- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 10d
- (VI) (84) NÓI LÊN CHÁNH TRÍ
1. Ở đây, Tôn giả Mahàmoggallàna
gọi các Tỷ-kheo :
- Này các hiền giả Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Mahàmoggallàna. Tôn giả Mahàmoggallàna nói như sau:
2. - Ở đây, này các Hiền giả, Tỷ-kheo
nói lên chánh trí : "Tôi rõ biết : "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã
thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"".
Rồi Như Lai hay đệ tử Như Lai, là vị hành thiền, thiện xảo trong thiền
chứng, thiện xảo trong tâm người khác, thiện cảo trong hành tướng tâm
người khác, thẩm vấn, gạn hỏi, thảo luận. Vị ấy bị Như Lai hay đệ
tử Như Lai, những vị hành thiền, thiện xảo trong thiền chứng, thiện xảo
trong tâm người khác, thẩm vấn, gạn hỏi, thảo luận, rơi vào trong trống
rỗng (sa mạc), rơi vào trong rối ren (rừng rậm), rơi vào trong bế tắc, rơi
vào trong bất hạnh, rơi vào trong bế tắc và bất hạnh. Như Lai hay đệ tử
Như Lai, thiện xảo trong tâm người khác, thiện xảo trong hành tướng tâm
người khác, thiện xảo trong hành tướng tâm người khác tâm mình, tác ý
đến tâm của người ấy như sau : "Như thế nào, Tôn giả này nói
lên chánh trí : "Tôi rõ biết rằng : "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã
thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa."
? " Như Lai hay đệ tử Như Lai, những vị hành thiền, thiện xảo trong
thiền chứng, thiện xảo trong tâm người khác, thiện xảo trong hành tướng
tâm người khác, với tâm mình biết rõ tâm người ấy như sau : "Có
phẫn nộ là Tôn giả này, sống nhiều với tâm bị phẫn nộ thấm nhuần.
Với tâm bị phẫn nộ thấm nhuần, nghĩa là tổn giảm trong Pháp Luật do
Như Lai thuyết giảng. Có hiềm hận là Tôn giả này... có gièm pha là Tôn
giả này... có não hại là Tôn giả này... có tật đố là Tôn giả này...
có xan tham là Tôn giả này... có lừa đảo là Tôn giả này... có man trá
là Tôn giả này... có ác dục là Tôn giả này... có việc thất niệm là
Tôn giả này... Dầu cho còn nhiều việc (cao thượng hơn) cần phải làm
thêm, tuy có chứng được thù thắng nhưng chỉ là phần nhỏ lại đứng lại
giữa đường ; đứng lại giữa đường này nghĩa là tổn giảm trong Pháp
Luật do Như Lai thuyết giảng."
3. Tỷ-kheo ấy, chư Hiền, do không
d0oạn tận mười pháp này, đi đến được tăng trưởng, lớn mạnh, lớn
rộng trong Pháp và Luật này, sự kiện này không xảy ra. Tỷ-kheo ấy, này
chư Hiền, do đoạn tận mười pháp này, đi đến được tăng trưởng lớn
mạnh, lớn rộng trong Pháp và Luật này, sự kiện này có xảy ra.
(V) (85) KHOE KHOANG
1. Một thời, Tôn giả Mahàcunda
trú giữa dân chúng Cetì, tại Sahajati. Tại đây, Tôn giả Mahàcunda bảo
các Tỷ-kheo :
- Này chư Hiền Tỷ-kheo :
- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Mahàcunda. Tôn giả Mahàcunda nói như sau :
2. - Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo
là hạng khoe khoang, khoa trương những chứng đắc của mình : "Tôi chứng
nhập, tôi xuất ly sơ thiền. Tôi chứng nhập, tôi xuất ly thiền thư hai.
Tôi chứng nhập, tôi xuất ly thiền thư tư. Tôi chứng nhập, tôi xuất ly
Không vô biên xứ. Tơi chứng nhập, tôi xuất ly Thức vô biên xứ. Tôi chứng
nhập, tôi xuất ly Vô sở hữu xứ. Tôi chứng nhập, tôi xuất ly Phi tưởng
phi phi tưởng xứ. Tôi chứng nhập, tôi xuất ly Diệt thọ tưởng định."
Như Lai hay đệ tử Như Lai là bậc Thánh hiền, thiện xảo trong thiền chứng,
thiện xảo trong tâm người khác, thiện xảo trong hành tướng tâm người
khác, thẩm vấn, gạn hỏi, thảo luận. Vị ấy khi bị Như Lai hay đệ tử
Như Lai là những bậc hành thiền, thiện xảo trong thiền chứng, thiện xảo
trong tâm người khác, thiện xảo trong hành tướng tâm người khác, thẩm
vấn, gạn hỏi, thảo luận, rơi vào trống không, rơi vào rối ren, rơi vào
bế tắc, rơi vào bất hạnh, rơi vào bế tắc và bất hạnh. Như Lai hay đệ
tử Như lai, những vị hành thiền... thiện xảo trong hành tướng tâm của
người khác, với tâm của mình tác ý đến tâm của người ấy như sau :
"Như thế nào, Tôn giả này khoe khoang, khoa trương những chứng đắc của
mình : "Tôi chứng nhập, tôi xuất ly Thiền thứ nhất... tôi chứng nhập,
tôi xuất ly Diệt thọ tưởng định." Như Lai hay đệ tử Như Lai, những
vị hành thiền... thiện xảo trong hành tướng tâm người khác, với tâm
mình rõ biết tâm người ấy như sau : "Đã lâu rồi, Tôn giả này có
những hành động phá nát, có những hành động bể vụn, có những hành
động chấm đen, có những hành động không phù hợp trong các giới luật.
Phá giới là Tôn giả này, và phá giới nghĩa là tổn giảm trong Pháp và
Luật do Như Lai thuyết giảng. Không có lòng tin là Tôn giả này, và không
có lòng tin, nghĩa là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
Nghe ít là Tôn giả này, theo tà hạnh, học ít nghĩa là tổng giảm trong
Pháp Luật do Như Lai thuyết giảng. Khó nói là Tôn giả này, và tánh khó
nói... do Như Lai thuyết giảng. Bạn bè với ác là Tôn giả này, và tánh bạn
bè với ác... biếng nhác là Tôn giả này, và táng biếng nhác... thất niệm
là do Tôn giả này, và tánh thất niệm... do Như Lai thuyết giảng. Gian xảo
là Tôn giả này, và tánh gian xảo... khó nuôi dưỡng là Tôn giả này, và
tánh ác tuệ có nghĩa là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.""
3. Ví như, này chư Hiền, một người
bạn nói với người của mình : "Này Bạn, khi nào Bạn cần đến tài
sản, hãy xin tôi tài sản và tôi sẽ cho Bạn tài sản." Người bạn
kia khi cần đến tài sản liền nói với người bạn như sau : "Này Bạn,
nay tôi cần đến tài sản, hãy cho tôi tài sản". Vị ấy trả lời như
sau : "Vậy này Bạn, hãy đào ở đây". Vị kia tại đấy đào lên
và không tìm được gì. Vị kia nói : "Này Bạn, Bạn đã nói láo với
tôi. Này Bạn, Bạn đã nói những lời trống rỗng với tôi."
"Hãy đào ở đây". Vị ấy nói : "Này Bạn, tôi không nói láo
với Bạn. Tôi không nói những lời trống rỗng với Bạn. Vậy này Bạn,
hãy đào ở đây". Vị kia tại đấy đào lên và không tìm được gì.
Vị kia nói : "Này Bạn, Bạn đã nói láo với tôi. Này Bạn, Bạn đã
nói những lời trống rỗng với tôi". "Hãy đào ở đây". Vị
ấy nói : "Này Bạn, tôi không nói láo với Bạn. Tôi không nói những
lời trống rỗng. Vậy này Bạn, hãy đào ở đây". Vị kia tại đấy
đào lên và không tìm được gì. Vị kia nói : "Này Bạn, Bạn đã nói
láo với tôi. Bạn đã nói những lời trống rỗng với tôi". "Hãy
đào ở đây". Vị kia nói : "Này Bạn, tôi không nói láo với Bạn.
Tôi không nói những lời trống rỗng với Bạn nhưng tôi bị điên loạn,
tâm tôi bị đảo lộn. Cũng vậy, này chư Hiền, Tỷ-kheo là hạng khoe
khoang, khoa trương những chứng đắc của mình : "Tôi chứng nhập thứ
ba... Thiền thứ tư... Không vô biên xứ...Thức vô biên xứ... vô sở hữu
xứ... Phi trưởng phi phi trưởng xứ... Tôi chứng nhập, tôi xuất ly Diệt
thọ tưởng định". Như Lai hay đệ tử Như Lai là bậc hành thiền,
thiện xảo trong thiền chứng, thiện xảo trong tâm người khác, thiện xảo
trong hành tướng tâm người khác, thẩm vấn, gạn hỏi, thảo luận. Vị
ấy, khi bị Như Lai hay đệ tử Như Lai là những bậc hành thiền... thiện
xảo trong hành tướng tâm người khác, thẩm vấn, gạn hỏi, thảo luận,
rơi vào trống không, rơi vào rối ren, rơi vào bế tắc, rơi vào bất hạnh,
rơi vào bế tắc và bất hạnh. Như Lai hay đệ tử Như Lai, những bậc hành
thiền... thiện xảo trong hành tướng tâm người khác, với tâm của mình,
tác ý đến tâm của người khác, với tâm của mình, tác ý đến tâm của
người ấy như sau : "Như thế nào, Tôn giả này khoa trương, khoe
khoang, những chứng đắc của mình : "Tôi chứng nhập và xuất ly sơ
thiền... tôi chứng nhập và xuất ly diệt thọ tưởng định". Như Lai
hay đệ tử Như Lai, những vị hành thiền... thiện xảo trong hành tướng
tâm của người khác như sau : "Đã lâu rồi, Tôn giả này có những
hành động phá nát, có những hành động bể vụn, có những hành động
chấm đen, có những hành động uế nhiễm, có những hành động không phù
hợp, có những tập quán không phù hợp trong giới. Phá giới là Tôn giả,
và phá giới có nghĩa là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
Không có lòng tin là Tôn giả này và tánh không có lòng tin... nghe ít là
Tôn giả này và tánh nghe ít... khó nói là Tôn giả này, và tánh khó
nói... bạn bè với ác là Tôn giả này và tánh làm bạn biếng nhác... thất
niệm là Tôn giả này và tánh thất niệm... gian xảo là Tôn giả này và
tánh gian xảo... khó nuôi dưỡng là Tôn giả này và tánh khó nuôi dưỡng...
Ác tuệ là Tôn giả này và tánh ác tuệ là tổn giảm trong Pháp và Luật
do Như Lai thuyết giảng."
4. Tỷ-kheo ấy, này chư Hiền, không
đoạn tận mười pháp này sẽ tăng trưởng, lớn mạnh, lớn rộng trong Pháp
và Luật này, sự kiện này không xảy ra Tỷ-kheo ấy, này chư Hiền, sau
khi đoạn tận mười pháp này, sẽ được tăng trưởng, lớn mạnh, lớn rộng
trong Pháp và Luật này, sự kiện này có xảy ra.
