- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 3d
- CẦN PHẢI KHÍCH LỆ
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn
nói với Tôn giả Ànanda đang ngồi xuống một bên :
- Này Ànanda, với ai, Thầy có lòng
từ mẫn, và với những ai, Thầy nghĩ là nên nghe theo, các bạn bè, thân hữu,
bà con hay cùng một huyết thống ? Với những người ấy, này Ànanda, Thầy
cần phải khích lệ, cần phải hướng dẫn, cần phải an trú trong ba điểm.
Thế nào là ba ?
Hãy khích lệ, hướng dẫn và an
trú vào tịnh tín bất động đối với Đức Phật : "Đây là Thế
Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Mạng Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Nghị Trượng Phu, Thiên Nhân sư, Phật, Thế Tôn".
Hãy khích lệ, hướng dẫn và an trú vào tịnh tín bất động đối với
pháp : "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại,
không có thời gian, đến đề mà thấy, có khả năng hướng thượng, được
người trí tự mình giác hiểu". Hãy khích lệ, hướng dẫn và an trú
vào tịnh tín bất động đối với chúng Tăng : "Diệu hạnh là chúng
đệ tử của Thế Tôn, Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, Ứng
lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử
của Thế Tôn. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, được cúng
dường, đáng tôn trọng, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng
ở đời".
Dầu cho bốn đại chúng có đổi
khác, này Ànanda, địa đại, hỏa đại, phong đại, nhưng vị thánh đệ tử
thành tựu tịnh tín bất động đối với Phật không có đổi khác. Ở đây,
đổi khác là như thế này : Vị Thánh đệ tử ấy, này Ànanda, thành tựu
tịnh tín bất động đối với đức Phật, sẽ sanh vào địa ngục, loại
bàng sanh hay cõi ngạ quỷ. Sự kiện này không xảy ra.
Dầu cho bốn đại chúng có đổi
khác, này Ànanda, địa đại, hỏa đại, phong đại, nhưng vị thánh đệ tử
thành tựu tịnh tín bất động đối với Pháp không có đổi khác. Ở đây,
đổi khác là như thế này : Vị Thánh đệ tử ấy, này Ànanda, thành tựu
tịnh tín bất động đối với đức Pháp, sẽ sanh vào địa ngục, loại
bàng sanh hay cõi ngạ quỷ. Sự kiện này không xảy ra.
Dầu cho bốn đại chúng có đổi
khác, này Ànanda, địa đại, hỏa đại, phong đại, nhưng vị thánh đệ tử
thành tựu tịnh tín bất động đối với chúng Tăng không có đổi khác.
Ở đây, đổi khác là như thế này : Vị Thánh đệ tử ấy, này Ànanda,
thành tựu tịnh tín bất động đối với chúng Tăng, sẽ sanh vào địa ngục,
loại bàng sanh hay cõi ngạ quỷ. Sự kiện này không xảy ra.
Này Ànanda, với ai Thầy có lòng từ
mẫn, và với những ai Thầy nghĩ là nên nghe theo, các bạn bè, thân hữu,
bà con hay cùng một huyết thống ? Với những người ấy, này Ànanda, Thầy
cần phải khích lệ, cần phải hướng dẫn, cần phải an trú trong ba điểm
này.
HIỆN HỮU
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :
- Hữu, hữu, bạch Thế Tôn, được
nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được xem là
có hữu ?
- Này Ànanda, nếu không có hành động
(nghiệp) và sự chín muồi của dục giới thời dục hữu có thể trình
bày được không ?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Như vậy, này Ànanda, nghiệp là
thửa ruộng, thức là hột giống, ái là sự nhuận ướt. Chúng sanh bị
vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên thức được an lập trong giới thấp
kém. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh sanh khởi. Như vậy, này
Ànanda, hữu có mặt.
Và này Ànanda, nếu không có hành
động và sự chín muồi của sắc giới, thời sắc hữu có thể trình bày
được không ?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Như vậy, này Ànanda, nghiệp là
thửa ruộng, thức là hột giống, ái là sự nhuận ướt. Chúng sanh bị
vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên thức được an lập trong giới bậc
trung. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh sanh khởi. Như vậy, này
Ànanda, hữu có mặt.
Và này Ànanda, nếu không có hành
động và sự chín muồi của vô sắc giới, thời vô sắc hữu có thể
trình bày được không ?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Như vậy, này Ànanda, nghiệp là
thửa ruộng, thức là hột giống, ái là sự nhuận ướt. Chúng sanh bị
vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên thức được an lập trong giới bậc
thù thắng. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh sanh khởi. Như vậy, này
Ànanda, hữu có mặt.
TƯ VÀ KHỞI ĐIỂM
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, Tôn giả
Ànanda bạch Thế Tôn :
(như kinh trên cho đến) …
- Như vậy, này Ànanda, nghiệp là
thửa ruộng, thức là hột giống, ái là sự nhuận ướt. Chúng sanh bị
vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên tư được an lập, khởi điểm được
an lập trong giới thấp kém. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh sanh
khởi. Như vậy, này Ànanda, hữu có mặt.
- (Đoạn còn lại như kinh trên, chỉ
khác thức được tư và khởi điểm thay thế) …
SỰ HẦU HẠ GIÚP ĐỠ
(Nhân duyên như kinh trên). Thế Tôn
nói với Tôn giả Ànanda đang ngồi một bên :
- Này Ànanda, mọi giới cấm, sinh sống
Phạm hạnh, sự hầu hạ căn bản đều có quả phải không ?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, không thể
trả lời một chiều được.
- Vậy này Ànanda, hãy phân tích
thêm !
- Bạch Thế Tôn, phàm giới cấm,
sinh sống Phạm hạnh, sự hầu hạ căn bản nào được áp dụng, khiến
pháp không thiện tăng trưởng, pháp thiện đoạn tận, thời giới cấm,
sinh sống Phạm hạnh, sự hầu hạ căn bản như vậy không có kết quả.
Và bạch Thế Tôn, phàm giới cấm, sinh sống Phạm hạnh, sự hầu hạ căn
bản nào được áp dụng, khiến pháp không thiện đoạn tận, pháp thiện
tăng trưởng, thời giới cấm, sinh sống Phạm hạnh, sự hầu hạ căn bản
như vậy có kết quả.
Tôn giả Ànanda nói như vậy và bậc
Đạo Sư đồng ý.
Rồi Tôn giả Ànanda nghĩ : "Bậc
Đạo Sư đã đồng ý với ta", từ chỗ ngồi đứng dậy, thân phía hữu
hướng về ngài rồi ra đi.
Rồi Thế Tôn, khi Tôn giả Ànanda
ra đi không bao lâu, nói với các Tỷ-kheo :
- Này các Tỷ-kheo, Ànanda còn là hữu
học, nhưng không dễ gì tìm được người có trí tuệ ngang bằng.
HƯƠNG
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :
- Có ba loại cây hương này, bạch
Thế Tôn, hương của chúng bay theo gió, không bay ngược gió. Thế nào là
ba ? Cây hương rễ, cây hương lõi và cây hương hoa. Có ba loại cây hương
này, bạch Thế Tôn, hương của chúng bay theo chiều gió, không bay ngược
gió. Bạch Thế Tôn, có thể có loại cây hương nào, có hương bay thuận
gió, có hương bay ngược gió, có hương bay thuận gió ngược gió ?
- Có loại cây hương, có hương bay
thuận gió, có hương bay ngược gió, có hương bay thuận gió ngược gió.
2. - Bạch Thế Tôn, loại cây hương
ấy là gì, có hương bay thuận gió, có hương bay ngược gió, có hương bay
thuận gió ngược gió ?
- Ở đây, này Ànanda, tại làng
nào hay tại thị trấn nào, có nữ nhân hay nam nhân quy y Phật, quy y Pháp,
quy y chúng Tăng, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống
tà hạnh trong dục vọng, từ bỏ nói láo, từ bỏ dùng rượu, men rượu nấu
làm say người, giữ giới, tâm tánh hiền lương, sống trong nhà với tâm
không nhiễm xan tham, bố thí không luyến tiếc với tay rộng mở, thích
thú từ bỏ, sẵn sàng được yêu cầu, ưa thích chia xẻ đồ bố thí. Người
như vậy, được các Sa-môn, Bà-la-môn tán thán khắp bốn phương : tại làng
ấy, hay tại thị trấn ấy, có nữ nhân hay nam nhân quy y Phật, quy y Pháp,
quy y chúng Tăng, … ưa thích chia xẻ đồ bố thí. Chư Thiên và các phi
nhân cũng tán thán : tại làng ấy, hay tại thị trấn ấy, có nữ nhân hay
nam nhân quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, … ưa thích chia xẻ đồ bố
thí. Cây hương như vậy, này Ànanda, có hương bay thuận gió, có hương bay
ngược gió, có hương bay thuận gió ngược gió.
Không một hương hoa nào
Bay ngược chiều gió thổi
Dầu là hoa chiên-đàn
Già-là hay mạt-ly
Chỉ hương người đức hạnh
Bay ngược chiều gió thổi
Chỉ có Bậc Chân nhân
Biến mãn mọi phương trời.
ABHIBHÙ
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tôn giả bạch Thế Tôn :
- Con được nghe trước mặt Thế Tôn,
con được nắm giữ trước mặt Thế Tôn : "Abhibhù đệ tử Đức Phật
Sikhi, đứng ở Phạm Thiên Giới, có thể làm cho ngàn thế giới nghe tiếng
của mình". Nhưng bạch Thế Tôn, Thế Tôn bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
có thể làm cho nghe tiếng xa như thế nào ?
- Vị ấy chỉ là một đệ tử, này
Ànanda. Các Như Lai là vô lượng.
Lần thứ hai, Tôn giả Ànanda bạch
Thế Tôn :
- Con được nghe trước mặt Thế Tôn,
… có thể làm cho nghe tiếng xa như thế nào ?
- Vị ấy chỉ là một đệ tử, này
Ànanda. Các Như Lai là vô lượng.
2. Lần thứ ba, Tôn giả Ànanda bạch
Thế Tôn :
- Con được nghe trước mặt Thế Tôn,
… có thể làm cho nghe tiếng xa như thế nào ?
