- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 8a
- CHƯƠNG TÁM
- TÁM PHÁP
I. PHẨM TỪ
(I)(1) TỪ
1. Như vầy tôi nghe :
Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì, tại Jetavanna, khu vườn Ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi
các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo". "Thưa vâng, bạch Thế
Tôn".
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế tôn nói như sau :
2. - Với từ tâm giải thoát, này
các Tỷ-kheo, được sử dụng, được tu tập, được làm cho sung mãn, được
làm như cỗ xe, được làm như căn cứ địa, được tùy trú, được tích
tập, được khéo tác thành, thời chờ đợi là có tám lợi ích. Thế nào
là tám ?
3. Ngủ được an lạc, dậy được
an lạc, không thấy ác mộng, được người ái mộ, được phi nhân ái mộ,
được chư Thiên hộ trì, lửa hay thuốc độc hay kiếm không gia hại, nếu
không thông đạt thượng vị, đạt được Phạm Thiên giới. Với từ tâm
giải thoát, này các Tỷ-kheo, được sử dụng, được tu tập, được làm
cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được làm như căn cứ địa, được tùy
trú, được tích tập, được khéo tác thành, thời chờ đợi là có tám lợi
ích này.
Ai tu tập từ tâm
Vô lượng thường ức niệm
Các kiết sử yếu dần
Thấy được sanh y diệt
Với tâm không ác độc
Từ mẫn mọi chúng sanh
Do vậy, vị ấy thành
Bậc thuần nhất chí thiện
Với tâm ý từ mẫn
Đối với mọi chúng sanh
Bậc Thánh khéo thực hiện
Nhiều công đức tốt lành
Sau khi đã chinh phục
Rất đông đảo loài người
Các ẩn sĩ vua chúa
Theo nghi lễ tế tự
Lễ tế ngựa tế người
Lễ uống nước thắng trận
Lề ném cầu may rủi
Lễ rút lui khóa cửa
Không được phần mười sáu
Bậc khéo tu từ tâm
Như ánh sáng mặt trăng
Đối với các quần sao
Không giết, không bảo giết
Không thắng, không bảo thắng
Từ tâm mọi chúng sanh
Không hận thù với ai
(II)(2) TUỆ
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám nhân
này, có tám duyên này, khiến căn bản Phạm hạnh chưa chứng được có thể
chứng được với trí tuệ, nếu chứng được thời đưa đến tăng trưởng,
tăng rộng, được tu tập, được viên mãn. Thế nào là tám ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống dựa trên bậc Đạo sư hay bậc đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ
sư, ở đây được an trú tàm quý một cách sắc sảo, được ái mộ, được
kính trọng. Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ nhất, duyên thứ nhất khiến
căn bản Phạm hạnh chưa chứng được có thể chứng được với trí tuệ,
nếu chứng được thời đưa đến tăng trưởng, tăng rộng, được tu tập,
được viên mãn.
3. Vị ấy do sống dựa trên bậc
Đạo sư hay bậc đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, ở đây được
an trú tàm quý một cách sắc sảo, được ái mộ, được kính trọng, thường
đi đến họ hỏi đi hỏi lại : "Thưa Tôn giả, cái này là thế nào ?
Ý nghĩa cái này là gì ? " Các Tôn giả ấy mở rộng cái gì không được
mở rộng, phơi bày những gì không được phơi bày, và đối với những
pháp còn đang nghi vấn, họ giải tỏa những nghi vấn. Này các Tỷ-kheo, đây
là nhân thứ hai, duyên thứ hai khiến căn bản Phạm hạnh chưa chứng được
có thể chứng được với trí tuệ, nếu chứng được thời đưa đến
tăng trưởng, tăng rộng, được tu tập, được viên mãn.
4. Vị ấy sau khi nghe pháp, cố gắng
thành tựu hai sự an tịnh : Thân an tịnh và tâm an tịnh. Này các Tỷ-kheo,
đây là nhân thứ ba … được viên mãn.
5. Vị ấy có giới đức, sống chế
ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy
sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập các học
pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ tư … được viên mãn.
6. Vị ấy nghe nhiều, thọ trì điều
đã nghe, chất chứa điều đã nghe ; những pháp ấy, sơ thiện, trung thiện,
hậu thiện, nghĩa lý văn cú tự túc đề cao đời sống Phạm hạnh đầy
đủ thanh tịnh ; những pháp ấy, vị ất đã nghe nhiều, đã nắm giữ, đã
ghi nhớ tụng đọc nhiều lần, chuyên ý quán sát, khéo thể nhập chánh kiến.
Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ năm … được viên mãn.
7. Vị ấy tinh cần tinh tấn, để
đoạn tận các pháp bất thiện, đề làm sanh khởi các pháp thiện, nỗ lực
kiên trì, không bỏ rơi gánh nặng đối với các pháp thiện. Này các Tỷ-kheo,
đây là nhân thứ sáu… được viên mãn.
8. Vị ấy đi đến chư Tăng, không
là người nói nhiều, không nói chuyện phù phiếm, tự mình nói pháp hay mời
người khác nói, không khinh thường sự im lặng của bậc Thánh. Này các Tỷ-kheo,
đây là nhân thứ bảy … được viên mãn.
9. Vị ấy sống tùy quán sanh diệt
trong năm thù uẩn : "Đây là sắc, đây là sắc tập khởi ; đây là sắc
chấm dứt ; Đây là thọ, đây là thọ tập khởi ; đây là thọ chấm dứt
; đây là tưởng … đây là hành … Đây là thức, đây là thức tập khởi
; đây là thức chấm dứt". Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ tám,
duyên thứ tám, khiến căn bản Phạm hạnh chưa chứng được có thể chứng
được với trí tuệ, nếu chứng được thời đưa đến tăng trưởng,
tăng rộng, được tu tập, được viên mãn.
10. Các vị đồng Phạm hạnh quý mến
vị ấy như sau : " Tôn giả này sống nương tựa vào bậc Đạo sư hay
một vị đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, ở đây được an trú
tàm quý một cách sắc sảo, được ái mộ, được kính trọng. Thật vậy,
Tôn giả này biết điều đáng biết thấy điều đáng thấy". Đây là
pháp đưa đến được ái mộ, được cung kính, được tu tập, đưa đếm
Sa-môn hạnh, nhứt tâm thuần nhất.
11. Tôn giả này sống nương tựa vào
bậc Đạo sư, hay bậc đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, ở đây
được an trú tàm quý một cách sắc sảo, được ái mộ, được kính trọng
… (như số 3 ở trên) … họ giải tỏa những nghi vấn ấy. Đây là pháp
đưa đến được ái mộ, được cung kính, được tu tập, đưa đếm Sa-môn
hạnh, nhứt tâm thuần nhất.
12. Tôn giả này sau khi nghe pháp (như
số 4 ở trên) … tâm an tịnh. Đây là pháp đưa đến được ái mộ, được
cung kính, được tu tập, đưa đếm Sa-môn hạnh, nhứt tâm thuần nhất.
13. Tôn giả này có giới đức …
(như số 5 ở trên) … học tập trong các học pháp. Này các Tỷ-kheo, đây
là pháp … thuần nhất.
14. Tôn giả này nghe nhiều … (như
số 6) … khéo thành tựu chánh kiến. Đây là pháp … thuần nhất.
15. Tôn giả này sống tinh cần tinh
tấn … (như số 7 ở trên) … đối với các pháp thiện. Đây là pháp …
thuần nhất.
16. Tôn giả này đi đến Tăng chúng
… (như số 8 ở trên) … sự im lặng của bậc Thánh. Đây là pháp … thuần
nhất.