(VI) (86) CÂU HỎI VỀ CHÍNH TRÍ
1. Một thời, Tôn giả Mahàkassapa
ở tại Ràjagaha (Vương Xá), Trúc Lâm, tại vườn nuôi dưỡng các con sáo.
Tại đấy, Tôn giả Kassapa gọi các Tỷ-kheo :
- Này chư Hiền Tỷ-kheo
- Thưa vâng Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Mahàkassapa. Tôn giả Mahàkassapa nói như sau :
2. - Ở đây, này chư Hiền Tỷ-kheo
nói lên chánh tri, nói rằng : "Tôi biết rõ như sau : "Sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng
thái này nữa"". Như Lai hay đệ tử Như Lai, những vị hành thiền,
thiện xảo trong thiện chứng, thiện xảo trong tâm người khác, thiện xảo
trong hành tướng tâm người khác, thẩm vấn, gạn hỏi, thảo luận. Vị
ấy khi bị Như Lai, là những vị hành thiền... thiện xảo trong hành tướng
tâm người khác, thẩm vấn, gạn hỏi, thảo luận, rơi vào trống không, rơi
vào bối rối, rơi vào bế tắc, rơi vào bất hạnh, rơi vào bế tắc và bất
hạnh. Như Lai hay đệ tử Như Lai, là những vị hành thiền... thiền xảo
trong hành tường tâm của người khác, với tâm của mình, tác ý đến tâm
người ấy như sau : "Như thế nào, vị Tôn giả này nói lên chánh
trí, nói rằng : "Tôi rõ biết : "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã
thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"".
Như Lai hay đệ tử Như Lai, là những bậc hành thiền... thiện xảo trong
hành tướng tâm người khác, với tâm của mình, biết được tâm người
ấy như sau : "Tăng thượng mạn la Tôn giả này, xem tăng thượng mạn
của mình như là sự thật, chưa chứng đạt tưởng rằng đã chứng đạt,
chưa làm tưởng đã làm, chưa chứng đắc tưởng rằng đã chứng đắc, với
tăng thượng mạn đã tuyên bố về chánh trí", nói rằng : "Tôi
rõ biết : "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa"". Như Lai hay đệ tử Như
Lai là những vị hành thiền... thiện xảo trong hành tướng tâm của người
khác, với tâm của mình, tác ý đến tâm người ấy : "Dựa trên gì,
Tôn giả này tăng thượng mạn, xem tăng thượng mạn của mình như là sự
thật, chưa chứng đạt tưởng rằng đã chứng đạt... chưa chứng đắc
tưởng rằng đã chứng đắc, với tăng thượng mạn, đã tuyên bố về
chánh trí", nói rằng : "Tôi rõ biết : "Sanh đã tận... không
còn trở lui trạng thái này nữa"" ? ". Như lai hay đệ tử Như
Lai, là những vị hành thiền... thiện xảo trong hành tường tâm người
ấy : "Nghe nhiều là Tôn giả này, thọ trì điều đã nghe, cất chứa
điều đã nghe. những pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa,
có văn, tán thán đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn trong sạch, những
pháp như vậy, vị ấy nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, thọ trì đọc
tụng bằng lời, với ý khéo quán sát, khéo thể nhập, với chánh kiến.
Do vậy, Tôn giả này, tăng thượng mạn, xem tăng thượng mạn của mình như
là sự thật, chưa chứng đạt tưởng rằng đã chứng đạt, chưa làm tưởng
rằng đã làm, chưa chứng đắc tưởng rằng đã chứng đắc, với tăng
thượng mạn, đã tuyên bố về chánh trí, nói rằng : "Tôi rõ biết :
"Sanh đã tận... không còn trở lui trạng thái này nữa"". Như
Lai hay đệ tử Như Lai là những vị hành thiền... thiện xảo trong hành tướng
tâm người khác, như vậy với tâm của mình, biết rõ tâm của người ấy
: "Tham là Tôn giả này, sống nhiều với tâm bị tham chi phối, và bị
tham chi phối nghĩa là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
Sân là vị Tôn giả này, sống nhiều với tâm vị Tôn giả này và sống
nhiều với tâm bị hôn trầm thụy miên chi phối, và bị hôn trầm thụy
miên chi phối nghĩa là tổn giảm... Trạo cử là tôn giả này, và vị ấy
sống nhiều với tâm bị trạo cử chi phối, và tâm bị trạo cử chi phối
nghĩa là tổn giảm... Nghi là vị Tôn giả này, sống nhiều với tâm bị
nghi hoặc chi phối... ưa thích công việc là vị Tôn giả này, thích thú
công việc, chuyên chú trong thích thú công việc, và ưa thích công việc nghĩa
là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng. Ưa thích nói chuyện
là Tôn giả này, thích thú nói chuyện, chuyên chú trong thích thú nói chuyện,
thích thú nói chuyện là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
Ưa thích ngủ nghỉ là Tôn giả này, thích thú ngủ nghỉ, và tánh thích
thú ngủ nghỉ nghĩa là tổn giảm trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
Ưa thích hội chúng, là vị Tôn giả này, thích thú hội chúng, chuyên chú
ưa thích hội chúng, ưa thích hội chúng có nghĩa là tổn giảm trong Pháp
và Luật do Như Lai thuyết giảng. Thất niệm là vị Tôn giả này, đối với
các Pháp cao thượng chỉ được phần nhỏ, dầu cho có chứng được thù
thắng nhưng chỉ là phần nhỏ, lại đứng lại giữa đường ; đứng lại
giữa đường, có nghĩa là tổn giảm trong Pháp Luật do Như Lai thuyết giảng."
3. Tỷ-kheo ấy, này chư Hiền, không
đoạn tận mười pháp này, sẽ được tăng trưởng, lớn mạnh, lớn rộng
trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, sự kiện này không xảy ra. Tỷ-kheo
ấy, này chư Hiền, đoạn tận mười pháp này, sẽ được tăng trưởng lớn
mạnh, lớn rộng trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, sự kiện này
có xảy ra.
(VII) (87) TỶ-KHEO KÀLAKA
1. Tại đấy, nhân việc của Tỷ-kheo
Kàlaka Thế tôn gọi các Tỷ-kheo :
- Này các Tỷ-kheo.
- Vâng bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn, Thế Tôn nói như sau :
2. - Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ưa thích kiện tụng, không tán thán làm lắng dịu các cuộc kiện tụng.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ưa thích kiện tụng, không tán thán làm lắng dịu
các cuộc kiện tụng, pháp này không đưa đến thân ái, không đưa đến kính
trọng, không đưa đến bắt chước (được làn quen), không đưa đến hòa
đồng, không đưa đến nhất trí.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo không
ưa học tập, không tán thán chấp nhận các học pháp. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không ưa học tập, không tán thán chấp nhận các học pháp, pháp này
không đưa đến thân ái... không đưa đến nhất trí.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ác dục, không tán thán nhiếp nhục ác dục. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ác
dục, không tán thán nhiếp phục ác dục, pháp này không đưa đến thân
ái... không đưa đến nhất trí.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
phẫn nộ không tán thán nhiếp nhục phẫn nộ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
phẫn nộ, không tán thán nhiếp phục phẫn nộ, pháp này không đưa đến
thân ái... không đưa đến nhất trí.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
gièm pha không tán thán nhiếp phục gièm pha. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo gièm
pha, không tán thán nhiếp phục gièm pha, pháp này không đưa đến thân
ái... không đưa đến nhất trí.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
lừa đảo, không tán thán nhiếp nhục lừa đảo. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
lừa đảo, không tán thán nhiếp nhục lừa đảo, pháp này không đưa đến
thân ái... không đưa đến nhất trí.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
man trá không tán thán nhiếp nhục man trá. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo man
trá, không tán thán nhiếp nhục man trá, pháp này không đưa đến thân
ái... không đưa đến nhất trí.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tánh không vâng theo Chánh pháp, tánh tán thán vâng theo Chánh pháp. Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tánh không vâng theo Chánh pháp, tánh không tán thán vâng
theo Chánh pháp, pháp này không đưa đến thân ái... không đưa đến nhất
trí.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không thiền tịnh, không tán thán thiền tịnh. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không thiền tịnh, không tán thán thiền tịnh, pháp này không đưa đến thân
ái... không đưa đến nhất trí.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không có tiếp đón các vị đồng Phạm hạnh, không tán thán việc đón tiếp
tốt đẹp. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có tiếp đón tốt đẹp các vị
đồng Phạm hạnh, không tán thán việc tiếp đón tốt đẹp, pháp này
không đưa đến thân ái... không đưa đến nhất trí.
12. Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo
như vậy, nếu có ước muốn nào khởi lên : "Ôi mong rằng các vị đồng
phạm hạnh cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường tôi", nhưng các
vị đồng Phạm hạnh không có cung kính, không có tôn trọng, không có đảnh
lễ cúng đường vị ấy. Vì sao ? Này các Tỷ-kheo, vì rằng các vị đồng
Phạm hạnh có trí quán thấy các pháp ác bất thiện không được d0oạn tận
trong vị ấy.
13. Ví như, này các Tỷ-kheo, có loại
ngựa không thuần phục, dầu cho có khởi lên ý muốn như sau : "Mong rằng
loài Người sẽ đặt ta trong vị trí của con ngựa đã được thuần thực,
cho ta ăn với các đồ ăn dành cho con ngựa thuần phục, điều phục ta với
sự điều phục dành cho con ngựa thuần thục". Nhưng loài Người không
đặt nó trong vị trí của con ngựa thuần phục, không cho nó ăn trong vị
trí của con ngựa thuần phục, không điều phục nó với sự điều phục
dành cho con ngựa thuần phục. Vì sao ? Vì những người có trí thấy rõ
được những tánh hạ liệt, sự lừa đảo, giả dối, xảo trá, xảo quyệt.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo như vậy, nếu có ước muốn nào
khởi lên : "Ôi mong rằng các vị đồng Phạm hạnh cung kính, tôn trọng,
đảnh lễ, cúng đường ta", nhưng các vị đồng Phạm hạnh không có
cung kính, không có tôn trọng, không có đảnh lễ, không có cúng dường vị
ấy. Vì sao ? Này các Tỷ-kheo, vì rằng các vị đồng Phạm hạnh có trí
quán thấy các pháp ác bất thiện không được đoạn tận trong vị ấy.
14. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không ưa thích kiện tụng, tán thán làm lắng dịu các cuộc kiện
tụng. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không ưa thích kiện tụng, tán thán làm lắng
dịu các cuộc kiện tụng. Pháp này đưa đến thân ái, đưa đến kính trọng,
đưa đến muốn làm quen, đưa đến hòa đồng, đưa đến nhất trí.
15. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ưa thích họa tập, tán thán chấp nhận học pháp. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ưa thích học tập, tán thán chấp nhận học pháp. Pháp này đưa đến thân
ái... đưa đến nhất trí.
16. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ít dục, tán thán nhiếp phục các dục. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ít dục,
tán thán nhiếp nhục phục các dục. Pháp này đưa đến nhất trí.
17. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không phẫn nộ, tán thán nhiếp phục phẫn nộ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không phẫn nộ, tán thán nhiếp phục phẫn nộ. Pháp này đưa đến thân
ái... đưa đến nhất trí.
18. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không gièm pha, tán thán nhiếp phục gièm pha. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không gièm pha, tán thán nhiếp phục gièm pha. Pháp này đưa đến thân
ái... đưa đến nhất trí.
19. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không lừa đảo, tán thán nhiếp phục lừa đảo. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không lừa đảo, tán thán nhiếp phục lừa đảo. Pháp này đưa đến thân
ái... đưa đến nhất trí.
20. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không man trá, tán thán nhiếp phục man trá. Này cá Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không
man trá, tán thán nhiếp phục man trá. Pháp này đưa đến thân ái... đưa
đến nhất trí.
21. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
vâng theo Chánh pháp, tán thán vâng theo Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
vâng theo Chánh pháp, tán thán vâng theo Chánh pháp. Pháp này đưa đến thân
ái... đưa đến nhất trí.
22. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thiền tịnh, tán thán thiền tịnh. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thiền tịnh,
tán thán thiền tịnh. Pháp này đưa đến thân ái... đưa đến nhất trí.
23. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tiếp đón tốt đẹp các vị đồng phạm hạnh, tán thán việc tiếp đón
tốt đẹp các vị đồng Phạm hạnh. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tiếp đón
tốt đẹp các vị đồng Phạm hạnh, tán thán việc tiếp đón tốt đẹp
các vị đồng Phạm hạnh. Pháp này đưa đến thân ái... đưa đến nhất
trí.
24. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy,
nếu không có ước muốn nào khởi lên : "Ôi mong rằng các vị đồng
Phạm hạnh cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường ta", nhưng các
vị đồng Phạm hạnh cũng vẫn cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường
vị ấy. Vì sao ? Này các Tỷ-kheo, vì rằng các vị đồng Phạm hạnh có
trí quán thấy các pháp ác bất thiện đã được tận nơi vị ấy.
25. Ví như, này các Tỷ-kheo, một
con ngựa thuần phục, dầu cho không khởi lên ý muốn như sau : "Mong rằng
loài Người sẽ đặt ta trong vị trí của con ngựa đã thuần thục, cho ta
ăn với các đồ ấm dành cho con ngựa thuần thục, điều phục ta với điều
phục dành cho ngựa thuần phục". Nhưng loài Người vẫn đặt nó trong
vị trí của con ngựa thuần thục, điều phục. Vì sao ? Vì những người
có trí thấy rõ được những tánh hạ liệt, gian dối, giả dối, xảo
trá, xảo quyệt của nó đã được đoạn tận. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo
với Tỷ-kheo như vậy, nếu không có khơi lên ước muốn : "Ôi mong rằng
các vị đồng Phạm hạnh cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường
ta", nhưng các vị đồng Phạm hạnh vẫn cung kính, tôn trọng, đảnh lễ,
cúng dường vị ấy. Vì sao ? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, các vị đồng Phạm
hạnh có trí thấy rằng các pháp ác bất thiện ấy đã được tận nơi vị
ấy.
(VIII) (88) TAI NẠN
1. - Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
nào mạ ly, khiến trách, nhiếc mắng các vị Thánh và những vị đồng Phạm
hạnh, thật sự không thể không xảy ra được, không thể không có lúc để
vị ấy khỏi phải gặp một trong mười tai nạn này. Thế nào là mười ?
2. Không chứng đắc điều chưa
được chứng đắc, điều đã chứng đắc bị thối thất, không được sáng
suốt đối với diệu pháp, tăng thượng mạn trong diệu pháp, sống Phạm
hạnh không được hoan hỷ, vi phạm một uế tội, cảm xúc bệnh nặng, đạt
đến điên cuồng loạn tâm, khi chết bị bất tỉnh (hôn mê), hay sau khi
thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào mạ lỵ,
khiến trách, nhiếc mắng các vị Thánh và những vị đồng Phạm hạnh, thật
sự không thể không xảy ra được, không thể không có lúc để vị ấy
phải gặp một trong mười tai nạn này.
(IX) (89) TỶ-KHEO KOKÀLIKA
1. Bấy giờ có Tỷ-kheo Kokàlika đi
đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Tôn giả Kokàlika bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, Sàriputta và
Moggallàna là ác dục, bị ác dục chinh phục.
- Này Kokàlika, chớ có nói vậy !
Này Kokàlika, chớ có nói vậy. Này Kokàlika, tâm hãy tịnh tín đối với SÀriputta
và Moggallàna. Hiền thiện là Sàriputta và Moggallàna.
Lần thứ hai, Tỷ-kheo Kokàlika bạch
Thế Tôn : "Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có lòng tin và tin tưởng, đối
với con Sàriputta và Moggallàna là ác dục, bị ác dục chinh phục."
- Này Kokàlika, chớ có nói vậy !
Này Kokàlika, chớ có nói vậy. Này Kokàlika, tâm hãy tịnh tín đối với Sáriputta
và Moggallàna. Hiền thiện là Sàriputta và Moggallàna.
- Này Kokàlika, chớ có nói vậy !
Này Kokàlika, chớ có nói vậy. Này Kokàlikaa, tâm hãy tịnh tín đối với
Sàripuuta và Moggallàna. Hiền thiện là Sàriputta và Moggallàna.
Lần thứ ba, Tỷ-kheo Kokàlika bạch
Thế Tôn : ... Hiền thiện là Sàriputta và Moggallàna.
2. Rồi Tỷ-kheo Kokàlika từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Thế Tôn rồi
đi ra. Tỷ-kheo Kokàlika ra đi không bao lâu, toàn thân củ Tỷ-kheo Kokàlika nổi
lên những mụt to bằng hạt cải : sau khi lớn bằng hạt cải, chúng lớn
lên bằng hột đậu ; sau khi lớn lên bằng hột đậu, chúng lớn lên bằng
hạt đậu lớn ; sau khi lớn bằng hột đậu lớn, chúng lớn lên bằng
hòn sỏi ; sau khi lớn bằng hòn sỏi Kolatthi, chúng lớn lên bằng hột táo
; sau khi lớn lên bằng hột táo, chúng lớn lên bằng trái Àmala, chúng lớn
lên bằng trái dưa (trái vilva) ; sau khi lớn lên bằng trái dưa vilva, chúng
lớn lên bằng trái billa (trái dưa đã chín) ; sau khi lớn lên bằng trái
billa, chúng bị phá vỡ, mủ và máu chảy ra. Tại đây, nó nằm trên lá
chuối, như con cá ấm phải đồ độc.
3. Lúc ấy có độc giác Phạm
thiên Tudu đi đến Tỷ-kheo Kokàlika, sau khi đến, đứng trên hư không và
nói với Tỷ-kheo Kokàlika :
- Này Kokàlika, hãy đặt tâm tịnh
tín nơi Sàriputta và Moggallàna ! Hiền thiện là Sàriputta và Moggallàna.
- Ông là ai ?
- Ta là độc giác Phạm thiên Tudu.
- Thưa Hiền giả, có phải Hiền giả
là người được Thế Tôn trả lời là đã chứng Bất lai ? Sao người lại
đến đây ? Hãy xem như thế nào người đã lầm lạc trong vấn đề này.
Rồi độc giác Phạm thiện Tudu
nói lên với Tỷ-kheo Kokàlika bài kệ này :
Con người được sanh ra,
Sanh với búa trong miệng,
Người ngu nói điều xấu,
Là tự chém vào mình.
Ai khen người đáng chê,
Ai chê người đáng khen,
Đều chất chứa bất hạnh,
Do từ miệng tạo thành,
Và chính do bất hạnh,
Nên không được an lạc.
Nhỏ thay, bất hạnh này,
Chính do cờ bạc sanh,
Khiến tài sản tiêu hao,
Bất hạnh này lớn hơn,
Không những mất tất cả,
Lại mất cả tự mình,
Là người khởi ác ý
Đối với chư Thiện Thệ.
Ai chỉ trích bậc Thánh,
Với lời, với ác ý,
Trải qua trăm ngàn thời,
Với ni-rab-bu-đa,
Còn thêm ba mươi sáu,
Với năm a-bu-đa,
Còn thêm ba mươi sáu,
Với năm a-bu-đa,
Phải sanh vào địa ngục
Chịu khổ đau tại đấy.
4. Rồi Tỷ-kheo Kokàlika, do chứng bệnh
ấy mệnh chung. Sau khi chết, Tỷ-kheo Kokàlika sanh vào địa ngục sen hồng
vì tâm khởi ác ý đối với Sàriputta và Moggallàna. Rồi Phạm thiên
Sahampati, sau khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng
Jetavana, đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một
bên, đứng một bên, Phạm thiên Sahampati bạch Thế Tôn : "Bạch Thế
Tôn, Tỷ-kheo Kokàlika đã mệnh chung. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàlika mệnh
chung, phải sanh vào địa ngục sen hồng, vì tâm khởi ác ý đối với Sàriputta
và Moggallàna". Phạm thiên Sahampati nói như vậy. Nói như vậy xong, đảnh
lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ.
5. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm đã
qua, bảo các Tỷ-kheo :
- Này các Tỷ-kheo, đêm nay Phạm
thiên Sahampati khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng
toàn vùng Jetavana, đi đến Ta ; sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một
bên, đứng một bên, này các tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati thưa với Ta :
"Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati thưa với Ta : "Bạch
Thế Tôn Tỷ-kheo Kokàika đã mệnh chung, phải sanh vào địa ngục sen hồng,
vì tâm khởi ác ý đối với Sàripuuta và Moggallàna". Này các Tỷ-kheo,
Phạm thiên Sahampati nói như vậy. Nói như vậy xong, đảnh lễ Ta, thân
phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.
6. Khi nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch
Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, lâu dài bao nhiêu,
là tuổi thọ ở địa ngục sen hồng ?
- Này Tỷ-kheo, tuổi thọ ở địa
ngục sen hồng, rất khó mà tính được. Có chừng ấy năm, hay có chừng
ấy trăm năm, hay có chừng ấy ngàn năm, hay có chừng ấy trăm năm.
- Bạch Thế tôn, có thể cho một
ví dụ được chăng ?
- Có thể được, này Tỷ-kheo, một
cỗ xe chở hai mươi cân kosala chở đầy hột mẻ. Rồi một người cứ
sau một trăm năm, một trăm năm, một trăm năm lấy lên một hột mè. Mau hơn
này Tỷ-kheo là cỗ xe chở hai mươi cân kosala chở đầy hột mè, do phương
pháp này, đi đến tận sạch, không còn gì nữa, cũng chưa đủ là một
abbuda địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo, hai mươi abbuda địa ngục là bằng
một Nirabbuda địa ngục bằng một ababà địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo,
hai mươi ababà địa ngục bằng một ahaha địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo,
hai mươi ahaha địa ngục là bằng một atato địa ngục. Ví như, này Tỷ-kheo,
hai mươi atato địa ngục bằng một kumodo địa ngục. Ví như này Tỷ-kheo,
hai mươi kumodo địa ngục là bằng một sogandhika địa ngục. Ví như, này
Tỷ-kheo, hai mươi sogandhika địa ngục bằng một uppalako địa ngục. Ví như,
này Tỷ-kheo hai mươi uppalako địa ngục bằng một pundarika địa ngục. Ví
như, này Tỷ-kheo, hai mươi pundarika địa ngục bằng một paduma địa ngục
paduma (sen hồng), vì khởi lên ác ý đối với Sàriputta và Moggallàna.
