- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 5f
- XIX. PHẨM RỪNG
(I) (181) RỪNG
1. - Có năm hạng người này sống
ở rừng. Thế nào là năm?
2. Hạng đần độn ngu si sống ở
rừng; hạng dục ác tánh sống ở rừng; hạng kiêu mạn loạn tâm sống
ở rừng; hạng ở rừng vì được nghe Thế Tôn và các đệ tử Phật tán
thán; hạng vì ít dục, vì biết đủ, vì đoạn giảm, vì viễn ly, vì cầu
thiện hành này sống ở rừng;
Này các Tỷ-kheo, có năm hạng người
này sống ở rừng.
3. Trong năm hạng người này sống
ở rừng, này các Tỷ-kheo, hạng sống ở rừng vì ít dục, vì biết đủ,
vì đoạn giảm, vì viễn ly, vì cầu thiện hành này sống ở rừng. Hạng
người này trong năm hạng người ấy là đệ nhất, là tối thắng, là thượng
thủ, là tối thượng, là tối diệu.
Ví như này các Tỷ-kheo, từ con bò
có sữa, từ sữa có lạc, từ lạc có sanh tô, từ sanh tô có thục tô, từ
thục tô có đề hồ. Đây được gọi là đệ nhất. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
trong năm hạng người này sống ở rừng, này các Tỷ-kheo, hạng sống ở
rừng vì ít dục, vì biết đủ, vì đoạn giảm, vì viễn ly, vì cầu thiện
hành này ăn từ bình bát. Hạng người này trong năm hạng người ấy là
đệ nhất, là tối thắng, là thượng thủ, là tối thượng, là tối diệu.
(II - IX) (182 - 189) CÁC HẠNG NGƯỜI
KHÁC
1. - Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
mặc y nhặt từ đống rác này...
2. Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
sống dưới gốc cây này...
3. Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
sống ở nghĩa địa này...
4. Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
sống ở ngoài trời này...
5. Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
ngồi không chịu nằm này...
6. Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
nằm bất cứ chỗ nào được mời này...
7. Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
chỉ ngồi ăn một lần này...
8. Này các Tỷ-kheo, năm hạng người
theo hạnh ăn xong, sau không ăn nữa...
(X) (190) ĂN TỪ BÌNH BÁT.
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm hạng
người ăn từ bình bát này. Thế nào là năm?
2. Hạng ngu si ăn từ bình bát; hạng
dục ác tánh ăn từ bình bát; hạng kiêu mạn loạn tâm ăn từ bình bát; hạng
ở rừng vì được nghe Thế Tôn và các đệ tử Phật tán thán; hạng vì
ít dục, vì biết đủ, vì đoạn giảm, vì viễn ly, vì cầu thiện hành
này ăn từ bình bát.
Này các Tỷ-kheo, có năm hạng người
ăn từ bình bát này.
3. Trong năm hạng người này ăn từ
bình bát này, này các Tỷ-kheo, hạng ăn từ bình bát vì ít dục, vì biết
đủ, vì đoạn giảm, vì viễn ly, vì cầu thiện hành này ăn từ bình
bát. Hạng người này trong năm hạng người ấy là đệ nhất, là tối thắng,
là thượng thủ, là tối thượng, là tối diệu.
Ví như này các Tỷ-kheo, từ con bò
có sữa, từ sữa có lạc, từ lạc có sanh tô, từ sanh tô có thục tô, từ
thục tô có đề hồ. Đây được gọi là đệ nhất. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
trong năm hạng người này ăn từ bình bát, này các Tỷ-kheo, hạng ăn từ
bình bát vì ít dục, vì biết đủ, vì đoạn giảm, vì viễn ly, vì cầu
thiện hành này ăn từ bình bát. Hạng người này trong năm hạng người
ấy là đệ nhất, là tối thắng, là thượng thủ, là tối thượng, là tối
diệu.
XX. PHẨM BÀ-LA-MÔN
(I) (191) VÍ DỤ CON CHÓ
1. Có năm cựu Bà-la-môn pháp này,
này các Tỷ-kheo, nay được thấy giữa các con chó, không được thấy giữa
các Bà-la-môn. Thế nào là năm?
2. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
nam Bà-la-môn chỉ đi đến nữ Bà-la-môn, không đến phi nữ Bà-la-môn.
Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các nam Bà-la-môn đi đến Bà-la-môn đi đến nữ
Bà-la-môn, cũng đi đến phi nữ Bà-la-môn. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các
con chó đực chỉ đi đến con chó cái, không đi đến không phải con chó
cái. Đây là cựu Bà-la-môn pháp thứ nhất, này các Tỷ-kheo, nay chỉ được
thấy giữa các loài chó, không thấy được giữa các Bà-la-môn.
2. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
nam Bà-la-môn chỉ đi đến nữ Bà-la-môn trong thời có thể thụ thai,
không có đi trong thời kỳ không thể thụ thai. Ngày nay, này các Tỷ-kheo,
các nam Bà-la-môn đi đến nữ Bà-la-môn trong thời có thể thụ thai và cũng
trong thời không thể thụ thai. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các con chó đực
chỉ đi đến con chó cái trong thời có thể thụ thai, không đi đến trong
thời kỳ không thể thụ thai. Đây là cựu Bà-la-môn pháp thứ hai, này
các Tỷ-kheo, nay chỉ được thấy giữa các loài chó, không thấy được
giữa các Bà-la-môn.
4. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
nam Bà-la-môn không mua, không bán nữ Bà-la-môn cọng trú trong tình tương
ái, tiếp tục trong sự thuận hòa. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các nam
Bà-la-môn mua và bán nữ Bà-la-môn, cọng trú trong tình ái, tiếp tục trong
sự thuận hòa. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các con chó đực không mua, không
bán con chó cái cọng trú trong tình tương ái, tiếp tục trong sự thuận
hòa. Đây là cựu Bà-la-môn pháp thứ ba, này các Tỷ-kheo, nay chỉ được
thấy giữa các loài chó, không thấy được giữa các Bà-la-môn.
5. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
Bà-la-môn không cất chứa tài sản, ngũ cốc, bạc và vàng. Ngày nay, này
các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn cất chứa tài sản, ngũ cốc, bạc và vàng.
Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các loài chó không cất chứa tài sản, ngũ cốc,
bạc và vàng. Đây là cựu Bà-la-môn pháp thứ tư, này các Tỷ-kheo, nay chỉ
được thấy giữa các loài chó, không được thấy giữa các Bà-la-môn.
6. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
Bà-la-môn vào buổi chiều tìm đồ ăn buổi chiều, vào buổi sáng tìm đồ
ăn buổi sáng. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn ăn cho đến no nê
thỏa bụng, rồi lấy các đồ ăn còn lại và mang đi. Ngày nay, này các Tỷ-kheo,
các con chó, vào buổi chiều tìm đồ ăn buổi chiều, vào buổi sáng tìm
đồ ăn buổi sáng. Đây là cựu Bà-la-môn pháp thứ năm, này các Tỷ-kheo,
nay chỉ được thấy giữa các loài chó, không được thấy giữa các
Bà-la-môn.
Năm cựu Bà-la-môn pháp này, này
các Tỷ-kheo, nay được thấy giữa các loài chó, không được thấy giữa
các Bà-la-môn.
(II) (192) BÀ-LA-MÔN DONA
1. Rồi Bà-la-môn Dona đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Dona bạch Thế Tôn:
2. - Thưa Tôn giả Gotama, tôi có
nghe như sau: "Sa-môn Gotama không đảnh lễ, hay không đứng dậy, hay không
mời ghế các vị Bà-la-môn già yếu, tuổi lớn, trưởng lão, đời đã
được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời." Thưa Tôn giả
Gotama, sự thể là như vậy; Tôn giả Gotama không đảnh lễ, hay không đứng
dậy, hay không mời ghế các vị Bà-la-môn già yếu, tuổi lớn, trưởng lão,
đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời. Như vậy,
thưa Tôn giả Gotama, thật là không tốt đẹp.
- Này Dona, Ông có tự cho mình là
Bà-la-môn không?
- Thưa Tôn giả Gotama, nếu có ai
nói một cách chân chánh, vị ấy phải nói rằng: "Vị Bà-la-môn thiện
sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề huyết thống
thọ sanh; là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với
danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ
năm, thông hiểu pháp và văn phạm, biện tài về thuận thế (tự nhiên học)
và tướng của vị Đại nhân". Thưa Tôn giả Gotama, nói về tôi, nói
một cách chơn chánh là nói như vầy. Thưa Tôn giả Gotama, tôi là
Bà-la-môn, thiện sanh cả từ mẫu hệ đến phụ hệ, huyết thống thanh tịnh
cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha nào về
vấn đề huyết thống thọ sanh; là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu
ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử
truyền thống là thứ năm, thông hiểu pháp và văn phạm, biện tài về thuận
thế và tướng của vị Đại nhân.
- Này Dona, có phải các vị
Bà-la-môn thời xưa, những vị ẩn sĩ giữa các Bà-la-môn, những tác giả
các chú thuật, những nhà tụng tán các chú thuật đã hát, đã nói lên,
đã sưu tầm những Thánh cú mà nay những Bà-la-môn hiện tại cũng hát
lên, nói lên, đọc lên giống như các vị tước đã làm? Những vị ẩn sĩ
ấy tên là Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamadaggi, Angìrasa, Bharadvàja,
Vàsettha, Kassapa, Bhagu. Những vị ấy tuyên bố có năm hạng Bà-la-môn này:
"Đồng đẳng với Phạm thiên, đồng đẳng với chư Thiên, các vị biết
giới hạn, các vị vượt lên giới hạn và thứ năm là Bà-la-môn bị vứt
bỏ". Này Dona, Ông là ai giữa các vị ấy?
- Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi
không biết năm vị Bà-la-môn này. Nhưng chúng tôi biết chúng tôi là
Bà-la-môn. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho tôi để tôi biết
được năm vị Bà-la-môn này.
- Vậy này Bà-la-môn, hãy nghe và
khéo tác ý, ta sẽ nói.
- Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Dona vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
3. - Thế nào, này Dona, là
Bà-la-môn đồng đẳng với Phạm Thiên?
Ở đây, này Dona, vị Bà-la-môn thiện
sanh cả từ mẫu hệ đến phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy
đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề huyết
thống thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập
chân ngôn (chú thuật). Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học
tập chân ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Đạo Sư cho bậc Đạo Sư một
cách đúng pháp, không phải phi pháp. Ở đây, này Dona, pháp là gì? Không
phải nhờ cày bừa, không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò,
không phải do cung tên, không phải do làm người của vua, không phải do một
nghề gì khác, hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường bình bát của
người khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Đạo sư, sau khi cạo bỏ râu
tóc, đắp áo cà sà, vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Vị ấy xuất gia như vậy, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ,
cũng vậy, phương thứ hai, cũng vậy, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy
phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết
thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với
tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Với
tâm câu hữu với bi... với hỷ... với xả. Cũng vậy phương thứ hai,
cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế
giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới,
vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xã, quảng đại, vô biên,
không hận, không sân. Vị ấy, sau khi tụ tập bốn phạm trú này, khi thân
hoại mạng chung, được sanh thiện phú Phạm thiên giới. Như vậy, này
Dona, là vị Bà-la-môn đồng đẳng với Phạm Thiên.
4. Và này Dona, thế nào là
Bà-la-môn đồng đẳng với Chư Thiên?