- Này Ànanda, Thầy có được nghe nói
đến tiển thiên thế giới không ?
- Nay đã đến thời, bạch Thế Tôn
! Nay đã đến thời, bạch Thế Tôn Thiên Thệ, để Thế Tôn nói về vấn
đề này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này Ànanda, hãy nghe và khéo
tác ý, ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ànanda vâng đáp Thế Tôn,
Thế Tôn nói như sau :
3. - Xa cho đến mặt trăng, mặt trời
chạy trong quỹ đạo của chúng và chói sáng khắp bốn phương với ánh
sáng của chúng, xa như vậy là một ngàn thế giới. Trong ấy có một ngàn
mặt trăng, một ngàn mặt trời, một ngàn núi Sinêru (Tu-di), một ngàn
Jambudìta (Diêm phù đề), một ngàn Aparagoyànà (Tây ngưu hóa châu), một
ngàn Uttarakurù (Bắc-cu-vô châu), một ngàn Pubbavidehà (Đông thắng thần
châu), bốn ngàn biển lớn, bốn ngàn đại vương, 1000 cõi trời Bốn
thiên vương, 1000 cõi trời ba mươi ba, 1000 Dạ ma thiên, 1000 Tusità (Đâu suất
thiên), 1000 Hóa Lạc thiên, 1000 Tha Hóa Tự tại thiên, 1000 Phạm Thiên. Này
Ànanda, đây gọi là một tiểu thiên thế giới. Này Ànanda, cho đến 1000 lần
một tiểu thiên thế giới, được gọi là, này Ànanda, ba Đại thiên thế
giới. Này Ànanda, Như Lai có thể làm cho tiếng mình nghe xa cho đến ba ngàn
Đại thiên thế giới hay xa hơn nữa nếu muốn.
4. - Làm sao, bạch Thế Tôn, Thế
Tôn có thể làm cho tiếng mình nghe xa cho đến ba ngàn Đại thiên thế giới
hay xa hơn nữa nếu muốn ?
- Ở đây, này Ànanda, Như Lai chiếu
ánh sáng cho đến ba ngàn Đại thiên thế giới, cho đến khi các chúng sanh
nhận thức được ánh sáng ấy. Rồi Thế Tôn phát âm và làm cho tiếng
mình được nghe. Như vậy, này Ànanda, Như Lai làm cho tiếng mình nghe xa cho
đến ba ngàn Đại thiên thế giới hay xa hơn nữa nếu muốn.
5. Khi được nói như vậy, Tôn giả
Ànanda nói với Tôn giả Udàyi :
- Được lợi thay cho tôi, khéo được
lợi thay cho tôi, có được bậc Đạo sư có thần lực như vậy, có uy lực
như vậy !
Khi được nghe nói như vậy, Tôn giả
Udàyi nói với Tôn giả Ànanda :
- Này Hiền giả Ànanda, ở đây Hiền
giả nghĩ có được gì, nếu bậc Đạo sư của Hiền giả có đại thần
lực như vậy, có đại uy lực như vậy ?
Khi được nghe nói như vậy, Thế Tôn
nói với Tôn giả Udàyi :
- Chớ có nói như vậy, này Udàyi ;
chớ nói vậy, này Udàyi. Này Udàyi, nếu Ànanda chưa có đoạn tận tham và
mệnh chung, nhưng với tâm tịnh tín của mình, vị ấy có thể bảy lần
ngự trị trên thế giới chư Thiên, có thể bảy lần ngự trị trên cõi
Jambudìpa này. Nhưng này Udàyi, Ànanda ngay trong hiện tại sẽ được Bát-Niết-bàn.
IX. PHẨM SA-MÔN
SA-MÔN
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba hạnh
Sa-môn cần phải làm này của Sa-môn. Thế nào là ba ?
Thọ trì tăng thượng giới học,
thọ trì tăng thượng tâm học, thọ trì tăng thượng tuệ học. Đây là
ba hạnh Sa-môn cần phải làm của Sa-môn. Ở đây vậy, này các Tỷ-kheo,
hãy học tập như sau : "Sắc bén sẽ là ước muốn chúng ta để thọ
trì tăng thượng giới học. Sắc bén sẽ là ước muốn chúng ta để thọ
trì tăng thượng định học. Sắc bén sẽ là ước muốn chúng ta để thọ
trì tăng thượng tuệ học". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần
phải học tập.
2. Ví như, này các Tỷ-kheo, một
con lừa đi theo sau lưng đàn bò nghĩ rằng : "Ta cũng là con bò, ta cũng
là con bò", nhưng nó không có màu sắc giống như con bò. Nó không có
tiếng giống như con bò. Nó không có chân giống như con bò. Tuy vậy, nó vẫn
đi theo đàn bò, nghĩ rằng : "Ta cũng là con bò, ta cũng là con bò".
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo đi theo sau lưng chúng Tỷ-kheo,
nghĩ rằng : "Ta cũng là Tỷ-kheo, ta cung là Tỷ-kheo". Nhưng vị ấy
không có ước muốn thọ trì tăng thượng giới học như các Tỷ-kheo
khác. Vị ấy không có ước muốn thọ trì tăng thượng tâm học như các
Tỷ-kheo khác. Vị ấy không có ước muốn thọ trì tăng thượng tuệ học
như các Tỷ-kheo khác. Tuy vậy, vị ấy vẫn đi theo sau lưng chúng Tỷ-kheo,
nghĩ rằng : "Ta cũng là Tỷ-kheo, ta cũng là Tỷ-kheo"
Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải
học tập như sau : "Sắc bén sẽ là ước muốn chúng ta để thọ trì
tăng thượng giới học. Sắc bén sẽ là ước muốn chúng ta để thọ trì
tăng thượng tâm học. Sắc bén sẽ là ước muốn chúng ta để thọ trì tăng
thượng tuệ học". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học
tập.
NGHỀ NÔNG
1. Có ba việc này, này các Tỷ-kheo,
một nông phu gia chủ cần phải làm trước. Thế nào là ba ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người nông
phu gia chủ, trước hết khéo cày và khéo bừa. Khéo cày và khéo bừa xong,
người ấy cho gieo hạt giống đúng thời. Cho gieo hạt giống đúng thời
xong, người ấy cho nước chảy vô chảy ra đúng thời. Ba việc này, này
các Tỷ-kheo, một nông phu gia chủ cần phải làm trước.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có
ba việc này, một Tỷ-kheo cần phải làm trước. Thế nào là ba ? Thọ trì
tăng thượng giới học, thọ trì tăng thượng tâm học, thọ trì tăng thượng
tuệ học. Ba công việc này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cần phải làm
trước. Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải học tập như sau : "Sắc bén
sẽ là ước muốn của tôi thọ trì tăng thượng giới học. Sắc bén sẽ
là ước muốn của tôi thọ trì tăng thượng tâm học. Sắc bén sẽ là ước
muốn của tôi thọ trì tăng thượng tuệ học". Như vậy, này các Tỷ-kheo,
các Thầy cần phải học tập.
83. NGƯỜI VAJJI
1. Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Vesàli,
tại Đại Lâm, chỗ giảng đường có góc nhọn. Rồi một Tỷ-kheo người
Vajji đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo người Vajji bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, hơn 150 học phái
này, nửa tháng một lần con phải tụng đọc, ở đây, con không có thể học
nổi.
- Này Tỷ-kheo, Thầy có thể học
ba học pháp không, tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng
thượng tuệ học ?
- Bạch Thế Tôn, con có thể học
ba học pháp, tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng thượng
tuệ học.
2. - Do vậy, này Tỷ-kheo, Thầy hãy
học tập ba pháp, tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng thượng
tuệ học. Nếu Thầy học tập tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học,
tăng thượng tuệ học. Này Tỷ-kheo, nhờ học tập ba học pháp này, tham sẽ
đoạn tận, sân sẽ đoạn tận, si sẽ đoạn tận. Do đoạn tận tham, đoạn
tận sân, đoạn tận si ; điều bất thiện, Thầy sẽ không làm ; điều
ác, Thầy sẽ không theo.
3. - Tỷ-kheo ấy, sau một thời gian
học tập tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng tuệ ; do học
tập tăng thượng giới, học tập tăng thượng tâm, học tập tăng thượng
tuệ, tham được đoạn tận, sân được đoạn tận, si được đoạn tận.
Vị ấy, do đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si ; nên không làm
điều bất thiện, không theo điều ác.
84. HỮU HỌC (1)
1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tỷ-kheo bạch Thế Tôn :
- Hữu học, hữu học, bạch Thế
Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là
hữu học ?
- Học tập, này Tỷ-kheo, nên được
gọi là hữu học, và học tập cái gì ? Học tập tăng thượng giới, Học
tập tăng thượng tâm, Học tập tăng thượng tuệ. Vị ấy, này Tỷ-kheo,
do vậy được gọi là vị hữu học.
Bậc hữu học, học tập
Đi theo con đường thẳng
Ở trong sự diệt tận
Trí thứ nhất khởi lên
Tiếp theo không gián đoạn
Chánh trí mới sanh khởi
Rồi chánh trí giải thoát
Trí như vậy khởi lên
Bất động ta giải thoát
Hữu kiết sử đoạn tận
85. HỮU HỌC (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, bản tụng đọc
này gồm hơn 150 học giới cần phải đọc nửa tháng một lần, ở đây
các người thiện nam tử muốn được lợi ích, học tập bản tụng ấy.
Này các Tỷ-kheo, tất cả được thâu nhiếp họp lại thành ba học giới
này. Thế nào là ba ? Tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng
thượng tuệ học. Chính ba học giới này, này các Tỷ-kheo, thâu nhiếp tất
cả.
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối
với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định, hành trì một
phần, đối với tuệ, hành trì một phần. Vị ấy có vi phạm học pháp
nhỏ nhặt nhỏ nhiệm nào, vị ấy được xem là thanh tịnh. Vì cớ sao ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố chúng làm cho vị ấy không có
khả năng. Phàm có những học pháp nào là căn bản Phạm hạnh, tương xứng
Phạm hạnh, ở đây, vị ấy kiên trì giới ấy, kiên trú giới ấy, chấp
nhận và học tập trong các học pháp. Vị ấy, do đoạn tận ba kiết sử,
là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc đạt đến Chánh
giác.