17. Tôn giả này sống tùy quán sanh
diệt trong năm thù uẩn… (như số 9 ở trên) … đây là thức chấm dứt,
đây là pháp đưa đến được ái mộ, được cung kính, được tu tập,
đưa đến Sa-môn hạnh, nhứt tâm thuần nhất.
Này các Tỷ-kheo, tám nhân này, tám
duyên này khiến cho căn bản Phạm hạnh chưa chứng được có thể chứng
được với trí tuệ, nếu chứng được thời đưa đến tăng trưởng,
tăng rộng, được tu tập, được viên mãn.
(III)(3) CÁC PHÁP KHÔNG ĐƯỢC ÁI MỘ
(1)
1. - Thành tựu tám pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý,
kính trọng và bắt chước. Thế nào là tám ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tán thán những người không được ái mộ, chỉ trích những người được
ái mộ, ưa lợi dưỡng, ưa được cung kính, không có lòng xấu hổ, không
có sợ hãi, ác dục và có tà kiến.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng
và bắt chước.
3. Thành tựu tám pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng
và bắt chước. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tám ?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không tán thán những người không được ái mộ, không chỉ trích những
người được ái mộ, không ưa lợi dưỡng, không ưa được cung kính, có
lòng xấu hổ, có sợ hãi, ít dục và có chánh kiến.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng và bắt
chước.
(IV) (4) CÁC PHÁP KHÔNG ĐƯỢC ÁI MỘ
(2)
1. - Thành tựu tám pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý,
kính trọng và bắt chước. Thế nào là tám ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ưa lợi dưỡng, ưa cung kính, ưa được tán thán, không biết thời, không
biết vừa đủ, không trong sạch, nói nhiều, mắng nhiếc quở trách đối
với các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng
và bắt chước.
3. Thành tựu tám pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng
và bắt chước. Thế nào là tám ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không ưa lợi dưỡng, không ưa cung kính, không ưa được tán thán, biết
thời, biết vừa đủ, trong sạch, không nói nhiều, không mắng nhiếc quở
trách đối với các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng và bắt
chước.
(V詠(5)
TÙY CHUYỂN THẾ GIỚI (1)
1. - Tám pháp thế gian này, này các
Tỷ-kheo, tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế
gian này. Thế nào là tám ?
2. Lợi dưỡng và không lợi dưỡng,
danh vọng và không danh vọng, chỉ trích và tán thán, lạc và khổ.
Tám pháp thế gian này, này các Tỷ-kheo,
tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này.
Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh vọng, không danh vọng
Chỉ trích và tán thán
An lạc và đau khổ
Những pháp này vô thường
Không thường hằng biến diệt
Biết chúng giữ chánh niệm
Bậc trí quán biến diệt
Pháp khả ái, không động
Không khả ái, không sân
Các pháp thuận hay nghịch
Được tiêu tan không còn
Sau khi biết con đường
Không trấn cấu không sầu
Chơn chánh biết sanh hữu
Đi đến bờ bên kia
(VI)(6) TÙY CHUYỂN THẾ GIỚI (2)
1.- Tám thế gian pháp này, này các
Tỷ-kheo, tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế
gian này. Thế nào là tám ?
2. Lợi dưỡng và không lợi dưỡng,
danh vọng và không danh vọng, chỉ trích và tán thán, an lạc và đau khổ.
Tám pháp thế gian này, này các Tỷ-kheo,
tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này.
3. Với kẻ phàm phu không nghe pháp,
này các Tỷ-kheo, sanh ra lợi dưỡng, không lợi dưỡng, danh vọng, chỉ trích,
tán thán, an lạc, đau khổ. Với vị Thánh đệ tử nghe pháp, cũng sanh ra lợi
dưỡng, không lợi dưỡng, danh vọng, chỉ trích, tán thán, an lạc, đau khổ.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có đặc
thù gì, thù thắng gì, có sai khác gì giữa vị Thánh có nghe pháp và kẻ
phàm phu có không nghe pháp ?
- Bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế
Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm chỉ đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương
tựa. Lành thay, bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn giảng cho ý nghĩa của lời nói
này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy lắng
nghe và suy niệm kỹ, ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế tôn nói như sau :
4. - Với kẻ phàm phu không nghe
pháp, này các Tỷ-kheo, khởi lên lợi dưỡng. Vị ấy không có suy tư :
"Lợi dưỡng này khởi lên nơi ta, lợi dưỡng ấy vô thường, biến
hoại". Vị ấy không như thật rõ biết … khởi lên không lợi dưỡng
… khởi lên danh vọng … khởi lên không danh vọng … khởi lên chỉ
trích … khởi lên tán thán … khởi lên an lạc … khởi lên khổ đau. Vị
ấy không có suy tư : "Khổ này khởi lên nơi ta, khổ ấy là vô thường
khổ, biến hoại". Vị ấy không như thật rõ biết, rằng lợi dưỡng
xâm nhập tâm của người ấy và an trú, không lợi dưỡng xâm nhập tâm của
người ấy và an trú, danh vọng xâm nhập tâm của người ấy và an trú,
không danh vọng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, chỉ trích xâm nhập
tâm của người ấy và an trú, tán thán xâm nhập tâm của người ấy và
an trú, an lạc xâm nhập tâm của người ấy và an trú, đau khổ xâm nhập
tâm của người ấy và an trú". Người ấy thuận ứng với lợi dưỡng
được khởi lên và nghịch ứng với không lợi dưỡng ; thuận ứng với
danh vọng được khởi lên và nghịch ứng với không danh vọng ; thuận ứng
với tán thán được khởi lên và nghịch ứng với chỉ trích ; thuận ứng
với an lạc được khởi lên và nghịch ứng với đau khổ ; Người ấy đầy
đủ thuận ứng, nghịch ứng như vậy, không có giải thoát khỏi sanh,
già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng, người ấy không thoát khỏi
khổ.
5. Với vị Thánh đệ tử có nghe
pháp, này các Tỷ-kheo, khởi lên lợi dưỡng. Vị ấy có suy tư : "Lợi
dưỡng này khởi lên nơi ta, lợi dưỡng ấy vô thường, biến hoại".
Vị ấy như thật rõ biết … khởi lên không lợi dưỡng … khởi lên
danh vọng … khởi lên không danh vọng … khởi lên chỉ trích … khởi
lên tán thán … khởi lên an lạc … khởi lên khổ đau. Vị ấy có suy tư
: "Khổ này khởi lên nơi ta, khổ ấy là vô thường khổ, biến hoại".
Vị ấy như thật rõ biết, rằng lợi dưỡng này không xâm nhập tâm của
vị ấy và an trú, lợi dưỡng xâm nhập tâm của người ấy và an trú,
danh vọng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, không danh vọng xâm nhập
tâm của người ấy và an trú, chỉ trích xâm nhập tâm của người ấy và
an trú, tán thán xâm nhập tâm của người ấy và an trú, an lạc xâm nhập
tâm của người ấy và an trú, đau khổ xâm nhập tâm của người ấy và
an trú". Người ấy không thuận ứng với lợi dưỡng được khởi lên
và không nghịch ứng với không lợi dưỡng ; không thuận ứng với danh vọng
được khởi lên và không nghịch ứng với không danh vọng ; không thuận
ứng với tán thán được khởi lên và không nghịch ứng với chỉ trích ;
không thuận ứng với an lạc được khởi lên và không nghịch ứng với
đau khổ ; Vị ấy do đoạn tận thuận ứng, nghịch ứng như vậy, nên giải
thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng, vị ấy
thoát khỏi khổ.
