng: "Hư không
là vô biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Vị ấy thực
hành, tu tập, làm cho sung mãn tướng ấy, trú một cách khéo trú. Vị ấy
suy nghĩ: "Ta hãy vượt qua Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết
rằng: "Thức là vô biên", chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ".
Vị ấy không lẫn lộn Thức vô biên xứ, vượt qua Không vô biên xứ một
cách hoàn toàn, biết rằng: "Thức là vô biên", chứng đạt và an
trú Thức vô biên xứ. Vị ấy thực hành, tu tập làm cho sung mãn tướng
ấy, trú một cách khéo trú. Vị ấy suy nghĩ: "Ta hãy vượt qua Thức vô
biên xứ một cách hoàn toàn", biết rằng "Không có vật gì",
chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ. Vị ấy không lẫn lộn Vô sở hữu
xứ, vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng:
"Không có vật gì", chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ. Vị ấy
thực hành, tu tập làm cho sung mãn tướng ấy, trú một cách khéo trú. Vị
ấy suy nghĩ: "Ta hãy vượt qua Vô sở hữu xứ một cách hoàn
toàn", chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vị ấy không
lẫn lộn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vượt qua Vô sở hữu xứ một
cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vị ấy
thực hành, tu tập làm cho sung mãn tướng ấy, trú một cách khéo trú. Vị
ấy suy nghĩ: "Ta hãy vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách
hoàn toàn, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định. Vị ấy không lẫn
lộn Diệt thọ tưởng định, vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một
cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định.
3. Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo
nhập vào và xuất ra khỏi Thiền chứng ấy, tâm vị ấy trở thành như
nhuyến, kham nhậm. Với tâm nhu nhuyến kham nhậm, định được khéo tu tập,
trở thành vô lượng. Vị ấy với định vô lượng khéo tu tập, tùy theo
pháp gì, pháp gì cần được chứng ngộ với thắng trí, vị ấy hướng tâm
về sự chứng ngộ với thắng trí. Tại đấy, tại đấy, vị ấy có được
khả năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ nào. Nếu muốn, vị
ấy có thể chứng đắc nhiều loại thần thông, một thân có thể trở
thành nhiều thân... với thân có thể đạt đến cõi Phạm thiên. Tại đấy,
tại đấy, vị ấy có khả năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ
nào. Nếu muốn, vị ấy có thể chứng đắc Thiên nhĩ thông... Tại đấy,
tại đấy, vị ấy có khả năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ
nào. Nếu muốn, vị ấy có thể chứng Tha tâm của mình biết được tâm
của các loại chúng sanh và các loại hữu tình: Tâm có tham biết là tâm
có tham, tâm không tham biết là tâm không tham... tâm giải thoát. Tại đấy,
tại đấy, vị ấy có khả năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ
nào. Nếu muốn, vị ấy có thể: ‘Ta sẽ nhớ lại nhiều đời sống quá
khứ, như một đời, hai đời... có thể nhớ được nhiều đời quá khứ,
với các nét đại cương và các chi tiết". Tại đấy, tại đấy vị
ấy có khả năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ nào. Nếu vị
ấy muốn, vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân... "Ta có thể
rõ biết các loài hữu tình theo nghiệp lực của chúng". Tại đấy, tại
đấy, vị ấy có khả năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ nào.
Nếu muốn, vị ấy có thể, do đoạn tận các lậu hoặc... sau khi chứng
ngộ, chứng đạt, vị ấy an trú. Tại đấy, tại đấy, vị ấy có khả
năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ nào.
(V) (36) THIỀN
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng:
"Y chỉ nơi sơ Thiền, các lậu hoặc được diệt tận". Này các Tỷ-kheo,
Ta nói rằng: "Y chỉ vào Thiền thứ hai, các lậu hoặc được diệt tận".
Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng" Y chỉ vào Thiền thứ ba, các lậu hoặc
được diệt tận". ". Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng" Y chỉ
vào Thiền thứ tư, các lậu hoặc được diệt tận". Này các Tỷ-kheo,
Ta nói rằng: "Y chỉ vào không vô biên xứ... y chỉ vào Thức vô biên
xứ... y chỉ vào Vô sở hữu xứ... Ta nói rằng: "Y chỉ vào Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, các lậu hoặc được đoạn tận".
2. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng:
"Y chỉ vào sơ Thiền, các lậu hoặc được đoạn tận", như vậy
được nói đến. Do duyên gì, được nói đến như vậy?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
ly dục... chứng và trú sơ Thiền. Vị ấy, ở đây đối với cái gì thuộc
về sắc, thuộc về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành, thuộc về thức,
các pháp ấy, vị ấy tùy quán là vô thường, là khổ, là bệnh, là mụt
nhọt, là mũi tên, là va chạm, là tật bệnh, là khách lạ, là biến hoại,
là trống không, là vô ngã. Vị ấy tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy,
sau khi tránh né tâm mình khỏi những pháp áy, vị ấy hướng dẫn đến giới
bất tử: "Đây là tịch tịnh, đây là thù thắng, tức là sự chỉ tức
tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự diệt tận khát ái, ly tham,
đoạn diệt Niết-bàn". Vị ấy trú ở đây đạt đến sự diệt tận
các lậu hoặc, nếu không diệt tận các lậu hoặc, với pháp ái ấy, với
pháp hỷ ấy, do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, là vị hóa sanh, tại
đấy chứng được Niết-bàn, không còn trở lui thế giới này nữa. Vị
như người bán cung, hay đệ tử người bắn cung tập bắn trên một hình
nộm bằng cỏ hay trên đồng đất sét, rồi người ấy có thể trở
thành một người bắn xa, bắn nhanh, bắn thủng qua vật dày lớn.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
ly dục... chứng đạt và an trú sơ Thiền. Vị ấy ở đây, đối với cái
gì thuộc về sắc, thuộc về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành, thuộc
về thức, các pháp ấy, vị ấy tùy quán là vô thường, là khổ, là bệnh,
là mụt nhọt, là mũi tên, là va chạm, là tật bệnh, là khác lạ, là biến
hoại, là trống không, là vô ngã. Vị ấy tránh né tâm mình khỏi những
pháp ấy, sau khi tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, sau khi tránh né
tâm khỏi những pháp ấy, vị ấy hướng dẫn đến giới bất tử:
"Đây là tịch tịnh, đây là thù thắng, tức là sự chỉ tức tất cả
hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự diệt tận khát ái, ly tham, đoạn diệt,
Niết-bàn". Vị ấy trú ở đây, đạt đến sự diệt tận các lậu hoặc.
Nếu không diệt tận các lậu hoặc, với pháp ái ấy, với pháp hỷ ấy,
do đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy là vị hóa sanh, tại đấy
chứng được Niết-bàn, không còn trở lui thế giới này nữa.
Này các Tỷ-kheo, Ta nói y chỉ vào
sơ Thiền, các lậu hoặc được đoạn tận, như vậy được nói đến. Do
duyên này, được nói đến.
3. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng y
chỉ Thiền thứ hai... y chỉ Thiền thứ ba... y chỉ Thiền thứ tư, các lậu
hoặc được đoạn tận, như vậy được nói đến. Do duyên gì được nói
đến?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
do đoạn tận lạc, đoạn tận khổ, chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ từ
trước, chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả
niệm, thanh tịnh. Vị ấy ở đây, đối với cái gì thuộc về sắc, thuộc
về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành, thuộc về thức, các pháp ấy,
vị ấy tùy quán là vô thường, là khổ, là bệnh, là mụt nhọt, là mũi
tên, là va chạm, là tật bệnh, là khách lạ, là biến hoại, là trống
không, là vô ngã. Vị ấy tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, sau khi
tránh né tâm mình khỏi những pháp áy, vị ấy hướng dẫn đến giới bất
tử: "Đây là tịch tịnh, đây là thù thắng, tức là sự chỉ tức tất
cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự diệt tận khát ái, ly tham, đoạn
diệt Niết-bàn". Vị ấy trú ở đây, đạt đến sự diệt tận các lậu
hoặc. Nếu không diệt tận các lậu hoặc, với pháp ái ấy, với pháp hỷ
ấy, do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, là vị hóa sanh, tại đấy chứng
được Niết-bàn, không còn trở lui thế giới này nữa. Ví như người bán
cung, hay đệ tử người bắn cung tập bắn trên một hình nộm bằng cỏ
hay trên đồng đất sét, rồi người ấy có thể trở thành một người bắn
xa, bắn nhanh, bắn thủng qua vật dày lớn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
do đoạn tận lạc... chứng đạt và an trú sơ Thiền... thứ tư. Vị ấy
ở đây, đối với cái gì thuộc về sắc, thuộc về thọ, thuộc về tưởng,
thuộc về hành, thuộc về thức, các pháp ấy, vị ấy tùy quán là vô thường,
là khổ, là bệnh, là mụt nhọt, là mũi tên, là va chạm, là tật bệnh,
là khác lạ, là biến hoại, là trống không, là vô ngã. Vị ấy tránh né
tâm mình khỏi những pháp ấy, sau khi tránh né tâm mình khỏi những pháp
ấy. Sau khi tránh né tâm khỏi những pháp ấy, vị ấy hướng dẫn đến
giới bất tử: "Đây là tịch tịnh, đây là thù thắng, tức là sự
chỉ tức tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự diệt tận khát
ái, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn". Vị ấy trú ở đây, đạt đến sự
diệt tận các lậu hoặc. Nếu không diệt tận các lậu hoặc, với pháp
ái ấy, với pháp hỷ ấy, do đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy
là vị hóa sanh, tại đấy chứng được Niết-bàn, không còn trở lui thế
giới này nữa.