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện
sanh cả tử mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết thống
thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập châm
ngôn. Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học tập chân
ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Đạo Sư cho vị Đạo Sư một cách đúng
pháp, không phải phi pháp. Ở đây, này Dona, pháp là gì? Không phải nhờ
cày bừa, không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò, không phải
do cung tên, không phải do làm người của vua, không phải do một nghề gì
khác, hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường bình bát của người
khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy đi tìm
vợ một cách đúng pháp, không phải phi pháp. Và này Dona, ở đây, pháp
là gì? Không phải do mua, không phải do bán, nhưng chỉ với một nữ Bà-la-môn
đã được nước tưới lên, vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn, không đi đến
nữ sát-đế-ly, nữ Tỳ-xá, nữ Thủ-đà, nữ Chiên-đà-la, nữ săn bắn,
nữ đan tre, nữ làm xe, nữ thổ dân, không đi đến người đàn bà có
mang, không đi đến người đàn bà cho con bú, không đi đến người đàn
bà trong thời kỳ không thể thụ thai. Và này Dona, vì sao người Bà-la-môn
không đi đến người đàn bà có mang? Này Dona, nếu người Bà-la-môn đi
đến người đàn bà có mang, thời đứa đồng nam hay đồng nữ được
sanh hoàn toàn bị ô uế; do vậy, này Dona, vị Bà-la-môn không đi đến
người đàn bà có mang. Và vì sao, này Dona, Bà-la-môn không đi đến người
đàn bà cho con bú? Này Dona, nếu Bà-la-môn đi đến người đàn bà cho con
bú, thời này Dona, đứa đồng nam hay đồng nữ bú sữa không được thanh
tịnh; do vậy, này Dona, vị Bà-la-môn không đi đến người đàn bà cho con
bú. Và vì sao, này Dona, Bà-la-môn không đi đến người đàn bà trong thời
kỳ không thể thụ thai? Này Dona, nếu vị Bà-la-môn đi đến người đàn
bà trong thời không thể thụ thai, thời nữ Bà-la-môn ấy trở thành một
phương tiện để thỏa lòng dục, để vui đùa, để thỏa thích. Nữ
Bà-la-môn đối với nam Bà-la-môn chỉ có mục đích đẻ con. Vị ấy từ
dâm dục (đúng pháp) sinh con rồi, liền cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa,
xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vị ấy xuất gia như vậy,
ly dục, ly pháp bất thiện... chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy,
sau khi tu tập bốn Thiền, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi
lành, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy, này Dona, là Bà-la-môn đồng đẳng
với chư Thiên.
5. Và thế nào, này Dona, là một
Bà-la-môn có giới hạn?
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện
sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết thống
thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập chân
ngôn. Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học tập chân
ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Đạo Sư cho vị Đạo Sư một cách đúng
pháp, không phải phi pháp. Ở đây, này Dona, pháp là gì? Không phải nhờ
cày bừa, không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò, không phải
do cung tên, không phải do làm người của vua, không phải do một nghề gì
khác, hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường bình bát của người
khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy đi tìm
vợ một cách đúng pháp, không phải phi pháp. Và này Dona, ở đây, pháp
là gì? Không phải do mua, không phải do bán, nhưng chỉ với một nữ Bà-la-môn
đã được nước tưới lên, vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn, không đi đến
nữ sát-đế-ly, nữ Tỳ-xá, nữ Thủ-đà, nữ Chiên-đà-la, nữ săn bắn,
nữ đan tre, nữ làm xe, nữ thổ dân, không đi đến người đàn bà có
mang, không đi đến người đàn bà cho con bú, không đi đến người đàn
bà trong thời kỳ không thể thụ thai. Và này Dona, vì sao người Bà-la-môn
không đi đến người đàn bà có mang? Này Dona, nếu vị Bà-la-môn đi đến
người đàn bà có mang...(như trên)...Nữ Bà-la-môn đối với nam Bà-la-môn
chỉ có mục đích đẻ con. Vị ấy từ dâm dục (đúng pháp) sinh con rồi,
do ưa thích con nít, sống trong gia đình, không xuất gia từ bỏ gia đình.
Cho đến sự giới hạn của các Bà-la-môn thời xưa, vị ấy đứng tại
đấy, không vượt qua giới hạn ấy. Cho đến giới hạn của các
Bà-la-môn thời xưa, vị ấy đứng ở đấy, không vượt qua giới hạn ấy.
Này Dona, do vậy Bà-la-môn được gọi là có giới hạn. Như vậy, này
Dona, là Bà-la-môn có giới hạn.
6. Và này Dona, thế nào là một
Bà-la-môn vượt qua giới hạn?
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện
sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ... về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị
ấy trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập chân ngôn. Sau khi sống
48 năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học tập chân ngôn, vị ấy tìm kiếm
tài sản Đạo Sư cho vị Đạo Sư một cách đúng pháp, không phải phi
pháp. Ở đây, này Dona, pháp là gì? Không phải nhờ cày bừa, không phải
nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò, không phải do cung tên, không phải
do làm người của vua, không phải do một nghề gì khác, hoàn toàn chỉ do
khất thực, không khinh thường bình bát của người khất sĩ. Sau khi giao lại
tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy đi tìm vợ một cách đúng
pháp và phi pháp. Do mua, do bán với nữ Bà-la-môn được nước tưới lên,
vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn, cũng đi đến nữ sát-đế-ly, cũng đi đến
nữ Tỳ-xá, cũng đi đến nữ Thủ-đà, cũng đi đến nữ Chiên-đà-la, cũng
đi đến nữ săn bắn, cũng đi đến nữ đan tre, cũng đi đến nữ làm xe,
cũng đi đến nữ thổ dân, cũng đi đến người đàn bà có mang, cũng đi
đến người đàn bà cho con bú, cũng đi đến người đàn bà trong thời kỳ
không thể thụ thai. Nữ Bà-la-môn đối với vị ấy là phương tiện để
thỏa lòng dục, để vui đùa, để thỏa thích. Nữ Bà-la-môn đối với
nam Bà-la-môn có mục đích đẻ con. Cho đến sự giới hạn của các
Bà-la-môn thời xưa, vị ấy không đứng tại đấy, vị ấy vượt qua giới
hạn ấy. Cho đến giới hạn của các Bà-la-môn thời xưa, vị ấy không
đứng ở đấy, vị ấy vượt qua giới hạn ấy. Này Dona, do vậy
Bà-la-môn được gọi vị đã vượt qua giới hạn. Như vậy, này Dona, là
Bà-la-môn vượt qua giới hạn.
7. Và này Dona, thế nào là
Bà-la-môn Chiên-đà-la?
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện
sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết thống
thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập chân
ngôn. Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học tập chân
ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Đạo Sư cho vị Đạo Sư một cách đúng
pháp và phi pháp. Ở đây, này Dona, pháp là gì? Không phải nhờ cày bừa,
không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò, không phải do cung tên,
không phải do làm người của vua, không phải do một nghề gì khác, hoàn
toàn chỉ do khất thực, không khinh thường bình bát của người khất sĩ.
Sau khi giao lại tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy đi tìm vợ một
cách đúng pháp và phi pháp. Do mua, do bán với nữ Bà-la-môn được nước
lên, vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn, cũng đi đến nữ sát-đế-ly, cũng
đi đến nữ Tỳ-xá, cũng đi đến nữ Thủ-đà, cũng đi đến nữ Chiên-đà-la,
cũng đi đến nữ săn bắn, cũng đi đến nữ đan tre, cũng đi đến nữ làm
xe, cũng đi đến nữ thổ dân, cũng đi đến người đàn bà có mang, cũng
đi đến người đàn bà cho con bú, cũng đi đến người đàn bà trong thời
kỳ không thể thụ thai. Nữ Bà-la-môn đối với vị ấy là phương tiện
để thỏa lòng dục, để vui đùa, để thỏa thích. Nữ Bà-la-môn đối với
nam Bà-la-môn có mục đích đẻ con. Vị ấy để nuôi mạng sống, làm tất
nghề. Rồi các Bà-la-môn nói với vị ấy như sau: "Sao Tôn giả tự
cho mình là Bà-la-môn, lại làm tất cả nghề để nuôi mạng sống?" Vị
ấy trả lời như sau: "Như lửa đốt vật sạch, cũng đốt vật nhớp,
nhưng không phải vì vậy mà ngọn lửa bị uế nhiễm". Cũng vậy, này
các Tôn giả, nếu Bà-la-môn làm tất cả nghề để nuôi mạng sống, nhưng
không phải vì vậy mà Bà-la-môn bị uế nhiễm. Vì làm tất cả nghề để
nuôi mạng sống, này Dona, nên Bà-la-môn được gọi là Bà-la-môn Chiên-đà-la.
Như vậy, này Dona, là Bà-la-môn Chiên-đà-la.
8. Này Dona, có phải các Bà-la-môn
thời xưa, những vị ẩn sĩ giữa các Bà-la-môn, những tác giả các chú
thuật, những nhà tụng tán các chú thuật đã hát, đã nói lên, đã sưu tầm
những Thánh cú mà nay, những Bà-la-môn hiện tại cũng hát lên, đọc lên
giống như các vị trước đã làm. Những vị ấy tên là Atthaka, Vàmaka,
Vàmadeva, Vessàmitta, Yamadaggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu. Những
vị ấy tuyên bố có năm hạng Bà-la-môn này: "Vị đồng đẳng với
Phạm thiên, vị đồng đẳng với chư Thiên, các vị có giới hạn, các vị
vượt lên giới hạn và thứ năm là Bà-la-môn Chiên-đà-la". Này Dona,
Ông là ai giữa các vị ấy?
- Như vậy, thưa Tôn giả Gotama,
chúng con chưa thành tựu đầy đủ Bà-la-môn Chiên-đà-la. Thật vi diệu
thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama!... Mong Tôn giả
Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ. Từ nay cho đến mạng chung con trọn đời
quy ngưỡng.
(III) (193) BÀ-LA-MÔN SANGÀRAVA
1. Rồi Bà-la-môn Sangàrava đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Sangàrava thưa với Thế Tôn:
2. - Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn
giả Gotama, có khi các chú thuật học thuộc lòng lâu ngày (đọc tụng) lại
không thể nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật không được học
thuộc lòng? Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Gotama, có khi các chú thuật
không học thuộc lòng lâu ngày (đọc tụng) lại nhớ lên được, còn nói
gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
3. - Này Bà-la-môn, khi trú với tâm
bị dục tham xâm chiếm, bị dục tham chi phối, và không như thật biết rõ
sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như
thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết
và thấy lợi ích cả hai, cho nên các chú thuật được học thuộc lòng
lâu ngày lại không thể nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật không
được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
trộn lẫn với thuốc nhuộm gôm lặc, hay màu đỏ tía, hay màu xanh hay màu
vàng và ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía bóng mặt của
mình, không có thể như thật biết được, thấy được. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị dục tham xâm chiếm, bị dục tham chi
phối, không như thật rõ biết sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên;
trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của mình;
trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi
ấy, không như thật biết và thấy được lợi ích của cả hai, cho nên
các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không nhớ lên được,
còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng!
4. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị sân xâm chiếm, bị sân chi phối, không như thật biết sự xuất
ly khỏi sân đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như thật biết và
thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi
ích của người; trong khi ấy, không như thật biết và thấy được lợi
ích của cả hai, cho nên các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại
không thể nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật không được học
thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
được lửa đun sôi, sôi lên sùng sục, sôi lên cuồn cuộn. Ở đây, một
người có mắt muốn ngắm nghía bóng mặt của mình, không thể như thật
biết và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị
sân xâm chiếm...cho nên các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại
không nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc
lòng!
5. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, bị hôn trầm thụy miên chi
phối, không như thật biết sự xuất ly khỏi hôn trầm thụy miên, đã khởi
lên; trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của
mình; trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của người;
trong khi ấy, không như thật biết và thấy được lợi ích của cả hai,
cho nên các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ
lên được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
bị rong rêu che phủ. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn
mặt của mình, không thể như thật biết được. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị dục tham xâm chiếm... còn nói gì các
chú thuật không được học thuộc lòng!
6. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị trạo hối xâm chiếm, bị trạo hối chi phối, không như thật
biết sự xuất ly khỏi trạo hối đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy
không như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không như
thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết
và thấy được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật được học
thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ lên được, còn nói gì các chú
thuật không được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
bị gió thổi, dao động, chấn động, nổi sóng. Ở đây, một người có
mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của mình, không thể như thật biết được
và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị trạo
hối xâm chiếm... còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng!
7. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị nghi hoặc xâm chiếm, bị nghi hoặc chi phối, không như thật
biết sự xuất ly khỏi nghi hoặc đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy
không như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không như
thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết
và thấy được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật được học
thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ lên được, còn nói gì các chú
thuật không được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
bị khuấy động, khuấy đục, khuấy bùn, đặt trong bóng tối. Ở đây, một
người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của mình, không thể như thật
biết được và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với
tâm bị nghi hoặc xâm chiếm... còn nói gì các chú thuật không được học
thuộc lòng!
8. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị dục tham xâm chiếm, bị dục tham chi phối, không như thật biết
sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như
thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không như thật biết
và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết và thấy
được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật không được học thuộc
lòng lâu ngày lại được nhớ lên, còn nói gì các chú thuật đã được
học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
không bị trộn lẫn với thuốc nhuộm hoặc gôm lặc, hay màu đỏ tía, hay
màu xanh, hay màu vàng, và ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía
khuôn mặt của mình, có thể như thật biết được và thấy được. Cũng
vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị dục tham xâm chiếm...
còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
8. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm không bị sân xâm chiếm... còn nói gì các chú thuật đã được
học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
không bị lửa đun sôi, không sôi lên sùng sục, không nổi lên cuồn cuộn.
Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của mình, có thể
như thật biết được và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi
trú với tâm không bị sân xâm chiếm, không bị sân chi phối... còn nói
gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
10. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi
trú với tâm không bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, không bị hôn trầm
thụy miên chi phối... còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
không bị rong rêu che phủ. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía
khuôn mặt của mình, có thể như thật biết được và thấy được. Cũng
vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị hôn trầm thụy miên
xâm chiếm, không bị hôn trầm thụy miên chi phối... còn nói gì các chú
thuật đã được học thuộc lòng!
11. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi
trú với tâm không bị trạo hối xâm chiếm, không bị trạo hối chi phối...
còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
không bị gió thổi, không bị dao động, không bị chấn động, không bị
nổi sóng. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của
mình, có thể như thật biết được và thấy được. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị trạo hối miên xâm chiếm, không
bị trạo hối chi phối... còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc
lòng!
12. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi
trú với tâm không bị nghi hoặc xâm chiếm, không bị nghi hoặc chi phối...
còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
bị khuấy động, đặt giữa ánh sáng. Ở đây, một người có mắt muốn
ngắm bóng mặt của mình, có thể như thật biết và thấy được. Cũng vậy,
này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị nghi hoặc xâm chiếm, không bị
nghi hoặc chi phối và như thật biết sự xuất ly ra khỏi nghi hoặc đã khởi
lên; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy
như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật biết
và thấy lợi ích cả hai. Cho nên các chú thuật không được học thuộc lòng
lâu ngày được nhớ lên, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc
lòng!
Đây là nhân, đây là duyên, này
Bà-la-môn, có khi các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày, lại
có thể nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc
lòng!
13. Khi được nói vậy, Bà-la-môn
Sangàrava bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn...từ này cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(IV) (194) BÀ-LA-MÔN KÀRANAPÀLI
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Vesàlì, tại Mahàvana, chỗ giảng đường có nóc nhọn. Lúc bấy giờ,
Bà-la-môn Kàranapàli đang xây dựng nhà cho Licchavì. Bà-la-môn Kàranapàli thấy
Bà-la-môn Pingiyàni từ đường xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với
Bà-la-môn Karanapàli:
- Tôn giả Pingiyàni đi từ đâu đến
sớm như vậy?
- Thưa Tôn giả, tôi đi từ chỗ
Sa-môn Gotama về.
- Tôn giả Pingiyàni nghĩ thế nào về
trí tuệ sáng suốt của Sa-môn Gotama? Ngài có nghĩ vị ấy là một bậc Hiền
trí chăng?
- Tôi là ai, thưa Tôn giả, lại có
thể biết được trí tuệ sáng suốt của Sa-môn Gotama. Chỉ có ai như vị
ấy, mới có thể biết được trí tuệ sáng suốt của Sa-môn Gotama.
Thật là cao thượng lời Tôn giả
Pingiyàni tán thán Sa-môn Gotama. "Tôi là ai, thưa Tôn giả, lại có nói
lời tán thán Sa-môn Gotama". Được tán thán bởi những bậc được tán
thán là Tôn giả Gotama, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người. Tôn
giả Pingyiàni thấy những lợi ích gì lại cực lực tin tưởng Sa-môn
Gotama như vậy?
- Thưa Tôn giả, ví như một người
đã thỏa mãn với vị ngọt tối thượng sẽ không còn thèm muốn các vị
ngọt hạ liệt khác. Cũng vậy, thưa Tôn giả, khi đã nghe pháp của Tôn giả
Gotama, như Khế kinh, Phúng tụng, Ký thuyết, Vị tằng hữu pháp.., thời
không còn thèm muốn các lý thuyết của những người khác, của các
Sa-môn, Bà-la-môn thấp kém. Ví như, thưa Tôn giả, một người bị đói lả
và mệt mỏi, tìm được một bánh mật, cứ mỗi miếng vị ấy được nếm,
cứ mỗi miếng vị ấy được thưởng thức vị ngọt thuần nhất. Cũng vậy,
thưa Tôn giả, khi đã được nghe pháp của Tôn giả Gotama, như Khế kinh,
Phúng tụng, Ký thuyết, Vị tằng hữu pháp...vị ấy được hoan hỷ, tâm
được tịnh tín. Ví như, thưa Tôn giả, một người tìm được một cành
cây chiên-đàn, chiên-đàn vàng hay chiên-đàn đỏ, chỗ nào người ấy ngửi
hoặc từ nơi rễ, hoặc từ nơi chặng giữa, hoặc từ nơi ngọn, người
ấy được hương thơm thuần diệu. Cũng vậy, thưa Tôn giả, khi đã được
nghe pháp của Tôn giả Gotama, như Khế kinh, Phúng tụng, Ký thuyết, Vị tằng
hữu pháp...thời vị ấy được thưởng thức hân hoan, được thưởng thức
hoan hỷ. Ví như, thưa Tôn giả, một người bị bệnh, khổ đau, bị trọng
bệnh, rồi có vị lương y lập tức chữa cho khỏi bệnh. Cũng vậy, thưa
Tôn giả, khi đã được nghe pháp của Tôn giả Gotama, như Khế kinh, Phúng
tụng, Ký thuyết, Vị tằng hữu pháp...khi ấy, sầu bi khổ ưu não đi đến
tiêu diệt. Ví như, thưa Tôn giả, một hồ sen, có nước trong, có nước
ngọt, có nước mát, có nước mát trong, có bờ hồ khéo sắp đặt, đẹp
đẽ, rồi một người đi đến, bị nóng nhiệt não, bị nóng bức bách, mệt
mỏi, thèm uống nước, khát nước. Người ấy, sau khi lặn xuống trong hồ
sen ấy, sau khi tắm rửa, uống nước, tất cả khổ cực mệt mỏi, nhiệt
não đều được lắng dịu. Cũng vậy, thưa Tôn giả, khi đã được nghe
pháp của Tôn giả Gotama, như Khế kinh, Phúng tụng, Ký thuyết, Vị tằng hữu
pháp...khi ấy tất cả khổ cực, mệt mỏi, nhiệt não đều được chỉ tức.
2. Khi được nói vậy, Bà-la-môn
Karanapàli từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y qua một bên vai, đầu
gối bên phải quỳ trên mặt đất, chắp tay hướng đến Thế Tôn, và ba
lần thốt lên lời cảm hứng sau đây:
- Đảnh lễ Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác! Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác! Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!
- Thật vi diệu thay, Tôn giả
Pingiyàni! Thật vi diệu thay, Tôn giả Pingiyàni! Thưa Tôn giả Pingiyàni, như
người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những
gì bị che kín, chỉ đường cho những kẻ đi lạc hướng, đem đèn sáng
vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh
pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Thưa
Tôn giả Pingiyàni, con nay xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và chúng Tỷ-kheo.
Tôn giả Pingyàni hãy chấp nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng
chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(V) (195) BÀ-LA-MÔN PINGIYÀNI
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Vesàlì, tại Mahàvana, chỗ giảng đường có nóc nhọn, có khoảng 500 người
Licchavi hầu hạ Thế Tôn. Một số người Licchavi toàn xanh, màu sắc xanh,
mặc vải màu xanh, mang đồ trang sức màu xanh. Một số người Licchavi toàn
vàng, màu sắc vàng, mặc vải màu vàng, mang đồ trang sức màu vàng. Một
số người Licchavi toàn đỏ, màu sắc đỏ, mặc vải màu đỏ, mang đồ
trang sức màu đỏ. Một số người Licchavi toàn trắng, màu sắc trắng, mặc
vải màu trắng, mang đồ trang sức màu trắng. Nhưng thật sự Thế Tôn đã
chói sáng với dung sắc và sự huy hoàng. Rồi Bà-la-môn Pingiyàni từ chỗ
ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng đến
Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
- Điều này được nói lên cho con,
bạch Thế Tôn! Điều này được nói lên cho con, bạch Thế Tôn!
- Hãy nói lên, này Pingiyàni!
Thế Tôn nói như vậy. Rồi Bà-la-môn
Pingiyàni trước mặt Thế Tôn, nói lên bài kệ thích đáng:
Như loại hoa sen hồng,
Buổi sáng hương ngào ngạt,
Khi đóa hoa càng nở,
Hương thơm càng ngát hương.
Xem Angìrasa,
Chiếu hào quang sáng chói,
Chói sáng thật rực rỡ,
Như mặt trời trên không.
Rồi các người Licchavi ấy đem 500
thượng y dâng đắp cho Bà-la-môn Pingiyàni. Và Bà-la-môn Pingiyàni đem 500
thượng y ấy dâng đắp cho Thế Tôn. Thế Tôn nói với các vị ấy:
2. - Này các Licchavì, sự xuất hiện
của năm châu báu khó tìm được ở đời. Thế nào là năm?
3. Sự xuất hiện của Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khó tìm được ở đời. Người thuyết được
Pháp Luật do Như Lai tuyên bố khó tìm được ở đời. Người hiểu được
Pháp Luật do Như Lai tuyên bố khó tìm được ở đời. Người thực hành
pháp và tùy pháp, sau khi đã hiểu rõ lời thuyết giảng về Pháp và Luật
do Như Lai tuyên thuyết, khó tìm được ở đời. Người biết ơn, nhớ ơn
khó tìm được ở đời.
Này các Licchavi, sự xuất hiện của
năm loại châu báu này khó tìm được ở đời.
(VI) (196) MỘNG
1. - Trước khi Như Lai, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, này các Tỷ-kheo, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát, có năm mộng lớn hiện ra. Thế nào là năm?
2. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy đất lớn này là giường lớn, Tuyết
sơn, vua các loài núi là các gối, tay trái đặt nằm trên biển phía Đông,
tay mặt nằm trên biển phía Tây, hai chân nằm trên biển phía Nam. Trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát, mộng lớn thứ nhất này được hiện ra.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát mộng thấy từ nơi lỗ rún, cỏ tiriya mọc ra,
mọc cho đến khi chạm đến trời rồi mới dừng lại. Trước khi Như Lai,
bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng giác,
còn là Bồ-tát, mộng lớn thứ hai này được hiện ra.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát mộng thấy các con sâu trắng, đầu đen, bò ra
từ chân cho đến đầu gối và che đậy chúng. Trước khi Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng giác, còn
là Bồ-tát, mộng lớn thứ ba này được hiện ra.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát mộng thấy bốn con chim màu sắc khác nhau, từ
bốn phương bay đến, rơi xuống chân Ngài và trở thành trắng toát. Trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát, mộng lớn thứ tư này được hiện ra.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát mộng thấy Ngài đi kinh hành qua lại trên hòn
núi đầy phân, nhưng không bị nhớp vì phân. Trước khi Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng giác, còn
là Bồ-tát, mộng lớn thứ năm này được hiện ra.
7. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy quả đất lớn này làm giường nằm lớn,
núi Tuyết sơn, vua các loài núi làm các gối, tay trái đặt nằm trên biển
phía Đông, tay mặt nằm trên biển phía Tây, hai chân đặt nằm trên biển
phía Nam. Này các Tỷ-kheo, đối với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
Ngài chứng được Vô thượng Chánh giác ngộ, Chánh Đẳng Giác. Trong khi
Ngài Chánh Đẳng giác ngộ, mộng lớn thứ nhất này được hiện ra.
8. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy từ nơi lỗ rún, cỏ tiriya mọc ra, mọc
cho đến khi chạm đến trời rồi mới dừng lại. Này các Tỷ-kheo, đối
với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Thánh đạo tám ngành được
hoàn toàn giác ngộ và khéo tuyên bố cho chư Thiên và loài Người. Trong
khi Ngài chánh giác ngộ, mộng lớn thứ hai này được hiện ra.
9. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy các con sâu trắng, đầu đen, bò ra từ
chân cho đến đầu gối và che đậy chúng. Này các Tỷ-kheo, nhiều gia chủ
bận áo trắng quy y Như Lai cho đến trọn đời. Trong khi Ngài chánh giác ngộ,
mộng lớn thứ ba này được hiện ra.
10. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy bốn con chim màu sắc khác nhau, từ bốn
phương bay đến, rơi xuống chân Ngài và trở thành trắng toát. Bốn giai cấp
này, này các Tỷ-kheo, Sát-đế-ly, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, sau khi xuất
gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai tuyên
thuyết, các vị ấy chứng ngộ vô thượng giải thoát. Trong khi Ngài chánh
giác ngộ, mộng lớn thứ tư này được hiện ra.
11. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy Ngài đi kinh hành qua lại trên hòn núi đầy
phân, nhưng không bị nhớp vì phân. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn được các
vật dụng cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị
bệnh. Và ở đây, Như Lai thọ hưởng không bị trói buộc không bị tham
đắm, không bị mê say, thấy sự nguy hại có trí tuệ và xuất ly. Trong
khi Ngài chánh giác ngộ, mộng lớn thứ năm này được hiện ra.
Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, trước khi thành
Chánh Đẳng Giác, còn là Bồ-tát năm mộng lớn này được hiện ra.
(VII) (197) MƯA
1. - Có năm chướng ngại cho mưa này,
các người đoán tướng không biết được, ở đây, mắt của những người
đoán tướng không thể kham nhẫn. Thế nào là năm?
2. Trên hư không, này các Tỷ-kheo,
hỏa giới phẫn nộ, do vậy các mây đã khởi lên bị tán loạn. Này các
Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ nhất cho mưa, các người đoán tướng
không biết được, ở đây mắt của những người đoán tưởng không thể
kham nhẫn.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trên
hư không, phong giới phẫn nộ, do vậy các mây đã khởi lên bị tán loạn.
Này các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ hai cho mưa, các người đoán tướng
không biết được, ở đây mắt của những người đoán tưởng không thể
kham nhẫn.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Ràhu, vua các loài A-tu-la dùng tay thây lấy nước rồi đổ xuống biển lớn.
Này các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ ba cho mưa, các người đoán tướng
không biết được, ở đây mắt của những người đoán tưởng không thể
kham nhẫn.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, chư
Thiên của các loại mây đem mưa trở thành biếng nhác. Đây là chướng ngại
thứ tư cho mưa, các người đoán tướng không biết được, ở đây mắt
của những người đoán tưởng không thể kham nhẫn.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi
loài Người trở thành phi pháp, này các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ
năm cho mưa, các người đoán tướng không biết được, ở đây mắt của
những người đoán tưởng không thể kham nhẫn.
Này các Tỷ-kheo, có năm chướng ngại
cho mưa này, các người đoán tướng không biết được, ở đây mắt của
những người đoán tưởng không thể kham nhẫn.
(VIII) (198) LỜI NÓI
1. - Thành tựu năm chi phần, này
các Tỷ-kheo, các lời là thiện thuyết, không phải ác thuyết, không có phạm
tội và không bị những người có trí chỉ trích. Thế nào là năm?
2. Nói đúng thời, nói đúng sự thật,
nói lời nhu hòa, nói lời liên hệ đến lợi ích, nói với lời từ tâm.
Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ-kheo,
các lời là thiện thuyết, không phải ác thuyết, không có phạm tội và
không bị những người có trí chỉ trích.
(IX) (199) GIA ĐÌNH
1. - Khi nào, này các Tỷ-kheo, các
người xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, tại đấy các người
do năm trường hợp, được nhiều công đức. Thế nào là năm?
2. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các người
xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, các người sau khi thấy họ tâm
được tịnh tín. Này các Tỷ-kheo, như vậy là đưa đến cõi Trời, và
gia đình ấy trong lúc ấy đã bước được trên con đường ấy.
3. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các người
xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, các người đứng dậy, đảnh
lễ họ, mời họ ngồi. Này các Tỷ-kheo, như vậy đưa đến được sanh vào
các gia đình cao sang, và gia đình ấy trong lúc ấy đã bước được trên
con đường ấy.
4. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các người
xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, các người từ bỏ cấu uế của
xan tham. Này các Tỷ-kheo, như vậy đưa đến đại uy lực, và gia đình ấy
trong lúc ấy, đã bước được trên con đường ấy.
5. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các người
xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, các người tùy theo khả năng,
tùy theo năng lực, san sẻ vật bố thí. Này các Tỷ-kheo, như vậy đưa đến
tài sản lớn, và gia đình ấy trong lúc ấy đã bước được trên con đường
ấy.
6. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các người
xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, các người hỏi những câu hỏi,
đặt những câu hỏi, nghe pháp. Này các Tỷ-kheo, như vậy đưa đến đại
trí tuệ, và gia đình ấy trong lúc ấy đã bước được trên con đường
ấy.
Khi nào, này các Tỷ-kheo, các người
xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, tại đấy các người do năm
trường hợp này được nhiều công đức.
(X) (200) XUẤT LY
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm giới
đưa đến xuất ly này. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ý về dục tâm không phấn chấn trong các dục, không tịnh tín, không
an trú, không quyết định. Nhưng khi tác ý đến viễn ly, tâm liền phấn
chấn trong viễn ly, được tịnh tín, được an trú, được quyết định.
Tâm ấy của vị ấy là khéo làm, khéo tụ tập, khéo tăng trưởng, khéo
giải thoát, khéo không liên hệ đến dục. Và do duyên với dục, khởi
lên các lậu hoặc não hại, nhiệt não, vị ấy giải thoát khỏi chúng,
không cảm giác thọ ấy. Đây gọi là xuất ly khỏi cái dục.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ý về sân, tâm không phấn chấn trong sân, không tịnh tín, không an
trú, không quyết định. Nhưng khi tác ý đến vô sân, tâm liền phấn chấn
trong vô sân, được tịnh tín, được an trú, được quyết định. Tâm ấy
của vị ấy là khéo làm, khéo tụ tập, khéo tăng trưởng, khéo giải
thoát, khéo không liên hệ đến sân. Và do duyên với sân, khởi lên các lậu
hoặc não hại, nhiệt não, vị ấy giải thoát khỏi chúng, không cảm giác
thọ ấy. Đây gọi là xuất ly khỏi sân.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ý về hại, tâm không phấn chấn trong hại, không tịnh tín, không an
trú, không quyết định. Nhưng khi tác ý đến vô hại, tâm liền phấn chấn
trong vô hại, được tịnh tín, được an trú, được quyết định. Tâm
ấy của vị ấy là khéo làm, khéo tụ tập, khéo tăng trưởng, khéo giải
thoát, khéo không liên hệ đến hại. Và do duyên với hại, khởi lên các
lậu hoặc não hại, nhiệt não, vị ấy giải thoát khỏi chúng, không cảm
giác thọ ấy. Đây gọi là xuất ly khỏi hại.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ý về sắc, tâm không phấn chấn trong sắc, không tịnh tín, không an
trú, không quyết định. Nhưng khi tác ý đến vô sắc, tâm liền phấn chấn
trong vô sắc, được tịnh tín, được an trú, được quyết định. Tâm
ấy của vị ấy là khéo làm, khéo tụ tập, khéo tăng trưởng, khéo giải
thoát, khéo không liên hệ đến sắc. Và do duyên với sắc, khởi lên các
lậu hoặc não hại, nhiệt não, vị ấy giải thoát khỏi chúng, không cảm
giác thọ ấy. Đây gọi là xuất ly khỏi sắc.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ý về có thân, tâm không phấn chấn trong có thân, không tịnh tín,
không an trú, không quyết định. Nhưng khi tác ý đến đoạn diệt có
thân, tâm liền phấn chấn trong đoạn diệt có thân, được tịnh tín,
được an trú, được quyết định. Tâm ấy của vị ấy là khéo làm,
khéo tụ tập, khéo tăng trưởng, khéo giải thoát, khéo không liên hệ đến
có thân. Và do duyên với có thân, khởi lên các lậu hoặc não hại, nhiệt
não, vị ấy giải thoát khỏi chúng, không cảm giác thọ ấy. Đây gọi
là xuất ly khỏi có thân.
Đối với vị ấy, dục hỷ không
có tùy miên, sân hỷ không có tùy miên, hại hỷ không có tùy miên, sắc hỷ
không có tùy miên, hữu thân hỷ không có tùy miên. Vị ấy không có tùy
miên đối với dục hỷ, không có tùy miên đối với sân hỷ, không có
tùy miên đối với hại hỷ, không có tùy miên đối với sắc hỷ, không
có tùy miên đối với hữu thân hỷ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo
được giải thoát khỏi tùy miên, đã chặt đứt khát ái, giải tỏa kiết
sử, do chánh pháp nhiếp phục kiêu mạn, đoạn tận khổ đau.
Này các Tỷ-kheo, có năm giới đưa
đến xuất ly này.
XXI. PHẨM KIMBILA
(I) (201) KIMBILA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Kimbilà, tại Veluvana. Rồi Tôn giả Kimbila đi đến Thế Tôn; sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn
giả kimbila bạch Thế Tôn:
2. - Do nhân gì, do duyên gì, bạch
Thế Tôn, sau khi Như Lai nhập diệt, Chánh pháp không được an trú lâu
ngày?
- Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai nhập
diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống không tôn trọng,
không vâng lời bậc Đạo sư, sống không tôn trọng, không vâng lời Pháp,
sống không tôn trọng, không vâng lời chúng Tăng, sống không tôn trọng,
không vâng lời học pháp, sống không tôn trọng, không vâng lời lẫn nhau.
Do nhân này, do duyên này, này Kimbila, khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp
không được an trú lâu ngày.
3. Do nhân gì, do duyên gì, bạch Thế
Tôn, sau khi Như Lai nhập diệt, Chánh pháp được an trú lâu ngày?
- Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai nhập
diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống tôn trọng và
vâng lời bậc Đạo sư, sống tôn trọng và vâng lời Pháp, sống tôn trọng
và vâng lời chúng Tăng, sống tôn trọng và vâng lời học pháp, sống tôn
trọng và vâng lời lẫn nhau. Đây là nhân, đây là duyên, này Kimbila, khi
Như Lai nhập diệt diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(II) (202) NGHE PHÁP
1. - Này các Tỷ-kheo, nghe pháp có năm
lợi ích này. Thế nào là năm?