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối
với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định, hành trì một
phần, đối với tuệ, hành trì một phần. Vị ấy có vi phạm học pháp
nhỏ nhặt nhỏ nhiệm nào, vị ấy được xem là thanh tịnh. Vì cớ sao ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố chúng làm cho vị ấy không có
khả năng. Phàm có những học pháp nào là căn bản Phạm hạnh, tương xứng
Phạm hạnh, ở đây, vị ấy kiên trì giới ấy, kiên trú giới ấy, chấp
nhận và học tập trong các học pháp. Vị ấy, do đoạn tận ba kiết sử,
làm cho muội lược tham, sân, si là bậc Nhất lai, chỉ trở về thế giới
này một lần, rồi đoạn tận khổ đau.
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối
với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định, hành trì một
phần, đối với tuệ, hành trì một phần. Vị ấy có vi phạm học pháp
nhỏ nhặt nhỏ nhiệm nào, vị ấy được xem là thanh tịnh. Vì cớ sao ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố chúng làm cho vị ấy không có
khả năng. Phàm có những học pháp nào là căn bản Phạm hạnh, tương xứng
Phạm hạnh, ở đây, vị ấy kiên trì giới ấy, kiên trú giới ấy, chấp
nhận và học tập trong các học pháp. Vị ấy, do đoạn tận năm hạ phần
kiết sử, được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở
lui đời này nữa.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối
với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định, hành trì một
phần, đối với tuệ, hành trì một phần. Vị ấy có vi phạm học pháp
nhỏ nhặt nhỏ nhiệm nào, vị ấy được xem là thanh tịnh. Vì cớ sao ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố chúng làm cho vị ấy không có
khả năng. Phàm có những học pháp nào là căn bản Phạm hạnh, tương xứng
Phạm hạnh, ở đây, vị ấy kiên trì giới ấy, kiên trú giới ấy, chấp
nhận và học tập trong các học pháp. Vị ấy, do đoạn tận các lậu hoặc,
ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và
an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, người
hành trì có một phần, thành tựu được một phần ; người hành trì
toàn phần, thành tựu được toàn phần. Ta tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo,
các học giới không phải là rỗng không.
86. BẢN TỤNG ĐỌC (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, bản tụng đọc
này gồm hơn 150 học giới cần phải đọc nửa tháng một lần, ở đây
các người thiện nam tử muốn được lợi ích, học tập bản tụng ấy.
Này các Tỷ-kheo, tất cả được thâu nhiếp họp lại thành ba học giới
này. Thế nào là ba ? Tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng
thượng tuệ học. Chính ba học giới này, này các Tỷ-kheo, thâu nhiếp tất
cả.
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối
với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định, hành trì một
phần, đối với tuệ, hành trì một phần. Vị ấy có vi phạm học pháp
nhỏ nhặt nhỏ nhiệm nào, vị ấy được xem là thanh tịnh. Vì cớ sao ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố chúng làm cho vị ấy không có
khả năng. Phàm có những học pháp nào là căn bản Phạm hạnh, tương xứng
Phạm hạnh, ở đây, vị ấy kiên trì giới ấy, kiên trú giới ấy, chấp
nhận và học tập trong các học pháp. Vị ấy, do đoạn tận ba kiết sử,
là bậc tối đa phải sanh lại bảy lần. Sau khi sanh lại bảy lần, sau khi
dong ruổi, luân chuyển tối đa bảy lần giữa chư Thiên và loài người,
liền đoạn tận khổ đau. Vị ấy, do đoạn tận ba kiết sử, là bậc
"Gia gia", dong ruổi, lưu chuyển trong hai hay ba gia đình, rồi đoạn
tận khổ đau. Vị ấy, do đoạn tận ba kiết sử, là bậc Nhất chủng,
sau khi phải sanh hiện hữu làm người một lần, rồi đoạn tận khổ
đau. Vị ấy do đoạn tận ba kiết sử, làm cho muội lược tham, sân, si
là bậc Nhất lai, phải trở lui lại đời này chỉ một lần, rồi đoạn
tận khổ đau.
3. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo đối với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định,
hành trì toàn phần, đối với tuệ, hành trì toàn phần. Vị ấy có vi phạm
… chấp nhận và học tập trong các học pháp. Vị ấy do đoạn tận năm
hạ phần kiết sử, là bậc Thượng lưu, đạt được Sắc cứu kính
thiên. Vị ấy, do đoạn tận năm hạ phần kiết sử, là bậc Hữu hành
Bát Niết bàn. Vị ấy do đoạn tận năm hạ phần kiết sử, là bậc Vô
hành Bát Niết bàn. Vị ấy do đoạn tận năm hạ phần kiết sử, là bậc
Trung gian Bát Niết bàn.
4. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo đối với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định,
hành trì toàn phần, đối với tuệ, hành trì toàn phần. Vị ấy có vi phạm
… chấp nhận và học tập trong các học pháp. Vị ấy do đoạn tận các
lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng
đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, người
hành trì có một phần, thành tựu được một phần ; người hành trì
toàn phần, thành tựu được toàn phần. Ta tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo,
các học giới không phải là rỗng không.
87. BẢN TỤNG ĐỌC (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, bản tụng đọc
này … (như kinh trước, số 1) … này các Tỷ-kheo, thâu nhiếp tất cả.
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đối với các giới luật, hành trì toàn phần, đối với định, hành trì
toàn phần, đối với tuệ, hành trì toàn phần. Vị ấy có vi phạm … chấp
nhận và học tập trong các học pháp. Vị ấy do đoạn tận các lậu hoặc
ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và
an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
3. Hoặc nếu chưa chứng đạt, nếu
chưa thể nhập, sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, là bậc Trung
gian Bát-Niết-Bàn. Hoặc nếu chưa chứng đạt, nếu chưa thể nhập, sau
khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, là bậc Tổn hại Bát Niết bàn …
là bậc Vô hành Bát Niết bàn … là bậc Hữu hành Bát Niết bàn … là bậc
Thượng lưu, chứng đạt Sắc cứu kính thiên. Hoặc nếu chưa chứng đạt,
nếu chưa thể nhập, sau khi đoạn tận ba kiết sử, sau khi làm cho muội lược
tham, sân, si, là bậc Nhất lai, chỉ trở lui đời này một lần nữa, rồi
đoạn tận khổ đau. Hoặc nếu chưa chứng đạt, nếu chưa thể nhập, sau
khi đoạn tận ba kiết sử, là bậc Nhất chủng, sau khi phải sanh hiện hữu
làm người một lần, rồi đoạn tận khổ đau. Hoặc nếu chưa chứng đạt,
nếu chưa thể nhập, sau khi đoạn tận ba kiết sử, là bậc "Gia
gia", sau khi dong ruổi, luân chuyển trong hai hay ba gia đình, rồi đoạn
tận khổ đau. Hoặc nếu chưa chứng đạt, nếu chưa thể nhập, sau khi đoạn
tận ba kiết sử, là bậc Tối đa phải sanh lại bảy lần, sau khi dong ruổi,
luân chuyển tối đa bảy giữa chư Thiên và loài người, rồi đoạn tận
khổ đau.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, người
hành trì có một phần, thành tựu được một phần ; người hành trì
toàn phần, thành tựu được toàn phần. Ta tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo,
các học giới không phải là rỗng không.
88. HỌC GIỚI
1. - Có ba học giới này. Thế nào
là ba ? Tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học.
Thế nào là tăng thượng giới học
? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo giữ giới … chấp nhận, học tập
trong các giới. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tăng thượng giới học.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tăng
thượng tâm học ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất
thiện … chứng và trú Thiền thứ tư. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tăng
thượng tâm học.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tăng
thượng tuệ học ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo như thật rõ biết
: "Đây là khổ", như thật rõ biết : "Đây là con đường
đưa đến khổ diệt". Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tăng thượng tuệ
học.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo,
là ba học giới.
89. HỌC PHÁP
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba học
pháp này. Thế nào là ba ? Tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học,
tăng thượng tuệ học.
… (Hoàn toàn giống như kinh trước
với tăng thượng giới học và tăng thượng tâm học, nhưng tăng thượng
tuệ học có khác) …
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tăng
thượng tuệ học ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo do đoạn trừ các
lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng
đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là tăng thượng tuệ học. Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba
học pháp.
Người tinh tấn, nghị lực
Kiên trì và Thiền tu
Sống hộ trì các căn
Hãy hành ba tăng thượng
Trước thế nào, sau vậy
Sau thế nào, trước vậy
Dưới thế nào, trên vậy
Trên thế nào, dưới vậy
Ngày thế nào, đêm vậy
Đêm thế nào, ngày vậy.
Hãy nhiếp phục mọi phương
Với vô lượng tâm định
Đây gọi hữu đạo học
Là thuần tịnh hạnh đức
Đây gọi là Chánh giác
Bậc trí đạt tối hậu
Với thức được đoạn diệt
Ái diệt, được giải thoát
Như đèn sáng tịch diệt
Tâm vị ấy giải thoát
90. PANKADHÀ
1. Một thời Thế Tôn đang du hành
giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo, đi đến một thị trấn
của dân chúng Kosala, tên là Pankadhà. Tại đấy, Thế Tôn trú ở Pankadhà.
Pankadhà là một thị trấn của dân chúng Kosala.
Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo tên là
Kassapogotta trú ở Pankadhà. Tại đấy, Thế Tôn với một pháp thoại liên
hệ đến học giới, giảng dạy cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn
khởi, làm cho hoan hỉ. Rồi Tỷ-kheo Kassapogotta, trong khi Thế Tôn với một
pháp thoại liên hệ đến học pháp, giảng cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm
cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, lấy làm bất nhẫn, lấy làm bất mãn, nghĩ
rằng : "Sa-môn này quá tăn măn tỉ mỉ !".
2. Thế Tôn, sau khi trú ở Pankadhà
cho đến khi thỏa mãn, rồi ra đi, du hành hướng đến Ràjagaha, tiếp tục
du hành và đến tại Ràjagaha. Tại đấy, Thế Tôn trú ở Ràjagaha, núi
Gitjjhakùta.