Đây là đặc thù, này các Tỷ-kheo,
đây là thù thắng, đây là sai biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe pháp
và kẻ phàm phu không nghe pháp.
Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh vọng, không danh vọng
Chỉ trích và tán thán
An lạc và đau khổ
Những pháp này vô thường
Không thường hằng biến diệt
Biết chúng giữ chánh niệm
Bậc trí quán biến diệt
Pháp khả ái, không động
Không khả ái, không sân
Các pháp thuận hay nghịch
Được tiêu tan không còn
Sau khi biết con đường
Không trấn cấu không sầu
Chơn chánh biết sanh hữu
Đi đến bờ bên kia
(VII)(7) DEVADATTA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Ràjagaha (Vương Xá) trên núi Gijjhakùta (Linh Thứu) sau khi Devadatta bỏ đi không
bao lâu. Tại đấy, nhân việc Devadatta, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo :
2. - Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thường thường quan sát sự vi phạm của mình. Lành thay, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thường thường quan sát sự vi phạm của người khác. Lành thay,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự chứng đạt của mình.
Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự chứng đạt
của người khác. Do bị tám phi diệu pháp chinh phục, tâm bị xâm chiếm,
này các Tỷ-kheo, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, địa ngục, sống tại đấy
cả một kiếp, không được cứu khỏi. Thế nào là tám ?
3. Này các Tỷ-kheo, bị lợi dưỡng
chinh phục, tâm bị xâm chiếm, Devadatta bị sanh vào đọa xứ, địa ngục
sống tại đấy cả một kiếp, không được cứu khỏi. Này các Tỷ-kheo,
không bị lợi dưỡng chinh phục, … bị danh vọng chinh phục … bị không
danh vọng chinh phục … bị cung kính chinh phục … bị không cung kính chinh
phục… bị ác dục chinh phục … bị ác bằng hữu chinh phục, tâm bị
xâm chiếm, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, địa ngục, sống tại đấy cả
một kiếp, không được cứu khỏi.
4. Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống chinh phục lợi dưỡng được sanh khởi … không lợi dưỡng được
sanh khởi … danh vọng được sanh khởi … không danh vọng được sanh khởi
… cung kính được sanh khởi … không cung kính được ác dục được sanh
khởi … ác bằng hữu được sanh khởi … Và này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do
duyên mục đích gì cần phải sống chinh phục lợi dưỡng được sanh khởi
… ?
Này các Tỷ-kheo, do sống không
chinh phục, lợi dưỡng được khởi lên, các lậu hoặc tổn hại nhiệt
não sanh khởi. Do sống chinh phục, lợi dưỡng được khởi lên, các lậu
hoặc tổn hại nhiệt não ấy không có mặt. Này các Tỷ-kheo, do sống
không chinh phục không lợi dưỡng được khởi lên, … danh vọng được
khởi lên … cung kính được khởi lên … không cung kính được khởi lên
… ác dục được khởi lên … ác bằng hữu được khởi lên, các lậu
hoặc hại nhiệt não sanh khởi. Do sống chinh phục ác bằng hữu khởi
lên, như vậy các lậu hoặc tổn hại nhiệt não ấy không có mặt. Này
các Tỷ-kheo, do duyên mục đích này, Tỷ-kheo sống chinh phục, lợi dưỡng
được khởi lên, … danh vọng được khởi lên … cung kính được khởi
lên … không cung kính được khởi lên … ác dục được khởi lên … ác
bằng hữu được khởi lên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải
học tập như sau :
5. "Ta sẽ sống chinh phục lợi
dưỡng được khởi lên … không lợi dưỡng được khởi lên … danh vọng
được khởi lên … không danh vọng được khởi lên … cung kính được
khởi lên … không cung kính được khởi lên … ác dục được khởi lên
… ác bằng hữu được khởi lên". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy
cần phải học tập.
(VIII) (8) TÔN GIẢ UTTARA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Mahisavatthu, trên núi Sankheyyaka, tại Dhavajàlikà. Lúc bấy giờ, Tôn giả
Uttara bảo các Tỷ-kheo …
2. Lành thay, này chư hiền, Tỷ-kheo
thường thường quan sát sự vi phạm của mình. Lành thay, này chư Hiền, Tỷ-kheo
thường thường quan sát sự vi phạm của người khác. Lành thay, này chư
Hiền, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự thành đạt của mình. Lành
thay, này chư Hiền, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự thành đạt của
người khác.
3. Lúc bấy giờ, đại vương
Vessavana đang đi từ phương Bắc đến phương nam, vì một vài công việc,
đại vương Vessavana nghe Tôn giả Uttara trú ở Mahisavatth, trên núi
Sankheyyaka, tại Dhavajàlikà thuyết pháp như vậy cho các Tỷ-kheo, :
"Lành thay, này chư Hiền, Tỷ-kheo thường thường quan sát … sự
thành đạt của người khác".
4. Rồi đại vương Vessavana như
người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi
ra, cũng vậy biến mất ở Mahisavatthu, trên núi Sankheyyaka, ở Dhavajàlikà
và hiện ra trước mặt chư Thiên ở cõi Ba mươi ba. Rồi đại vương
Vessavana đi đến Thiên chủ Sakka ; sau khi đến nói với Thiên chủ Sakka :
- Ngài có biết chăng tham gia Uttara
tại Mahisavatthu, trên núi trên núi Sankheyyaka, tại Dhavajàlikà thuyết pháp
cho các Tỷ-kheo như sau : "Lành thay, này chư Hiền, Tỷ-kheo thường thường
quan sát … sự thành đạt của người khác".
5. Rồi Thiên chủ Sakka như người
lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy
biến mất trước chư Thiên cõi trời Ba mươi ba, hiện ra ở Mahisavatthu, trên
núi trên núi Sankheyyaka, tại Dhavajàlikà, trước mặt Tôn giả Uttara. Rồi
Thiên chủ Sakka đi đến Tôn giả Uttara ; sau khi đến đảnh lễ tôn giả
Uttara rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên chủ Sakka nói với Tôn giả
Uttara :
- Thưa Tôn giả, đây là Tôn giả
Uttara tự nói hay là lời của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ?
6. - Vậy này Thiên chủ, ta sẽ làm
một ví dụ cho người. nhờ ví dụ ở đây, một số những người có
trí hiểu rõ ý nghĩa của lời nói. Ví như, này Thiên chủ, có một đống
lúa lớn không xa làng, hay thị trấn, và quần chúng từ nơi đống lúa ấy
mang lúa đi, hoặc trên đòn gánh, hoặc trong thùng, hoặc bên hông, hoặc với
bàn tay. Này Thiên chủ, nếu có ai đến đám quần chúng ấy và hỏi như
sau : "Các người mang lúa này từ đâu ? " Này Thiên chủ, đám quần
chúng ấy phải đáp như thế nào để có thể đáp một cách chơn chánh ?
- Thưa Tôn giả, đám quần chúng
ấy muốn đáp một cách chơn chánh, cần phải đáp như sau : "Thưa Tôn
giả, chúng tôi mang lúa từ nơi đống lúa lớn này".
Cũng vậy, này Thiên chủng, điều
gì khéo nói, tất cả là lời nói của Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Chánh Giác. Dựa trên lời ấy, dựa lên trên ấy, chúng tôi và các
người khác nói lên.
7. Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả ! Thật là khéo nói là lời nói này của
Tôn giả Uttara : "Tất cả là lời nói của Thế Tôn ấy, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác. Dựa trên lời ấy, dựa lên trên ấy,
chúng tôi và các người khác nói lên ". Một thời, thưa Tôn giả
Uttara, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá) tại núi Gijjhakùta, sau khi
Devadatta bỏ đi không bao lâu. Tại đấy, Thế Tôn nhân việc Devadatta, bảo
các Tỷ-kheo :
Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thường thường quan sát … sự vi phạm của mình … (xem 7, 2) … sống tại
đấy cả một kiếp, không thể cứu khỏi.
"Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống có thể chinh phục lợi dưỡng được sanh khởi, … không lợi dưỡng
được sanh khởi … danh vọng được sanh khởi … không danh vọng được
sanh khởi … cung kính được sanh khởi … không cung kính được sanh khởi
… ác dục được sanh khởi … ác bằng hữu được sanh khởi … "
8. "và này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
do duyên mục đích gì phải sống chinh phục lợi dưỡng được khởi lên
? Này các Tỷ-kheo, do sống không chinh phục lợi dưỡng được khởi lên,
các lậu hoặc, các tổn hại, nhiệt não sanh khởi. Do sống chinh phục lợi
dưỡng được khởi lên, như vậy, các lậu hoặc, các tổn hại, nhiệt
não không có mặt. Này các Tỷ-kheo, do sống chinh phục không lợi dưỡng
được khởi lên … danh vọng được khởi lên … không danh vọng được
khởi lên …cung kính được khởi lên … không cung kính được khởi lên
… ác dục được khởi lên … ác bằng hữu được khởi lên, các lậu
hoặc, các tổn hại, nhiệt não khởi lên, như vậy các lậu hoặc, các tổn
hại, nhiệt não ấy không có mặt. Này các Tỷ-kheo, do duyên mục đích
này, Tỷ-kheo phải sống chinh phục lợi dưỡng được khởi lên … không
lợi dưỡng được khởi lên … danh vọng được khởi lên … không danh vọng
được khởi lên …cung kính được khởi lên … không cung kính được khởi
lên … ác dục được khởi lên … ác bằng hữu được khởi lên. Do vậy,
này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập như sau :
9. Ta sẽ sống chinh phục lợi dưỡng
được khởi lên … không lợi dưỡng được khởi lên … danh vọng được
khởi lên … không danh vọng được khởi lên … cung kính được khởi lên
… không cung kính được khởi lên … ác dục được khởi lên … ác bằng
hữu được khởi lên". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải
học tập.
10. Cho đến, thưa Tôn giả Uttara,
trong bốn hội chúng giữa loài người : Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-Niganthà, nam cư
sĩ, nữ cư sĩ, pháp môn này không được một ai thiết lập. Thưa Tôn giả,
Tôn giả Uttara hãy học thuộc lòng pháp môn này. Thưa Tôn giả, Tôn giả
Uttara hãy thọ trì pháp môn này. Thưa Tôn giả, pháp môn này liên hệ đến
mục đích, là căn bản Phạm hạnh.
(XI) (9) TÔN GIẢ NANDA
1. - Này các Tỷ-kheo, nói mộ cách
chơn chánh về Nanda, có thể nói như sau : "Là Thiện nam tử". Này
các Tỷ-kheo, nói mộ cách chơn chánh về Nanda, có thể nói như sau : "Là
vị có sức mạnh". Này các Tỷ-kheo, nói mộ cách chơn chánh về Nanda,
có thể nói như sau : "Là vị có tịnh tín". Này các Tỷ-kheo, nói
mộ cách chơn chánh về Nanda, có thể nói như sau : "Là vị có ái dục
sắc bén".
Ai khác ngoài Nanda, này các Tỷ-kheo,
thành tựu chế ngự các căn, biết tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh
giác, chánh niệm tỉnh giác ? Nhờ vậy, Nanda có thể hành Phạm hạnh đầy
đủ thanh tịnh.
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là sự chế ngự
các căn của Nanda.
Này các Tỷ-kheo, nếu Nanda phải
nhìn về phương Đông, tập trung tất cả tâm, Nanda nhìn về hướng Đông
và suy nghĩ : "Như vậy, khi Ta đang nhìn về hường Đông, thời tham,
ưu, các ác bất thiện pháp sẽ không có xâm nhập". Như vậy, vị ấy
tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, nếu Nanda phải nhìn về phương Tây … nhìn về
phương Bắc … về phương Nam … ngước nhìn lên Trên … cúi nhìn về phương
Dưới … hay nhìn về hướng giữa các phương chính, tập trung tất cả
tâm, Nanda nhìn về hướng giữa các phương chính và suy nghĩ : "Như vậy,
khi ta đang nhìn về hướng giữa các phương chính, thời tham, ưu, các ác bất
thiện pháp sẽ không có xâm nhập ". Như vậy, ở đây, vị ấy tỉnh
giác.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Nanda
chế ngự các căn.
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda tiết độ trong
ăn uống.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda với
chánh tư duy thọ dụng các món ăn, không phải để vui đùa, không phải để
đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà
chỉ để thân này được an trú và được bảo dưỡng, để thân này khỏi
bị thương hại, để hỗ trợ Phạm hạnh, nghĩ rằng : "Như vậy chúng
ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới,
và chúng ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Nanda
tiết độ trong ăn uống.
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda
chú tâm cảnh giác.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda ban
ngày đi kinh hành hay trong khi ngồi, Nanda tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp
chướng ngại. Ban đêm canh một đi kinh hành, hay trong khi ngồi, Nanda tẩy sạch
tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm, canh giữa, Nanda nằm dáng con
sư tử, bên hông tay phải, một chân đặt trên chân kia, chánh niệm tỉnh
giác, tâm nghĩ đến thức dậy lại. Ban đêm, canh cuối thức dậy, đi kinh
hành hay trong khi ngồi, Nanda tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại.
Này các Tỷ-kheo, như vậy Nanda chú
tâm cảnh giác.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda
chánh niệm tỉnh giác.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda rõ
biết khi các thọ khởi lên, rõ biết khi các thọ an trú, rõ biết khi các
thọ chấm dứt … rõ biết khi các tưởng … rõ biết khi các tầm nổi
lên, rõ biết khi các tầm an trú, rõ biết khi các tầm chấm dứt.
Này các Tỷ-kheo, đây là Nanda
chánh niệm tỉnh giác.
Này các Tỷ-kheo, ai khác ngoài
Nanda, này các Tỷ-kheo, thành tựu chế ngự các căn, biết tiết độ trong
ăn uống, chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác ? Nhờ vậy, Nanda có thể
hành Phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh.
(X) (10) CÁC ĐỒ RÁC
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Campà, trên bờ hồ Gaggarà. Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo
phạm tội. Vị ấy bị các Tỷ-kheo buộc tội, tránh né vấn đề với một
vấn đề khác, hướng câu chuyện ra ngoài, và hiện tướng phẫn nộ, sân
hận và bất mãn. Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo :
2. - Này các Tỷ-kheo, hãy đuổi
người này ra ! Này các Tỷ-kheo, hãy tân xuất người này ra ! Này các Tỷ-kheo,
người này đáng bị khai trừ.
Sao để con cháu người khác làm
phiền nhiễu các Ông ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi nào một người đi
ra, đi vào, nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi tay, mang y sanghàti, bát và
y, như vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác, cho đến không các Tỷ-kheo
không thấy phạm tội. Nhưng khi các Tỷ-kheo thấy phạm tội, họ biết người
này là như sau : "Người này là Sa-môn ô uế, họ là Sa-môn rơm rạ, là
Sa-môn rác rưởi. Khi biết như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì sao
? Chớ để cho người ấy làm ô uế các Sa-môn hiền thiện khác.