Thế Tôn nói như vậy. Thiện Thệ
nói như vậy xong, bậc đạo Sư lại nói thêm :
Con người được sanh ra
Sanh với búa trong miệng,
Người ngu nói điều xẩy,
Là tự chém vào mình.
Ai khen người đáng chê,
Ai chê người đáng khen,
Đều chất chứa bất hạnh,
Do từ miệng tạo thành,
Và chính do bất hạnh,
Nên không được an lạc
Nhỏ thay bất hạnh này,
Chính do cờ bạc sanh,
Khiến do cờ bạc sanh,
Khiến tài sản tiêu hao,
Bất hạnh này lớn hơn,
Không những mất tất cả,
Lại mất cả tự mình.
Là người khởi ác ý,
Đối với chư Thiện thệ.
Ai chỉ trích bậc Thánh,
Với lời, với ác ý,
Trải qua trăm ngàn thời,
Với ni-rab-bu-da,
Còn thêm ba mươi sáu,
Với năm a-bu-đa,
Phải sanh vào địa ngục,
Chịu khổ đau tại đấy.
(X) (90) NHỮNG SỨC MẠNH
1. Bấy giờ có Tôn giả Sàriputta
đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Sàriputta đang ngồi xuống một bên :
- Này Sàriputta, Tỷ-kheo đã đoạn
tận các lậu hoặc, có bao nhiêu sức mạnh ? Thành tựu với những sức mạnh
ấy. Tỷ-kheo đã đoạn tận các lâu hoặc tự nhận biết sự đoạn diệt
các lậu hoặc : "Các lậu hoặc đã được tận nơi ta"
- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn
tận các lậu hoặc, có mười sức mạnh. Thành tựu với những sức mạnh
ấy, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc, tự nhận biết sự đoạn diệt các
lậu hoặc : "Các lậu hoặc đã được đoạn tận nơi ta". Thế nào
là mười ?
2. Ở đây, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo
đoạn tận các lậu hoặc, đã khéo như thật thấy với chánh trí tuệ,
các hành là vô thường. Bạch thế Tôn, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc,
đã khéo thấy như thật với chánh trí tuệ, tất cả các hành là vô thường.
Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc đã khéo thấy như
thật với chánh trí tuệ, tất cả các hành là vô thường. Bạch Thế Tôn,
đây là sức mạnh của Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc. Dựa trên sức
mạnh này, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc tự nhận biết sự đoạn tận
diệt các hoặc : "Các lậu hoặc đã được tận nơi ta."
3. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo
đoạn tận các lậu hoặc đã khéo thấy như thật với chánh trí tuệ,
các dục được ví như hố than hừng. Bạch thế Tôn, Tỷ-kheo đoạn tận
các lậu hoặc, đã khéo thấy như thật với chánh trí tuệ, các dục được
ví như hố than hừng. Bạch Thế Tôn, đây là sức mạnh của Tỷ-kheo đoạn
tận các lậu hoặc tự nhận biết sự đoạn diệt các lậu hoặc :
"Các lậu hoặc đã được đoạn tận nơi ta."
4. Lại nữa, bạch Thế tôn, Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo d0oạn tận các lậu hoặc, với tâm hướng về viễn ly, thiên về
viễn ly, xuôi về viễn ly, trú vào viễn ly, ưa thích xuất ly, chấm dứt
hoàn toàn các pháp làm trú xứ cho các lậu hoặc. Bạch Thế Tôn, ... đây
là sức mạnh của Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc... "... được đoạn
tận nơi ta." 5. Lại nữa, bạch thế Tôn, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu
hoặc tu tập, khéo tu tập Bốn niệm xứ. Bạch Thế tôn, Tỷ-kheo đoạn tận
các lậu hoặc tu tập, khéo tu tập Bốn niệm xứ. Bạch Thế tôn đây là
sức mạnh của tỷ-khoe d0oạn tận các lậu hoặc... "... đã được
đoạn tận nơi ta."
6. Lại nữa, bạch thế Tôn, Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc khéo tu tập Bốn chánh cần... tu tập
khéo tu tập Bốn như ý túc... tu tập, khéo tu tập Năm căn... tu tập, khéo
tu tập Năm lực... tu tập, khéo tu tập Bảy giác chi... tu tập, khéo tu tập
Thánh đạo tám ngành. Bạch Thế Tôn, đây là sức mạnh của tỷ-kheo đoạn
tận các lậu hoặc các lậu hoặc tự nhận biết sự đoạn diệt các lậu
hoặc : "Các lậu hoặc được đoạn tận nơi ta."
Bạch Thế Tôn, có mười sức mạnh
này của Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc. Thành tựu những lực này, Tỷ-kheo
đoạn tận các lậu hoặc nhận biết sự đoạn tận diệt các lậu hoặc
: "Các lậu hoặc đã được đoạn tận nơi ta".
X. PHẨM NAM CƯ SĨ
(I) (91) NGƯỜI HƯỞNG DỤC
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàhapindika. Rồi nam cư sĩ Anàthapindika
đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi xuống một bên.
Thế tôn nói với Anàthapindika đang ngồi một bên :
2. - Này Gia chủ, có mười người
hưởng dục này có mặt hiện hữu ở đời. Thế nào là mười ?
3. Ờ đây, này Gia chủ, có hạng
người hưởng dục, tầm cầu tài sản phi pháp với sứ mạnh. Sau khi tầm
cầu tài sản chi pháp với sức mạnh, vị ấy không tự mình được an lạc,
hân hoan, không có chia xẻ, không làm các công đức.
4. Ở đây, này Gia chủ, có hạng
người hưởng dục, tầm cầu tài sản phi pháp với sức mạnh. Sau khi tầm
cầu tài sản phi pháp với sức mạnh, vị ấy tự mình được an lạc, hân
hoan, không có chia xẻ, không làm các công đức.
5. Ở đây, này Gia chủ, có hạng
người hưởng dục, tầm cầu tài sản phi pháp với sức mạnh, sau khi tầm
cầu tài sản phi pháp với sức mạnh, tự mình được an lạc, hân hoan,
chia xẻ, làm các công đức.
6. Ở đây, này Gia chủ, có hạng
người hưởng dục, tầm cầu tài sản đúng pháp và phi pháp với sức mạnh
và không với sức mạnh. Sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp và phi pháp với
sức mạnh và không sức mạnh, vị ấy không tự mình được an lạc, hân
hoan, không có chia xẻ, không làm các công đức.
7. Ở đây, này Gia chủ, có hạng
người hướng dục, tầm cầu tài sản đúng pháp và phi pháp với sức mạnh
và không sức mạnh. Sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp và phi pháp với sức
mạnh và không với sức mạnh, tự mình được an lạc hân hoan, nhưng không
chia xẻ, không làm các công đức.
8. Ở đây, này Gia Chủ, có hạng
người hưởng dục, tầm cầu tài sản đúng pháp và phi pháp với sức mạnh
và không với sức mạnh. Sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp và phi pháp với
sức mạnh và không với sức mạnh, vị ấy tự mình được an lạc, hân
hoan, có chia xẻ, có làm các công đức.
9. Ở đây, này Gia chủ, có hạng
người hưởng dục, tầm cầu tài sản đúng pháp không với sức mạnh ;
sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp không với sức mạnh, vị ấy không tự
mình được an lạc, hân hoan, không chia xẻ, không làm các công đức.
10. Ở đây, này Gia chủ, có người
hưởng dục tầm cầu tải sản đúng pháp không với sức mạnh. Sau khi tầm
cầu tài sản đúng pháp không với sức mạnh, vị ấy tự mình được an
lạc, hân hoan, không chia xẻ, không làm các công đức.
11. Ờ đây, này Gia chủ, có người
hưởng dục, tầm cầu tài sản đúng pháp không với sức mạnh. Sau khi tầm
cầu tài sản đúng pháp không với sức mạnh, vị ấy tự mình an lạc,
hân hoan, chia xẻ, làm các công đức. Và vị này hưởng thụ các tài sản
ấy với tâm tham trước, đắm say, mê loạn, không thấy sự nguy hại,
không với trí tuệ xuất ly.
12. Ở đây, này Gia chủ, có người
hương dục, tầm cầu tài sản đúng pháp không với sức mạnh. Sau khi tầm
cầu tài sản đúng pháp không với sức mạnh, vị ấy tự mình an lạc,
hân hoan, chia xẻ, làm các công đức. Và vị này hưởng thụ các tài sản
ấy, không với tâm tham trước, không đắm say, không mê loạn, thấy sự
nguy hại, với trí tuệ xuất ly.
13. Tại đây, này Gia chủ, vị hưởng
dục này, tầm cầu tài sản phi pháp và dùng sức mạnh ; Sau khi tầm cầu
tài sản phi pháp và dùng sức mạnh, vị ấy không tự mình an lạc, hân
hoan, không chia xẻ, không làm các công đức. Này Gia chủ, vị hưởng dục
này do ba điều bị quở trách : "Tầm cầu tài sản phi pháp, dùng sức
mạnh là điều thứ nhất, bị khiển trách ; không tự mình an lạc hân
hoan là điều thứ hai, bị khiển trách ; không chia xẻ, không làm công đức
là điều thứ ba, bị khiển trách.
Này Gia chủ, vị hưởng dục này
có ba điều bị quở trách.
14. Tại đây, này Gia chủ, vị hưởng
dục này, tầm cầu tài sản phi pháp, dùng sức mạnh. Sau khi tầm cầu tài
sản phi pháp và dùng sức mạnh, vị ấy tự mình an lạc hân hoan, không
chia xẻ, không làm các công đức. Này gia chủ, vị hưởng dục này có hai
điều bị quở trách, và một điều được tán thán. Vị ấy tầm cầu
tài sản phi pháp và dùng sức mạnh do điều thứ nhất này, bị quở
trách. vị ấy tự mình an lạc, hân hoan, do một điều này được tán
thán. Vị ấy không san sẻ, không làm các công đức, do điều thứ hai này,
bị chỉ trích.
Vị hưởng dục này, này gia chủ,
có hai điều này bị chỉ trích, và một điều này được tán thán.
15. Tại đấy, này Gia chủ, vị hưởng
dục này, tầm cầu tài sản phi pháp và dùng sức mạnh. Sau khi tầm cầu
tài sản phi pháp và dùng sức mạnh, vị ấy tự mình an lạc, hân hoan, san
sẻ và làm các công đức. Vị hưởng dục này, này Gia chủ, do một điều
bị chỉ trích, do hai điều được tán thán. Vị ấy tầm cầu tài sản một
cách phi pháp và dùng sức mạnh, do một điều này, bị chỉ trích. Vị ấy
tự mình an lạc, hân hoan, do điều thứ nhất này được tán thán. Vị ấy
chia xẻ và làm các công đức, do điều thứ hai này được tán thán.