2. Được nghe điều chưa nghe, làm
cho trong sạch điều được nghe, đoạn trừ nghi, làm cho tri kiến chánh trực,
làm cho tâm tịnh tín.
Này các Tỷ-kheo, nghe pháp có năm lợi
ích này.
(III) (203) CON NGỰA THUẦN
1. Thành tựu năm chi phần, này các
Tỷ-kheo, một con ngựa hiền thiện thuần chủng của vua, xứng đáng là của
vua, là tài sản của vua và được gọi là biểu tượng của vua. Thế nào
là năm?
2. Trực hành, chạy nhanh, nhu nhuyến
lanh lẹ, nhẫn nhục, hiền lành. Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ-kheo,
một con ngựa hiền thiện thuần chủng của vua, xứng đáng là của vua,
là tài sản của vua và được gọi là biểu tượng của vua.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
thành tựu năm pháp, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng,
đáng được cúng đường, đáng được chắp tay, là vô thượng phước
điền ở đời. Thế nào là năm?
4. Trực hành, chạy nhanh, nhu nhuyến
lanh lẹ, nhẫn nhục, hiền lành.
Thành tựu năm pháp, Tỷ-kheo đáng
được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng đường, đáng
được chắp tay, là vô thượng phước điền ở đời.
(IV) (204) CÁC SỨC MẠNH
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh
này. Thế nào là năm?
2. Tín lực, tàm lực, quý lực,
tinh tấn lực, tuệ lực.
Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh
này.
(V) (205) TÂM HOANG VU
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm tâm
hoang vu này. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nghi ngờ bậc Đạo Sư, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín. Này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ bậc Đạo Sư, do dự, không quyết đoán,
không có tịnh tín, thời tâm của vị này không hướng về nỗ lực, chuyên
cần, kiên trì, tinh tấn. Như vậy là tâm hoang vu thứ nhất.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
nghi ngờ Pháp... nghi ngờ Tăng... nghi ngờ học pháp... phẫn nộ đối với
các vị đồng Phạm hạnh, không có hoan hỷ, tâm tư chống đối cứng rắn.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào phẫn nộ đối với các vị đồng Phạm hạnh,
không có hoan hỷ, tâm tư chống đối cứng rắn, thời tâm của vị này
không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Như vậy là
tâm hoang vu thứ năm.
Này các Tỷ-kheo, có năm tâm hoang
vu này.
(VI) (206) TÂM TRIỀN PHƯỢC
1. Này các Tỷ-kheo, có năm tâm triền
phược này. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đối với cái dục, không phải không tham ái, không phải không dục cầu,
không phải không ái luyến, không phải không khao khát, không phải không
nhiệt não, không phải không khát ái. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với
cái dục, không phải không tham ái... không phải không khát ái, tâm của vị
ấy không hướng về nổ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của
ai không hướng về nổ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là
tâm triền phược thứ nhất.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo đối với thân không phải không tham ái... đối với sắc... Tỷ-kheo
nào ăn cho đến thỏa thê, cho đến bụng chứa đầy, sống thiên nặng về
khoái lạc sàng tọa, về khoái lạc ngủ nghỉ, về khoái lạc thụy miên,
Tỷ-kheo nào sống Phạm hạnh với mong cầu được sanh Thiên giới, với ý
nghĩ: "Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này, với Phạm
hạnh này sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác!". Này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống Phạm hạnh... như vậy là tâm triền phược
thứ năm.
Này các Tỷ-kheo, có năm tâm triền
phược này.
(VII) (207) CHÁO
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm lợi
ích này của cháo. Thế nào là năm?
2. Trị đói, trừ khát, điều hòa
phong, làm sạch bọng đái (hay thuyết quản) và tiêu hóa các đồ ăn sống
còn lại.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này của cháo.
(VII) (208) TĂM XỈA RĂNG
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm điều
nguy hại do không dùng tăm xỉa răng. Thế nào là năm?
2. Con mắt bị ảnh hưởng, miệng
hôi thúi, thần kinh vị không trong sạch, nước mật và đàm dính vào đồ
ăn, ăn không thấy ngon.
Này các Tỷ-kheo, có năm điều nguy
hại này do không dùng tăm xỉa răng.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm điều lợi
ích nhờ dùng tăm xỉa răng. Thế nào là năm?
4. Con mắt không bị ảnh hưởng,
miệng không hôi thúi, thần kinh vị được trong sạch, nước mật và đàm
không dính vào đồ ăn, ăn thấy ngon.
Này các Tỷ-kheo, có năm điều lợi
ích nhờ dùng tăm xỉa răng.
(IX) (209) THUYẾT PHÁP VỚI GIỌNG CA
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm điều
nguy hại với người thuyết pháp với giọng ca kéo dài. Thế nào là năm?
2. Tự mình say đắm trong âm giọng
ấy; người khác say đắm trong âm giọng ấy; các người gia chủ phê
bình: "Như chúng ta hát, cũng vậy, các Sa-môn Thích tử này ca hát. Vì
vị ấy cố gắng rèn luyện cho âm thanh điêu luyện nên định bị gián
đoạn; các thế hệ sau bắt chước."
Này các Tỷ-kheo, có năm điều nguy
hại với người thuyết pháp với giọng ca kéo dài.
(X) (210) THẤT NIỆM
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại
này đối với người thất niệm, không tỉnh giác rơi vào giấc ngủ. Thế
nào là năm?
2. Ngủ một cách khổ sở; thức dậy
một cách khổ sở; thấy ác mộng; chư Thiên không phòng hộ; bất tịnh chảy
ra, mộng tinh, di tinh.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này
đối với người thất niệm, không tỉnh giác rơi vào giấc ngủ.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi
ích này đối với người trú niệm, tỉnh giác rơi vào giấc ngủ. Thế
nào là năm?
4. Ngủ một các ngon lành; thức dậy
một cách ngon lành; không thấy ác mộng; chư Thiên phòng hộ; bất tịnh
không chảy ra.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này đối với người trú niệm, tỉnh giác rơi vào giấc ngủ.
XXII. PHẨM MẮNG NHIẾC
(I) (211) MẮNG NHIẾC
1. - Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo,
mắng nhiếc, mạ lỵ, các vị tu Phạm hạnh, phỉ báng bậc Thánh, vị ấy
được chờ đợi năm sự nguy hại. Thế nào là năm?
2. Phạm tội bị tẩn xuất, chặt
đứt con đường hướng thượng; hay phạm một tội nhiễm; hay cảm xúc bệnh
hoạn trầm trọng; khi mạng chung tâm bị mê loạn; sau khi thân hoại mạng
chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, mắng
nhiếc, mạ lỵ, các vị tu Phạm hạnh, phỉ báng bậc Thánh, vị ấy được
chờ đợi năm sự nguy hại này.
(II) (212) ĐẤU TRANH
1. - Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo,
là người gây ra cãi cọ, là người gây ra tranh luận, là người gây ra đấu
tranh, là người gây ra đấu khẩu, là người gây ra kiện tụng trong Tăng
chúng. Vị ấy được chờ đợi năm sự nguy hại. Thế nào là năm?
2. Không chứng điều chưa chứng
được; thối thất điều đã chứng được; tiếng ác đồn khắp; khi mạng
chung, tâm bị mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục.
Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, là
người gây ra cãi cọ, là người gây ra tranh luận, là người gây ra đấu
tranh, là người gây ra đấu khẩu, là người gây ra kiện tụng trong Tăng
chúng. Vị ấy được chờ đợi năm sự nguy hại này.
(III) (213) ÁC GIỚI, PHÁ GIỚI
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm sự
nguy hại này cho kẻ ác giới, phá giới. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ
ác giới, phá giới, do nhân phóng dật, bị tổn thất tài sản lớn. Này
các Tỷ-kheo, đây là sự nguy hại thứ nhất cho kẻ ác giới, phá giới.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối
với kẻ ác giới, phá giới, tiếng ác đồn xa. Này các Tỷ-kheo, đây là
sự nguy hại thứ hai cho kẻ ác giới, phá giới.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, kẻ
ác giới, phá giới, khi đến hội chúng nào, hoặc hội chúng Sát-đế-ly,
hoặc hội chúng Bà-la-môn, hoặc hội chúng Gia chủ, hoặc hội chúng
Sa-môn, vị ấy đi đến hội chúng ấy, có sợ hãi, có hoang mang. Này các
Tỷ-kheo, đây là sự nguy hại thứ ba cho kẻ ác giới, phá giới.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, kẻ
ác giới, phá giới, sau khi mạng chung, tâm bị mê loạn. Này các Tỷ-kheo,
đây là sự nguy hại thứ tư cho kẻ ác giới, phá giới.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, kẻ
ác giới, phá giới khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ ác thú, đọa
xứ, địa ngục. Này các Tỷ-kheo, đây là sự nguy hại thứ năm cho kẻ
ác giới, phá giới.
Này các Tỷ-kheo, có năm sự nguy hại
này cho kẻ ác giới, phá giới.
7. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi
ích cho vị có giới, đầy đủ giới. Thế nào là năm?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người
giữ giới, đầy đủ giới, do nhân không phóng dật, thâu được tài sản
lớn. Này các Tỷ-kheo, đây là lợi ích thứ nhất cho vị giữ giới, đầy
đủ giới.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, với
người giữ giới, đầy đủ giới, tiếng lành đồn xa. Này các Tỷ-kheo,
đây là lợi ích thứ hai cho kẻ giữ giới, đầy đủ giới.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
giữ giới, đầy đủ giới, có đi đến hội chúng nào, hoặc hội chúng
Sát-đế-ly, hoặc hội chúng Bà-la-môn, hoặc hội chúng Gia chủ, hoặc hội
chúng Sa-môn, vị ấy đi hội chúng không sợ hãi, không hoang mang. Này các
Tỷ-kheo, đây là sự lợi ích thứ ba cho người giữ giới, đầy đủ giới.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
giữ giới, đầy đủ giới, khi mạng chung, tâm không bị mê loạn. Này
các Tỷ-kheo, đây là sự lợi ích thứ tư cho người giữ giới, đầy đủ
giới.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
giữ giới, đầy đủ giới khi thân hoại mạng chung, sanh lên cõi lành,
Thiên giới, cõi đời này. Này các Tỷ-kheo, đây là sự nguy hại thứ năm
cho người giữ giới, đầy đủ giới.
Này các Tỷ-kheo, có năm sự lợi
ích này cho vị giữ giới, đầy đủ giới.
(IV) (214) NGƯỜI NÓI NHIỀU
1. - Có năm nguy hại này cho người
nói nhiều. Thế nào là năm?
2. Nói láo; nói lời hai lưỡi; nói
lời độc ác; nói lời phù phiếm; sau khi thân hoại hạng chung, sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này
cho người nói nhiều.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi
ích này cho người nói vừa phải. Thế nào là năm?
4. Không nói láo; không nói hai lưỡi;
không nói lời độc ác; không nói lời phù phiếm; sau khi thân hoại hạng
chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này cho người nói vừa phải.
(V) (215) KHÔNG KHAM NHẪN (1)
1. - Có năm nguy hại này cho người
không kham nhẫn. Thế nào là năm?
2. Quần chúng không ái mộ, không
ưa thích; nhiều người hận thù; nhiều người tránh né; khi mạng chung,
tâm bị mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung; sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này
cho người không kham nhẫn.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi
ích này cho người có kham nhẫn. Thế nào là năm?
4. Quần chúng ái mộ, ưa thích;
không có người hận thù; không có nhiều người tránh né; khi mạng chung,
tâm không bị mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện
thú, Thiên giới, cõi đời này.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này cho người có kham nhẫn.
(VI) (216) KHÔNG KHAM NHẪN (2)
(Như kinh trên #215 chỉ thế vào mục
2, thay câu nhiều người hận thù, nhiều người tránh né, bằng câu là người
hung bạo, là người không hối quá.)