3. Ví như, này các Tỷ-kheo, khi một
ruộng lúa mì đã đầy đủ cây lúa mì ô nhiễm, cây lúa mì rơm rạ, cây
lúa mì rác rưởi được mọc lên với rễ như vậy, giống như các cây
lúa mì hiền thiện khác. Với cành lá như vậy, giống như những cây lúa
mì hiền thiện khác ; Với lá là như vậy, giống như những cây lúa mì hiền
thiện khác, cho đến khi nào đầu ngọn lúa chưa mọc ra. Khi đầu ngọn lúa
mọc ra, họ biết : "Đây là cây lúa mì hoang, đây là cây lúa mì rơm
rạ, cây lúa mì rác rưởi". Sau khi biết như vậy, họ nhổ cây lúa
mì ấy lên, luôn cả rễ, và quăng cây lúa mì ấy ra khỏi ruộng lúa. Vì
cớ sao ? Họ nói : "Đừng để cho cây lúa mì làm uế nhiễm các cây
lúa mì hiền thiện khác".
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây,
khi nào một người đi ra, đi vào, nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi
tay, mang y sanghàti, bát và y, như vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác,
cho đến không các Tỷ-kheo không thấy người ấy phạm tội. Nhưng khi các
Tỷ-kheo thấy người ấy phạm tội, họ biết được : "Người này
là Sa-môn giả hiệu, Sa-môn rơm, Sa-môn rác". Sau khi biết người ấy là
như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì cớ sao ? "Chớ để cho
người ấy làm uế nhiễm các Sa-môn hiền thiện khác ".
4. Ví như, này các Tỷ-kheo, khi một
đống lúa lớn đang được sàng quạt, tại đấy, các hột lúa nào chắc
cứng, có hạt, chúng được chất thành đống một bên ; còn những hạt
lúa nào yếu kém, chỉ là rơm, thời được gió thổi tạt qua một bên,
và người chủ, với cây chổi, quét chúng còn xa hơn nữa. Vì cớ sao ?
"Chớ để cho lúa ấy làm uế nhiễm các hạt lúa hiền thiện khác
".
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây,
khi nào một người đi ra, đi vào, nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi
tay, mang y sanghàti, bát và y, như vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác,
cho đến không các Tỷ-kheo không thấy người ấy phạm tội. Nhưng khi các
Tỷ-kheo thấy người ấy phạm tội, họ biết được : "Người này
là Sa-môn ô uế, Sa-môn rơm rạ, Sa-môn rác rưởi". Sau khi biết người
ấy là như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì cớ sao ? "Chớ để
cho người ấy làm uế nhiễm các Sa-môn hiền thiện khác ".
5. Ví như, này các Tỷ-kheo, một người
cần một số ống nước, lấy một cây búa sắc bén và đi vào rừng, và
với cán cây búa ấy, gõ vào thân cây này hay thân cây khác. Ở đây, những
cây nào chắc cứng, có lõi, khi được cán búa gõ vào, tiếng vang dội
được tròn cứng. Còn những cây nào ở giữa bị mục nát, không có lõi
(đầy ứ bất tịnh) nhơ bẩn, khi được cán búa gõ vào, tiếng vang dội
lép xẹp. Người ấy chặt cây ấy, gốc ấy ; sau khi chặt gốc, người
ấy chặt ngọn ; sau khi chặt ngọn, người ấy rửa phía trong của cây cho
thật sạch ; khi rửa phía trong cho thật sạch rồi, người ấy nối liền
các ống ấy lại.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây,
khi nào một người đi ra, đi vào, nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi
tay, mang y sanghàti, bát và y, như vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác,
cho đến không các Tỷ-kheo không thấy người ấy phạm tội. Nhưng khi các
Tỷ-kheo thấy người ấy phạm tội, họ biết được : "Người này
là Sa-môn giả hiệu, Sa-môn rơm rạ, Sa-môn rác rưởi". Sau khi biết
người ấy là như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì cớ sao ?
"Chớ để cho người ấy làm uế nhiễm các Sa-môn hiền thiện khác
".
Thầy có thể biết được
Người này Thầy chung sống
Ái dục và phẫn nộ
Dèm pha và ngoan cố
Não hại và tật đố
Xan tham và man trá
Nói nhu hòa giữa người
Nói như lời Sa-môn
Che giấu, làm việc ác
Ác kiến, thiếu kính trọng
Quanh co và nói láo
Biết vậy, người làm gì ?
Tất cả phải đồng tình
Cùng tránh né người ấy
Hãy tẩn xuất rơm rác
Hãy tống cổ uế trược
Từ nay hãy đuổi xa
Kẻ nói nhiều vô ích
Không phải là Sa-môn
Nhưng hiện tướng Sa-môn
Tẩn xuất kẻ ác dục
Ác hạnh, ác uy nghi
Sống với người thanh tịnh
Sống trong sạch chánh niệm
Hòa hợp biết khôn khéo
Hãy chấm dứt khổ đau
*
* *
II. PHẨM LỚN
(I) (11) VERANJÀ
1. Như vầy tôi nghe :
Một thời, Thế Tôn trú ở
Veranjà, dưới gốc cây Nalerupucimanda. Rồi Bà-la-môn Veranjà đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến, nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm ; sau
khi nói nên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Veranjà bạch Thế Tôn :
- Thưa Tôn giả Gotama, tôi có nghe
như sau : "Sa-môn Gotama không đảnh lễ, không đứng dậy, hay không mời
ghế ngồi các Bà-la-môn già yếu, tuổi lớn trưởng lão, đời đã được
trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời". Thưa Tôn giả Gotama, sự
thể là như vậy : "Tôn giả Gotama không đảnh lễ, không đứng dậy,
hay không mời ghế ngồi các Bà-la-môn già yếu, tuổi lớn trưởng lão, đời
đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời". Như vậy,
thưa Tôn giả Gotama, như vậy là không đầy đủ.
- Này Bà-la-môn, Ta không thấy một
ai trong thế giới chư Thiên, trong thế giới Ác ma, trong thế giới Phạm
thiên, trong quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người mà ta
có thể đảnh lễ người ấy, đứng dậy hay mời ghế ngồi. Này
Bà-la-môn, nếu Như Lai đảnh lễ, hay đứng dậy, hay mời ngồi ai, thời
đầu người ấy bị bể tan.
2. - Tôn giả Gotama, thật thiếu ý
vị !
- Này Bà-la-môn, có pháp môn này,
do pháp môn ấy, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như sau :
"Sa-môn Gotama thật thiếu ý vị ". Này Bà-la-môn, các sắc vị,
thanh vị, hương vị, vị vị, xúc vị, các vị ấy, Như Lai đã đoạn tận
chúng, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể
tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đây
là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể
nói như sau : "Sa-môn Gotama thật thiếu ý vị ". Nhưng Ông nói
không phải với ý nghĩa này.
3. "Tôn giả Gotama thiếu tài sản
".Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về ta một
cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama thiếu tài sản
".Này Bà-la-môn, các sắc tài sản, thanh tài sản, hương tài sản, vị
tài sản, xúc tài sản, các tài sản ấy, Như Lai đã đoạn tận chúng, chặt
đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể tái sanh,
làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đây là pháp
môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như
sau : "Sa-môn Gotama thiếu tài sản". Nhưng Ông nói không phải với
ý nghĩa này.