Rồi Tỷ-kheo Kassapogotta, sau khi Thế
Tôn đi không bao lâu, cảm thấy hối hận, ăn năn, nghĩ rằng : "Thật
không lợi ích cho ta, thật lợi ích không được cho ta, thật không khéo lợi
ích cho ta, khi Thế Tôn với pháp thoại liên hệ đến học pháp, giảng cho
các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, ta lại lấy
làm bất nhẫn, lấy làm bất mãn, nghĩ rằng : "Sa-môn này quá tăn
măn, tỉ mỉ ! "(quá khắt khe ?). Vậy ta hãy đi đến Thế Tôn, sau khi
đến, trước mặt Thế Tôn, hãy tỏ lộ có phạm tội là có phạm tội".
3. Rồi Tôn giả Kassapogotta, sau khi
dọn dẹp lại chỗ nằm, cầm y bát, rồi ra đi đến hướng Ràjagaha, tiếp
tục đi đến Ràjagaha, núi Gijjhakùta, đến Thế Tôn, sau khi đến. Đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo
Kassapogotta bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, một thời Thế
Tôn trú ở Pankadhà, Pankadhà là một thị trấn các dân tộc Kosala. Tại đấy,
Thế Tôn với một pháp thoại liên hệ đến pháp học, giảng dạy cho các
Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Bạch Thế Tôn,
trong khi Thế Tôn, với một pháp thoại liên hệ đến pháp học, giảng dạy
cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, con lấy
làm bất nhẫn, con cảm thấy bất mãn, nghĩ rằng : "Vị Sa-môn này
quá tăn măn tỉ mỉ". Rồi Thế Tôn sau khi trú ở Pankadhà cho đến khi
thỏa mãn, liền ra đi, du hành đến Ràjagaha. Bạch Thế Tôn, sau khi Thế
Tôn đi không bao lâu, con cảm thấy hối hận, ăn năn : "Thật không lợi
ích cho ta, thật lợi ích không được cho ta, thật không khéo lợi ích cho
ta, khi Thế Tôn với pháp thoại liên hệ đến học pháp, giảng cho các Tỷ-kheo,
khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, ta lại lấy làm bất nhẫn,
lấy làm bất mãn, nghĩ rằng : "Sa-môn này quá tăn măn, tỉ mỉ
!". Vậy ta hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến, trước mặt Thế Tôn,
hãy tỏ lộ có phạm tội là có phạm tội !". Phạm tội đã chinh phục
con, bạch Thế Tôn, ngu si như con, đần độn như con, bất thiện như con. Vì
rằng trong khi Thế Tôn, với một pháp thoại liên hệ đến pháp học, giảng
dạy cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, con lấy
làm bất nhẫn, con cảm thấy bất mãn, nghĩ rằng : "Vị Sa-môn này
quá tăn măn tỉ mỉ". Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn chấp nhận con có
phạm tội là có phạm tội, để con ngăn chận trong tương lai.
4. - Thật vậy, này Kassapogotta, phạm
tội đã chinh phục Thầy, ngu si đần độn như Thầy, bất thiện như Thầy
! Vì rằng trong khi ta với một pháp thoại liên hệ đến pháp học, giảng
dạy cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, Thầy
lại lấy làm bất nhẫn, lấy làm bất mãn, nghĩ rằng : "Vị Sa-môn
này quá tăn măn tỉ mỉ". Và này Kassapogotta, khi Thầy thấy có phạm tội
là có phạm tội, và như pháp phát lộ, thời Ta chấp nhận cho Thầy. Đây
là sự tăng trưởng giới luật của bậc Thánh này, khi ai thấy có phạm tội
là có phạm tội, và như pháp phát lộ, để ngăn chặn trong tương lai.
5. Nếu một trưởng lão Tỷ-kheo,
này Kassapa, không ưa thích học tập, không tán thán chấp hành học tập,
và đối với các Tỷ-kheo không ưa thích học tập, vị này không khích lệ
họ học tập. Còn đối với các Tỷ-kheo ưa thích học tập, vị này
không tán thán họ chơn thực và đúng thời. Tỷ-kheo trưởng lão như vậy,
này Kassapa, Ta không có tán thán. Vì cớ sao ? Vì các Tỷ-kheo khác có thể
thân cận với trưởng lão ấy, nghĩ rằng : "Bậc Đạo sư tán thán vị
ấy". Và những ai thân cận với vị ấy, họ có thể chấp nhận tri
kiến của vị ấy. Và những ai chấp nhận tri kiến của vị ấy, sẽ đem
lại bất hạnh, đau khổ lâu dài cho họ. Do vậy, này Kassapa, Ta không tán
thán Tỷ-kheo trưởng lão ấy.
6. Nếu một trung niên Tỷ-kheo, này
Kassapa, … nếu một tân học Tỷ-kheo, này Kassapa, không ưa thích học tập,
không tán thán chấp hành học tập, và có các Tỷ-kheo không ưa thích học
tập, vị này không khích lệ họ học tập. Còn đối với các Tỷ-kheo ưa
thích học tập, vị này không tán thán họ chơn thực và đúng thời. Tỷ-kheo
tân học như vậy, này Kassapa, Ta không có tán thán. Vì cớ sao ? Vì các Tỷ-kheo
khác có thể thân cận với tân học ấy, nghĩ rằng : "Bậc Đạo sư tán
thán vị ấy". Và những ai thân cận với vị ấy, họ có thể chấp
nhận tri kiến của vị ấy. Và những ai chấp nhận tri kiến của vị ấy,
sẽ đem lại bất hạnh, đau khổ lâu dài cho họ. Do vậy, này Kassapa, Ta
không tán thán Tỷ-kheo tân học ấy.
7. Nếu một trưởng lão Tỷ-kheo,
này Kassapa, ưa thích học tập, tán thán chấp hành học tập, và các Tỷ-kheo
không ưa thích học tập, vị này khích lệ họ học tập. Còn đối với các
Tỷ-kheo ưa thích học tập, vị này tán thán họ chơn thực và đúng thời.
Tỷ-kheo trưởng lão như vậy, này Kassapa, Ta tán thán. Vì cớ sao ? Vì các
Tỷ-kheo khác có thể thân cận với trưởng lão ấy, nghĩ rằng : "Bậc
Đạo sư tán thán vị ấy". Và những ai thân cận với vị ấy, họ
có thể chấp nhận tri kiến của vị ấy. Và những ai chấp nhận tri kiến
của vị ấy, sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho họ. Do vậy, này
Kassapa, Ta tán thán Tỷ-kheo trưởng lão ấy.
8. Nếu một Tỷ-kheo trung niên, này
Kassapa, … nếu một Tỷ-kheo tân học, này Kassapa, ưa thích học tập, tán
thán chấp hành học tập, và có các Tỷ-kheo không ưa thích học tập, vị
này khích lệ họ học tập. Còn đối với các Tỷ-kheo ưa thích học tập,
vị này tán thán họ chơn thực và đúng thời. Tỷ-kheo tân học như vậy,
này Kassapa, Ta tán thán. Vì cớ sao ? Vì các Tỷ-kheo khác có thể thân cận
với tân học ấy, nghĩ rằng : "Bậc Đạo sư tán thán vị ấy".
Và những ai thân cận với vị ấy, họ có thể chấp nhận tri kiến của
vị ấy. Và những ai chấp nhận tri kiến của vị ấy, sẽ đem lại hạnh
phúc, an lạc lâu dài cho họ. Do vậy, này Kassapa, Ta tán thán Tỷ-kheo tân học
ấy.
X. PHẨM HẠT MUỐI
91. CẤP THIẾT
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba việc cấp
thiết này, người nông phu gia chủ cần phải làm. Thế nào là ba ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người nông
phu gia chủ mau lẹ khéo cày thửa ruộng, khéo bừa thửa ruộng, sau khi mau
lẹ khéo cày thửa ruộng, khéo bừa thửa ruộng, liền mau lẹ gieo hạt giống,
sau khi mau lẹ gieo hạt giống, liền mau lẹ cho nước vô, cho nước ra. Này
các Tỷ-kheo, đây là ba việc cấp thiết mà người nông phu gia chủ cần
phải làm.
Người nông phu gia chủ ấy, này
các Tỷ-kheo, không có thần lực hay không có uy lực (để ra lệnh) :
"Hôm nay lúa của ta được mọc lên, ngày mai chúng sẽ trổ hạt, ngày
kế tiếp chúng sẽ chín".
Nhưng chính theo thời gian của người
nông phu gia chủ, các cây lúa do sự hướng dẫn của thời tiết được mọc
lên, được trổ hạt và được chín.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có
ba công việc cấp thiết này Tỷ-kheo cần phải làm. Thế nào là ba ?
Chấp hành tăng thượng giới học,
chấp hành tăng thượng tâm học, chấp hành tăng thượng tuệ học. Ba công
việc cấp thiết này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cần phải làm.
Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo,
không có thần lực hay không có uy lực (để ra lệnh) : "Hôm nay, ta
được tâm giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ, ngày mai cũng
vậy, ngày kế tiếp cũng vậy". Nhưng này các Tỷ-kheo, chính do thời
gian Tỷ-kheo sử dụng để học tập tăng thượng giới, để học tập
tăng thượng tâm, để học tập tăng thượng tuệ, mà tâm được giải
thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải
học tập như sau : "Sắc bén là ước muốn của ta để chấp hành tăng
thượng giới học. Sắc bén là ước muốn của ta để chấp hành tăng
thượng tâm học. Sắc bén là ước muốn của ta để chấp hành tăng thượng
tuệ học". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
SỐNG VIỄN LY
1. - Có ba hạnh viễn ly này được
các du sĩ ngoại đạo trình bày. Thế nào là ba ? Viễn ly y áo, viễn ly đồ
ăn khất thực, viễn ly sàng tọa.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, các du sĩ
ngoại đạo trình bày về viễn ly y áo, mang vải gai thô, mặc vải gai thô
lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm liệm quăng đi, mặc vải lượm từ
đồng rác, y thì dùng vỏ cây tiritaka làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc
áo bện từng mảnh da con sơn dương đen, mặc áo từ cỏ kusa bện lại, mặc
áo bằng vỏ cây, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông
cú. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo trình bày về viễn
ly y áo.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, các du sĩ
ngoại đạo trình bày về viễn ly đồ ăn khất thực : ăn rau, cây kê, gạo
sống, gạo rừng, cây lau, bột gạo, bột gạo cháy, ăn bột vừng, ăn cỏ,
ăn phân bò, ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo trình bày về viễn ly đồ
ăn khất thực.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, các du sĩ
ngoại đạo trình bày về viễn ly sàng tọa : sống trong rừng, tại một gốc
cây, tại bãi thời hạn Mahàkotthita, tại khóm rừng rậm, sống ngoài trời,
trên một đống rơm, trong nhà bằng tranh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các
du sĩ ngoại đạo trình bày về viễn ly sàng tọa.