Này các Tỷ-kheo, Ta nói y chỉ vào
sơ Thiền, thứ hai... thứ tư, các lậu hoặc được đoạn tận, như vậy
được nói đến. Do duyên này, được nói đến.
4. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng:
"Y chỉ vào Không vô biên xứ Thiền, các lậu hoặc được đoạn tận,
được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến như vậy?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vượt khỏi
các sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các chướng ngại tưởng,
không tác ý đến tưởng sai biệt, biết rằng: "Hư không là vô
biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Vị ấy ở đây, đối
với cái gì thuộc về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành... vị ấy...
do đoạn tận năm hạ phần kiết sử, là vị hóa sanh, tại đấy chứng
được Niết-bàn, không còn trở lui thế giới này nữa.
Này các Tỷ-kheo, ta nói rằng:
"Y chỉ vào Không vô biên xứ, các lậu hoặc được đoạn tận",
như vậy được nói đến. Do duyên này, được nói đến.
5. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng:
"Y chỉ vào Thức vô biên xứ... y chỉ vào Vô sở hữu xứ... các lậu
hoặc được đoạn diệt", được nói đến như vậy. Do duyên gì được
nói đến như vậy?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Không có
vật gì", chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ. Vị ấy ở đây, đối
với cái gì thuộc về thọ, thuộc về tưởng... vị ấy... do đoạn tận
năm hạ phần kiết sử, là vị hóa sanh, tại đấy chứng được Niết-bàn,
không còn trở lui thế giới này nữa.
Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng:
"Y chỉ vào Vô sở hữu xứ, các lậu hoặc được đoạn diệt",
được nói đến như vậy. Do duyên này được nói đến.
Như vậy, xa cho đến các tưởng
Thiền chứng, cho đến như vậy, cần phải lấy trí để thể nhập. Lại
nữa, này các Tỷ-kheo, các xứ này, như Phi tưởng phi phi tưởng Thiền chứng
và Diệt thọ tưởng là những xứ, các Tỷ-kheo Thiền quán, khéo léo chứng
nhập, khéo léo khởi xuất, các xứ ấy cần phải được chơn chánh làm
cho biết rõ".
(VI) (37) TÔN GIẢ ÀNANDA
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Tôn giả Ànanda trú ở
Kosambi, tại khu vườn Ghosita. Tại đấy, Gijjhakùta Ànanda bảo các Tỷ-kheo:
- Này chư Hiền Tỷ-kheo.
- Vâng, thưa Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Ànanda . Tôn giả Ànanda nói như sau:
2. - Thật vi diệu thay, thưa các Hiền
giả! Thật hi hữu thay, thưa các Hiền giả, như thế nào là con đường
thoát ly, thoát khỏi sự trói buộc, được Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc
Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tùy giác để các loài hữu
tình được thanh tịnh, vượt khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được
chánh lý, giác ngộ Niết-bàn. Đây sẽ chỉ có mắt, chớ không có cảm thọ
các sắc ấy và các xứ ấy; đây chỉ có tai, chớ không có cảm thọ,
các tiếng ấy và các xứ ấy; đây chỉ có mũi chớ không có cảm thọ
các hương ấy, và các xứ ấy; đây chỉ có lưỡi, chớ không có cảm thọ
các vị ấy và các xứ ấy; đây chỉ có thân, chớ không có cảm thọ
các xúc ấy và các xứ ấy.
3. Khi được nói vậy, Tôn giả
Udàyi nói với Tôn giả Ànanda:
- Này Hiền giả Ànanda, người không
cảm thọ xứ ấy, người ấy có tưởng hay không có tưởng?
- Này Hiền giả, người không cảm
thọ xứ ấy, người ấy có tưởng, không phải không có tưởng.
Nhưng thưa Hiền giả, người không
cảm thọ xứ ấy, người ấy tưởng cái gì?
4. - Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo
vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các chướng ngại
tưởng, không tác ý đến các tưởng sai biệt, biết rằng: "Hư không
là vô biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Này Hiền giả,
vị ấy có tưởng như vậy, nhưng không cảm thọ xứ ấy.
5. Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo
vượt khỏi Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Thức
là vô biên", chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ. Này Hiền giả,
vị ấy có tưởng như vậy, nhưng không cảm thọ xứ ấy.
6. Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo
vượt khỏi Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Không
có vật gì", chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ. Này Hiền giả, vị
ấy có tưởng như vậy, nhưng không cảm thọ xứ ấy.
7. Này Hiền giả, một thời tôi sống
ở Sàketa, rừng Anjanavana tại vườn nai. Rồi này Hiền giả, có một Tỷ-kheo-ni
ở Jatilàgàha đến tôi, đảnh lễ tôi và đứng một bên. Đứng một bên,
này các Hiền giả, Tỷ-kheo-ni ở Jatilàgàha thưa với tôi:
- Thưa Tôn giả Ànanda, Thiền định
này không thiên tà dục, không không dưỡng hận tâm; trong ấy, sự chế ngự
không phải do hữu hành nhiếp phục, nhờ giải thoát, được vững chắc,
nhờ vững chắc, được tri túc; nhờ tri túc, không có âu lo. Thưa Tôn giả
Ànanda , Thiền định này được Thế Tôn dạy, có quả gì?"
Được nói vậy, này Hiền giả,
tôi nói với Tỷ-kheo-ni ở Jatilàgàha như sau: "- Th7a Chị, Thiền định
này không thiên tà dục, không dưỡng hận tâm; trong ấy, sự chế ngự
không phải do hữu hành nhiếp phục, nhờ giải thoát được vững chắc;
nhờ vững chắc, được tri túc; nhờ tri túc, không có âu lo... Này Chị,
Thiền định này được chánh trí là quả".
Thế Tôn nói như vậy, này Hiền giả,
vị ấy có những tưởng như vậy, nhưng không cảm thọ xứ ấy.
(VII) (38) CÁC BÀ-LA-MÔN
1. Rồi hai vị Thuận thế
Bà-la-môn đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói el6n với Thế Tôn những lời
chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Bà-la-môn ấy thưa với
Thế Tôn:
2. - Thưa Tôn giả Gotama, Pùrana
Kassapa, bậc toàn tri, toàn kiến, tự nhận mình là có tri kiến toàn bộ
không dư, nói rằng: "Khi ta đi, ta đứng , ta ngủ, ta thức, tri kiến
được an trú liên tục thường hằng". Vị ấy nói như sau: "Với
trí vô biên, ta sống, biết và thấy thế giới hữu biên". Thưa Tôn giả
Gotama, Nigantha Nàtaputta, bậc toàn tri, toàn kiến, tự nhận mình là có tri
kiến toàn bộ không dư, nói rằng: "Khi ta đi, ta đứng , ta ngủ, ta thức,
tri kiến được an trú liên tục thường hằng". Vị ấy nói như sau:
"Với trí hữu biên, ta sống, biết và thấy thế giới hữu biên".
Thưa Tôn giả Gotama, giữa hia bậc tuyên bố về trí này, giữa hai lời
tuyên bố mâu thuẫn này, ai nói đúng sự thật, ai nói lái?
3. - Thôi vừa rồi, này các
Bà-la-môn, hãy dừng lại ở đây: "Giữa hai bậc tuyên bố về trí
này, giữa hai lời tuyên bố mâu thuẫn này, ai nói đúng sự thật, ai nói
láo?"
Này các Bà-la-môn, Ta sẽ thuyết
pháp cho các Ông, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng, Tôn giả.