(VII) (217) KHÔNG TỊNH TÍN (1)
1. - Có năm nguy hại này, này các Tỷ-kheo,
cho người không tịnh tín. Thế nào là năm?
2. Tự mình chỉ trích mình; bậc
có trí sau khi suy xét, quở trách; tiếng ác đồn xa; khi mạng chung, tâm bị
mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ
địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này,
cho người không có tịnh tín.
3. Có năm lợi ích này, này các Tỷ-kheo,
cho người có tịnh tín. Thế nào là năm?
4. Tự mình không chỉ trích mình; bậc
có trí sau khi suy xét, tán thán tiếng lành đồn xa; khi mạng chung, tâm
không mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện Thú,
Thiên giới, cõi đời này.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này, cho người có tịnh tín.
(VIII) (218) KHÔNG TỊNH TÍN (2)
1. - Có năm nguy hại này, này các Tỷ-kheo,
cho kẻ không tịnh tín. Thế nào là năm?
2. Những tư tưởng bất tín không
được tịnh tín; một số tư tưởng đã tịnh tín có thể đổi khác;
không làm theo lời dạy của bậc Đạo Sư; thế hệ tiếp bắt chước tà
kiến; tâm không được tịnh tín.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này,
cho người không có tịnh tín.
3. Có năm lợi ích này, này các Tỷ-kheo,
cho người có tịnh tín. Thế nào là năm?
4. Những tư tưởng bất tín được
tịnh tín; những tư tưởng tịnh tín được tăng trưởng; lời dạy của
bậc Đạo Sư được làm theo; thế hệ tiếp bắt chước theo tri kiến; tâm
được tịnh tín.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này, cho người có tịnh tín.
(IX) (219) LỬA
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại
này trong lửa. Thế nào là năm?
2. Có hại cho mắt; tổn hại dung sắc;
tổn hại sức mạnh; quần chúng tụ họp tăng trưởng; các câu chuyện về
bàng sanh được nói lên.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này
trong lửa.
(X) (220) TẠI MADHURÀ
1. - Có năm nguy hại này tại
Madhurà. Thế nào là năm?
2. Không bằng phẳng; nhiều bụi bặm;
có chó dữ; có các loại dạ xoa bạo ngược; đồ ăn khất thực khó kiếm.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này
ở Madhurà.
XXIII. PHẨM DU HÀNH DÀI
(I) (221) DU HÀNH HÀI (1)
1. - Có năm điều nguy hại này,
này các Tỷ-kheo, cho người sống du hành dài, du hành không có mục đích.
Thế nào là năm?
2. Không nghe điều chưa được
nghe; không làm cho thanh tịnh điều đã được nghe; có sợ hãi một phần
điều đã được nghe; cảm xúc bệnh hoạn trầm trọng; không có bạn bè.
Có năm điều nguy hại này, này
các Tỷ-kheo, cho người sống du hành dài, du hành không có mục đích.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi
ích này cho người sống có mục đích. Thế nào là năm?
4. Nghe điều chưa được nghe; làm
cho thanh tịnh điều đã được nghe; không có sợ hãi một phần điều đã
được nghe; không cảm xúc bệnh hoạn trầm trọng; có bạn bè.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này cho người sống có mục đích.
(II) (222) DU HÀNH DÀI (2)
(Giống như kinh trên #221, chỉ có
khác là thay vì: "Không nghe điều chưa được nghe, không làm cho thanh tịnh
điều đã được nghe, có sợ hãi một phần điều đã được nghe",
thời được thế vào "Không chứng đắc điều chưa được chứng đắc,
không làm cho thanh tịnh điều đã được chứng đắc, không có sợ hãi một
phần điều đã được chứng đắc..." với những thay đổi cần thiết)
(III) (223) SỐNG QUÁ LÂU (1)
1. - Có năm nguy hại này, này các Tỷ-kheo,
nếu sống quá lâu tại một chỗ. Thế nào là năm?
2. Đồ dùng nhiều, cất chứa nhiều
đồ dùng; nhiều dược phẩm, cất chứa nhiều dược phẩm; nhiều việc làm,
nhiều công việc phải làm, không khéo léo trong những công việc gì phải
làm; sống lẫn lộn với gia chủ xuất gia, tùy thuận trong sự liên hệ với
gia chủ; và khi ra đi bỏ trú xứ ấy, ra đi với sự luyến tiếc.
Này các Tỷ-kheo, đó là năm nguy hại
nếu sống quá lâu tại một chỗ.
3. Có năm lợi ích này, này các Tỷ-kheo,
nếu sống đồng đều tại một chỗ. Thế nào là năm?
4. Đồ dùng không nhiều, không cất
chứa nhiều đồ dùng; dược phẩm không nhiều, không cất chứa nhiều dược
phẩm; không có nhiều việc làm, không nhiều công việc phải làm, khéo
léo trong những công việc phải làm; không sống lẫn lộn với gia chủ xuất
gia, không tùy thuận trong sự liên hệ với gia chủ; và khi ra đi bỏ trú xứ
ấy, ra đi không với sự luyến tiếc.
Này các Tỷ-kheo, đó là năm lợi
ích nếu sống đồng đều tại một chỗ.
(IV) (224) SỐNG QUÁ LÂU (2)
1. - Có năm nguy hại này, này các Tỷ-kheo,
nếu sống quá lâu tại một chỗ. Thế nào là năm?
2. Xan tham đối với trú xứ; xan
tham đối với gia đình; xan tham đối với đồ vật cúng dường; xan tham
đối với công đức; xan tham đối với pháp.
Có năm nguy hại này, này các Tỷ-kheo,
nếu sống quá lâu tại một chỗ.
3. Có năm lợi ích này, này các Tỷ-kheo,
nếu sống đồng đều tại một chỗ. Thế nào là năm?
4. Không xan tham đối với trú xứ;
không xan tham đối với gia đình; không xan tham đối với đồ được cúng
dường; không xan tham đối với công đức; không xan tham đối với pháp.
Có năm lợi ích này, này các Tỷ-kheo,
nếu sống đồng đều tại một chỗ.
(V) VIẾNG THĂM GIA ĐÌNH (1)
1. - Có năm nguy hại này, này các Tỷ-kheo,
cho người viếng thăm gia đình. Thế nào là năm?
2. Phạm lỗi không mời mà đến;
phạm lỗi ngồi một mình; phạm lỗi ngồi chỗ kín đáo; phạm lỗi thuyết
pháp cho nữ nhân hơn năm, sáu chữ; sống với nhiều suy tư về dục.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này
cho người viếng thăm gia đình.
(VI) (226) VIẾNG THĂM GIA ĐÌNH (2)
1. - Có năm nguy hại này, này các Tỷ-kheo,
đối với vị Tỷ-kheo sống liên hệ quá nhiều với các gia đình. Thế
nào là năm?
2. Luôn luôn thấy nữ nhân; do thấy,
nên có liên hệ; do có liên hệ nên có sự thân mật; do có sự thân mật
nên có cơ hội (để tư thông); khi tâm đã có tư thông, thời được chờ
đợi như sau: Sẽ không có hoan hỷ sống Phạm hạnh; hay sẽ rơi vào trong
một tội nhiễm ô; hay từ bỏ học giới; trở lui lại đời sống thế tục.
Này các Tỷ-kheo, đây là năm nguy hại
đối với vị Tỷ-kheo sống liên hệ quá nhiều với các gia đình.
(VII) (227) TÀI SẢN
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại
này trong các tài sản. Thế nào là năm?
2. Tài sản bị nguy hiểm về lửa;
bị nguy hiểm về nước; bị nguy hiểm về vua; bị nguy hiểm về trộm cướp;
bị nguy hiểm về các người thừa tự không khả ái.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này
trong các tài sản.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi
ích này trong các tài sản. Thế nào là năm?
4. Nhờ tài sản, tự làm cho được
an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc ấy; làm cho mẹ cha được
an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc ấy; làm cho vợ con, các
người phục vụ, các người làm công được an lạc, hoan hỷ và chơn chánh
duy trì sự an lạc ấy; làm cho bạn bè thân hữu được an lạc, hoan hỷ và
chơn chánh duy trì sự an lạc ấy; đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn,
cung cấp các sự cúng dường hướng thượng, đưa đến sự an lạc, dị
thục liên hệ đến cõi trời và dẫn lên Thiên giới.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này trong các tài sản.
(VIII) (228) BỮA ĂN
1. - Có năm nguy hại này, này các Tỷ-kheo,
trong gia đình ăn cơm phi thời sau giờ ngọ. Thế nào là năm?
2. Đối với các khách đến thăm,
không cúng dường đúng thời; đối với chư Thiên lãnh thọ các vật
cúng, không cúng dường đúng thời; đối với các Sa-môn, Bà-la-môn, chỉ
ăn mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời, không cúng
dường đúng thời; các người phục vụ, người làm công, làm công việc
không được thoải mái; lại nữa, khi còn ăn phi thời, thời các món ăn
thiếu chất bổ dưỡng.
Này các Tỷ-kheo, đây là năm nguy hại
trong gia đình ăn cơm quá chiều, sau giờ ngọ.
3. Có năm lợi ích này, này các Tỷ-kheo,
trong gia đình ăn cơm đúng thời. Thế nào là năm?
4. Đối với các khách đến thăm,
cúng dường đúng thời; đối với chư Thiên lãnh thọ các vật cúng, cúng
dường đúng thời; đối với các Sa-môn, Bà-la-môn, chỉ ăn mỗi ngày một
bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời, cúng dường đúng thời; các
người phục vụ, người làm công, làm công việc được thoải mái; lại
nữa, khi ăn đúng thời, thời các món ăn đầy đủ chất bổ dưỡng.
Có năm lợi ích này, này các Tỷ-kheo,
trong gia đình ăn cơm đúng thời.
(IX) (229) RẮN ĐEN (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại
này trong con rắn đen. Thế nào là năm?
2. Không thanh thịnh, hôi thúi, sợ
hãi rụt rè, đáng sợ hãi, làm hại bạn.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này
trong con rắn đen.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có năm
nguy hại này trong nữ nhân. Thế nào là năm?
4. Không thanh thịnh, hôi thúi, sợ
hãi rụt rè, đáng sợ hãi, làm hại bạn.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này
trong nữ nhân.
(X) (230) RẮN ĐEN (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại
này trong con rắn đen. Thế nào là năm?
2. Phẫn nộ, hiềm hận, có nọc đọc,
lưỡi chia hai, làm hại bạn.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này
trong con rắn đen.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có năm
nguy hại này trong nữ nhân. Thế nào là năm?
4. Phẫn nộ, hiềm hận, có nọc độ,
lưỡi chia hai, làm hại bạn.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, nọc
đọc của nữ nhân là như sau: Này các Tỷ-kheo, nữ nhân phần lớn hay
tham đắm. Ở đây, này các Tỷ-kheo, lưỡi chia hai của nữ nhân là như
sau: Này các Tỷ-kheo, nữ nhân phần lớn nói hai lưỡi. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
nữ nhân làm hại bạn như sau: Này các Tỷ-kheo, nữ nhân phần lớn ngoại
tình!
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này
trong nữ nhân.
XXIV. PHẨM TRÚ TẠI CHỖ
(I) (231) TRÚ TẠI CHỖ
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ trở thành không đáng được làm gương
để tụ tập. Thế nào là năm?
2. Không đầy đủ về uy nghi, không
đầy đủ về trách nhiệm; không nghe nhiều, không thọ trì điều được
nghe; không biết sống đoạn giảm, không ưa thích sống Thiền tịnh; lời
nói không hiền thiện, không là người nói lời hiền thiện; ác tuệ, đần
độn, câm điếc.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo trú tại chỗ trở thành không đáng được làm gương để tụ
tập.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ trở thành đáng được làm gương để
tụ tập. Thế nào là năm?