Vị hưởng dục này, này Gia chủ,
có một điều bị chỉ trích, và hai điều được tán thán.
16. Tại đây, này Gia chủ, vị hưởng
dục này, tầm cầu tài sản đúng pháp và phi pháp, dùng sức mạnh và
không dùng pháp và phi pháp, dùng sức mạnh và không dùng sức mạnh, vị
ấy không tự mình an lạc, hân hoan, không chia xẻ, không làm các công đức.
Vị hưởng dục này, này gia chủ, có một điều được. Vị ấy tầm cầu
tài sản phi pháp và dùng sức mạnh, do điều thứ nhất này bị chỉ
trích. Vị ấy không tự mình an lạc, hân hoan, do điều thứ hai này bị chỉ
trích. Vị ấy không chia xẻ, không làm các công đức, do điều thứ ba này
bị chỉ trích.
Vị hưởng dục này, này Gia chủ,
có một điều này được tán thán, và ba điều này bị chỉ trích.
17. Tại đây, này gia chủ, vị hưởng
dục này, tầm cầu tài sản đúng pháp và phi pháp, dùng sức mạnh và
không dùng sức mạnh. Sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp và phi pháp,
dùng sức mạnh và không dùng sức mạnh, vị ấy tự mình an lạc, hân
hoan, không chia xẻ, không làm các công đức. Người hưởng dục này, này
Gia chủ, có hai điều được tán thán, và hai điều bị chỉ trích. Vị
ấy tầm cầu tài sản đúng pháp và không dùng sức mạnh, do điều thứ
nhất này, được tán thán. Vị ấy tầm cầu tài sảnphi pháp và dùng sức
mạnh, do điều thứ nhất này bị chỉ trích. Vị ấy tự mình an lạc hân
hoan, do điều thứ hai được tán thán. Vị ấy không san sẻ, không làm
các công đức, do điều thứ hai này, bị chỉ trích.
Vị hưởng dục này, này Gia chủ,
có hai điều này được tán thán, và hai điều này bị chỉ trích.
17. Tại đây, này Gia chủ, người
hưởng dục này, tầm cầu tài sản đúng pháp và phi pháp, dùng sức mạnh
và không dùng sức mạnh. Sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp và phi pháp,
dùng sức mạnh và không dùng sức mạnh, vị ấy tự mình an lạc, hân
hoan, chia sẻ và làm các công đức. Vị hưởng dục này, này Gia chủ, có
ba điều được tán thán, và một điều bị chỉ trích.
Vị hưởng dục này, này Gia chủ,
có hai điều này được tán thán, và hai điều này bị chỉ trích.
18. Tại đây, này Gia chủ, người
hưởng dục nhục, tầm cầu tài sản đúng pháp và phi pháp, dùng sức mạnh
và không dùng sức mạnh. Sau khi, tầm cầu tài sản đúng pháp và phi pháp,
dùng sức mạnh và không dùng sức mạnh, vị ấy tự mình an lạc, hân
hoan, chia xẻ và làm các công đức. Vị hưởng dục này, này Gia chủ, có
ba điều được tán thán, và một điều bị trích. Vi nầy tầm cầu tài sản
đúng pháp và một điều bị trích. Vị ấy tầm cầu tài sản đúng pháp
và không dùng sức mạnh, do điều thứ nhất này được tán thán. Vị ấy
tầm đầu tài sản phi pháp và dùng sức mạnh, do điều thứ nhất này
được tán thán. Vị ấy tầm cầu tài sản phi pháp và dùng sức mạnh, do
điều thứ nhất này, bị chỉ trích. Vị ấy tự mình an lạc, hân hoan, do
điều thứ hai này, được tán thán. Vị ấy chia xẻ và làm các công đức,
do điều thứ ba này, được tán thán.
Vị hưởng dục này, này Gia chủ,
có ba điều này được tán thán, và một điều này trích.
19. Tại đây, này Gia chủ, vị hưởng
dục này, tầm cầu tài sản đúng pháp và không dùng sức mạnh. Sau khi tầm
cầu tài sản đứng pháp và không dùng sức mạnh, vị ấy không tự mình
an lạc, hân hoan, không chia xẻ và làm các công đức. vị hưởng dục này,
này Gia chủ, có một điều được tán thán, và hai điều chỉ trích. Vị
ấy tầm cầu tài sản đúng pháp và không dùng sức mạnh, do điều này
được tán thán. Vị ấy không tự mình an lạc, hân hoan, và điều thứ nhất
này, bị chỉ trích. Vị ấy không chia xẻ, không làm các công đức, do điều
thứ hai này, bị chỉ trích.
Vị hưởng dục này, này Gia chủ,
có một điều này được tán thán, và hai điều này bị chỉ trích.
20. Tại đây, này Gia chủ, người
hường dục này, tầm cầu tài sản đúng pháp và không dùng sức mạnh.
Sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp và không dùng sức mạnh, vị ấy tự
mình an lạc, hân hoan, không chia xẻ, không làm các công đức. Vị hưởng
dục này, này Gia chủ, có hai điều được tán thán, và một điều bị chỉ
trích. Vị ấy tầm cầu tài sản đúng pháp và không dùng sức mạnh, do
điều thứ nhất này được tán thán. Vị ấy tự mình an lạc, hân hoan,
do điều thứ hai này, được tán thán. vị ấy không chia xẻ, không làm
các công đức, do điều thứ nhất này, bị chỉ trích.
Vị hưởng này, này Gia chủ, có
hai điều được tán thán, và một điều bị chỉ trích.
21. Tại đây, này gia chủ, người
hưởng dục này ta62m tài sản đúng pháp và không dùng sức mạnh. Sau khi tầm
cầu tài sản đúng pháp và không dùng sức mạnh, vị ấy tự mình an lạc,
hân hoan, chia xẻ và làm các công đức. Và người ấy thọ hưởng các
tài sản ấy tham đàm, đắm say, mê loạn, không thấy sự nguy hại, không
có xuất ly với trí tuệ. Người hưởng dục này, này Gia chủ, có ba điều
được tán thán, và một điều bị chỉ trích. Vị ấy tầm cầu tài sản
đúng pháp và không dùng sức mạnh, do điều thứ nhất này, được tán
thán. Vị ấy tự mình an lạc, hân hoan, do điều thứ hai này, được tán
thán. Vị ấy chia xẻ các công đức, do điều thứ ba này, được tán
thán. Vị ấy thọ hưởng các tài sản ấy tham đắm, đắm say, mê loạn,
không thấy sự nguy hại, không có xuất ly với trí tuệ, do một điều này
bị chỉ trích
Vị hưởng dục này, này Gia chủ,
có ba điều này được tán thán, và một điều này bị chỉ trích.
22. Tại đây, này Gia chủ, vị hưởng
dục này, tầm cầu tài sản đúng pháp và không dùng sức mạnh. Sau khi tầm
cầu tài sản đứng pháp và không dùng sức mạnh, vị ấy tự mình an lạc,
hân hoan, chia xẻ và làm các công đức. Người ấy hưởng thọ các tài sản
ấy, không có tham đắm, không có đắm say, không có mê loạn, thấy được
sự nguy hại, có xuất ly với trí tuệ. Vị hưởng dục này, này Gia chủ,
có bốn điều được tán thán. Vị ấy tầm cầu đúng pháp và không dùng
sức mạnh, do điều thứ nhất này, được tán thán. Vị ấy tự mình an lạc,
hân hoan, do điều thứ hai này, được tán thán. Vị ấy chia xẻ và làm
các công đức, do điều thứ ba này, được tán thán. vị ấy thọ hưởng
các tài sản ấy, không tham đắm, không có đắm say, không có mê loạn, thấy
được sự nguy hại, có xuất ly với trí tuệ, do điều thứ tư này, được
tán thán
Vị hưởng dục này, này Gia chủ,
có bốn điều này được tán thán.
Này Gia chủ, mười hạng người
hưởng dục này có mặt, hiện ở đời.
23. Trong mười hạng người hưởng
dục này, này Gia củ, người hưởng dục tầm cầu tài sản đúng pháp,
không dùng sức mạnh, Sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp, không dùng sức
mạnh, vị ấy tự mình an lạc, hân hoan, chia xẻ, làm các công đức, hưởng
thọ các tài sản ấy, không tham đắm, không đắm say, không mê loạn thấy
được sự nguy hại, có xuất ly với trí tuệ. Trong mười hạng người
hưởng dục này, hạng người này là tối thượng, là tối thắng, là thượng
thủ, là vô thượng, là tối hôn.
Ví như, này Gia chủ, từ con bò có
sữa, từ sữa có lạc, từ lạc có sanh tô, từ sanh tô có thục tô, từ
thục tô có tinh túy của thục tô, để hồ, tinh túy nhục tô được xem
như tối thượng ở đây. Cũng vậy, này gia chủ, trong mười hạng người
hưởng dục này, vị hưởng dục này tầm cầu tài sản đúng pháp và
không dùng sức mạnh. Sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp và không dùng
dùng sức mạnh, vị ấy tự mình an lạc, hân hoan, chia xẻ và làm các
công đức, thọ hưởng các tài sản ấy, không tham đắm, không đắm say,
không mê loạn, thấy được sự nguy hại, có xuất ly với trí tuệ. Hạng
người này là tối thượng, tối thắng, thượng thủ, vô thượng và tối
tôn.
(II) (32) SỢ HÃI VÀ HẬN THÙ
1. Bấy giờ có gia chủ
Anàthapindika đi đến Thế Tôn, ... Thế Tôn nói với Gia chủ Anàthapindika
đang ngồi xuống một bên.
2. - Này Gia chủ, khi nào vị Thánh
đệ tử làm cho lắng dịu năm sợ hãi hận thù, thành tựu bốn chi phần
Dự lưu, khéo thấy, khéo thể nhập Thánh lý với trí tuệ ; nếu vị ấy
muốn, có thể tự trả lời với mình rằng : "Ta đã đoạn tận địa
ngục ; ta đã đoạn tận bàng sanh ; ta đã đoạn tận ngạ quỷ ; Ta đã
đoạn tận các cõi dữ, ác thú, đọa xứ ; ta đã chứng Dự lưu, không
còn bị đọa lạc, quyết chắc cứu cánh được giác ngộ." Thế nào
là năm sợ hãi hận thù được làm cho lắng dịu ?
3. Này Gia chủ, sát sanh, do duyên
sát sanh tạo ra sợ hãi hận thù ngay trong hiện tại, tạo ra sợ hãi hận
thù trong tương lai, không khiến tâm cảm thọ khổ ưu. Người từ bỏ sát
sanh, không tạo ra sợ hãi hận thù trong hiện tại, không tạo ra sợ hãi hận
thù ngay trong tương lai, không khiến tâm cảm thọ khổ ưu. Người từ bỏ
sát anh, làm lắng dịu sợ hãi hận thứ này.