Các Bà-la-môn ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau:
4. - Này các Bà-la-môn, ví như bốn
người đàn ông đứng bốn phương, đầy đủ với bước đi, với tốc lực
tối thắng, với bước chân dài tối thắng. Họ đầy đủ tốc lực như
sau: Ví như một người cầm cung, điêu luyện khéo được huấn luyện với
bàn tay thiện xảo, bách phát bách trúng, có thể bắn một cách nhẹ nhàng
một mũi tên ngang qua bóng của cây tàla. Như vậy là tốc lực của họ.
Còn bước chân dài của họ, thời như sau: từ biển phía Đông đến biển
phía Tây. Rồi người đứng ở phương Đông nói như sau: "Ta sẽ đi và
đạt đến tận cùng của thế giới". Dầu cho tuổi thọ của người
này là một trăm năm - trừ khi người ấy ăn, người ấy uống, người
ấy nhai, người ấy nếm, trừ khi người ấy đi đại tiện tiểu tiện,
trừ khi người ấy ngủ để lấy lại sức, người ấy sẽ chết trước
khi người ấy đạt đến tận cùng của thế giới". Rồi người đứng
ở phương Tây... rồi người đứng ở phương Bắc... rồi người đứng
ở phương Nam nói như sau: "Ta sẽ đi và đạt đến tận cùng của thế
giới". Dầu cho tuổi thọ... người ấy sẽ chết trước khi người
ấy đạt đến tận cùng của thế giới". Vì cớ sao? Này các
Bà-la-môn, Ta nói rằng, không phải với sức chạy như vậy, có thể biết
được, có thể thấy được, có thể đạt được tận cùng thế giới.
Này các Bà-la-môn, Ta nói rằng nếu không đạt được tận cùng thế giới,
thời không thể chấm dứt đau khổ ở đời.
5. Này các Bà-la-môn, năm dục trưởng
dưởng này được gọi là thế giới Luật của bậc Thánh. Thế nào là năm?
6. Các sắc do con mắt nhận thức
khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Các
tiếng do tai nhận thức... các hương do mũi nhận thức... các vị do lưỡi
nhận thức... các xúc do thân nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả
ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn.
Này Bà-la-môn, năm dục trưởng dưỡng
này được gọi là thế giới trong Luật của bậc Thánh.
7. Ở đây, này các Bà-la-môn, Tỷ-kheo
ly các dục... chứng đạt và an trú sơ Thiền. Này các Bà-la-môn, Tỷ-kheo
này được gọi là vị đã đến tận cùng thế giới, và sống trong tận
cùng thế giới. Nhưng các người khác nói về vị ấy như sau: "Vị này
vẫn còn bị hạn chế trong thế giới, vị này chưa thoát ly khỏi thế
gian". Này các Bà-la-môn, Ta cũng nói như sau: "Vị này vẫn còn bị
hạn chế trong thế giới, vị này chưa thoát ly khỏi thế gian".
8. Lại nữa, này các Bà-la-môn, Tỷ-kheo
diệt các tầm và tứ... chứng đạt và an trú Thiền thứ hai... Thiền thứ
ba... Thiền thứ tư. Này các Bà-la-môn, đây gọi là Tỷ-kheo sau khi đến tận
cùng thế giới, trú trong tận cùng thế giới. Nhưng các người khác nói về
vị ấy như sau: "Vị này còn bị hạn chế trong thế giới, vị này chưa
xuất ly khỏi thế gian". Này các Bà-la-môn, Ta cũng nói như sau: "Vị
này còn bị hạn chế trong thế蠧iới, vị
này chưa xuất ly khỏi thế gian".
9. Lại nữa, này các Bà-la-môn, Tỷ-kheo
vượt qua khỏi các sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các đối
ngại tưởng, không tác ý đến các tưởng sai biệt, biết rằng: "Hư
không là vô biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Này các
Bà-la-môn, đây gọi là Tỷ-kheo sau khi đến tận cùng thế giới, trú trong
tận cùng thế giới. Nhưng các người khác, nói về vị ấy như sau:
"Vị này vẫn còn bị hạn chế trong thế giới, vị này chưa xuất ly
khỏi thế gian". Này các Bà-la-môn, Ta cũng nói như sau: "Vị này vẫn
còn bị hạn chế trong thế giới, vị này chưa xuất ly khỏi thế
gian".
10. Lại nữa, này các Bà-la-môn, Tỷ-kheo
vượt qua khỏi Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Thức
là vô biên", chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ... Sau khi vượt
khỏi Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Không có vật
gì", chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ... Sau khi vượt qua Vô sở
hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng
xứ. Này các Bà-la-môn, đây gọi là Tỷ-kheo sau khi đến tận cùng thế giới,
trú trong tận cùng thế giới. Nhưng các người khác, nói về vị ấy như
sau: "Vị này vẫn còn bị hạn chế trong thế giới, vị này chưa xuất
ly khỏi thế gian". Này các Bà-la-môn, Ta cũng nói như sau: "Vị này
vẫn còn bị hạn chế trong thế giới, vị này chưa xuất ly khỏi thế
gian".
11. Lại các Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt
qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú
Diệt thọ tưởng định, thời sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc
được đoạn tận. Này các Bà-la-môn, đây gọi là Tỷ-kheo sau khi đến tận
cùng thế giới, trú trong tận cùng thế giới. Vị này đã vượt khỏi sự
triền phược của thế giới.
(VIII) (39) CHƯ THIÊN
1. - Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có
trận chiến kịch liệt giữa chư Thiên và các loài Asurà. Trong trận chiến
này, này các Tỷ-kheo, các Asurà thắng, chư Thiên bị bại trận. Chư Thiên
thất trận bỏ chạy, các Asurà mặt hướng về phía Bắc đuổi theo. Rồi
này các Tỷ-kheo, chư Thiên suy nghĩ sau: "Các Asurà đang đuổi theo. Vậy
chúng ta hãy đánh một trận thứ hai với các Asurà".
2. Lần thứ hai, này các Tỷ-kheo,
chư Thiên đánh với các Asurà. Lần thứ hai, này các Tỷ-kheo, các Asurà lại
thắng trận, chư Thiên bại trận. Này các Tỷ-kheo, chư Thiên thất trận sợ
hãi bỏ chạy, các Asurà mặt hướng về phía Bắc đuổi theo. Rồi này
các Tỷ-kheo, chư Thiên suy nghĩ như sau: "Các Asurà đang đuổi theo. Vậy
chúng ta hãy đánh một trận thứ ba với các Asurà".
3. Lần thứ ba, này các Tỷ-kheo, chư
Thiên đánh với các Asurà. Lần thứ ba, này các Tỷ-kheo, các Asurà lại thắng
trận, chư Thiên bại trận. Này các Tỷ-kheo, chư Thiên thất trận sợ hãi
bỏ chạy vào thành phố chư Thiên. Và này các Tỷ-kheo, chư Thiên đi vào
trong thành hãy đi đến chỗ ẩn náu của những người sợ hãi. Hiện nay
chúng ta sống với chúng ta, không có gì phải làm với các Asurà". Này
các Tỷ-kheo, các Asurà cũng suy nghĩ như sau: "Này chư Thiên đã đi đến
chỗ ẩn náu của những người sợ hãi. Hiện nay chúng sống với chúng
nó, không có gì phải làm với chúng ta."
4. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có
trận chiến kịch liệt xảy ra giữa chư Thiên và các loài Asurà. Trong trận
chiến này, này các Tỷ-kheo, chư Thiên thắng, các Asurà bị bại trận.
Các Asurà thất trận bỏ chạy, chư Thiên mặt hướng về phía Nam đuổi
theo. Rồi này các Tỷ-kheo, các Asurà suy nghĩ như sau: "Chư Thiên đang
đuổi theo. Vậy chúng ta hãy đánh trận thứ hai với chư Thiên".
5. Lần thứ hai, này các Tỷ-kheo,
các Asurà đánh trận với chư Thiên. Lần thứ hai, này các Tỷ-kheo, chư
Thiên thắng trận, các Asurà bại trận. Này các Tỷ-kheo, các Asurà thất
trận sợ hãi bỏ chạy, chư Thiên mặt hướng về phía Nam đuổi theo. Rồi
này các Tỷ-kheo, các Asurà suy nghĩ như sau: "Chư Thiên đang đuổi theo.
Vậy chúng ta hãy đánh một trận thứ ba với chư Thiên".
6. Lần thứ ba, này các Tỷ-kheo,
các Asurà đánh với chư Thiên. Lần thứ ba, này các Tỷ-kheo, chư Thiên thắng
trận, các Asurà bại trận. Này các Tỷ-kheo, các Asurà thất trận sợ hãi
bỏ chạy vào thành phố Asurà. Rồi này các Tỷ-kheo, các Asurà đi vào
trong thành của các Asurà suy nghĩ như sau: " Nay chúng ta đã đi đến chỗ
ẩn náu của những người sợ hãi. Hiện nay chúng ta sống với chúng ta,
không có gì phải làm với chư Thiên". Này các Tỷ-kheo, chư Thiên cũng
suy nghĩ như sau: "Này các Asurà đã đi đến chỗ ẩn náu của những
người sợ hãi. Hiện nay chúng sống với chúng nó, không có gì phải làm
với chúng ta."
7. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, trong
khi Tỷ-kheo ly dục... chứng đạt và an trú sơ Thiền, trong khi ấy, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy nghĩ như sau: "Với sự đi đến chỗ ẩn náu
của sợ hãi, nay ta sống với tự ngã, không có việc gì phải làm với
Màra". Và này các Tỷ-kheo, chính Ác ma cũng suy nghĩ như sau: "Với
sự đi đến chỗ ẩn náu của sợ hãi, Tỷ-kheo sống với tụ ngã, không
có việc gì phải làm với ta".
8. Này các Tỷ-kheo, trong khi vị Tỷ-kheo
diệt các tầm và tứ... chứng đạt và an trú Thiền thứ hai... Thiền thứ
ba... Thiền thứ tư, trong khi ấy này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy nghĩ như sau:
"Với sự đi đến chỗ ẩn náu của sợ hãi, nay ta sống với tụ
ngã, không có việc gì phải làm với Màra". Và này các Tỷ-kheo, chính
Ác ma cũng suy nghĩ như sau : "Với sự đi đến chỗ ẩn náo của sợ
hãi, Tỷ-kheo sống với tự ngã, không có việc gì phải làm với ta".
9. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo
vượt khỏi các sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các chướng ngại
tưởng, không tác ý đến các tưởng sai biệt, biết rằng: "Hư không
là vô biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo,
như vậy gọi là Tỷ-kheo này làm Ác ma mù mắt, đoạn tuyệt mắt của Màra,
không còn dấu tích, khiến Ác ma không thấy đường đi lối về.
10. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo
vượt khỏi Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Thức
là vô biên", chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ... Vượt khỏi Thức
vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Không có vật gì" chứng
đạt và an trú Vô sở hữu xứ... Vượt khỏi Vô sở hữu xứ một cách
hoàn toàn, chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Trong khi Tỷ-kheo
vượt Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, chứng đạ* và an
trú Diệt thọ tưởng định; vị ấy thấy với trí tuệ, các lậu hoặc
được đoạn tận. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Tỷ-kheo này làm Ác
ma mù mắt, đoạn tuyệt mắt của Màra, không còn dấu tích, khiến Ác ma
không thấy đường đi lối về. Vị ấy đã vượt qua triền phược ở đời.
( IX) (40) CON VOI LỚN
1. - Này các Tỷ-kheo, khi nào các
con voi, các con voi cái, các con voi trẻ, các con voi con đi đến trước, đến
trước chỗ ăn của con voi lớn ở rừng cắt đứt các ngọn cỏ, thời
này các Tỷ-kheo, con voi rừng lo âu, xấu hổ, nhàm chán. Khi nào, con voi trẻ,
các con voi con nhai ăn các bó cây gãy, các cành cây tại chỗ ăn của con
voi lớn ở rừng, thời này các Tỷ-kheo, con voi rừng lo âu, xấu hổ, nhàm
chán. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các con voi , các con voi cái, các con voi trẻ,
các con voi con đi trước, đi trước, xuống trũng nước của con voi rừng,
dùng vòi quấy động, thời này các Tỷ-kheo, con voi rừng lo ấu, xấu hổ,
nhàm chán. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các con voi cái bước xuống trũng nước
của con voi rừng, cọ xát thân của con voi rừng, thời này các Tỷ-kheo,
con voi rừng lo ấu, xấu hổ, nhàm chán.
2. Trong khi ấy, này các Tỷ-kheo,
con voi rừng suy nghĩ như sau: "Này ta sống lẫn lộn với các con voi,
các con voi cái, các con voi trẻ, các con voi con. Ta ăn các loại cỏ đầu ngọn
bị cắt đứt, chúng nhai ăn các bó cây gãy và các cành cây của ta, ta uống
nước bị vẩn đục; khi ta đi xuống trũng nước, các con voi cái đến cọ
xát thân ta. Vậy ta hãy sống một mình, xa rời bầy voi". Rồi sau một
thời gian, con voi ấy sống một mình, xa rời bầy voi, ăn các loại cỏ đầu
ngọn không bị cắt đứt, nó không ăn các bó cây gãy, và các cành cây,
nó uống nước không vẩn đục, khi bước xuống trũng nước, các con voi
cái không đi đến cọ xát thân. Trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, con voi rừng
suy nghĩ như sau: "Trước đây, ta sống lẫn lộn với các voi, các con
voi cái, các con voi trẻ, các con voi con. Ta ăn các loại cỏ đầu ngọn bị
cắt đứt, chúng ăn các bó cây gãy và các cành cây của ta, ta uống nước
bị vẩn đục. Khi ta bước xuống trũng nước, các con voi cái đến cọ xát
thân ta. Nay ta sống một mình, xa rời bầy voi, ta ăn các loại cỏ đầu ngọn
không bị cắt đứt, chúng không ăn các bó cây gãy, và các cành cây của
ta. Ta uống nước không vẩn đục. Khi ta bước xuống trũng nước, các con
voi cái không đi đến cọ xát thân ta. Con voi rừng ấy với cái vòi bẻ gẫy
cành cây, lấy cành cây cọ xát thân mình, và hoan hỷ làm cho nhẹ bớt cơn
ngứa".
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, trong
khi Tỷ-kheo sống lẫn lộn với các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư
sĩ, với vua và đại thần của vua, với các ngoại d0ạo sư và đệ tử của
ngoại đạo, trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy nghĩ như sau:
"Ta sống lẫn lộn với các Tỷ-kheo và Tỷ-kheo-ni, các nam cư sĩ và nữ
cư sĩ, vua và các đại thần của vua, các ngoại đạo sư và các đệ tử
của ngoại đạo. Vậy ta hãy sống một mình, xa rời họ", vị ấy sống
tại trú xứ xa vắng, ngôi rừng, gốc cây, núi non ghềnh đá, hang núi,
bãi tha ma, rừng cao nguyên, ngoài trời, đống rơm. Vị ấy đi đến rừng,
đi đến gốc cây, đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết-già, lưng thẳng,
an trú niệm trước mặt. Vị ấy sau khi đoạn tận tham ở đời, sống với
tâm ly tham, gạn lọc tâm khỏi tham. Sau khi đoạn tận sân, vị ấy sống với
tâm ly sân, có lòng thương tưởng tất cả chúng sanh và loài hữu tình, gạn
lọc tâm khỏi sân. Sau khi đoạn tận hôn trầm thụy miên, vị ấy sống với
tâm ly hôn trầm thụy miên, tưởng đến ánh sáng, chánh niệm, tỉnh giác,
gạn lọc tâm khởi hồn trầm thụy miên. Sau khi đoạn tận trạo cử hối
quá, vị ấy không có dao động, nội tâm an tịnh, gạn lọc tâm khởi trạo
cử hối quá. Sau khi đoạn tận nghi, vị ấy sống vượt qua nghi ngờ, không
có nghi ngờ do dự, gạn lọc tâm khỏi nghi ngờ trong các thiện pháp. Vị
ấy sau khi đoạn tận năm triền cái làm uế nhiễm tâm, làm yếu kém trí
tuệ này, ly các dục... chứng đạt và an trú sơ Thiền; vị ấy hoan hỷ vì
đã đối trị được cơn ngứa. Sau khi diệt tầm và tứ... chứng đạt và
an trú Thiền thứ hai... Thiền thứ ba... chứng đạt và an trú Thiền thứ
tư; vị ấy hoan hỷ vì đã đối trị được cơn ngứa. Vị ấy sau khi vượt
qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn, sau khi chấm dứt các đối ngại
tưởng, không tác ý đến các tưởng sai biệt, biết rằng: "Hư không
là vô biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ; vị ấy hoan hỷ
vì đã đối trị được cơn ngứa. Sau khi vượt qua Không vô biên xứ một
cách hoàn toàn, vị ấy biết rằng: "Thức là vô biên", chứng đạt
vàn an trú Thức vô biên xứ... sau khi vượt qua Thức vô biên xứ một
cách hoàn toàn, vị ấy biết rằng: "Không có vật gì", chứng đạt
và an trú Vô sơ hữu xứ... sau khi vượt qua Vô sở hữu xứ một cách
hoàn toàn, chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ... sau khi vượt
qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, vị ấy chứng đạt và
an trú Diệt thọ tưởng định, sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc
được đoạn tận, vị ấy hoan hỷ vì đã đối trị được cơn ngứa.