4. "Tôn giả Gotama chủ trương
thuyết không hành động". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn
ấy, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn
Gotama chủ trương thuyết không hành động". Này Bà-la-môn, ta nói
không hành động về thân làm ác, về lời nói ác, về ý nghĩ ác. Ta nói
không hành động về các pháp ác, bất thiện. Này Bà-la-môn, đây là pháp
môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như
sau : "Sa-môn Gotama chủ trương thuyết không hành động". Nhưng Ông
nói không phải với ý nghĩa này.
5. "Tôn giả Gotama chủ trương
thuyết đoạn diệt ". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy,
ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama chủ
trương thuyết đoạn diệt ". Này Bà-la-môn, Ta tuyên bố đoạn diệt
tham, sân, si. Ta tuyên bố đoạn diệt các ác, bất thiện pháp. Này
Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách chơn
chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama chủ trương thuyết đoạn diệt
". Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này.
6. "Tôn giả Gotama là người nhàm
chán". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về ta một
cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama là người nhàm
chán". Này Bà-la-môn, Ta nhàm chán thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ
ác. Ta nhàm chán sự thành tựu các pháp ác, bất thiện. Này Bà-la-môn, đây
là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể
nói như sau : "Sa-môn Gotama là người nhàm chán ". Nhưng Ông nói
không phải với ý nghĩa này.
7. "Tôn giả Gotama là người chủ
trương hư vô chủ nghĩa". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn
ấy, ai nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn
Gotama là người chủ trương hư vô". Này Bà-la-môn, Ta thuyết pháp để
hư vô tham, sân, si. Ta thuyết pháp để hư vô các pháp ác, bất thiện.
Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách
chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama là người chủ trương
hư vô ". Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này.
8. "Tôn giả Gotama là người khổ
hạnh". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về ta một
cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama là người khổ hạnh
". Này Bà-la-môn, Ta tuyên bố rằng cần phải khổ hạnh các pháp ác,
bất thiện, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Này Bà-la-môn, với ai,
các pháp ác, bất thiện, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác được tu
khổ hạnh, được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm
cho như thân cây tala, được làm cho không thể tái sanh, được làm cho
không thể sanh khởi trong tương lai, Ta tuyên bố rằng người ấy là người
khổ hạnh. Này Bà-la-môn, với Như Lai, các pháp ác, bất thiện, thân làm
ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác đã được tu khổ hạnh, được đoạn tận,
được cắt đứt từ gốc rễ, được làm cho như thân cây tala, được làm
cho không thể tái sanh, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.
Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về ta một cách
chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama là người khổ hạnh".
Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này.
9. "Tôn giả Gotama chủ trương
không nhập thai". Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai
nói về ta một cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama chủ
trương không nhập thai". Này Bà-la-môn, với ai mà khả năng nhập thai
tái sanh trong tương lai đã đoạn tận, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như
thân cây tala, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong
tương lai, Ta tuyên bố rằng người ấy chủ trương không nhập thai. Này
Bà-la-môn, Như Lai đã đoạn tận khả năng nhập thai tái sanh trong tương
lai đã đoạn tận, đã chặt đứt từ gốc rễ, đã làm cho như thân cây
tala, đã làm cho không thể tái sanh, đã làm cho không thể sanh khởi trong tương
lai. Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về ta một
cách chơn chánh có thể nói như sau : "Sa-môn Gotama chủ trương không nhập
thai". Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này.
Ví như, này Bà-la-môn, có tám, mười
hay mười hai cái trứng của con gà mái, được con gà mái khéo ấp nằm,
ấp nóng và ấp dưỡng, và con gà nào trong những con gà con ấy, đầu tiên
hết, lấy chân, móng, đầu, miệng hay mỏ phá vỡ vỏ trứng gà, ra ngoài
một cách an toàn, con ấy được gọi là con trưởng hay con trẻ nhất ?
- Thưa Tôn giả Gotama, con ấy phải
được gọi là con trưởng. Thật vậy, thưa Tôn giả Gotama, con ấy là con
trưởng trong tất cả các con gà ấy.
10. - Cũng vậy, này Bà-la-môn, khi
ta vì chúng sanh bị vô minh chi phối, như sanh ra từ trứng, bị bao trùm, đã
phá vỡ vỏ trứng vô minh, một mình chứng được vô thượng Chánh Đẳng
Giác ở đời, này Bà-la-môn, thật sự Ta là vị đệ nhất, tối thắng
ở đời. Lại nữa, này Bà-la-môn, Ta tinh cần tinh tấn, không biếng nhác.
Ta trú niệm, không có thất niệm, thân được khinh an, không có tháo động,
định tĩnh, nhất tâm.
11. Này Bà-la-môn, ly dục, ly pháp bất
thiện, Ta đã chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh, có tầm, có tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, Ta chứng đạt
và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm,
không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Ly hỷ Ta trú xả, chánh niệm tỉnh giác,
thân cảm sự lạc thọ, mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú. Ta
chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã
cảm thọ từ trước, Ta chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ,
không lạc, xả niệm, thanh tịnh.
12. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững
chắc, không dao động, như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng
minh. Ta nhớ đến đời sống quá khứ, một đời, hai đời, ba đời, bốn
đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời,
năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, nhiều hoại
kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng : "Tại
chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giao cấp như thế
này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau
khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có
tên như thế này, dòng họ như thế này, giao cấp như thế này, thọ khổ
lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ
nọ, Ta được sanh ra ở đây". Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống
quá khứ cùng với các nét đại cương và các nét chi tiết.
Này Bà-la-môn, đây là trong canh một,
Ta chứng được minh thứ nhất, vô minh diệt, minh sanh, bóng tối diệt,
ánh sáng sanh. Do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Này
Bà-la-môn, đây là sự xuất sanh thứ nhất của Ta, như con gà con sanh ra khỏi
vỏ trứng.
13. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững
chắc, không dao động, như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về
sanh tử của chúng sanh. Với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự
sống và sự chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ
liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất
hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ ; những hạng chúng sanh này thành tựu
thân làm ác, thành tựu miệng nói ác, thành tựu ý nghĩ ác ; phỉ báng
các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người
này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục. Còn những hạng chúng sanh nào, thành tựu thân làm lành, thành
tựu miệng nói lành, thành tựu ý nghĩ lành, không phỉ báng các bậc
Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này,
sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, Thiên giới,
cõi đời này. Như vậy, với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự
sống và sự chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ
liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất
hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
Này Bà-la-môn, đây là trong canh giữa,
Ta chứng được minh thứ hai, vô minh diệt, minh sanh, bóng tối diệt, ánh
sáng sanh. Do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Này Bà-la-môn,
đây là sự xuất sanh thứ hai của Ta, như con gà con sanh ra khỏi vỏ trứng.
14. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững
chắc, không dao động, như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí.
Ta biết như thật : "Đây là khổ", biết như thật : "Đây là
khổ tập", biết như thật : "Đây là Khổ diệt", biết như thật
: "Đây là con đường đưa đến Khổ diệt", biết như thật :
"Đây là những lậu hoặc", biết như thật : "Đây là nguyên
nhân của lậu hoặc ", biết như thật : "Đây là nguyên nhân của
các lậu hoặc diệt", biết như thật : "Đây là con đường đưa
đến diệt". Do biết như vậy, thấy như vậy, tâm của ta thoát khỏi
lậu dục, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân
đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết : "Sanh đã diệt, Phạm
hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại, không có đời
sống nào khác nữa". Này Bà-la-môn, đây là trong canh cuối, Ta chứng
được minh thứ ba, vô minh diệt, minh sanh, bóng tối diệt, ánh sáng sanh.