4. Này Gia chủ, lấy của không
cho... tà hạnh trong các dục... nói láo... đắm say trong rượu men, rượu nấu
; do duyên đắm say trong rượu men, rượu nấu, tạo ra sợ hãi hận ngay
trong hiện tại, tạo ra sợ hãi hận thù trong tương lai, khiến cảm thọ
khổ ưu về tâm. Người từ bỏ không đắm say trong rượu men, rượu nấu,
không tạo ra sợ hãi thù hận ngay tương lai, không khiến cảm thọ khổ
ưu về tâm. Với người từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu, như vậy
sợ hãi hận thù này được lắng dịu.
Năm sợ hãi hận thù này được lắng
dịu. Thế nào là thành tựu bốn Dự lưu phần ?
5. - Ở đây, này Gia chủ, vị
Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật.
Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian giải, Vô thượng
sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế tôn. Vị ấy thành tựu
tịnh tín bất động đối với Pháp : "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết,
thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng
hướng thượng, được người tri tự mình giác hiểu". Vị ấy thành
tựu tịnh tín bất động đối với chúng Tăng : "Diệu hạnh là chúng
đệ tử Thế Tôn ; Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn ; Ứng lý hạnh
là chúng đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử thế
Tôn đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được đảng lễ,
đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời. "Vị ấy
thành tựu với những giới được các bậc Thánh ái kính, không bị phá hủy,
không bị bể vụn, không bị điểm chấm, không bị uế nhiễm đưa đến
giải thoát, được bậc trí tán thán, không bị chấp trước, đưa đến
Thiền định.
Đây là thành tựu tốn chi phần Dự
lưu này. Thế nào Thánh chánh lý được khéo thấy, khéo thể nhập với
trí tuệ ?
6. - Ở đây, này Gia chủ, vị
Thánh đệ tử quán sát như sau : "Do cái này có, cái kia có. Do cái này
sanh, cái kia sanh. Do cái này không có, cái kia không có. Do cái này diệt,
cái kia diệt. Tức là do duyên vô minh, có các hành. Do duyên các hành có thức.
Do duyên thức có danh sắc. Do duyên danh sắc có sáu nhập. Do duyên sáu nhập
có xúc. do duyên xúc có thọ. Do duyên thọ có ái. Do duyên ái có thủ. Do
duyên thủ có hữu. do duyên hữu có sanh. Do duyên sanh có già chết, sầu,
bi, khổ, ưu não. Như vậy, là sự tập khởi củ toàn bộ khổ uẩn này.
Do vô minh diệt không có dư tàn, nên các hành. Do các hành diệt nên thức
diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt.
Do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. DO thọ diệt
nên ái diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết sầu
bi khổ ưu não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này diệt. Đây là
Thánh lý được khéo thấy và khéo thể nhập với trí tuệ."
Này Gia chủ, khi nào với vị Thánh
đệ tử, năm sợ hãi hận thủ này được lắng dịu, bốn Dự lưu phần
này được thành tựu, và Thánh lý này được khéo thấy và khéo thể nhập
với trí tuệ, thời nếu muốn, vị ấy có thể tự mình trả lời về
mình rằng : "Ta đã đoạn tận địa ngục ; ta đã đoạn tận bàng
sanh ; ta đã đoạn tận ngạ quỷ ; ta đã đoạn tận cõi dữ, ác thú, đọa
xứ ; ta đã chứng được Dự lưu, không còn bị đọa lạc, quyết chắc
chứng đạt cứu cánh giác ngộ."
(III) (93) KIẾN
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, Jetavana, tại khu vườn Anàthapindika. Bấy giờ có gia chủ
Anàthapindika, vào buổi sáng thật sớm đi ra hỏi Sàvatthi để yết kiến
Thế Tôn. Rồi gia chủ Anàthapindika suy nghĩ : "Nay không phải thời để
yết kiến Thế Tôn. Thế Tôn đang Thiền tịnh. Cũng không phải thời để
yến kiến các vị Tỷ-kheo đang tu tập về ý, các Tỷ-kheo tu tập về ý
đang Thiền tịnh. Vậy ta hãy đi đến khu vườn các du sĩ ngoại đạo".
Vậy gia chủ Anàthapindika đi đến khu vườn các du sĩ ngoại đạo.
2. Lúc bấy giờ, các du sĩ ngoại
đạo đang ngồi hội họp, đang tụ họp ồn ào, cao tiếng, lớn tiếng
bàn luận những vấn đề phù phiếm. các du sĩ ngoại đạo ấy thấy gia
chủ Anàthapindika từ xa đi đến, khi thấy vậy liền dặn dò bảo với
nhau : "Hãy bớt ồn ào, các Tôn giả Chớ có làm ồn, các tôn giả.
Gia chủ Anàthapindika này đang đến, một đệ tử của Sa-môn Gotama, trong
những đệ tử của Sa-môn Gotama có gia đình mặc áo trắng ở Sàvatthi,
gia chủ Anàthapindika là một trong những vị ấy. Các vị ấy ít ưa ồn
ào, được huấn luyện trong ít ồn ào, tán thán ít ồn ào. Nếu vị ấy
thấy hội chúng ít ồn ào, vị ấy có thể nghĩ đến thăm ở đây".
Rồi các du sĩ ngoại đạo ấy giữ im lặng.
3. Rồi Gia chủ Anàthapinidika đi đến
các du sĩ đạo ấy, sau khi đến, nói lên với các du sĩ ngoại đạo ấy
những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Các du sĩ ngoại đạo ấy nói
với Gia chủ Anàthapidika đang ngồi một bên. Các du sĩ ngoại đạo ấy nói
với gia chủ nathapindika đang ngồi một bên :
- Này Gia chủ, hãy nói lên Sa-môn
Gatama có kiến gì ?
- Thưa các Tôn giả, tôi không biết
tất cả kiến của Thế Tôn.
- Này Gia chủ, Gia chủ có thể
không biết tất cả kiến của Sa-môn Gotama. Nhưng Gia chủ, hãy nói các Tỷ-kheo
có kiến gì ?
- Thưa các Tôn giả, tôi không biết
tất cả kiến của các Tỷ-kheo.
- Này Gia chủ, Gia chủ có thể
không biết tất cả kiến của Sa-môn Gotama, Gia chủ có thể không biết tất
cả kiến của các Tỷ-kheo. Vậy này Gia chủ, hãy nói về kiến của gia chủ.
- Thưa các Tôn giả, thật không
khó gì để chúng tôi trả lời về kiến của chúng tôi. Nhưng các Tôn
hãy trả lời về kiến của các Tôn giả trước. Rồi sau thật không khó
gì để chúng tôi trả lời về kiến của chúng tôi.
4. Khi được nói vậy, một du sĩ
ngoại đạo nói với gia chủ Anàthapindika : "Thường còn là thể giới.
Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy
là kiến của tôi". Một du sĩ ngoại đạo khác nói với gia chủ
Anàthapindika : "Vô thường là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến
này khác là hư vọng. Như vậy là kiến của tôi." Rồi một du sĩ ngoại
đạo khác nói với gia chủ Anàthapindika : "Có biên tế là thế giới...
không có biên tế là thế giới... mạng sống và thân thể là một... mạng
sống và thân thể là khác... Như Lai có tồn tại sau khi chết... Như Lai không
có tồn tại sau khi chết... Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau
khi chết... Như Lai không có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Kiến
này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến
của tôi".
5. Khi nghe nói vậy, gia chủ
Anàthapindika nói với các du sĩ ngoại đạo ấy :
- Thưa các Tôn giả, Tôn giả nào
nói như sau : "Thường còn là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến
nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi". Kiến
này của Tôn giả ấy, hoặc nhân tự mình tác ý không hợp lý, hay do
duyên nghe tiếng người khác nói. Kiến ấy như vậy được sanh được tác
thành (hữu vi) do tâm suy tư, do duyên khởi lên. Và cái gì được sanh, được
tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên, cái ấy là vô thường ; cái
gì vô thường, cái ấy là khổ ; cái (khổ) ấy, Tôn giả chấp trước (dính
vào) ; cái (khổ) ấy, Tôn giả chấp nhận. Thưa các Tôn giả, Tôn giả
nào nói như sau : "Vô thường là thế giới này... có biên tế là
khác... Như Lai có tồn tại sau khi chết... Như Lai không tồn tại sau khi chết...
Như Lai không có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự
thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của
tôi". Kiến này của Tôn giả ấy, hoặc nhân tự mình tác ý không hợp
lý, hoặc do duyên nghe tiếng người khác nói. kiến như vậy được sanh,
được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên. Và cái gì được sanh,
được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên, cái ấy là vô thường
; cái gì vô thường, cái ấy là khổ ; cái (khổ) ấy, Tôn giả chấp trước
; cái khổ ấy Tôn giả chấp nhận.
6. Khi được nói vậy, các du sĩ
ngoại đạo ấy nói với gia chủ Anàthapindika :
- Này Gia chủ, tất cả kiến của
chúng tôi đã được nói lên. Này Gia chủ, hãy nói lên kiến của gia chủ
là gì?
- Thưa các Tôn giả, phàm cái gì
được sanh, được tác thành do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái
ấy là vô thường. Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì là khổ,
cái ấy là "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi,
cái này không phải tự ngã của tôi." Tôi có kiến như vậy, thưa các
Tôn giả.
- Này Gia chủ, phàm cái gì được
sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái ấy là
vô thường. Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì là khổ, cái ấy,
này Gia chủ, Gia chủ lại chấp trước, cái ấy, này Gia chủ, Gia chủ lại
chấp nhận.
Thưa các Tôn giả, phàm cái gì được
sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái ấy là
vô thường. Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì khổ, cái ấy là
: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này
không phải tự ngã của tôi". Như vậy là như thật khéo thấy với
chánh trí tuệ. Và tư nơi khổ ấy, tôi như thật rõ biết sự xuất ly hơn
thế nữa. Khi nghe nói như vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy ngồi im lặng,
hoang mang, thụt vai, cúi đầu, sững sờ, không nói lên lời.
7. Rồi gia chủ Anàthapinika, sau khi
biết các du sĩ ngoại đạo ấy im lặng, hoang mang, thụt vai, cúi đầu, sững
sờ, không nói lên lời, tư chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau
khi đến, đảnh lễ Thế tôn rồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
gia chủ Anàthapindika, câu chuyện với các du sĩ ngoại đạo ấy như thế nào
thuật lại tất cả cho Thế Tôn rõ :
- "Lành thay, lành thay, này Gia
chủ. Như vậy, này Gia chủ, những kẻ ngu si ấy thường cần phải được
bác bỏ với sự khéo bác bỏ nhờ Chánh pháp". Rồi Thế Tôn với một
bài pháp thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ Gia
chủ Anàthapindika. Rồi Gia chủ Anàthapindika, sau khi được Thế Tôn với
bài pháp thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ
chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi
ra đi.
8. Rồi Thế Tôn, au khi gia chủ
Anàthapindika ra đi không bao lâu, bảo các vị Tỷ-kheo :
- Tỷ-kheo nào dầu đã được đầy
đủ 100 năm an cư mùa mưa trong Pháp và Luật này, vị ấy cần phải như vậy,
thường thường bác bỏ các du sĩ ngoại đạo, với sự khéo bác bỏ nhờ
Chánh pháp, như gia chủ Anàhtapindika đã khéo bác bỏ.