Này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại
đạo trình bày về ba hạnh viễn ly này.
2. Này các Tỷ-kheo, có ba hạnh viễn
ly này của vị Tỷ-kheo trong pháp và luật. Thế nào là ba ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
gìn giữ giới luật, từ bỏ ác giới, viễn ly ác giới, có chánh tri kiến,
từ bỏ tà kiến, viễn ly tà kiến, đoạn tận các lậu hoặc, từ bỏ
các lậu hoặc, viễn ly các lậu hoặc. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
gìn giữ giới luật, từ bỏ ác giới, viễn ly ác giới, có chánh tri kiến,
từ bỏ tà kiến, viễn ly tà kiến, đoạn tận các lậu hoặc, từ bỏ
các lậu hoặc, viễn ly các lậu hoặc, nên Tỷ-kheo này, này các Tỷ-kheo,
được gọi là đạt được tối thượng, đạt được căn bản thanh tịnh,
được an trú trên căn bản.
3. Ví như, này các Tỷ-kheo, ruộng
lúa của người nông phu gia chủ đã chín, người nông phu gia chủ ấy mau
mắn gặt lúa ; sau khi mau mắn gặt lúa, phải mau mắn chất lúa thành đống
; sau khi mau mắn chất lúa thành đống, phải mau mắn chở lúa về ; sau khi
mau mắn chở lúa về, phải mau mắn đánh lúa thành đống ; sau khi đánh
lúa thành đống, phải mau mắn đập lúa ; sau khi mau mắn đập lúa, phải
mau mắn giũ rơm ; sau khi mau mắn giũ rơm, phải mau mắn lấy thóc ra ; sau
khi mau mắn lấy thóc ra, phải mau mắn quạt thóc ; sau khi mau mắn quạt
thóc, phải mau mắn chứa thóc ; sau khi mau mắn chứa thóc, phải mau mắn
say thóc ; sau khi mau mắn say thóc, phải mau mắn sàng cám lấy gạo. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, với người nông phu gia chủ ấy, lúa gạo ấy đạt được
tối thượng, đạt được căn bản thanh tịnh, đạt được an trú trên căn
bản. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo gìn giữ giới luật, từ bỏ ác
giới, viễn ly ác giới, có chánh tri kiến, từ bỏ tà kiến, viễn ly tà
kiến, đoạn tận các lậu hoặc, từ bỏ các lậu hoặc, viễn ly các lậu
hoặc, nên Tỷ-kheo này, này các Tỷ-kheo, được gọi là đạt được tối
thượng, đạt được căn bản thanh tịnh, được an trú trên căn bản.
4. Ví như, này các Tỷ-kheo, vào
mùa thu, bầu trời quang đãng, không có mây và mặt trời mọc lên giữa bầu
trời, phá sạch hắc ám khắp cả hư không, và chói sáng, bừng sáng, rực
sáng ; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với vị Thánh đệ tử ; pháp nhãn ly trần
ly cấu khởi lên ; này các Tỷ-kheo, ba kiết sử được đoạn tận, thân
kiến, nghị, giới cấm thủ. Lại nữa, vị ấy được thoát khỏi hai
pháp tham và sân. Vị ấy ly dục, ly pháp bất thiện, chứng đạt và an
trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ.
Trong thời gian ấy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nếu có mạng
chung, sẽ không có kiết sử nào, do kiết sử ấy, vị Thánh đệ tử phải
đi đến thế giới này nữa.
93. HỘI CHÚNG
1. - Có ba hội chúng này, này các Tỷ-kheo,
Thế nào là ba ? Hội chúng thối thượng, hội chúng không hòa hợp, hội
chúng hòa hợp.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hội
chúng tối thượng ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hội
chúng nào có các Tỷ-kheo trưởng lão, không có sống đầy đủ, không có
biếng nhác, từ bỏ dẫn đầu về đọa lạc, đi đầu về hạnh viễn ly,
tinh cần tinh tấn, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng
đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
Và những thế hệ kế tiếp chúng tùy thuận theo tri kiến của chúng. Hội
chúng ấy không có sống đầy đủ, không có biếng nhác, từ bỏ dẫn đầu
về đọa lạc, đi đầu về hạnh viễn ly, tinh cần tinh tấn, để chứng
đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc,
để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
hội chúng tối thượng.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hội chúng không hòa hợp ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, tại hội
chúng nào các Tỷ-kheo sống cạnh tranh, tranh luận, đấu tranh nhau, đả
thương nhau bằng những binh khí miệng lưỡi. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là hội chúng không hòa hợp.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hội chúng hòa hợp ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, tại hội
chúng nào các Tỷ-kheo sống hòa hợp hoan hỷ, không có luận tranh, sống như
nước với sữa lẫn lộn, nhìn nhau bằng cặp mắt ái kính. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là hội chúng hòa hợp.
4. Lúc nào, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo
sống hòa hợp, hoan hỷ, không có luận tranh, như nước và sưa lẫn lộn,
nhìn nhau với cặp mắt ái kính, lúc ấy, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo tạo
được công đức, lúc ấy, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống phạm trú.
Nghĩa là, với ai hân hoan với tâm giải thoát liên hệ với hỷ, thời hỷ
sanh ; với ai có hỷ, thân được khinh an ; với thân khinh an, cảm giác được
lạc thọ ; với ai cảm giác lạc thọ, tâm được định tĩnh.
5. Ví như, này các Tỷ-kheo, trên một
ngọn núi có mưa rơi nặng hột, nước mưa ấy chảy theo sườn dốc, làm
đầy các hang núi, các khe núi, các thung lũng. Sau khi làm đầy các hang
núi, các khe núi, các thung lũng, chúng làm đầy các hồ nhỏ. Sau khi làm đầy
các hồ nhỏ, chúng làm đầy các hồ lớn. Sau khi làm đầy các hồ lớn,
chúng làm đầy các sông nhỏ. Sau khi làm đầy các sông nhỏ, chúng làm đầy
biển cả. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, lúc nào các Tỷ-kheo sống hòa hợp,
hoan hỷ, không có luận tranh, như nước và sưa lẫn lộn, nhìn nhau với cặp
mắt ái kính, lúc ấy, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo tạo được công đức,
lúc ấy, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống phạm trú. Nghĩa là, với ai
hân hoan với tâm giải thoát liên hệ với hỷ, thời hỷ sanh ; với ai có
hỷ, thân được khinh an ; với thân khinh an, cảm giác được lạc thọ ; với
ai cảm giác lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo,
là ba hội chúng.
94. CON NGỰA THUẦN THỤC
1. - Đầy đủ với ba đức tánh,
này các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua, hiền thiện, thuần thục, xứng đáng
để vua dùng, thuộc quyền sở hữu của vua, và được xem như một biểu
tượng của vua. Thế nào là ba ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một con
ngựa của vua hiền thiện, thuần thục, đầy đủ sắc đẹp, đầy đủ với
sức mạnh, đầy đủ với tốc lực. Đầy đủ với ba đức tánh này,
này các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua, hiền thiện, thuần thục, xứng đáng
để vua dùng, thuộc quyền sở hữu của vua, và được xem như một biểu
tượng của vua.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đầy
đủ với ba đức tánh, một Tỷ-kheo đáng được cung kính. Đáng được tôn
trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước
vô thượng ở đời. Thế nào là ba ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy
đủ sắc đẹp, đầy đủ sức mạnh, đầy đủ tốc lực.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo đầy đủ sắc đẹp ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
giữ gìn giới luật, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn, đầy
đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận
và học tập trong các học p. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đầy
đủ sắc đẹp.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo đầy đủ sức mạnh ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống tinh cần tinh cấn, đoạn tận các pháp bất thiện, thành tựu đầy
đủ các pháp thiện, nỗ lức kiên trì, dõng mãnh, không từ bỏ trách nhiệm
đối với các pháp thiện. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đầy đủ
sức mạnh.
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo đầy đủ tốc lực ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
như thật rõ biết : "Đây là khổ", như thật rõ biết : "Đây
là khổ tập", như thật rõ biết : "Đây là khổ diệt", như
thật rõ biết : "Đây là con đường đưa đến khổ diệt". Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đầy đủ tốc lực.
Đầy đủ với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng
được cúng dường, đáng được chắp tay, và ruộng phước vô thượng
ở đời.
95. CON NGỰA THUẦN THỤC
1-4. … (Hoàn toàn giống như kinh trên)
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo đầy đủ tốc lực ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh tại chỗ ấy nhập
Bát-Niết bàn, khỏi phải trở lui từ thế giới ấy, đến thế giới này.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là đầy đủ tốc lực.
Đầy đủ với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng
được cúng dường, đáng được chắp tay, và ruộng phước vô thượng
ở đời.
96. CON NGỰA THUẦN THỤC
1-4. … (Hoàn toàn giống như kinh số
94, từ 1-4)
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo đầy đủ tốc lực ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
do đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình với thắng
trí, chứng ngộ và chứng đạt an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đầy đủ tốc lực.
Đầy đủ với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng
được cúng dường, đáng được chắp tay, và ruộng phước vô thượng
ở đời.