4. Đầy đủ về uy nghi, đầy đủ
về trách nhiệm; nghe nhiều, thọ trì điều được nghe; biết sống đoạn
giảm, ưa thích Thiền tịnh; lời nói hiền thiện, là người nói lời hiền
thiện; có trí tuệ, không đần độn, không câm điếc.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo trú tại chỗ trở thành đáng được làm gương để tụ tập.
(II) (232) ĐƯỢC ÁI MỘ
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ được các vị đồng Phạm hạnh
ái mộ, ưa thích, kính trọng, và đáng được làm gương để bắt chước.
Thế nào là năm?
2. Có giới, sống được bảo vệ
với sự bảo vệ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ
hãi trong các tội nhỏ nhiệm, chấp nhận và học tập các học pháp; nghe
nhiều, thọ trì điều được nghe, tích tập điều được nghe; các pháp
nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời sống
Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp ấy, vị ấy đã
nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý quan
sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến; thiện ngôn, dùng lời thiện ngôn,
nói lời tao nhã, ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ phều phào,
giải thích nghĩa lý minh xác; chứng được không có khó khăn, chứng được
không có mệt nhọc, chứng được không có phí sức bốn Thiền, thuộc tăng
thượng tâm, đem đến hiện tại lạc trú; do đoạn tận các lậu hoặc vị
ấy tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện
tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo trú tại chỗ được các vị đồng Phạm hạnh ái mộ, ưa thích,
kính trọng, và đáng được làm gương để tu tập.
(III) (233) LÀM CHO CHÓI SÁNG
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ làm chói sáng chỗ ấy. Thế nào
là năm?
2. Có giới sống được bảo vệ với
sự bảo vệ của giới bổn... và học tập trong các học pháp; nghe nhiều...
khéo thành tựu nhờ chánh kiến; thiện ngôn, dùng lời thiện ngôn... giải
thích nghĩa lý minh xác; có năng lực với pháp thoại nêu rõ, khích lệ,
làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ những người đến yết kiến; chứng
được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không
phí sức bổn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo trú tại chỗ làm chói sáng chỗ ấy.
(IV) (234) GIÚP ĐỠ NHIỀU
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ giúp đỡ rất nhiều cho trú xứ
ấy. Thế nào là năm?
2. Có giới... và học tập trong
các pháp; nghe nhiều... khéo thành tựu nhờ chánh kiến; vị ấy sữa chữa
những gì bị gãy, bị hủy hoại. Khi đại chúng Tỷ-kheo đi đến từ nhiều
địa phương khác nhau, vị ấy nói với các gia chủ đi đến như sau:
"Nay đại chúng Tỷ-kheo đã đến từ nhiều địa phương khác nhau.
Các vị hãy làm các phước đức. Nay là thời làm các phước đức";
chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được
không phí sức bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo trú tại chỗ giúp đỡ rất nhiều cho trú xứ ấy.
(V) (235) CÓ LÒNG TỪ MẪN
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú tại chỗ có lòng từ mẫn đối với các gia
chủ. Thế nào là năm?
2. Khích lệ tăng thượng giới; khiến
chúng sống theo gương pháp; khi đến thăm người bệnh, an trú niệm cho người
bệnh như sau: "Các vị hãy an trú niệm vào hướng đến quả A-la-hán";
khi đại chúng Tỷ-kheo đi đến từ nhiều địa phương khác nhau, vị ấy
nói với các gia chủ đi đến như sau: "Nay đại chúng Tỷ-kheo đã đến
từ nhiều địa phương khác nhau. Các vị hãy làm các phước đức. Nay là
thời làm các phước đức"; họ có cúng dường các món ăn gì, hoặc
thô hoặc tế, tự mình thọ dụng, không làm cho của tín thí rơi rớt.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo trú tại chỗ có lòng từ mẫn đối với các gia chủ.
(VI) (236) KHÔNG TÁN THÁN TƯƠNG XỨNG
1. - Thành tựu năm pháp, Tỷ-kheo
trú tại chỗ như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là năm?
2. Không có suy xét, không thẩm
sát, tán thán người không đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm
sát, không tán thán người đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm
sát, đặt lòng tin (làm rõ ràng) vào những chỗ không đáng được tịnh tín;
không suy xét, không thẩm sát, không đặt lòng tin vào những chỗ đáng
được tịnh tín; làm rơi rớt các vật tín thí.
Do thành tựu năm pháp, Tỷ-kheo trú
tại chỗ như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo
trú tại chỗ như vậy tương xứng sanh lên cõi trời. Thế nào là năm?
4. Có suy xét, có thẩm sát, không
tán thán người không đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, tán
thán người đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, không đặt lòng
tin vào những chỗ đáng được tịnh tín; có suy xét, có thẩm sát, đặt
lòng tin vào những chỗ đáng được tịnh tín; không làm rơi rớt các vật
tín thí.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo
trú tại chỗ như vậy tương xứng sanh lên cõi trời.
(VII) (237) XAN THAM (1)
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo
trú tại chỗ như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là năm?
2. Không suy xét, không thẩm sát,
tán thán người không đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm
sát, không tán thán người đáng được tán thán; xan tham trú xứ, tham đắm
trú xứ; xan tham gia đình, tham đắm gia đình; làm cho rơi rớt các vật
tín thí.
Thành tựu năm pháp, Tỷ-kheo trú tại
chỗ như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo
trú tại chỗ như vậy tương xứng sanh lên cõi trời. Thế nào là năm?
4. Có suy xét, có thẩm sát, không
tán thán người không đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, tán
thán người đáng được tán thán; không xan tham trú xứ, không tham đắm
trú xứ; không xan tham gia đình, không tham đắm gia đình; không làm cho rơi
rớt các vật tín thí.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo
trú tại chỗ như vậy tương xứng sanh lên cõi trời.
(VIII) (238) XAN THAM (2)
(Như kinh trước #237, bỏ "tham
đắm trú xứ", bỏ "tham đắm gia đình", thay thế "làm cho
rơi rớt vật thí" bằng "xan tham lợi dưỡng". Phần sau có những
thay đổi cần thiết.)
(IX) (239) XAN THAM (3)
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo
trú tại chỗ như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là năm?
2. Xan tham chỗ ở, xan tham gia đình, xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán,
làm cho các vật tín thí rơi rớt.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo
trú tại chỗ như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo
trú tại chỗ như vậy tương xứng sanh lên cõi trời. Thế nào là năm?
4. Không xan tham chỗ ở, không xan
tham gia đình, không xan tham lợi dưỡng, không xan tham tán thán, không làm
cho vật tín thí rơi rớt.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo
trú tại chỗ như vậy tương xứng sanh lên cõi trời.
(X) (240) XAN THAM (4)
(Hoàn toàn giống như kinh #239, chỉ
khác pháp thứ năm là "xan tham pháp", thế cho "làm cho vật tín
thí rơi rớt".)
XXV. PHẨM ÁC HÀNH
(I) (241) NGƯỜI ÁC HÀNH (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại
này cho người ác hành. Thế nào là năm?
2. Tự mình chỉ trích mình; sau khi
suy xét, các bậc trí quở trách; tiếng ác đồn khắp; khi mạng chung, tâm
bị mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này
cho người ác hành.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm lợi
ích này cho người thiện hành. Thế nào là năm?
4. Tự mình không chỉ trích mình;
sau khi suy xét, các bậc trí tán thán; tiếng tốt đồn khắp; khi mạng
chung, tâm không bị mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào thiện
thú, thiên giới, cõi đời này.
Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích
này cho người thiện hành.
(II-IV) (242 - 244) NGƯỜI ÁC HÀNH (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại
này cho người thân ác hành... cho người khẩu ác hành... cho người ý ác
hành (giống như #241 với những sữa đổi cần thiết).
(V) (245) NGƯỜI ÁC HÀNH (3)
(Như kinh #241 chỉ thay hai đoạn
sau: "Từ bỏ diệu pháp, an trú phi diệu pháp", với những thay đổi
cần thiết).
(VI - VII) (246-248) NGƯỜI ÁC HÀNH
(4)
1. - Có năm nguy hại này, này các Tỷ-kheo,
cho người thân ác hành... cho người thân thiện hành... cho người khẩu
ác hành... cho người khẩu thiện hành... người ý ác hành... cho người ý
thiện hành.
2. Từ mình không chỉ trích mình;
sau khi suy xét, các bậc trí tán thán; tiếng tốt đồn khắp; từ bỏ phi
diệu pháp; an trú diệu pháp.
Có năm lợi ích này, này các Tỷ-kheo,
cho người ý thiện hành.
(IX) (248) NGHĨA ĐỊA
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại
này trong nghĩa địa. Thế nào là năm?
2. Bất tịnh, hôi thúi, đáng sợ
hãi, trú xứ các phi nhân hung bạo, làm cho quần chúng than khóc.
Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này
trong nghĩa địa.
3. Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại
này trong người được ví như nghĩa địa. Thế nào là năm?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
thành tựu thân nghiệp bất tịnh, thành tựu khẩu nghiệp bất tịnh,
thành tựu ý nghiệp bất tịnh. Ta nói rằng đây là sự bất tịnh của người
ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, sự bất tịnh ấy của nghĩa địa. Ta nói rằng,
này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.
5. Ai thành tựu thân nghiệp bất tịnh,
thành tựu khẩu nghiệp bất tịnh, thành tựu ý nghiệp bất tịnh, tiếng
ác được đồn khắp. Ta nói rằng đây là mùi hôi thúi của người ấy.
Ví như, này các Tỷ-kheo, sự đáng sợ hãi của nghĩa địa. Ta nói rằng,
này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.
6. Với vị thành tựu thân nghiệp
bất tịnh, thành tựu khẩu nghiệp bất tịnh, thành tựu ý nghiệp bất tịnh,
các vị thuần tịnh đồng Phạm hạnh tránh né đứng xa. Ta nói rằng đây
là sự đáng sợ của người ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, sự đáng sợ
hãi của nghĩa địa. Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như
ví dụ ấy.
7. Ai thành tựu thân nghiệp bất tịnh,
thành tựu khẩu nghiệp bất tịnh, thành tựu ý nghiệp bất tịnh, sống
chung với những hạng người cũng đồng chung với nếp sống ấy. Ta nói rằng
đây là trú xứ hung bạo của người ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, trú xứ
các phi nhân hung bạo của nghĩa địa, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người
này giống như ví dụ ấy.
8. Với vị thành tựu thân nghiệp
bất tịnh, thành tựu khẩu nghiệp bất tịnh, thành tựu ý nghiệp bất tịnh
này, các vị thuần tịnh đồng Phạm hạnh thấy vậy trở thành bất mãn
và nói: "Ôi thật là khổ cho chúng tôi, chúng tôi phải chung sống với
những người như vậy". Ta nói rằng đây là làm cho quần chúng than
khóc của người ấy. Ví như này các Tỷ-kheo, nghĩa địa là chỗ làm cho
nhiều người than khóc, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như
ví dụ ấy.
Đây là năm nguy hại, này các Tỷ-kheo,
trong người được ví như nghĩa địa.
(X) (250) TỊNH TÍN ĐỐI VỚI MỘT
NGƯỜI
1. - Có năm nguy hại này, này các Tỷ-kheo,
trong lòng tịnh tín đối với một người. Thế nào là năm?
2. Trong người nào, này các Tỷ-kheo,
một người có lòng tịnh tín, và người ấy rơi vào một tội phạm, và
tùy theo tội phạm ấy, chúng Tăng ngưng chức vị ấy. Người này suy nghĩ:
"Người mà ta ái mộ ưa thích, vị ấy bị chúng Tăng ngưng chức",
và người này không còn nhiều tịnh tín đối với các Tỷ-kheo, người này
không có liên hệ với các Tỷ-kheo khác. Do không liên hệ với các Tỷ-kheo
khác, người này không nghe diệu pháp. Do không nghe diệu pháp, người này
thối đọa khỏi Chánh pháp. Đây là nguy hại thứ nhất, này các Tỷ-kheo,
trong sự tịnh tín đối với một người.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
người nào, một người có lòng tịnh tín, và vị ấy rơi vào một tội
phạm, và tùy theo tội phạm ấy, chúng Tăng bắt vị ấy ngồi vào phía cuối.