Do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Này Bà-la-môn, đây là sự
xuất sanh thứ ba của Ta, như con gà con sanh ra khỏi vỏ trứng.
15. Được nghe nói như vậy, Bà-la-môn
Veranja bạch Thế Tôn :
- Đệ nhất là Tôn giả Gotama ! Tối
thắng là Tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama ! Thật vi
diệu thay, thưa Tôn giả Gotama ! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng
dậy những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ
đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối,
để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được
Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con xin quy y Tôn giả
Gotama, quy y pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ
tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(II) (12) TƯỚNG QUÂN SÌHA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Vesàli (Tỳ-xá-ly), tại Mahàvana (Đại Lâm), ở Kùtàgàrasàla (ngôi nhà có
nóc nhọn). Lúc bấy giờ rất nhiều vị Licchavi là các bậc có danh tiếng,
có danh tiếng, ngồi tụ họp ở hội trường, dùng nhiều phương tiện tán
thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng.
2. Lúc bấy giờ tướng quân Sìha
là đệ tử của Niganthà ngồi trong hội chúng ấy. Rồi tướng quân Sìha
suy nghĩ như sau : "Không nghi ngờ gì nữa, Thế Tôn ấy là bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, vì rằng nhiều vị Licchavi này có danh tiếng,
có danh tiếng ngồi tụ họp ở hội trường, dùng nhiều phương tiện tán
thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng. Vậy ta hãy đi đến yết kiến
vị Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
3. Rồi tướng quân Sìha đi đến
Niganthà, Nàtaputta, sau khi đến, thưa với Niganthà Nàtaputta :
- Thưa Tôn giả, tôi muốn đi đến
yết kiến Sa-môn Gotama.
- Này Sìha, sao Ông chủ trương hành
động lại đi đến yết kiến Sa-môn Gotama, người chủ trương không hành
động ? Này Sìha, Sa-môn Gotama chủ trương không hành động, thuyết pháp
không hành động và huấn luyện các đệ tử như vậy. Rồi tướng quân
Sìha, ý muốn đi đến yết kiến Thế Tôn bị dập tắt.
4. Lần thứ hai, rất nhiều vị
Licchavi là các bậc có danh tiếng, có danh tiếng, ngồi tụ họp ở hội trường,
dùng nhiều phương tiện tán thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng.
Lần thứ hai, tướng quân Sìha suy nghĩ như sau : "Không nghi ngờ gì nữa,
Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, vì rằng nhiều vị
Licchavi này có danh tiếng, có danh tiếng ngồi tụ họp ở hội trường, dùng
nhiều phương tiện tán thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng. Vậy
ta hãy đi đến yết kiến vị Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
Rồi tướng quân Sìha đi đến
Niganthà, Nàtaputta, sau khi đến, thưa với Niganthà Nàtaputta :
- Thưa Tôn giả, tôi muốn đi đến
yết kiến Sa-môn Gotama.
- Này Sìha, sao Ông chủ trương hành
động lại đi đến yết kiến Sa-môn Gotama, người chủ trương không hành
động ? Này Sìha, Sa-môn Gotama chủ trương không hành động, thuyết pháp
không hành động và huấn luyện các đệ tử như vậy.
Rồi tướng quân Sìha, lần thứ
hai, ý muốn đi đến yết kiến Thế Tôn bị dập tắt.
5. Lần thứ ba, rất nhiều vị
Licchavi là các bậc có danh tiếng, có danh tiếng, ngồi tụ họp ở hội trường,
dùng nhiều phương tiện tán thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng.
Lần thứ ba, tướng quân Sìha suy nghĩ như sau : "Không nghi ngờ gì nữa,
Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, vì rằng nhiều vị
Licchavi này có danh tiếng, có danh tiếng ngồi tụ họp ở hội trường, dùng
nhiều phương tiện tán thán Phật, tán thán pháp, tán thán chúng Tăng. Các
Niganthà sẽ làm gì được cho ta, nếu họ được hỏi ý kiến hay không hỏi
ý kiến. Vậy ta không hỏi ý kiến Niganthà, đi đến yết kiến vị Thế Tôn
ấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
Rồi tướng quân Sìha, vào giữa trưa
với khoảng năm trăm cỗ xe, đi khỏi Vesàli để yết kiến Thế Tôn. Đi
xe cho đến đoạn đất còn đi xe được, rồi xuống xe đi bộ vào trong
khu vườn. Rồi tướng quân Sìha đi đến Thế Tôn ; sau khi đến đảnh lễ
Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, tướng quân
Sìha bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, con có được nghe
: "Sa-môn Gotama chủ trương không hành động, thuyết pháp về không
hành động và huấn luyện các đệ tử như vậy". Bạch Thế Tôn, họ
nói như sau : " Sa-môn Gotama chủ trương không hành động, thuyết pháp
về không hành động và huấn luyện các đệ tử như vậy". Bạch Thế
Tôn, họ nói về Thế Tôn như vậy, họ có xuyên tạc Thế Tôn với điều
không thật chăng ? Và họ trả lời có thuận pháp với pháp không, và những
ai như pháp thuyết đúng pháp không có lý do để chỉ trích ? Bạch Thế
Tôn, chúng con không muốn xuyên tạc Thế Tôn.
6. - Này Sìha, có pháp môn, do pháp
môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "Sa-môn
Gotama chủ trương không hành động, thuyết pháp về không hành động và
huấn luyện các đệ tử như vậy"
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn
ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn Gotama
chủ trương hành động, thuyết pháp về hành động và huấn luyện các đệ
tử như vậy"
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn
ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn Gotama
chủ trương đoạn diệt, thuyết pháp về đoạn diệt và huấn luyện các
đệ tử như vậy"
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn
ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn Gotama
là người chủ trương hư vô, thuyết pháp về hư vô và huấn luyện các
đệ tử như vậy"
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn
ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn Gotama
là người khổ hạnh, thuyết pháp khổ hạnh và huấn luyện các đệ tử
như vậy"
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn
ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn Gotama
là người chủ trương không nhập thai, thuyết pháp về không nhập thai và
huấn luyện các đệ tử như vậy"
Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn
ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "Sa-môn Gotama
là người an ủi, thuyết pháp an ủi và huấn luyện các đệ tử như vậy"
7. Và này Sìha, thế nào là pháp
môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói :
"Sa-môn Gotama chủ trương không hành động, thuyết pháp về không hành
động và huấn luyện các đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, ta tuyên bố về không
hành động đối với thân làm ác, miệng nói ác, và ý nghĩ ác. Ta tuyên bố
về không hành động đối với các pháp ác, bất thiện.
Và này Sìha, thế nào là pháp môn,
do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "
Sa-môn Gotama chủ trương hành động, thuyết pháp về hành động và huấn
luyện các đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, ta tuyên bố về hành động
đối với thân làm lành, miệng nói lành, và ý nghĩ lành. Ta tuyên bố về
hành động đối với các thiện pháp.
Và này Sìha, thế nào là pháp môn,
do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "
Sa-môn Gotama chủ trương đoạn diệt, thuyết pháp về đoạn diệt và huấn
luyện các đệ tử như vậy"
Và này Sìha, đây là pháp môn, do
pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "
Sa-môn Gotama chủ trương đoạn diệt, thuyết pháp về đoạn diệt và huấn
luyện các đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, ta tuyên bố về đoạn diệt
tham, sân, si. Ta tuyên bố về đoạn diệt đối với các pháp ác, bất thiện.