VẢI THÔ BẰNG VỎ CÂY
1. - Này các Tỷ-kheo, có tấm vải
bằng vỏ cây hoàn toàn mới, sắc xấu, cảm xúc khó chịu, và không có
giá trị. Này các Tỷ-kheo, có tấm vải bằng vỏ cây bậc trung, sắc xấu,
cảm xúc khó chịu, và không có giá trị. Này các Tỷ-kheo, có tấm vải bằng
vỏ cây cũ kỹ, để lau chùi nồi niêu, hay đáng được quăng trên đống
rác.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo mới tu hành, ác giới, theo ác pháp, Ta nói rằng vị Tỷ-kheo ấy
có sắc xấu. Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải bằng vỏ cây sắc xấu
ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người ấy là giống như ví dụ ấy.
Còn những ai theo vị ấy, thân cận,
hầu hạ, chấp nhận, thuận theo trí kiến của vị ấy, họ bị bất hạnh,
đau khổ lâu dài ; đấy, Ta nói rằng vị ấy có cảm xúc khó chịu. Này
các Tỷ-kheo, ví như tấm vải bằng vỏ cây có cảm xúc khó chịu ấy,
này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người ấy là giống như ví dụ ấy.
Còn những ai, vị này nhận các vật
dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, các dược phẩm trị bệnh,
sẽ không có quả lớn, không có lợi ích lớn ; đây, Ta nói rằng, không
có giá trị. Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải bằng vỏ cây không có giá
trị ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người ấy là giống như ví dụ
ấy.
3. Này các Tỷ-kheo, nếu là trung
niên Tỷ-kheo … (như trên) … này các Tỷ-kheo, nếu là trưởng lão Tỷ-kheo,
ác giới, theo ác pháp. Ta nói rằng vị ấy có sắc xấu. Này các Tỷ-kheo,
ví như tấm vải bằng vỏ cây có sắc xấu ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng
người ấy là giống như ví dụ ấy.
Còn những ai theo vị ấy, thân cận,
hầu hạ, chấp nhận, thuận theo trí kiến của vị ấy, họ bị bất hạnh,
đau khổ lâu dài ; đấy, Ta nói rằng vị ấy có cảm xúc khó chịu. Này
các Tỷ-kheo, ví như tấm vải bằng vỏ cây có cảm xúc khó chịu ấy,
này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người ấy là giống như ví dụ ấy.
Còn những ai, vị này nhận các vật
dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, các dược phẩm trị bệnh,
sẽ không có quả lớn, không có lợi ích lớn ; đây, Ta nói rằng, không
có giá trị. Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải bằng vỏ cây không có giá
trị ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người ấy là giống như ví dụ
ấy.
4. Như vậy, này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo trưởng lão nói lên ở giữa chúng Tăng, các Tỷ-kheo nói như sau :
"Sao Thầy nghĩ rằng Thầy có thể tuyên bố, một người ngu si, không
thông minh ? "Vị ấy phẫn nộ, bất mãn, sẽ nói lên những lời này,
chúng Tăng đuổi vị ấy ra khỏi, như người ta quăng bỏ tấm vải bằng
vỏ cây ấy trên đống rác.
VẢI BA-LA-NẠI
1 - Này các Tỷ-kheo, có tấm vải
kàsi (Balanại), hoàn toàn mới, có sắc đẹp, cảm xúc dễ chịu, và có
giá trị lớn. Này các Tỷ-kheo, có tấm vải kàsi bậc trung, có sắc đẹp,
cảm xúc dễ chịu, và có giá trị lớn. Này các Tỷ-kheo, có tấm vải
kàsi cũ, có sắc đẹp, cảm xúc dễ chịu, và có giá trị lớn. Và này
các Tỷ-kheo, có tấm vải kàsi cũ kỹ dùng để gói các châu báu, hay được
đặt vào trong một hộp có hương thơm.
2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo mới tu hành, giữ gìn giới luật theo thiện pháp, Ta nói rằng vị
Tỷ-kheo ấy có sắc đẹp. Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải kàsi có sắc
đẹp ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người ấy là giống như ví dụ
ấy.
Còn những ai theo vị ấy, thân cận,
hầu hạ, chấp nhận, thuận theo trí kiến của vị ấy, họ được hạnh
phúc, an lạc lâu dài ; đấy, Ta nói rằng vị ấy có cảm xúc dễ chịu.
Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải kàsi có cảm xúc dễ chịu ấy, này các
Tỷ-kheo, Ta nói rằng người ấy là giống như ví dụ ấy.
Còn những ai, vị này nhận các vật
dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, các dược phẩm trị bệnh,
họ sẽ có quả lớn, có lợi ích lớn ; đây, Ta nói rằng, vị ấy có
giá trị hơn. Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải kàsi có giá trị ấy, này
các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người ấy là giống như ví dụ ấy.
3. Còn nếu là rung niên Tỷ-kheo,
… này các Tỷ-kheo, nếu là trưởng lão Tỷ-kheo, giữ gìn giới luật theo
thiện pháp, đây ta tuyên bố là vị ấy có sắc đẹp. Này các Tỷ-kheo,
ví như tấm vải kàsi có sắc đẹp ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người
ấy là giống như ví dụ ấy.
Còn những ai theo vị ấy, thân cận,
hầu hạ, chấp nhận, thuận theo trí kiến của vị ấy, họ được hạnh
phúc, an lạc lâu dài ; đấy, Ta nói rằng vị ấy có cảm xúc dễ chịu.
Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải kàsi có cảm xúc dễ chịu ấy, này các
Tỷ-kheo, Ta nói rằng người ấy là giống như ví dụ ấy.
Còn những ai, vị này nhận các vật
dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, các dược phẩm trị bệnh,
họ sẽ có quả lớn, có lợi ích lớn ; đây, Ta nói rằng, vị ấy có
giá trị hơn. Này các Tỷ-kheo, ví như tấm vải kàsi có giá trị ấy, này
các Tỷ-kheo, Ta nói rằng người ấy là giống như ví dụ ấy.
4. Như vậy, này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo trưởng lão này nói lên ở giữa chúng Tăng : "Chư Tôn giả
hãy im lặng, Tỷ-kheo trưởng lão đang nói pháp và luật, và lời nói của
vị ấy trở thành châu báu cần phải cất giữ, như một người cất giữ
tấm vải kàsi trong một hộp có hương thơm." Do vậy, này các Tỷ-kheo,
hãy học tập như sau : "Chúng ta sẽ được như ví dụ tấm vải kàsi,
không giống như ví dụ tấm vải bằng vỏ cây". Như vậy, này các Tỷ-kheo,
các Thầy cần phải học tập.
99. HẠT MUỐI
1. - Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo,
: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm
thọ như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời
không có đời sống Phạm hạnh, không có cơ hội để nêu rõ đau khổ
được nêu rõ chơn chánh đoạn diệt. Và này các Tỷ-kheo, ai nói như sau :
"Người này làm nghiệp được cảm thọ như thế nào, như thế nào,
người ấy cảm thọ quả dị thục như vậy, như vậy". Nếu sự kiện
là vậy, này các Tỷ-kheo, thời có đời sống Phạm hạnh, có cơ hội để
nêu rõ đau khổ được nêu rõ chơn chánh đoạn diệt.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và
nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến
chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.
2. Hạng người như thế nào, này
các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người
ấy vào địa ngục ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập,
hạn hẹp, tự ngã nhỏ nhen, sống chịu khổ ít oi. Người như vậy, này
các Tỷ-kheo, làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào
địa ngục.
Hạng người như thế nào, này các
Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa
người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không
thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu tập, tuệ được
tu tập, hạn hẹp, tự ngã to lớn, sống đời vô lượng. Người như vậy,
này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy
đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng
không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.
3. Ví như, này các Tỷ-kheo, có người
bỏ một nắm muối vào trong một chén nước nhỏ. Các Thầy nghĩ như thế
nào, này các Tỷ-kheo, nước trong chén ấy có vì nắm muối trở thành mặn
và không uống được phải không ?
- Thưa đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Vì cớ sao ? Nước trong chén nhỏ này là ít, do nắm muối này, nước trở
thành mặn, không uống được.
- Ví như, này các Tỷ-kheo, có người
bỏ một nắm muối vào sông Hằng. Các Thầy nghĩ như thế nào, này các Tỷ-kheo,
sông Hằng có vì nắm muối trở thành mặn và không uống được phải không
?
- Thưa không, bạch Thế Tôn. Vì cớ
sao ? Lớn là cả khối nước sông Hằng. Khối nước ấy không vì nắm muối
này, nước trở thành mặn và không uống được.
- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây,
có người làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào
địa ngục. Ở đây, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và
nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến
chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.
4. Hạng người như thế nào, này
các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người
ấy vào địa ngục ? Ở đây, này các Tỷ-kheo có người thân không tu tập,
giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, hạn hẹp, tự
ngã nhỏ nhen, sống chịu khổ ít oi. Người như vậy, này các Tỷ-kheo,
làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục.
Hạng người như thế nào, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương
tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại,
cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân được tu tập, giới được tu tập,
tâm được tu tập, tuệ được tu tập, hạn hẹp, tự ngã to lớn, sống
đời vô lượng. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ
mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay
trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được, nói gì là nhiều.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
bị tù tội vì nửa đồng tiền, bị tù tội vì một đồng tiền, bị tù
tội vì một trăm đồng tiền. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
không bị tù tội vì nửa đồng tiền, không bị tù tội vì một đồng tiền,
không bị tù tội vì một trăm đồng tiền.
Như thế nào, này các Tỷ-kheo, bị
tù tội vì nửa đồng tiền, bị tù tội vì một đồng tiền, bị tù tội
vì một trăm đồng tiền ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người nghèo khổ,
ít sở hữu, ít tài sản. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, có người bị
tù tội vì nửa đồng tiền, bị tù tội vì một đồng tiền, bị tù tội
vì một trăm đồng tiền.
Như thế nào, này các Tỷ-kheo,
không bị tù tội vì nửa đồng tiền, không bị tù tội vì một đồng tiền,
không bị tù tội vì một trăm đồng tiền ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người giàu có, có tiền của lớn, có tài sản lớn. Người như vậy, này
các Tỷ-kheo, không bị tù tội vì nửa đồng tiền, không bị tù tội vì
một đồng tiền, không bị tù tội vì một trăm đồng tiền.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây
có người làm nghiệp ác nhỏ mọn, nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa
ngục. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương
tự, nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại,
cho đến chút ít cũng không thấy được, còn nói gì là nhiều.