(VI) (94) VAJJIYAMÀHITA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Campà trên bờ ao Gaggarà. Rồi gia chủ Vajjiyamàhita, vào buổi sáng sớm đi
ra khỏi Campà, đế yết kiến Thế Tôn. rồi gia chủ Vajjiyamàhita suy nghĩ
: "Nay không phải thời để yết kiến Thế tôn, Thế Tôn đang thiền tịnh.
Cũng không phải thời để yết kiến các Tỷ-kheo đang tu tập về ý, các
Tỷ-kheo đang tu tập về ý đang thiền tịnh. Vậy hãy đi đến khu vườn
Vajjiyamàhita đi đến khu vườn các du sĩ ngoại đạo.
2. Lúc bấy giờ, các du sĩ ngoại
đạo đang ngồi hội họp đang tụ họp, ồn ào, cao tiếng, lớn tiếng
bàn luận những vấn đề phù phiếm. các du sĩ ngoại đạo ấy thấy gia
chủ Vajjiyamàhita từ xa đi đến, khi thấy vậy, liền dặn dò bảo với
nhau : "Hãy bớt ồn ào, các tôn giả, chớ làm ồn, các Tôn giả, gia
chủ Vajjiyahita này đang đến, một đệ tử của Sa-mô Gotama, có gia đình
mặt trắng ở Campà. Gia chủ Vajjiyamàhita là một trong những vị ấy, các
vị ấy ưa ít ồn ào, được huấn luyện trong ít ồn ào, tán thán ít ồn
ào. Nếu vị ấy thấy hội chúng ít ồn ào, vị ấy có thể nghĩ đến
thăm ở đây." Rồi các du sĩ ngoại đạo ấy giữ im lặng.
3. Rồi gai chủ Vajjiyamàhita đi đến
các du sĩ ngoại đạo ấy ; sau khi đến, nói lên với các du sĩ ngoại đạo
ấy những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Các di sĩ ngoại đạo ấy nói
với gia chủ Vajjiyahita đang ngồi một bên :
- Có đúng sự thật chăng này Gia
chủ, sa-môn Gotama chỉ trích mọi khổ hạnh, nhất hướng bài bác, chống
đôí mọi khổ hạnh, mọi nếp sống kham khổ ?
- Thưa các tôn giả, Thế Tôn không
chỉ trích mọi khổ hạnh, không nhất hướng bài bác chống đối mọi khổ
hạnh, mọi nếp sống kham khổ. Thưa các Tôn giả, Thế tôn chỉ trích cái
gì đáng chỉ trích, tán thán cái gì đáng tán thán. Thưa các Tôn giả, Thế
Tôn chỉ trích cái gì đáng chỉ trích, tán thán cái gì đáng tán thán, như
vậy Thế Tôn là người phân tích luận, không phải là người nhất hướng
luận (nói một chiều).
4. Được nói vậy, một du sĩ nói
với gia chủ Vajjiyamàhita : "Thôi chờ ở đây, này Gia chủ, Gia chủ
tán thán Sa-môn Gotama và Sa-môn Gotama là người hư vô, một người không
bao giờ có định nghĩa rõ ràng.
- Ở đây, thưa các tôn giả, tôi
nói với các Tôn giả, tôi nói với các Tôn giả đúng pháp : "đây là
thiện, thưa các Tôn giả, Thế Tôn đã định nghĩa. Đây là bất thiện,
thưa các Tôn giả, Thế Tôn đã định nghĩa. Đây là thiện, đây là bất
thiện, Thế tôn đã định nghĩa. Thế tôn là người có định nghĩa rõ
ràng. Thế Tôn không phải là chủ trương hư vô, không phải là người không
có định nghĩa rõ ràng". Khi được nói vậy, các du sĩ ấy im lặng,
hoang mang, thụt vai, cúi đầu, sững sờ, không nói nên lời.
5. Rồi gia chủ Vajjiyamàhita, sau khi
biết các du sĩ ngoại đạo ấy im lặng, hoang mang, thụt cai, cúi đầu, sững
sờ không nói nên lời, tư chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, gia chủ Vajjiyamàhita, câu chuyện với các du sĩ ngoại đạo như thế
nào, tất cả đều thuật lại cho Thế Tôn rõ.
6. - Lành thay, lành thay, này Gia chủ,
những kẻ ngu si thường thường cần phải được bác bỏ với sự khéo
bác bỏ nhờ Chánh pháp. Này Gia chủ, Ta không nói rõ rằng, tất cả khổ
hạnh cần phải hành trì. Này Gia chủ, Ta cũng không nói rằng tất cả sự
chấp trì cần phải được chấp trì. Này Gia chủ, Ta cũng không nói rằng
tất cả sự chấp trì không nên chấp trì. Này Gia chủ, Ta cũng không nói
rằng tất cả sự tinh cần phải tinh cần. Này Gia chủ, ta cũng không nói
rằng, tất cả sự tinh cần không nên tinh cần. Này Gia chủ, Ta cũng không
nói rằng, tất cả sự tinh cần không nên tinh cần. Này Gia chủ, Ta cũng
không nói rằng, tất cả sự từ bỏ nên từ bỏ. Này Gia chủ, Ta cũng không
nói rằng tất cả sự từ bỏ không nên từ bỏ. Này Gia chủ, Ta cũng không
nói rằng tất cả sự giải thoát nên giải thoát. Này Gia chủ, Ta cũng không
nói rằng, tất cả sự giải thoát không nên giải thoát.
7. Này Gia chủ, phàm hành trì khổ
hạnh nào, các pháp bất thiện tăng trưởng, các pháp thiện tổn giảm, khổ
hạnh ấy, Ta nói, không nên hành trì. Nhưng này Gia chủ, phàm hành trì khổ
hạnh nào, cá pháp bất thiện tổn giảm, các pháp thiện tăng trưởng, khổ
hạnh ấy Ta nói nên hành trì. Này Gia chủ, phàm chấp trì nào, các pháp bất
thiện tăng trưởng, các pháp thiện tổn giảm, chấp trì ấy, Ta nói,
không nêm chấp hành. Phàm chấp hành chấp trì nào, các pháp bất thiện tổn
giảm, các thiện pháp tăng trưởng, thời chấp hành ấy, Ta nói nên chấp
trì. Này Gia chủ, phàm tinh cần nào được tinh tấn, các pháp bất thiện
tăng trưởng, các pháp tổn giảm, thời tinh cần ấy, Ta nói rằng, không
nên tinh tấn. Phàm tinh cần nào được tinh t61n, các pháp bất thiện tổn
giảm, các pháp thiện tăng trưởng, thời tinh cần ấy, Ta nói nên tinh tấn.
Này Gia chủ, phàm từ bỏ từ bỏ nào, các pháp bất thiện tăng trưởng,
các pháp thiện tổn giảm, thời từ bỏ ấy, Ta nói, không nên từ bỏ.
Phàm từ bỏ từ bỏ nào, các pháp bất thiện tổn giảm, các pháp thiện
tăng trưởng, thời từ bỏ ấy, Ta nói, nên từ bỏ. Này Gia chủ, phàm giải
thoát sự giải thoát nào, các pháp bất thiện tăng trưởng, các thiện
pháp tổn giảm, thời giải thoát ấy, Ta nói, không nên giải thoát. Phàm
giải thoát giải thoát nào, các pháp bất thiện tổn giảm, các pháp thiện
tăng trưởng, thời giải thoát ấy, Ta nói nên giải thoát.
Rồi gia chủ Vajjiyamàhita sau khi
được thế Tôn với một pháp thoại thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn
khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn,
thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
8, Rồi Thế Tôn, sau khi gia chủ
Vajjiyamàhita ra đi không bao lâu, bảo các Tỷ-kheo :
- Phàm Tỷ-kheo nào, đã lâu ngày với
trần cầu ít trong Pháp và Luật này, vị ấy hãy như vậy bài bác các du
sĩ ngoại đạo với sự khéo bài bác nhờ Chánh pháp, như gia chủ Vajjiyamàhita
đã làm.
(V) (95) UTTIYA
1 Bấy giờ có du sĩ ngoại đạo
Uttiya đi đến Thế Tôn ; sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời
chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu,
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, du sĩ Uttiya nói với Thế
Tôn :
- Thưa Tôn giả Gotama, có phải Tôn
giả chủ trương thế giới là vô thường. Kiến này là sự thật, kiến
nào khác là hư vọng ?
- Này Uttiya. Ta không có nói như sau
: "Thế giới là vô thường. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là
hư vọng".
- Này Tôn giả Gotama, có phải thế
giới là có biên tế... sinh mạng và thân thể là một... sinh mạng và
thân thể là khác... Như Lai có tồn tại sau chết... Như Lai không có tồn
tại sau khi chết... Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết...
Như Lai không tồn tại và không tại sau khi chết. Kiến này là sự thật,
kiến nào khác là hư vọng ?
- Này Uttiya, Ta không có nói như sau
: "Như Lai không tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Kiến này là
sự thật, kiến nào khác là hư vọng".
2- Thưa Tôn giả Gotama, có phải thế
giới là vô thường, kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng ?
Được hỏi vậy, Thế Tôn trả lời : "Này Uttiya, Ta không có nói :
"Thế giới là vô thường. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư
vọng."
- Thưa Tôn giả Gotama, có phải thế
giới là vô thường ? ... có phải thế giới là có biên tế ? ... có phải
thế giới không có biên tế ? ... có phải sinh mạng và thân thể là một
? ... có phải sing mạng và thân thể là khác ? ... có phải Như Lai có tồn
tại sau khi chết ? ... có phải Như Lai không có tồn tại sau khi chết ? ...
có phải Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau chết ? ... có phải
Như Lai không tồn tại và không tồn tại sao khi chết ? Kiến này là sự
thật, kiến nào khác là hư vọng ? Được hỏi vậy, Thế Tôn trả lời :
"Này Uttiya, Ta không có nói : "Như Lai không tồn tại và không tồn
tại sau khi chết. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng."
- Vậy cái gì được Tôn giả
Gotama nói lên ?
- Với thắng trí, này Uttiya, Ta thuyết
pháp cho các đệ tử để họ được thanh tịnh, để sầu bi được vượt
qua, để khổ ưu dược chấm dứt, đế chánh lý được chứng đạt, để
Niết-bàn dược chứng ngộ.
- "Nếu Tôn giả Gotama thuyết
pháp cho các đệ tử để họ được thanh tịnh... để Niết-bàn được
chứng ngộ", thời do vậy, cả thế giới này sẽ đi ra khỏi, hay chỉ
có một nữa, hay chỉ có một phần ba ? Được nghe nói vậy, Thế Tôn im lặng.