(X) (41) TAPUSSA
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa
dân chúng Malla, tại một thị trấn của dân chúng Malla tên là Uruvelakappa.
Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Uruvelakappa để
khất thực. Khất thực ở Uruvelakappa xong, sau bữa ăn, trên con đường khất
thực trở về, Thế Tôn bảo Tôn giả Ànanda, nói rằng:
- Này Ànanda, Thầy hãy ở đây, chờ
cho Ta vào trong rừng Đại Lâm để nghỉ ban ngày.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ànanda vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn đi vào rừng Đại Lâm ngồi nghi렢an
ngày tại một gốc cây.
2. Rồi gia chủ Tapussa đi đến Tôn
giả Ànanda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ànanda và ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, gia chủ Tapussa thưa với Tôn giả Ànanda:
- Thưa Tôn giả Ànanda, chúng tôi
là người gia chủ, thụ hưởng các dục, vui thích các dục, ưa thích các
dục, hoan hỷ các dục. Đối với chúng tôi, thưa Tôn giả, là những gia
chủ thụ hưởng các dục, vui thích các dục, hoan hỷ các du5c, thật giống
như một cái vực thẳm cho chúng tôi là sự xuất ly này. Tuy vậy, thưa Tôn
giả, chúng tôi được nghe rằng trong Pháp và Luật này, tâm của các Tỷ-kheo
trẻ tuổi hứng khởi trong sự xuất ly, tịnh tính, an trú, giải thoát, vì
thấy rằng đây là an tịnh. Chính ở nơi đây, thưa Tôn giả, là sự sai
khác trong Pháp và Luật này giữa các vị Tỷ-kheo và phần đông quần
chúng, tức là sự xuất ly này.
- Này Gia chủ, đây là một vấn đề
để nói chuyện. Này Gia chủ, chúng ta hãy đi đến yết kiến Thế Tôn,
chúng ta hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến, hãy hỏi Thế Tôn về ý nghĩa
này. Thế Tôn trả lời ntn* trả lời ntn, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.
- Thưa vâng, Tôn giả.
Gia chủ Tapussa vâng đáp Thế Tôn
Ànanda.
3. Rồi Tôn giả Ànanda cùng với
gia chủ Tapussa đi đến Thế Tôn, sau khi đến... bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, gia chủ Tapussa
này nói như sau: "Thưa Tôn giả Ànanda, chúng tôi là người gia chủ thụ
hưởng các dục, vui thích các dục, ưa thích các dục, hoan hỷ các dục.
Đối với chúng tôi, thưa Tôn giả, là những gia chủ, thọ hưởng các dục,
vui thích các dục, ưa thích các dục, hoan hỷ các dục, thật giống như một
cái vực thẳm cho chúng tôi là sự xuất ly này. Tuy vậy, thưa Tôn giả,
chúng tôi được nghe rằng trong Pháp và Luật này, tâm của các Tỷ-kheo trẻ
tuổi hứng khởi trong sự xuất ly, tịnh tín, an trú, giải thoát, vì được
thấy rằng đây là an tịnh. Chính ở nơi đây, thưa Tôn giả, là sự sai
khác trong Pháp và Luật này giữa các Tỷ-kheo và phần đông quần chúng, tức
là sự xuất ly này".
4. - Như vậy là phải, này Ànanda!
Như vậy là phải, này Ànanda! Này Ànanda, trước khi Ta giác ngộ, chưa chứng
được Chánh Đẳng Giác, còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: "Lành
thay, sự xuất ly! Lành thay, sống viễn ly". Nhưng tâm của Ta không có
hứng khởi trong sự xuất ly ấy, không có tịnh tín, không có an trú,
không có giải thoát, dầu Ta có thấy "Đây là an tịnh". Này
Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Do nhân gì, do duyên gì,
tâm Ta không hứng khởi trong sự xuất ly ấy, không có tịnh tín, không có
an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh?".
Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "Vì Ta không thấy nguy hiểm trong
các dục, vì Ta không làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy, lợi ích của xuất
ly chưa được chứng đắc, Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy
tâm Ta không hứng khởi trong xuất ly ấy, không tịnh tín, không an trú,
không giải thoát". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: Nếu
sau khi thấy nguy hiểm trong các dục, Ta làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy.
Sau khi chứng được lợi ích trong sự xuất ly, Ta thưởng thức lợi ích
ấy", thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta có thể hứng khởi trong
xuất ly, tịnh tín, an trú, giải thoát, vì Ta có thấy: "Đây là an tịnh".
Rồi này Ànanda, sau một thời gian,
sau khi thấy nguy hiểm trong các dục, Ta làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy.
Sau khi chứng được lợi ích trong sự xuất ly, Ta thưởng thức lợi ích
ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong xuất ly, tịnh tín, an trú, giải
thoát, vì Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, sau một thời
gian Ta ly dục... chứng đạt và an trú sơ Thiền. Do Ta trú với sự an trú
này, các tưởng tác ý câu hữu với dục vẫn hiện hành. Như vậy, đối
với Ta, đây là một chứng bệnh. Ví như, này Ànanda, đối với người
sung sướng, đau khổ có thể khởi lên, như là một chứng bệnh. Cũng vậy,
các tưởng tác ý câu hữu với dục vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy đối
với Ta, đây là một chứng bệnh.
5. Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như
sau: "Vậy Ta hãy chỉ tức các tầm và tứ... chứng đạt và an trú Thiền
thứ hai". Nhưng tâm của Ta không có hứng khởi đối với không có tầm
ấy, không có tịnh hứng khởi đối với không có tầm ấy, không có tịnh
tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là
an tịnh". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Do nhân
gì, do duyên gì, Tâm Ta không hứng khởi đối với không có tầm ấy,
không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy:
"Đây là an tịnh?" Rồi Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "Vì Ta không
thấy nguy hiểm trong các tầm, vì Ta không làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy,
lợi ích không có tầm chưa được chứng đắc, Ta chưa được thưởng thức
lợi ích ấy". Do vậy, tâm Ta không hứng khởi đối với không có tầm,
không tịnh ín*, không an trú, không giải thoát. Này Ànanda, về vấn đề
ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong các tầm, Ta
làm cho sung mãn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích không có tầm,
Ta thưởng thức lợi ích ấy", thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta
có thể hứng khởi trong không có tầm, tịnh tín, an trú, giải thoát, vì
Ta thấy: "Đây là an tịnh".
Rồi này Ànanda, sau một thời gian,
sau khi thấy nguy hiểm trong các tầm. Ta làm cho sung mãn nguy hiểm ấy; sau
khi chứng được lợi ích không có tầm, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và
này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong không có tầm, tịnh tín, an trú, giải
thoát, vì Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, sau một thời
gian Ta diệt tầm và tứ... chứng đạt và an trú Thiền thứ hai. Do Ta trú
với sự an trú này, các tưởng tác ý câu hữu với tầm vẫn hiện hành.
Như vậy, đối với Ta, đây là một chứng bệnh. Cũng vậy, các tưởng tác
ý câu hữu với tầm vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy đối với Ta, đây
là một chứng bệnh.
6. Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như
sau: "Vậy ta hãy ly hỷ... chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Nhưng này
Ànanda , tâm của Ta không hứng khởi đối với không có hỷ ấy, không có
tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây
là an tịnh". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau như sau:
"Do nhân gì do duyên gì, tâm Ta không hứng khởi đối với không có hỷ
ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có
thấy: "Đây là an tịnh?". Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau:
"VÌ Ta không thấy sự nguy hiểm trong hỷ, vì Ta không làm cho sung mãn sự
nguy hiểm ấy, lợi ích không có hỷ chưa được chứng đắc. Ta chưa được
thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối với không
có hỷ ấy, không tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát".
Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu sau khi thấy
nguy hiểm trong hỷ, Ta làm cho sung mãn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi
ích trong không có hỷ, Ta thưởng thức được lợi ích trong không có hỷ,
Ta thưởng thức lợi ích ấy", thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta
có thể hứng khởi trong không có hỷ, tịnh tín, an trú, giải thoát, vì Ta
có thấy: "Đây là an tịnh".
Rồi này Ànanda, sau một thời gian,
sau khi thấy nguy hiểm trong hỷ, Ta làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy; sau
khi chứng được lợi ích trong không có hỷ, Ta thưởng thức lợi ích ấy.
Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong không có hỷ, tịnh tín, an trú, giải
thoát, vì Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, sau một thời
gian, Ta ly hỷ... chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Do Ta trú với sự an
trú này, các tưởng tác ý câu hữu với hỷ vẫn hiện hành. Đây đối với
Ta, đây là một chứng bệnh. Ví như, này Ànanda, đối với người sung sướng,
đau khổ có thể khởi lên như là một chứng bệnh. Cũng vậy các tưởng,
tác ý câu hữu với hỷ vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy đối với Ta,
đây là một chứng bệnh.
7. Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như
sau: "Vậy ta hãy đoạn lạc, đoạn khổ... chứng đạt và an trú Thiền
thứ tư". Nhưng tâm của Ta không có hứng khởi đối với không khổ,
không lạc, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu
Ta có thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta
suy nghĩ như sau như sau: "Do nhân gì do duyên gì, tâm Ta không hứng khởi
đối với không khổ, không lạc, không có tịnh tín, không có an trú,
không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh?". Rồi
này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "Vì Ta không thấy nguy hiểm trong xả lạc,
vì Ta không làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy. Lợi ích không khổ, không lạc
chưa được chứng đắc. Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy
tâm Ta không hứng khởi đối với không khổ, không lạc ấy, không tịnh
tín, không có an trú, không giải thoát". Này Ànanda, về vấn đề ấy,
Ta suy nghĩ như sau: "Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong xả lạc, Ta làm
cho sung mãn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong không khổ,
không lạc, Ta thưởng thức sự lợi ích ấy", thời sự kiện này xảy
ra: Tâm của Ta có thể hứng khởi trong không khổ, không lạc, tịnh tín,
an trú, giải thoát, vì Ta có thấy: "Đây là an tịnh".
Rồi này Ànanda, sau một thời gian,
sau khi thấy nguy hiểm trong xả lạc, Ta làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy;
sau khi chứng được lợi ích trong không có hỷ, Ta thưởng thức lợi ích
ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong không khổ, không lạc, tịnh
tín, an trú, giải thoát, vì Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này
Ànanda, sau một thời gian, Ta xả lạc, xả khổ... chứng đạt và an trú
Thiền thứ tư. Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng tác ý câu hữu với
xả lạc vẫn hiện hành. Như vậy, đối với Ta, đây là một chứng bệnh.
Ví như, này Ànanda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi
lên như là một chứng bệnh. Cũng vậy các tưởng, tác ý câu hữu với hỷ
vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy đối với Ta, đây là một chứng bệnh.
8. Rồi này A计nda, Ta suy nghĩ như sau: "Vậy Ta hãy vượt qua các sắc
tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các đối ngại tưởng, không tác ý
đến các tưởng sai biệt, chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Nhưng
tâm của Ta không có hứng khởi đối với Không vô biên xứ, không có tịnh
tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là
an tịnh". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau như sau:
"Do nhân gì do duyên gì, tâm Ta không hứng khởi đối với Không vô
biên xứ, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta
có thấy: "Đây là an tịnh?". Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau:
"Vì Ta không thấy sự nguy hiểm trong các sắc, Ta không làm cho sung mãn
nguy hiểm ấy, lợi ích của Không vô biên xứ chưa được chứng đắc. Ta
chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối
với Không vô biên xứ, không tịnh tín, không an trú, không giải
thoát". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu sau
khi thấy nguy hiểm trong các sắc, Ta làm cho sung mãn nguy hiểm ấy. Sau khi
chứng được lợi ích trong Không vô biên xứ, Ta thưởng thức lợi ích
ấy", thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta có thể hứng khởi trong
Không vô biên xứ, tịnh tín, an trú, giải thoát, vì Ta có thấy: "Đây
là an tịnh".
Rồi này Ànanda, sau một thời gian,
sau khi thấy nguy hiểm trong các sắc, Ta làm cho sung mãn nguy hiểm ấy; sau
khi chứng được lợi ích trong Không vô biên xứ, Ta thưởng thức lợi
ích ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong Không vô biên xứ, tịnh
tín, an trú, giải thoát, vì Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này
Ànanda, sau một thời gian, Ta vượt qua các sắc tưởng... chứng đạt và
an trú Không vô biên xứ. Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng tác ý
câu hữu với các sắc vẫn hiện hành. Đây đối với Ta, đây là một chứng
bệnh. Ví như, này Ànanda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể
khởi lên như là một chứng bệnh. Cũng vậy các tưởng, tác ý câu hữu với
sắc vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy đối với Ta, đây là một chứng
bệnh.
9. Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như
sau: "Vậy Ta hãy vượt qua Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết
rằng: "Thức là vô biên", chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ.
Nhưng tâm của Ta không có hứng khởi đối với Thức vô biên xứ, không
có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây
là an tịnh". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau như sau:
"Do nhân gì do duyên gì, tâm Ta không hứng khởi đối với Thức vô
biên xứ, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta
có thấy: "Đây là an tịnh?". Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau:
"Vì Ta không thấy sự nguy hiểm trong Không vô biên xứ, vì Ta không
làm cho sung mãn nguy hiểm ấy, lợi ích của Thức vô biên xứ chưa được
chứng đắc. Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta
không hứng khởi đối với Thức vô biên xứ, không tịnh tín, không an
trú, không giải thoát". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như
sau: "Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong Không vô biên xứ, Ta làm cho sung
mãn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong Thức vô biên xứ, Ta
thưởng thức lợi ích ấy", thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta
có thể hứng khởi trong Thức vô biên xứ, tịnh tín, an trú, giải thoát,
vì Ta có thấy: "Đây là an tịnh".
Rồi này Ànanda, sau một thời gian,
sau khi thấy nguy hiểm trong Không vô biên xứ, Ta làm cho sung mãn nguy hiểm
ấy; sau khi chứng được lợi ích trong Thức vô biên xứ, Ta thưởng thức
lợi ích ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong Thức vô biên xứ, tịnh
tín, an trú, giải thoát, vì Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này
Ànanda, sau một thời gian, Ta vượt qua Không vô biên xứ... chứng đạt và
an trú Thức vô biên xứ. Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng tác ý
câu hữu với Không vô biên xứ vẫn hiện hành. Đây đối với Ta, đây
là một chứng bệnh. Ví như, này Ànanda, đối với người sung sướng,
đau khổ có thể khởi lên như là một chứng bệnh. Cũng vậy các tưởng,
tác ý câu hữu với Không vô biên xứ vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy
đối với Ta, đây là một chứng bệnh.
10. Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như
sau: "Vậy Ta hãy vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết
rằng: "Không có vật gì", chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ.
Nhưng tâm của Ta không có hứng khởi đối với Vô sở hữu xứ , không
có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây
là an tịnh". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau như sau:
"Do nhân gì do duyên gì, tâm Ta không hứng khởi đối với Vô sở hữu
xứ , không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có
thấy: "Đây là an tịnh?". Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau:
"Vì Ta không thấy sự nguy hiểm trong Thức vô biên xứ, vì Ta không
làm cho sung mãn nguy hiểm ấy, lợi ích của Vô sở hữu xứ chưa được
chứng đắc. Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta
không hứng khởi đối với Vô sở hữu xứ, không tịnh tín, không an trú,
không giải thoát". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau:
"Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong Thức vô biên xứ, Ta làm cho sung mãn
nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong Vô sở hữu xứ, Ta thưởng
thức lợi ích ấy", thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta có thể hứng
khởi trong Vô sở hữu xứ, tịnh tín, an trú, giải thoát, vì Ta có thấy:
"Đây là an tịnh".
Rồi này Ànanda, sau một thời gian,
sau khi thấy nguy hiểm trong Thức vô biên xứ, Ta làm cho sung mãn nguy hiểm
ấy; sau khi chứng được lợi ích trong Vô sở hữu xứ, Ta thưởng thức lợi
ích ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong Vô sở hữu xứ, tịnh tín,
an trú, giải thoát, vì Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, sau
một thời gian, Ta vượt qua Thức vô biên xứ... chứng đạt và an trú Vô
sở hữu xứ. Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng tác ý câu hữu với
các Thức vô biên xứ vẫn hiện hành, như vậy đối với Ta, đây là một
chứng bệnh. Ví như, này Ànanda, đối với người sung sướng, đau khổ có
thể khởi lên như là một chứng bệnh. Cũng vậy các tưởng, tác ý câu hữu
với Thức vô biên xứ vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy đối với Ta, đây
là một chứng bệnh.
11. Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như
sau: "Vậy Ta hãy vượt qua Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng
đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nhưng tâm của Ta không có hứng
khởi đối với Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không có tịnh tín, không có
an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh".
Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau như sau: "Do nhân gì do
duyên gì, tâm Ta không hứng khởi đối với Phi tưởng phi phi tưởng xứ,
không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy:
"Đây là an tịnh?". Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "Vì Ta
không thấy sự nguy hiểm trong Vô sở hữu xứ, vì Ta không làm cho sung mãn
nguy hiểm ấy, lợi ích của Phi tưởng phi phi tưởng xứ chưa được chứng
đắc. Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng
khởi đối với Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không tịnh tín, không an
trú, không giải thoát". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như
sau: "Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong Vô sở hữu xứ, Ta làm cho sung
mãn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong Phi tưởng phi phi tưởng
xứ, Ta thưởng thức lợi ích ấy", thời sự kiện này xảy ra: Tâm của
Ta có thể hứng khởi trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tịnh tín, an trú,
giải thoát, vì Ta có thấy: "Đây là an tịnh".