6. Hạng người như thế nào, này
các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn, nghiệp ác ấy đưa người ấy vào
địa ngục ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân không tu tập, giới
không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, hạn hẹp, tự ngã nhỏ
nhen, sống chịu khổ ít oi. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, làm nghiệp
ác nhỏ mọn. nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục.
Hạng người như thế nào, này các
Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tự, nghiệp ác ấy
đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng
không thấy được, còn nói gì là nhiều ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu tập, tuệ được
tu tập, không có hạn hẹp, tự ngã to lớn, đời sống vô lượng. Người
như vậy, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tự, nghiệp
ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút
ít cũng không thấy được, còn nói gì là nhiều.
7. Ví dụ một người đồ tể hay
người giết dê, này các Tỷ-kheo, đối với một số người đánh cắp
dê, có thể giết hay trói, hay tịch thu tài sản, hay làm như ý muốn. Đối
với một số người cũng đánh cắp dê, không có thể giết, không có thể
trói, không có thể tịch thu tài sản, hay không có thể làm như ý muốn.
Như thế nào, này các Tỷ-kheo, người
đồ tể hay người giết dê, đối với một số người đánh cắp dê, có
thể giết, có thể trói, có thể tịch thu tài sản, hay có thể làm như ý
người ấy muốn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
nghèo khổ, ít sở hữu tài sản. Kẻ đồ tể hay người giết dê, đối với
kẻ đánh cắp dê như vậy có thể giết, hay trói, hay có thể tịch thu
tài sản, hay có thể làm như ý người ấy muốn.
Như thế nào, này các Tỷ-kheo, người
đồ tể hay người giết dê, đối với kẻ đánh cắp dê như vậy không
có thể giết, không có thể trói, không có thể tịch thu tài sản, hay
không có thể làm như ý muốn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
giàu có, có sở hữu lớn, hay nhà vua, hay đại thần của nhà vua. Người
đồ tể hay người giết dê, đối với kẻ đánh cắp dê như vậy không
có thể giết, không có thể trói, không có thể tịch thu tài sản, hay
không có thể làm như ý người ấy muốn. Không có gì phải làm khác hơn
là chắp tay và cầu xin như sau : "Thưa ngài, hãy cho con lại con dê hay
giá tiền con dê".
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây,
đối với một số người có làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy
đưa người ấy vào địa ngục. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với
một số người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tự, và nghiệp ác ấy
đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng
không thấy được, còn nói gì là nhiều.
8. Hạng người như thế nào, này
các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người
ấy vào địa ngục ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người có người thân
không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, hạn
hẹp, tự ngã nhỏ nhen, sống chịu khổ ít oi. Người như vậy, này các Tỷ-kheo,
làm nghiệp ác nhỏ mọn. nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục.
Hạng người như thế nào, này các
Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tự, nghiệp ác ấy
đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng
không thấy được, còn nói gì là nhiều ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu tập, tuệ được
tu tập, không có hạn hẹp, tự ngã to lớn, đời sống vô lượng. Người
như vậy, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tự, nghiệp
ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút
ít cũng không thấy được, còn nói gì là nhiều.
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo :
"Người này làm nghiệp ác như thế nào, như thế nào người ấy sẽ
cảm thọ (quả) như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo,
thời không có đời sống Phạm hạnh, không có cơ hội để nêu rõ đau khổ
được chơn chánh đoạn diệt. Và này các Tỷ-kheo, có ai nói như sau :
"Người này làm nghiệp ác như thế nào, như thế nào người ấy sẽ
cảm thọ quả dị thục như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy,
này các Tỷ-kheo, thời có đời sống Phạm hạnh, có cơ hội để nêu rõ
đau khổ được chơn chánh đoạn diệt.
100. KẺ LỌC VÀNG
1. - Này các Tỷ-kheo, có những uế
nhiễm thô tạp của vàng như bụi, cát, đá, sạn và đá sỏi. Người đãi
lọc bụi hay đệ tử của người đã lọc bụi đem đổ vào trong cái
máng, rồi rửa sạch qua, rửa sạch lại, rửa sạch thêm nữa.
Làm xong như vậy, làm như vậy hoàn
tất, còn lại những uế nhiễm bậc trung của vàng, như cát đá, sạn tế
nhị và các hột cát thô tạp. Người đãi lọc bụi hay đệ tử của người
đãi lọc bụi rửa sạch, rửa sạch thêm nữa, rửa sạch hoàn toàn.
Làm xong như vậy, làm như vậy hoàn
tất, còn lại những uế nhiễm tế nhị, như cát mịn và cát bụi đen.
Người đãi lọc bụi hay đệ tử của người đãi lọc bụi rửa sạch, rửa
sạch thêm nữa, rửa sạch hoàn toàn.
Làm xong như vậy, làm như vậy hoàn
tất, chỉ còn lại bụi vàng.
2. Rồi người thợ vàng hay đệ tử
người thợ vàng bỏ bụi đỏ vàng ấy vào trong cái lò, rồi thụt ống bệ,
thụt ống bệ thêm, thụt ống bệ cho đến khi vàng bắt đầu chảy, người
không chảy ra khỏi miệng lò. Vàng ấy được thụt bệ, được thụt bệ
thêm nữa, được thụt bệ hơn nữa, người không chảy ra khỏi miệng
lò, chưa làm xong, chưa sạch các uế nhiễm, chưa có nhu nhuyễn, chưa có
kham nhậm, chưa có sáng chói. Vàng ấy còn có thể bể vụn và chưa tác
thành tốt đẹp.
Có một thời, này các Tỷ-kheo, người
thợ vàng hay đệ tử người thợ vàng ấy lại thụt bệ, thụt bệ thêm
nữa, thụt bệ hơn nữa, cho đến khi vàng chảy ra khỏi lò. Vàng ấy lại
được thụt bệ, được thụt bệ thêm nữa, được thụt bệ hơn nữa,
cho đến khi vàng chảy ra khỏi lò, được làm xong, được sạch các uế
nhiễm, được nhu nhuyễn, được kham nhậm, và được sáng chói. Vàng ấy
còn không bị bể vụn và có thể tác thành tốt đẹp. Và loại trang sức
nào người ấy muốn, như vàng lá, hay nhẫn, hay vòng cổ, hay dây chuyền,
người ấy có thể làm thành như ý muốn.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tu tập tăng thượng tâm, còn tồn tại các kiết sử thô tạp, thân ác
hành, khẩu ác hành, ý ác hành. Tỷ-kheo có tư lự, có thông minh, từ bỏ,
gột sạch, chấm dứt, không cho sanh khởi lại.
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn
tất, Tỷ-kheo tu tập tăng thượng tâm, còn tồn tại các kiết sử tế nhị,
như tư tưởng về gia tộc, tư tưởng về quốc độ, tư tưởng không bị
kinh rẻ. Tỷ-kheo có tư lự, có thông minh, từ bỏ, gột sạch, chấm dứt,
không cho sanh khởi lại.
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn
tất, chỉ còn lại các pháp tầm (tư tưởng về pháp).
4. Định như vậy không có an tịnh,
không có thù thắng, không được khinh an, không đạt đến nhứt tâm, nhưng
là một trạng thái chế ngự thường xuyên dằn ép. Nhưng đến một thời,
này các Tỷ-kheo, tâm của vị ấy được nội trú, lắng đứng lại, được
nhứt tâm, được định tĩnh. Định ấy được an tịnh, được thù diệu,
được khinh an, đạt đến nhứt tâm, không phải một trạng thái chế ngự
thường xuyên dằn ép, tùy thuộc vào pháp gì tâm người ấy hướng đến
để thắng tri, để chứng ngộ ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt
đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
5. Nếu vị ấy ước muốn, ta sẽ
chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều
thân hiện ra một thân, hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách, qua tường,
qua núi, như đi ngang qua hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền,
ngồi kiết già đi đến hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt
trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy,
có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên" ; vị ấy có khả năng, có
năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
6. Vị ấy nếu ước muốn : "Với
thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng chư Thiên và
loài người" ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy,
dầu thuộc loại xứ nào.
7. Nếu vị ấy ước muốn :
"Mong rằng với tâm của mình có thể biết tâm của các loại chúng
sanh khác, tâm của các loài Người khác như sau : Tâm có tham biết là tâm
có tham. Tâm không tham biết là tâm không tham. Tâm có sân biết là tâm có
sân. Tâm không sân biết là tâm không sân. Tâm có si biết là tâm có si.
Tâm không si biết là tâm không si. Tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú.
Tâm tán loạn biết là tâm tán loạn. Đại hành tâm biết là đại hành
tâm. Không phải đ hành tâm biết là không phải đại hành tâm. Tâm chưa vô
thượng biết là tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng biết là tâm vô thượng.
Tâm thiền định biết là tâm thiền định. Tâm giải thoát biết là tâm
giải thoát. Tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát" ; vị
ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ
nào.
8. Nếu vị ấy ước muốn :
"Ta sẽ nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời,
ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời,
bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn
đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại
và thành kiếp ; vị ấy nhớ rằng : "Tại chỗ kia, ta có tên như thế
này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế
này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được
sanh tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Tại chỗ kia, ta có tên như thế này,
dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này,
tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được
sanh tại đây". Vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy,
dầu thuộc loại xứ nào".
9. Nếu vị ấy ước muốn : Với
thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, ta thấy sự sống và chết của chúng sanh.
Ta biết rõ chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ
thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Các
chúng sanh ấy làm những ác nghiệp về thân, ngữ và ý, phỉ báng các bậc
thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau
khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục, đọa
xứ. Các chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, ngữ và ý, không
phỉ báng các bậc thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến.
Những vị này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các cõi thiện,
cõi Trời, cõi đời này. Như vậy, với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhiên,
ta có thể thấy sự sống chết của chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao
sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều
do hạnh nghiệp của họ" ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến
pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
10. Nếu vị ấy ước muốn :
"Do đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong hiện tại, với thắng trí, ta
chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát" ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu
thuộc loại xứ nào.