3. Rồi Tôn giả Ànanda suy nghĩ như
sau : "Chớ có để cho du sĩ Uttiya có ác tà kiến rằng : "Sa-môn
Gotama khi được nghe ta hỏi câu hỏi tối ư quan trọng lại tránh né,
không có trả lời, không dám trả lời, và như vậy là bất hạnh, là đau
khổ lau dài cho du sĩ Uttiya." Rồi Tôn giả Ananda nói với du sĩ Uttiya :
4.- Vậy này Uttiya, Ta sẽ dùng một
ví dụ, chính nhờ ví dụ, ở đây một số người có trí có thể hiểu
được ý nghĩa của lời nói. Ví như, này Hiền giả Uttiya, ngôi thành
biên địa của vua với những nền móng vững chắc, với các thành lũy thác
canh vững chắc, và chỉ có một cửa vào. Tại đây, người giữ cửa là
người sáng suốt, thông minh, có trí, ngăn chận những người không quen biết,
cho vào những người quen biết. Khi đi tuần trên con đường chạy vòng
quanh thành trì ấy, người ấy có thể không thấy một kẻ hở trong thành
hay lỗ trống thành lớn cho đến một con mèo có thể chui qua. Người ấy
có thể không biết được : "Từng ấy loài hữu tình đã đi vào hay
đi ra thành này, nhưng điều này cho biết : "Những loài hữu tình thô
lớn nào đi vào hay đi ra thành này", tất cả chúng phải đi vào hay
đi ra ngang qua cửa thành này. Cũng vậy, này Hiền giả Uttiya, đối với
Như Lai, không phải là một vấn đề quan trọng (câu hỏi này của Thầy)
là có phải toàn thế giới do vậy được thoát ra khỏi hay nữa phần thế
giới, hay là một phần ba ? Những điều Như Lai nói là như sau : "Những
ai đã được thoát ra khỏi thế giới, hay đang được thoát ra, hay sẽ
thoát ra, tất cả những vị ấy, sau khi đoạn tận năm triền cái, những
pháp làm ô nhiểm tâm, làm yếu ớt trí tuệ, với tâm khéo an trú trên Bốn
niệm xứ ; sau khi như thật tu tập Bảy giác chi, như vậy các vị ấy
thoát khỏi, đang thoát khỏi, sẽ thoát khỏi thế giới. Này Hiền giả
Uttiya, về câu hỏi mà Thầy đã hỏi Thế Tôn đứng trên một lập trường
khác. Đó là lý do tại sao Thế Tôn không trả lời câu hỏi ấy cho Thầy
?
(VI) (96) KOKANUDA
1. Một thời, Tôn giả Ànanda trú
ở Ràjagaha, tại suối nước nóng Tapodàràma. Rồi Tôn giả Ànanda khi đêm
vừa mới sáng, thức dậy đi đến Tapodàràma để rửa tay chân. Rửa tay
chân xong, ở Tapodà, sau khi ra khỏi, Tôn giả đứng đắp một y để phơi
tay chân cho khô. Bấy giờ có tu sĩ Kokanuda, khi đêm vừa mới sáng, thức dậy
đi đến Tapodà để rửa tay chân. Du sĩ Kokanada thấy Tôn giả Ànanda từ
xa đi đến, sau khi thấy, nói với Tôn giả Ànanda :
- Hiền giả là ai ?
- Thưa Hiền giả, tôi là Tỷ-kheo.
- Này Hiền già, thuộc về các Tỷ-kheo
nào ?
- Là Sa-môn Thích tử.
- Này Hiền giả, Hiền giả chúng
tôi muốn hỏi Hiền giả một vài vấn đề.
- Nếu Hiền giả cho tôi cơ hội để
trả lời câu hỏi, thì nay Hiền giả, hãy hỏi đi. Sau khi nghe, chúng tôi sẻ
được biết.
2. - Thưa Hiền giả, có phải :
"Thế giới là thường còn. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là
hư vọng, kiến là như vậy." Có phải không Hiền giả ?
- Thưa Hiền giả, tôi không có kiến
như vậy : " Thế giới là thường còn. Kiến này là sự thật, kiến
nào khác là hư vọng."
- Vậy có phải : "Thế giới
là vô thường. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng" ?
Kiến là như vậy, có phải không Hiền giả ?
- Thưa Hiền giả, tôi không có kiến
như vầy : "Thế giới là vô thường, kiến này là sự thật, kiến
nào khác là hư vọng :
- Có phải thưa Hiền giả : "Thế
giới là có biên tế... "Thế giới là không biên tế... "Sinh mạng
và thân thể là một... "Sinh mạng và thân thể là khác... "Như Lai
có tồn tại sau khi chết... "Như Lai không tồn tại sau khi chết...
"Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết... "Như Lai không
có tồn tại và không tồn tại sau khi chết... Kiến này là sự thật, kiến
nào khác là hư vọng" ? Kiến là như vậy, có phải không Hiền giả ?
- Thưa Hiền giả, tôi không có kiến
như vầy : "Như Lai không có tồn tại và không tồn tại sau khi chết.
Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng".
- Vậy thưa Hiền giả, Hiền giả
không biết, Hiền giả không thấy.
- Thưa Hiền giả, không phải tôi
không hết, không phải tôi không thấy. Thưa Hiền giả, tôi có biết, tôi
có thấy.
3. - Có phải thưa Hiền giả,
"Thế giới là thường còn. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là
hư vọng" ? Được hỏi vậy, Hiền giả nói : "Thưa Hiền giả, tôi
không có kiến như vậy : "Thế giới là thường còn. Kiến này là sự
thật, kiến nào là khác là hư vọng". Có phải thưa Hiền giả :
"Thế giới là vô thu7ờng. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư
vọng" ? ... "Thế giới là có biên tế... Thế giới là vô biên...
"Sinh mạng và thân thể là một... Sinh mạng và thân thể là khác...
"Như Lai có tồn tại sau khi chết... "Như Lai không có tồn tại sau
khi chết... "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết...
"Như Lai không có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Kiến này
là sự thật, kiến nào khác là hư vọng" ? Được hỏi vậy, Hiền giả
nói : "Thưa Hiền giả, tôi không có kiến như vầy : "Như Lai không
tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật, kiến
nào khác là hư vọng"" ? Vậy thưa Hiền giả : "Hiền giả không
biết, Hiền giả không thấy ? " Được hỏi vậy, Hiền giả nói :
"Thưa Hiền giả, không phải tôi không biết, không phải tôi không thấy.
Thưa Hiền giả : tôi có biết, tôi có thấy". Vậy thưa hiền giả,
"cần phải hiểu như thế nào, ý nghĩa lời nói này ? "
4. - "Thế giới là thường còn.
Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng". Thưa Hiền giả,
đây là tà kiến. "Thế giới là vô thường. Kiến này là sự thật,
kiến nào khác là hư vọng". Thưa Hiền giả, đây là tà kiến. "Thế
giới có biên tế... "Thế giới không biên tế... "Sinh mạng và
thân thể là một... "Sinh mạng và thân thể là khác... "Như Lai có
tồn tại sau khi chết... "Như Lai không có tồn tại sau khi chết...
"Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết... "Như Lai có
tồn tại và không không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật, kiến
nào khác là hư vọng". Thưa Hiền giả, đây là tà kiến. Thưa hiền giả,
xa cho đến như vậy là các tà kiến. Xa cho đến như vậy là kiến xứ, kiến
trú, kiến triền phược, kiến khởi, kiến diệt, tôi có biết điều ấy,
tôi có thấy điều ấy. Do tôi có biết điều ấy, tôi có thấy, tôi
không thấy" ! Thưa Hiền giả : "Tôi có biết, tôi có thấy".
- Hiền giả tên là gì ? Và như thế
nào các vị đồng Phạm hạnh biết Hiền giả ?
- Thưa Hiền giả, Ànanda là tên của
tôi. Và các vị đồng Phạm hạnh biết tôi là Ànanda.
- Ôi tôi đang nói chuyện với Tôn
giả Đại sư, mà tôi không biết là Tôn giả Ànanda. Nếu chúng tôi biết
là Tôn giả Ànanda, tôi đã không nói nhiều như vậy, mong Tôn giả Ànanda
tha lỗi
(VII) (97) ĐÁNG ĐẢNH LỄ.
1. - Thành tựu mười pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được
đảnh lễ, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời.
Thế nào là muời ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có giới sống chế ngự với sự chế ngự cửa giới bổn Pàtimokkha, đầy
đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận
và học tập trong học pháp.
3. Là vị nghe nhiều, thọ trì điều
đã nghe, cất chứa điều đã nghe. Các pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện, có nghĩa, có văn, tán thán đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên
mãn thanh tịnh, các pháp như vậy nghe hiểu, được thọ trì, được tụng
đọc bằng lời, được quán sát với ý, được khéo thể nhập với
chánh kiến.
4. Là người bạn với thiện, là
thân hữu với thiện thiết với thiện.
5. Có chánh kiến, thành tựu chánh
tri kiến.
6. Chứng được nhiều loại thần
thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân ; hiện
hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi ngang qua hư không
; độn thổ, trồi lên qua đất liền như ở trong nước ; đi trong nước
không chìm như đi trên đất liền ; ngồi kiết già du hành trên hư không
như con chim ; với bàn tay chạm rờ mặt trăng và mặt trời, những vật
có đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi
Phạm thiên.
7. Có thiên nhĩ thanh tịnh siêu
nhân, có thể nghe hai loại tiếng chư thiên và Loài Người, xa và gần.
8. Sau khi đi sâu vào tâm của cúng
sanh, của lời Người với tâm của mình, vị ấy được biết như sau :
"Tâm có tham biết là tâm có tham ; tâm không tham biết là tâm không
tham." "Tâm có sân biết là tâm có sân ; tâm không sân biết là
tâm không sân." "Tâm có si biết là tâm có si ; tâm không si biết
biết là tâm không si." "Tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú ;
tâm tán loạn biết là tâm tán loạn ; "Đại hành tâm biết là đại hành
tâm, không phải đạt hành tâm, biết là không phải đại hành tâm."
"tâm chưa vô thượng biết là tâm vô thượng." "Tâm Thiền định
biết là tâm không Thiền định." "Tâm giải thoát biết là tâm
tâm giải thoát ; tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát."
9. Vị ấy nhớ đến nhiều đời sống
quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười
đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một
trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại
kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều loại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng :
"Tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng
họ như thế này, giai cấp như thế
này, đồ ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến
mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh tại chỗ nạo.
Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như
thế này, đồ ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến
mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ở đây".
Như vậy, ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại
cương và các chi tiết.
10. Vị ấy với thiên nhãn thanh tịnh
siêu nhân, biết trí tuệ về sanh tử của chúng sanh, thấy sự sống và chết
của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao
sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều
do hạnh nghiệp của họ. Này các Hiền giả, những vị này, làm những ác
hạnh về thân, ngữ và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo
các nghiệp theo tà kiến. Những vị này, sau khi thân hoại mạng chung, phải
sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Hiền giả, còn những
chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, ngữ và ý, không phỉ báng
các bậc Thánh, theo chánh kiến tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người
này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời,
trên đời này. Như vậy, vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy
sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sang, người hạ
liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất
hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.
11. Do đoạn tận các lậu hoặc, vị
ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ chứng đạt,
và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Này các Tỷ-kheo, thành tựu mười
pháp này vị Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng
được đảnh lễ, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước
điền vô thượng ở đời.