Rồi này Ànanda, sau một thời gian,
sau khi thấy nguy hiểm trong Vô sở hữu xứ, Ta làm cho sung mãn nguy hiểm
ấy; sau khi chứng được lợi ích trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ta
thưởng thức lợi ích ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, tịnh tín, an trú, giải thoát, vì Ta thấy: "Đây là
an tịnh". Này Ànanda, sau một thời gian, Ta vượt qua Vô sở hữu xứ...
chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Do Ta trú với sự an
trú này, các tưởng tác ý câu hữu với các Vô sở hữu xứ vẫn hiện
hành, như vậy đối với Ta, đây là một chứng bệnh. Ví như, này Ànanda,
đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi lên như là một chứng
bệnh. Cũng vậy các tưởng, tác ý câu hữu với Vô sở hữu xứ vẫn hiện
hành ở nơi Ta. Như vậy đối với Ta, đây là một chứng bệnh.
12. Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như
sau: "Vậy Ta hãy vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn
toàn, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định. Nhưng tâm của Ta
không có hứng khởi đối với Diệt thọ tưởng định, không có tịnh
tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là
an tịnh". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau như sau:
"Do nhân gì do duyên gì, tâm Ta không hứng khởi đối với Diệt thọ
tưởng định, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu
Ta có thấy: "Đây là an tịnh?". Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như
sau: "Vì Ta không thấy sự nguy hiểm trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ,
vì Ta không làm cho sung mãn nguy hiểm ấy, lợi ích của Diệt thọ tưởng
định chưa được chứng đắc. Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy.
Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối với Diệt thọ tưởng định, không tịnh
tín, không an trú, không giải thoát". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta
suy nghĩ như sau: "Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong Phi tưởng phi phi tưởng
xứ, Ta làm cho sung mãn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong Diệt
thọ tưởng định, Ta thưởng thức lợi ích ấy", thời sự kiện này
xảy ra: Tâm của Ta có thể hứng khởi trong Diệt thọ tưởng định, tịnh
tín, an trú, giải thoát, vì Ta có thấy: "Đây là an tịnh".
Rồi này Ànanda, sau một thời gian,
sau khi thấy nguy hiểm trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ta làm cho sung mãn
nguy hiểm ấy; sau khi chứng được lợi ích trong Diệt thọ tưởng định,
Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong Diệt
thọ tưởng định, tịnh tín, an trú, giải thoát, vì Ta thấy: "Đây
là an tịnh". Này Ànanda, sau một thời gian, Ta vượt qua Phi tưởng phi
phi tưởng xứ... chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định. Do Ta trú
với sự an trú này, các tưởng tác ý câu hữu với các Phi tưởng phi phi
tưởng xứ vẫn hiện hành, như vậy đối với Ta, đây là một chứng bệnh.
Ví như, này Ànanda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi
lên như là một chứng bệnh. Cũng vậy các tưởng, tác ý câu hữu với
Phi tưởng phi phi tưởng xứ vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy đối với
Ta, đây là một chứng bệnh.
13. Cho đến khi nào, này Ànanda,
chín thứ đệ trú Thiền chứng này chưa được Ta thuận thứ nghịch thứ
chứng đạt và xuất khởi, thời này Ànanda, trong thế giới, với Thiên giới,
Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên
và loài Người, Ta chưa xác chứng rằng ta đã chứng Chánh Đẳng Chánh
giác. Cho đến khi nào, này Ànanda, chín thứ đệ trú Thiền chứng này đã
được Ta thuận thứ nghịch thứ chứng đạt và xuất khởi, thời này
Ànanda, trong thế giới này, với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với
quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, cho đến khi ấy,
Ta mới xác chứng rằng Ta đã chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác. Tri và Kiến khởi lên nơi Ta. Ta biết rằng: "Bất động là tâm
giải thoát của Ta. Đây là đời sống cuối cùng, nay không còn tái sanh nữa".
V. PHẨM PANCALA
(I) (42) PANCALACANDA
1. Như vầy tôi nghe:
Một thời Tôn giả Ànanda trú ở
Kosambi, tại khu vườn Ghosita. Rồi Tôn giả Udàyi đi đến Tôn giả Ànanda,
sau khi đến, nói lên với Tôn giả Ànanda những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Udàyi nói với Tôn giả Ànanda:
- Thưa Hiền giả, lời này được
Thiên tử Pancàlacanda nói như sau:
"Bậc thiện trí tìm được,
Giải thoát trong triền phược,
Vị giác tỉnh với Thiền,
Bậc giác giả Mâu-ni,
Bậc từ bỏ, không chấp
Bậc anh hùng ẩn sĩ."
Thưa Hiền giả, thế nào là triền
phược? Thế nào là giải thoát khỏi triền phược được Thế Tôn nói đến?
2. - Này Hiền giả, năm dục trưởng
dưỡng này được Thế Tôn gọi là triền phược. Thế nào là năm?
Các sắc do mắt nhận thức, khả lạc,
khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn; các tiếng do tai
nhận thức... các hương do mũi nhận thức... các vị do lưỡi nhận thức...
các xúc do thân nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ
đến dục, hấp dẫn.
Này Hiền giả, năm dục trưởng
dưỡng này là triền phược, được Thế Tôn nói đến.
3. Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo
là các dục... chứng và t rú sơ Thiền. Cho đến như vậy, này Hiền giả,
là giải thoát khỏi triền phược được Thế Tôn nói đến với pháp
môn. Nhưng ở đây vẫn có triền phược. Và ở đây, triền phược ấy là
gì?
Cái ở đây là tầm và tứ chưa diệt.
Chính cái ấy ở đây là triền phược.
4. Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo
diệt tầm và tứ... chứng đạt và an trú Thiền thứ hai. Cho đến như vậy,
này Hiền giả, là giải thoát khỏi triền phược được Thế Tôn nói đến
với pháp môn. Nhưng ở đây vẫn có triền phược. Và ở đây triền phược
ấy là gì?
Cái ở đây là hỷ chưa diệt. Chính
cái ấy ở đây là triền phược.
5. Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo
ly hỷ trú xả... chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Cho đến như vậy, này
Hiền giả, là giải thoát khỏi triền phược được Thế Tôn nói đến với
pháp môn. Nhưng ở đây vẫn có triền phược. Và ở đây triền phược
ấy là gì?
Cái ở đây là xả lạc chưa diệt.
Chính cái ấy ở đây là triền phược.
6. Lại nữa, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo
đoạn lạc... chứng và trú Thiền thứ tư. Cho đến như vậy, này Hiền giả
là giải thoát khỏi triền phược được Thế Tôn nói đến với pháp
môn. Nhưng ở đây vẫn có triền phược. Và ở đây, triền phược ấy là
gì?
Cái ở đây là sắc tưởng chưa diệt.
Chính cái ấy ở đây là triền phược.
7. Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo
vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các đối ngại
tưởng, không tác ý đến sai biệt tưởng, biết rằng: "Hư không là
vô biên, chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Cho đến như vậy, này
Hiền giả là giải thoát khỏi triền phược được Thế Tôn nói đến với
pháp môn. Nhưng ở đây vẫn có triền phược. Và ở đây, triền phược
ấy là gì?
Cái ở đây là Không vô biên xứ
chưa diệt. Chính cái ấy ở đây là triền phược.
8. Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo
biết rằng: "Thức là vô biên", vượt qua Không vô biên xứ một
cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ. Cho đến như vậy,
thưa Hiền giả là giải thoát khỏi triền phược được Thế Tôn nói đến
với pháp môn. Nhưng ở đây vẫn có triền phược. Và ở đây, triền phược
ấy là gì?
Cái ở đây là Thức vô biên xứ
chưa diệt. Chính cái ấy ở đây là triền phược.
9. Lại nữa, thưa Hiền giả, Tỷ-kheo
vượt Thức là vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Không có
vật gì", chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ. Cho đến như vậy,
thưa Hiền giả là giải thoát khỏi triền phược được Thế Tôn nói đến
với pháp môn. Nhưng ở đây vẫn có triền phược. Và ở đây, triền phược
ấy là gì?
Cái ở đây là Vô sở hữu xứ chưa
diệt. Chính cái ấy ở đây là triền phược.
10. Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo
vượt qua Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Phi tưởng
phi phi tưởng xứ. Cho đến như vậy, thưa Hiền giả là giải thoát khỏi
triền phược được Thế Tôn nói đến với pháp môn. Nhưng ở đây vẫn
có triền phược. Và ở đây, triền phược ấy là gì?
Cái ở đây là Phi tưởng phi phi
tưởng xứ chưa diệt. Chính cái ấy ở đây là triền phược.
11. Lại nữa, thưa Hiền giả, Tỷ-kheo
vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng
định. Sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn diệt. Cho
đến như vậy, này Hiền giả là giải thoát khỏi triền phược được Thế
Tôn nói đến với phi pháp môn.
(II) (43) VỊ THÂN CHỨNG
1. - "Thân chứng, thân chứng",
này Hiền giả, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, này Hiền
giả, thân chứng được Thế Tôn nói đến?
2. - Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo
ly dục... chứng và trú Thiền thứ nhất. Như thế nào, như thế nào, sau
khi cảm xúc với thân, vị ấy như vậy, như vậy an trú xứ ấy. Cho đến
như vậy, này Hiền giả, thân chứng được Thế Tôn nói đến pháp môn.
3. - Lại nữa, này các Hiền giả,
Tỷ-kheo diệt tầm và tứ... Thiền thứ hai... Thiền thứ ba... Chứng đạt
và an trú Thiền thứ tư. Như thế nào, như thế nào, sau khi cảm xúc với
thân, vị ấy như vậy, như vậy an trú xứ ấy. Cho đến như vậy, này Hiền
giả, thân chứng được Thế Tôn nói đến pháp môn.
4. - Lại nữa, này các Hiền giả,
Tỷ-kheo, sau khi vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt
các tưởng đối ngại, không tác ý đến các tưởng sai biệt, biết rằng:
"Hư không là vô biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Như
thế nào, như thế nào, sau khi cảm xúc với thân, vị ấy như vậy, như vậy
an trú xứ ấy. Cho đến như vậy, này Hiền giả, thân chứng được Thế
Tôn nói đến pháp môn... (như trên) ...
5. - Lại nữa, này các Hiền giả,
Tỷ-kheo, sau khi vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn,
chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định. Như thế nào, như thế nào,
sau khi cảm xúc với thân, vị ấy như vậy, như vậy an trú xứ ấy. Cho đến
như vậy, này Hiền giả, thân chứng được Thế Tôn nói đến pháp môn.
(III) (44) TUỆ GIẢI THOÁT
1. - "Tuệ giải thoát, tuệ giải
thoát", này Hiền giả, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào,
này Hiền giả, tuệ giải thoát được Thế Tôn nói đến?
2. Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo
ly dục... chứng đạt và an trú sơ Thiền; với trí tuệ vị ấy rõ biết.
Cho đến như vậy, này các Hiền giả, tuệ giải thoát được Thế Tôn
nói đến với pháp môn... (như trên).
3. Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo
vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng
định; sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn tận. Với
trí tuệ, vị ấy rõ biết. Cho đến như vậy, này Hiền giả, tuệ giải
thoát được Thế Tôn nói đến với phi pháp môn.
(IV) (45) GIẢI THOÁT CẢ HAI PHẦN
1. - "Giải thoát cả hai phần,
giải thoát cả hai phần", này Hiền giả, được nói đến. Cho đến
như thế nào, này Hiền giả, giải thoát cả hai phần được Thế Tôn nói
đến?
2. - Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo
ly dục... chứng đạt và an trú sơ Thiền. Như thế nào, như thế nào, sau
khi cảm xúc với thân, vị ấy như vậy, như vậy an trú xứ ấy; với trí
tuệ, vị ấy rõ biết. Cho đến như vậy, này Hiền giả, là giải thoát cả
hai phần được Thế Tôn nói đến với pháp môn... (như trên)...
3. Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo
vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng
định; sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được diệt trừ. Như thế
nào, như thế nào, sau khi cảm xúc với thân, vị ấy như vậy, như vậy an
trú xứ ấy; với trí tuệ, vị ấy rõ biết. Cho đến như vậy, này Hiền
giả, tuệ giải thoát cả hai phần được Thế Tôn nói đến với phi pháp
môn.
(V) (46) CHÍNH THỰC MÌNH THẤY (1)
- "Pháp là chính thực mình thấy,
pháp là thiết thực hiện tại", này Hiền giả, được nói đến như
vậy.
(VI) (47) CHÍNH THỰC MÌNH THẤY (2)
- "Niết-bàn là chính thực
mình thấy, Niết-bàn là chính thực mình thấy", này Hiền giả, được
nói đến như vậy.
(VII) (48) NIẾT-BÀN
- "Niết-bàn, Niết-bàn",
này Hiền giả, được nói đến như vậy.
(VIII) (49) HOÀN MÃN NIẾT-BÀN
- "Hoàn mãn Niết-bàn, hoàn mãn
Niết-bàn", này Hiền giả, được nói đến như vậy.
(IX) (50) HOÀN MÃN NIẾT-BÀN
- "Chi phần Niết-bàn, chi phần
Niết-bàn", này Hiền giả, được nói đến như vậy.
(X) (50) THIẾT THỰC HIỆN TẠI NIẾT-BÀN
1. - "Thiết thực hiện tại Niết-bàn,
Thiết thực hiện tại Niết-bàn", này Hiền giả, được nói đến
như vậy. Cho đến như thế nào, này Hiền giả, là thiết thực hiện tại
Niết-bàn được Thế Tôn nói đến?
2. - Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo
ly dục... chứng đạt và an trú sơ Thiền. Cho đến như vậy, này Hiền giả,
là thiết thực hiện tại Niết-bàn được Thế Tôn nói đến với pháp
môn.
3. Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo
sau khi vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ môﴠcách hoàn toàn, chứng đạt
và an trú Diệt thọ tưởng định, sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc
được tận. Cho đến như vậy, này Hiền giả, là thiết thực hiện tại
Niết-bàn được Thế Tôn nói đến với phi pháp môn.
VI. PHẪM AN ỔN
(I) (52) AN ỔN
- "An ổn, an ổn", này Hiền
giả, được nói đến như vậy.
(II) (52) NGƯỜI ĐẠT AN ỔN
- "Người đạt an ổn, người
đạt an ổn", này Hiền giả, được nói đến như vậy.
(III) (53) BẤT TỬ
- "Bất tử, bất tử", này
Hiền giả, được nói đến như vậy.
(IV) (54) NGƯỜI ĐẠT ĐƯỢC BẤT TỬ
- "Người đạt được bất tử,
người đạt được bất tử", này Hiền giả, được nói đến như vậy.
(V) (56) VÔ ÚY
- "Vô úy, vô úy", này Hiền
giả, được nói đến như vậy.
(VI) (57) NGƯỜI ĐẠT VÔ ÚY
- "Người đạt vô úy, người
đạt vô úy", này Hiền giả, được nói đến như vậy.
(VII) (58) KHINH AN
- "Khinh an, khinh an", này Hiền
giả, được nói đến như vậy.
(VIII) (59) THỨ ĐỆ KHINH AN
Thứ đệ khinh an, thứ đệ khinh
an, này Hiền giả, được nói đến như vậy.
(IX) (60) ĐOẠN DIỆT
- "Đoạn diệt, đoạn diệt",
này Hiền giả, được nói đến như vậy.
(X) (61) THỨ ĐỆ ĐOẠN DIỆT
1. - "Thứ đệ đoạn diệt, thứ
đệ đoạn diệt", này Hiền giả, được nói đến như vậy. Cho đến
như thế nào, này Hiền giả, thứ đệ đoạn diệt được Thế Tôn nói đến?
2. - Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo
ly dục... chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, cho đến như vậy, này
Hiền giả, thứ đệ đoạn diệt được Thế Tôn nói đến với pháp môn.
3. Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo
vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, chứng đạt và
an trú Diệt thọ tưởng định; sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc
được đoạn tận. Cho đến như vậy, này Hiền giả là thứ đệ đoạn
diệt được Thế Tôn nói đến với phi pháp môn.
(XI) (62) CÓ KHẢ NĂNG
1. - Này các Tỷ-kheo, có chín pháp
không đoạn trừ thì không có thể chứng ngộ quả A-la-hán. Thế nào là
chín?
2. Tham sân, si, phẫn nộ, hiềm hận,
giả dối, não hại, tật đố, xan tham.
Chín pháp này, này các Tỷ-kheo,
không đoạn trừ thì không có thể chứng ngộ quả A-la-hán.
3. Chín pháp này, này các Tỷ-kheo,
được đoạn trừ thì có thể chứng ngộ quả A-la-hán. Thế nào là chín?
4. Tham, sân, si, phẫn nộ, hiềm hận,
giả dối, não hại, tật đố, xan tham.