Người này suy nghĩ: "Người mà ta ái mộ ưa thích, vị ấy bị chúng
Tăng bắt ra ngồi phía cuối", và người này không còn nhiều tịnh
tín đối với các Tỷ-kheo. Do không còn nhiều tịnh tín đối với các Tỷ-kheo,
người này không có liên hệ đến các Tỷ-kheo khác. Do không liên hệ với
các Tỷ-kheo khác, người này không nghe diệu pháp. Do không nghe diệu pháp,
người này thối đọa khỏi Chánh pháp. Đây là nguy hại thứ hai, này các
Tỷ-kheo, trong sự tịnh tín đối với một người.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
người nào, một người có lòng tịnh tín, rồi người ấy đi vào một địa
phương khác...người ấy bị loạn tâm...người ấy mạng chung. Người này
suy nghĩ: "Người mà ta ái mộ ưa thích, vị ấy mạng chung". Người
này không liên hệ đến các Tỷ-kheo khác. Do không liên hệ với các Tỷ-kheo
khác, người này không nghe diệu pháp. Do không nghe diệu pháp, người này
thối đọa khỏi Chánh pháp. Đây là nguy hại thứ năm, này các Tỷ-kheo,
trong sự tịnh tín đối với một người.
XXVI. PHẨM CỤ TÚC GIỚI
(251) CỤ TÚC GIỚI
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần được trao cụ túc giới. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thành tựu vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu
vô học tuệ uẩn, thành tựu vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học
giải thoát tri kiến uẩn.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo cần được trao cụ túc giới.
(252 - 253) CHE CHỞ VÀ PHỤC VỤ
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo cần phải cho sở y chỉ...cần phải được một Sa-di làm thị giả.
Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thành tựu vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu
vô học tuệ uẩn, thành tựu vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học
giải thoát tri kiến uẩn.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo cần phải được một sa-di làm thị giả.
(254) XAN THAM
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm xan
tham này. Thế nào là năm?
2. Xan tham trú xứ, xan tham gia đình,
xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, xan tham pháp.
Này các Tỷ-kheo, có năm xan tham này.
Trong năm xan tham này, này các Tỷ-kheo, cái này là tối hạ liệt, tức là
xan tham pháp.
(255) PHẠM HẠNH
1. - Do đoạn tận, cắt đứt năm
xan tham, này các Tỷ-kheo, Phạm hạnh được thực hiện. Thế nào là năm?
2. Do đoạn tận, cắt đứt xan tham
trú xứ, Phạm hạnh được thực hiện. Do đoạn tận, cắt đứt xan tham
gia đình...xan tham lợi dưỡng...xan tham tán thán...xan tham pháp, Phạm hạnh
được thực hiện.
Do đoạn tận, cắt đứt năm xan
tham này, này các Tỷ-kheo, Phạm hạnh được thực hiện.
(256) THIỀN
1. - Do không đoạn tận năm pháp
này, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng đạt và an trú sơ Thiền. Thế
nào là năm?
2. Xan tham trú xứ, xan tham gia đình,
xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, xan tham pháp.
Do không đoạn tận năm pháp này,
này các Tỷ-kheo, không có thể chứng đạt và an trú sơ Thiền.
3. Do đoạn tận năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, có thể chứng đạt và an trú sơ Thiền. Thế nào là năm?
4. Xan tham trú xứ, xan tham gia đình,
xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, xan tham pháp.
Do đoạn tận năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, có thể chứng đạt và an trú sơ Thiền.
(257 - 263) THIỀN VÀ THÁNH QUẢ (1)
1. - Do không đoạn tận năm pháp
này, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng đạt và an trú Thiền thứ
hai...Thiền thứ ba...Thiền thứ tư...không thể có giác ngộ Dự lưu quả...Nhất
lai quả...Bất lai quả...A-la-hán quả. Thế nào là năm?
2. Xan tham trú xứ, xan tham gia đình,
xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, xan tham pháp.
Do không đoạn tận năm pháp này,
này các Tỷ-kheo, không có thể chứng ngộ A-la-hán quả.
3. Do đoạn tận năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, có thể chứng đạt và an trú Thiền thứ hai...Thiền thứ
ba...Thiền thứ tư...có thể chứng ngộ Dự lưu quả...Nhất lai...Bất
lai...A-la-hán quả. Thế nào là năm?
Do đoạn tận năm pháp
này...A-la-hán quả.
(264 - 271) THIỀN VÀ THÁNH QUẢ (2)
(Như các kinh trên, chỉ thay pháp thứ
năm xan tham pháp bằng không biết ơn, không nhớ ơn)...
(272) NGƯỜI TRI PHẠN (Coi bữa ăn)
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được lựa chọn là người tri phạn. Thế nào
là năm?
2. Đi đến dục, đi đến sân, đi
đến si, đi đến sợ hãi, không biết chỉ định và không chỉ định.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không được lựa chọn là người tri phạn.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được lựa chọn là người tri phạn. Thế nào là năm?
4. Không đi đến dục, không đi đến
sân, không đi đến si, không đi đến sợ hãi, biết chỉ định và không
chỉ định.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo được lựa chọn là người tri phạn.
(273 - 277) TRI PHẠN
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo đã được lựa chọn là tri phạn, thời không
nên gửi đi...được lựa chọn, nên gửi đi...cần phải biết là một người
ngu...cần phải biết là một người trí...tự mình xử sự như kẻ bị mất
gốc, bị thương tích... tự mình xử sự không như người bị mất gốc,
bị thương tích...như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục...như vậy
tương xứng được sanh lên Thiên giới...Thế nào là năm?
2. Không đi đến dục, không đi đến
sân, không đi đến si, không đi đến sợ hãi, biết chỉ định và không
chỉ định.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
người tri phạn như vậy tương xứng được sanh lên Thiên giới.
(278 - 342) CÁC NGƯỜI KHÁC
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không nên lựa chọn là người chỉ định phân phối sàng tọa,
nên lựa chọn là người phân phối sàng tọa...không biết phân phối và
không phân phối...biết phân phối và không phân phối...không nên lựa chọn
là người giữ kho...nên lựa chọn là người giữ kho...không biết bảo vệ
và không bảo vệ...biết bảo vệ và không bảo vệ...không nên lựa chọn
là người nhận y...nên lựa chọn là người nhận y...không biết lấy và
không lấy...biết lấy và không lấy...không nên lựa chọn là người chia
y...nên lựa chọn là người chia y...không nên lựa chọn là người chia cháo...nên
lựa chọn là người chia cháo...không nên lựa chọn là người chia trái...nên
lựa chọn là người chia trái...không nên lựa chọn là người chia bánh...nên
lựa chọn là người chia bánh...không biết chia và không chia...biết chia
và không chia...không nên lựa chọn là người phân phát các vật dụng nhỏ
nhặt...nên lựa chọn là người phân phát các vật dụng nhỏ nhặt...không
biết phân phát và không phân phát...biết phân phát và không phân
phát...không nên lựa chọn là người lãnh thọ nội y...nên lựa chọn là
người lãnh thọ nội y... không nên lựa chọn là người nhận lấy bình
bát...nên lựa chọn là người nhận lấy bình bát...không biết nhận lấy
và không nhận lấy...biết nhận lấy và không nhận lấy...không nên lựa
chọn là người quản đốc người làm vườn...nên lựa chọn là người
quản đốc người làm vườn... không nên lựa chọn là người giám sát
Sa-di...nên lựa chọn là người giám sát Sa-di...được lựa chọn không
nên gửi đi...được lựa chọn nên gửi đi...cần phải biết là một người
ngu...cần phải biết là một người Hiền trí...tự xử sự như kẻ bị mất
gốc, bị thương tích... tự xử sự như không bị mất gốc, không bị thương
tích...như vậy tương xứng rơi vào địa ngục...như vậy tương xứng được
sanh lên Thiên giới...Thế nào là năm?
2. Không đi đến dục, không đi đến
sân, không đi đến si, không đi đến sợ hãi, biết gửi đi và không gửi
đi.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
người giám sát Sa-di như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.
(343) NĂM PHÁP (1)
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là năm?
2. Sát sanh; lấy của không cho; sống
không Phạm hạnh; nói láo; đắm say rượu men, rượu nấu.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời. Thế nào là năm?
4. Từ bỏ sát sanh; từ bỏ lấy của
không cho; từ bỏ không Phạm hạnh; từ bỏ nói láo; từ bỏ đắm say rượu
men, rượu nấu.
Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo như vậy tương xứng được sanh lên Thiên giới.
(344 - 350) NĂM PHÁP (2)
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo ni...vị chánh học nữ...vị nam Sa-di...vị nữ sa-di, vị nam cư
sĩ, vị nữ cư sĩ như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào
là năm?
Tỷ-kheo (2 - 4) (như trên...#343, với
những thay đổi cần thiết").
(351 - 360) NĂM PHÁP (3)
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
vị tà mạng ngoại đạo ly hệ...đệ tử trọc đầu...bện tóc...các du sĩ...các
đệ tử của Magandika...kẻ theo phái cầm chỉa ba...người theo phái không
phản đối...người theo phái Gotama...người theo thiện pháp, như vậy
tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là năm?
2. Sát sanh, lấy của không cho,
không có Phạm hạnh, nói láo, đắm say rượu men, rượu nấu.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
người theo thiện pháp như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.
(361) THAM (1)
1. - Muốn thắng tri tham, này các Tỷ-kheo,
năm pháp cần phải tu tập. Thế nào là năm?
2. Bất tịnh tưởng, tư tưởng,
nguy hại tưởng, tưởng yếm ly đối với đồ ăn, tưởng không có gì đáng
ai lạc ở đời.
Muốn thắng tri tham, này các Tỷ-kheo,
năm pháp này cần phải tu tập.
(362 - 363) THAM (2)
1. - Muốn thắng tri tham, này các Tỷ-kheo,
năm pháp cần phải tu tập. Thế nào là năm?
2. Vô thường tưởng, vô ngã tưởng,
tử tưởng, tưởng yếm ly đối với đồ ăn, tưởng không có gì đáng ai
lạc ở đời...Vô thường tưởng, khổ tưởng trong vô thường, vô ngã tưởng
trong khổ, tưởng từ bỏ, tưởng ly tham.
Muốn thắng tri tham, này các Tỷ-kheo,
năm pháp này cần phải tu tập.
(364 - 365) THAM (3)
1. - Muốn thắng tri tham, này các Tỷ-kheo,
năm pháp cần phải tu tập. Thế nào là năm?
2. Tín căn, tấn căn, niệm căn, định
căn, tuệ căn...Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.
Muốn thắng tri tham, này các Tỷ-kheo,
năm pháp này cần phải tu tập.
(366 - 400) THAM (4)
1. - Này các Tỷ-kheo, muốn biến
tri tham...muốn đoạn diệt...muốn đoạn tận...muốn hủy diệt...muốn hoại
diệt...muốn ly tham...muốn diệt tận...muốn xả bỏ...muốn từ bỏ tham,
năm pháp này cần phải tu tập...
Muốn biến tri...muốn đoạn diệt...muốn
đoạn tận...muốn hủy diệt... muốn hoại diệt...muốn ly tham...muốn diệt
tận...muốn xả bỏ...muốn từ bỏ sân...si...phẫn nộ...hiềm hận...giả
dối...não hại...tật đố...xan tham...man trá...phản trắc...cứng đầu...cuồng
nhiệt...mạn...quá mạn...kiêu căng...phóng dật...,năm pháp này cần phải
tu tập.