11. Tỷ-kheo siêng tu tập tăng thượng
tâm, này các Tỷ-kheo, cần phải thỉnh thoảng tác ý ba tướng. Cần phải
thỉnh thoảng tác ý thướng định, cần phải thỉnh thoảng tác ý tướng
cần, cần phải thỉnh thoảng tác ý tướng xả.
12. Tỷ-kheo siêng tu tập tăng thượng
tâm, này các Tỷ-kheo, nếu một chiều tác ý tướng định, thời có sự
kiện tâm vị ấy đi đến thụ động. Tỷ-kheo siêng tu tập tăng thượng
tâm, nếu một chiều tác ý tướng tinh cần, thời có sự kiện tâm vị
ấy đi đến trạo cử. Tỷ-kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, nếu một
chiều tác ý tướng xả, thời có sự kiện tâm vị ấy không chơn chánh
định tĩnh để đoạn diệt các lậu hoặc. Nhưng nếu Tỷ-kheo siêng tu tập
tăng thượng tâm, này các Tỷ-kheo, thỉnh thoảng tác ý thướng định, thỉnh
thoảng tác ý tướng tinh cần, thỉnh thoảng tác ý tướng xả, tâm vị
ấy trở thành nhu nhuyến, kham nhậm, chói sáng, không bể vụn, chơn chánh
định tĩnh để đoạn tận các lậu hoặc.
13. Ví như một thợ làm vàng, này
các Tỷ-kheo, hay đệ tử người làm vàng, xây lên các lò đúc. Sau khi xây
lên các lò đúc, người ấy nhóm lửa đốt miệng lò. Sau khi đốt miệng
lò, với cái kềm, người ấy cầm vàng bỏ vào miệng lò ; rồi thỉnh thoảng
người ấy thụt ống bệ, thỉnh thoảng người ấy rưới nước, thỉnh
thoảng người ấy quan sát kỹ lưỡng. Nếu người làm vàng hay đệ tử
người làm vàng, này các Tỷ-kheo, một chiều thổi ống bệ, thì có sự
kiện vàng bị cháy. Nếu người làm vàng hay đệ tử người làm vàng,
này các Tỷ-kheo, một chiều rưới nước, thì có sự kiện vàng bị nguội
lạnh. Nếu người làm vàng hay đệ tử người làm vàng, này các Tỷ-kheo,
một chiều quan sát kỹ lưỡng, thì có sự kiện vàng ấy không chơn chánh
đi đến thuần thục. Còn nếu người làm vàng hay đệ tử người làm
vàng, này các Tỷ-kheo, thỉnh thoảng thổi ống bệ vàng ấy, thỉnh thoảng
rưới nước, thỉnh thoảng quan sát kỹ lưỡng, thời vàng ấy trở thành
trở thành nhu nhuyến, kham nhậm, chói sáng, không bể vụn, và được thành
tốt đẹp. Và loại trang sức nào người ấy muốn như vàng lá, hay nhẫn,
hay vòng cổ, hay dây chuyền, người ấy có thể làm thành như ý muốn.
14. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
siêng năng tu tập tăng thượng tâm, cần phải thỉnh thoảng tác ý ba tướng.
Cần phải thỉnh thoảng tác ý thướng định, cần phải thỉnh thoảng tác
ý tướng cần, cần phải thỉnh thoảng tác ý tướng xả. Nếu Tỷ-kheo siêng
tu tập tăng thượng tâm, này các Tỷ-kheo, nếu một chiều tác ý tướng
định, thời có sự kiện tâm vị ấy đi đến thụ động. Tỷ-kheo siêng
tu tập tăng thượng tâm, nếu một chiều tác ý tướng tinh cần, thời có
sự kiện tâm vị ấy đi đến trạo cử. Tỷ-kheo siêng tu tập tăng thượng
tâm, nếu một chiều tác ý tướng xả, thời có sự kiện tâm vị ấy
không chơn chánh định tĩnh để đoạn diệt các lậu hoặc. Nhưng nếu Tỷ-kheo
siêng tu tập tăng thượng tâm, này các Tỷ-kheo, thỉnh thoảng tác ý thướng
định, thỉnh thoảng tác ý tướng tinh cần, thỉnh thoảng tác ý tướng xả,
tâm vị ấy trở thành nhu nhuyến, kham nhậm, chói sáng, không bể vụn, chơn
chánh định tĩnh để đoạn tận các lậu hoặc. Tùy thuộc theo pháp gì,
tâm vị ấy hướng đến để thắng tri, để chứng ngộ, vị ấy có khả
năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
39. Nếu vị ấy muốn : "Ta sẽ
chứng đạt nhiều loại thần thông … (như 100, 5) … chứng tri sáu loại
thắng trí … do đoạn diệt các lậu hoặc … (như 100, 10) … sau khi chứng
ngộ, ta sẽ chứng đạt và an trú" ; vị ấy có khả năng, có năng lực
đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
XI. PHẨM CHÁNH GIÁC
TRƯỚC KHI GIÁC NGỘ
1. - Này các Tỷ-kheo, trước khi Ta
giác ngộ, chưa chánh đẳng giác, còn là Bồ-tát, ta suy nghĩ như sau :
"Cái gì là vị ngọt ở đời ? Cái gì là nguy hại, cái gì là xuất
ly ?". Rồi này các Tỷ-kheo, về vấn đề ấy, tư tưởng sau đây khởi
lên nơi ta : "Do duyên với đời, khởi lên lạc hỷ gì, đây là vị ngọt
ở đời. Cái gì là vô thường ở đời, khổ, chịu sự biến hoại, đấy
là nguy hại ở đời. Điều phục dục tham ở đời, đoạn tận tham dục,
đấy là xuất ly ở đời".
2. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào
ta chưa thật giác tri vị ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy hại,
xuất ly là xuất ly, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, ta không có xác nhận
Ta đã giác liễu vô thượng chánh đẳng giác, cùng với thế giới gồm
có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào ta
như thật giác tri vị ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy hại,
xuất ly là xuất ly, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, ta mới xác nhận Ta
đã giác liễu vô thượng chánh đẳng giác, cùng với thế giới gồm có
Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Và tri kiến khởi lên nơi ta : "Bất
động là tâm giải thoát của ta. Đây là đời sống cuối cùng. Nay không
còn tái sanh nữa".
3. Này các Tỷ-kheo, ta đã đi tìm cầu
vị ngọt ở đời. Vị ngọt ở đời là gì, Ta đã tìm được. Cho đến
như thế nào, vị ngọt có mặt ở đời, với trí tuệ ta khéo thấy vị
ấy ngọt. Này các Tỷ-kheo, ta đã tìm được cầu nguy hại ở đời. Nguy
hại ở đời là gì, Ta đã tìm được. Cho đến như thế nào, nguy hại
có mật ở đời, với trí tuệ ta, ta khéo thấy nguy hại ấy, này các Tỷ-kheo
ta đã tìm cầu xuất ly ở đời. Xuất ly ở đời là gì, Ta đã tìm được.
Cho đến như thế nào, xuất ly có mặt ở đời, với trí tuệ ta, ta khéo
thấy xuất ly ấy.
4. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào
ta chưa thật giác tri vị ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy hại,
xuất ly là xuất ly, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, ta không có xác nhận
Ta đã giác liễu vô thượng chánh đẳng giác, cùng với thế giới gồm
có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào ta
như thật giác tri vị ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy hại,
xuất ly là xuất ly, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, ta mới xác nhận Ta
đã giác liễu vô thượng chánh đẳng giác, cùng với thế giới gồm có
Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Và tri kiến khởi lên nơi ta : "Bất
động là tâm giải thoát của ta. Đây là đời sống cuối cùng. Nay không
còn tái sanh nữa".
102. VỊ NGỌT
1. - Này các Tỷ-kheo, nếu không có
vị ngọt ở đời, thời các loài hữu tình không có tham nhiễm đối với
đời. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có vị ngọt ở đời, thời các loài hữu
tình có tham nhiễm ở đời. Này các Tỷ-kheo, nếu không có nguy hại ở đời,
thời các loài hữu tình không có nhàm chán đối với đời. Vì rằng, này
các Tỷ-kheo, có nguy hại ở đời, thời các loài hữu tình có nhàm chán
đối với đời. Này các Tỷ-kheo, nếu không có xuất ly ra khỏi đời, thời
các loài hữu tình không có xuất ly đối với đời. Vì rằng, này các Tỷ-kheo,
có xuất ly đối với đời, thời các loài hữu tình có xuất ly ra khỏi
đời.
Và này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào
các loài hữu tình chưa như thật giác tri vị ngọt ở đời là vị ngọt,
nguy hại là nguy hại, xuất ly là xuất ly, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo,
các loài hữu tình không có thể an trú với tâm thoát ly, không có hệ phược,
giải thoát, không bị hạn cuộc khỏi thế giới gồm có Thiên giới, Ma giới,
Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và
loài Người. Và này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào các loài hữu tình đã
như thật giác tri vị ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy hại,
xuất ly là xuất ly, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, các loài hữu tình
có thể an trú với tâm thoát ly, không có hệ phược, giải thoát, không bị
hạn cuộc khỏi thế giới gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới,
cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.
Các Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này
các Tỷ-kheo, như không thật rõ biết là vị ngọt là vị ngọt, nguy hại
là nguy hại, xuất ly là xuất ly, các Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, này các Tỷ-kheo,
đối với Ta không được công nhận là Sa-môn trong các hàng Sa-môn, không
được công nhận là các Bà-la-môn trong các hàng Bà-la-môn. Với các Tôn
giả ấy, ngay trong hiện tại không có chứng ngộ với thắng trí, chứng
đạt và an trú mục đích của Sa-môn hạnh hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.
Các Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này
các Tỷ-kheo, như thật rõ biết là vị ngọt là vị ngọt, nguy hại là
nguy hại, xuất ly là xuất ly, các Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, này các Tỷ-kheo,
đối với Ta được công nhận là Sa-môn trong các hàng Sa-môn, được công
nhận là các Bà-la-môn trong các hàng Bà-la-môn. Với các Tôn giả ấy, ngay
trong hiện tại sẽ có chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú mục
đích của Sa-môn hạnh hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.