Và này Sìha, đây là pháp môn, với pháp môn ấy nếu nói một cách chơn
chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn Gotama chủ trương đoạn diệt, thuyết
pháp về đoạn diệt và huấn luyện các đệ tử như vậy"
Và này Sìhà, thế nào là pháp
môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói :
" Sa-môn Gotama là người nhàn chán, thuyết pháp về nhàm chán và huấn
luyện các đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, ta nhàm chán đối với thân
làm ác, miệng nói ác, và ý nghĩ ác. Ta nhàm chán đối với sự thành tựu
các pháp ác, bất thiện.
Và này Sìhà, đây là pháp môn, do
pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "
Sa-môn Gotama là người nhàn chán, thuyết pháp về nhàm chán và huấn luyện
các đệ tử như vậy".
Và này Sìhà, thế nào là pháp môn
do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "
Sa-môn Gotama là người chủ trương hư vô, thuyết pháp về hư vô và huấn
luyện các đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, ta thuyết pháp để hư vô
tham, sân, si. Ta thuyết pháp để hư vô các pháp ác bất thiện.
Này Sìha, đây là pháp môn, do pháp
môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn
Gotama là người chủ trương hư vô, thuyết pháp về hư vô và huấn luyện
các đệ tử như vậy".
Và này Sìhà, thế nào là pháp
môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói :
" Sa-môn Gotama là người khổ hạnh, thuyết pháp khổ hạnh và huấn
luyện các đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, Ta tuyên bố cần phải khổ
hạnh các pháp ác bất thiện, kể cả thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ
ác. Này Sìha, với ai, pháp ác bất thiện, thân làm ác, miệng nói ác, ý
nghĩ ác, được tu khổ hạnh, được đoạn tận, được chắt đứt từ gốc
rễ, được làm cho như thân cây tala, được làm cho không thể tái sanh,
được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai, Ta tuyên bố người ấy
là người khổ hạnh.
Này Sìha, đối với Như Lai, các
pháp ác, bất thiện cần phải khổ hạnh này đã được đoạn tận chúng,
chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể tái
sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Này Sìha, đây là pháp
môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói :
" Sa-môn Gotama là người khổ hạnh, thuyết pháp khổ hạnh và huấn
luyện các đệ tử như vậy".
Và này Sìha, thế nào là pháp môn,
do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : "
Sa-môn Gotama là người chủ trương không nhập thai, thuyết pháp về không
nhập thai và huấn luyện các đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, với ai đã đoạn tận sự
nhập thai trong tương lai, sự tái sanh, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như
thân cây tala, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong
tương lai. Ta tuyên bố người ấy là người chủ trương không nhập thai.
Này Sìha, Như Lai đã đoạn tận sự nhập thai trong tương lai, sự tái
sanh, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể
tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.
Này Sìha, đây là pháp môn, do pháp
môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói : " Sa-môn
Gotama là người chủ trương không nhập thai, thuyết pháp về không nhập
thai và huấn luyện các đệ tử như vậy".
Và này Sìha, thế nào là pháp môn,
do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có thể nói :
"Sa-môn Gotama là người an ủi, thuyết pháp an ủi và huấn luyện các
đệ tử như vậy" ?
Này Sìha, Ta là người an ủi với
tối thượng an ủi, Ta thuyết pháp về an ủi, Ta huấn luyện các đệ tử
như vậy. Này Sìha, đây là pháp môn, với pháp môn ấy, nếu nói một
cách chơn chánh về ta, có thể nói : "Sa-môn Gotama là người an ủi,
thuyết pháp an ủi và huấn luyện các đệ tử như vậy"
8. Khi được nói như vậy, tướng
quân Sìha bạch Thế Tôn :
- Thật vi diệu thay ! Bạch Thế
Tôn ! Thật vi diệu thay ! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những
gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho
kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt
có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng
nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Vậy nay con xin quy y Thế Tôn,
quy y pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư
sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
- Này Sìha, hãy chín chắn suy tư, hãy
chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông.
- Bạch Thế Tôn, con càng bội phần
hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con : "
Này Sìha, hãy chín chắn suy tư, hãy chín chắn suy tư là tốt đẹp với những
người trứ danh như Ông". Bạch Thế Tôn, nếu các ngoại đạo được
con làm đệ tử, họ sẽ trương cờ lên và tuyên bố : "Tướng quân
Sìha đã trở thành đệ tử của chúng tôi". Nhưng Thế Tôn lại nói với
con : " Này Sìha, hãy chín chắn suy tư, hãy chín chắn suy tư là tốt đẹp
với những người trứ danh như Ông. Bạch Thế Tôn, lần thứ hai con xin
quy y Thế Tôn, quy y pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con
làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
- Này Sìha, đã từ lâu gia đình
Ông như là giếng nước mưa nguồn cho các người Niganthà. hãy cúng dường
những món ăn cho những ai đến với Ông.
- Bạch Thế Tôn, con lại bội phần
hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con : "
Này Sìha, đã từ lâu gia đình Ông như là giếng nước mưa nguồn cho các
người Niganthà. hãy cúng dường những món ăn cho những ai đến với
Ông". Bạch Thế Tôn, con nghe như sau, Sa-môn Gotama nói : "Chỉ bố
thí cho Ta, chớ bố thí cho các người khác. Chỉ bố thí cho đệ tử Ta,
chớ bố thí cho đệ tử các người khác. Chỉ bố thí cho Ta mới có phước
lớn, bố thí cho những người khác không có phước lớn. Chỉ bố thí cho
đệ tử Ta mới có phước lớn, bố thí cho đệ tử những người khác
không có phước lớn". Nhưng Thế Tôn lại khuyến khích con bố thí cho
Niganthà.
Bạch Thế Tôn, và chúng con ở đây
sẽ biết thời nên làm. Bạch Thế Tôn, lần thứ ba con xin quy y Thế Tôn,
quy y pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư
sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
9. Rồi Thế Tôn thuận thứ thuyết
pháp cho tướng quân Sìha, tức là thuyết về bố thí, thuyết về giới,
thuyết về các cõi Trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm
ô của các dục, những lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết tướng quân
Sìha, tâm đã sẵn sàng, tâm đã như thuận, tâm không triền cái, tâm được
phần khởi, tâm được hoan hỷ, Ngài mới thuyết những pháp được chư
Phật tán dương đề cao : "Khổ, Tập, Diệt, Đạo". Cũng như một
tấm vải thuần bạch, các chấm đen được gột rửa, rất dễ thấm màu
nhuộm. Cũng vậy, chính tại chỗ ngồi ấy, pháp nhãn xa tràn ly cấu khởi
lên, tất cả pháp ấy đều bị tiêu diệt.
10. Rồi tướng quân Sìha thấy
pháp, chứng pháp, biết pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ vượt qua, do sự
trừ diệt, đạt được vô sở úy, không y cứ người khác đối với các
pháp của bậc Đạo sư. (Tướng quân Sìha) bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nhận
lời mời của con, ngày mai tới dùng cơm với chúng Tỷ-kheo.
Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi tướng
quân Sìha biết được Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi đi ra. Rồi tướng
quân cho gọi một người : Này người kia, hãy tìm cho thịt tươi.
Rồi tướng quân Sìha, sau đêm ấy
tại trú xứ của mình, cho soạn các món ăn thượng vị, loại cứng và mềm,
rồi cho người tới báo tin với Thế Tôn : "Bạch Thế Tôn, nay đã đến
thời. Tại trú xứ của tướng quân Sìha, món ăn đã sẵng sàng".
11. Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng,
đắp y, cầm y bát, đến trú xứ của tướng quân Sìha ; sau khi đến, ngồi
xuống một chỗ đã soạn sẵn, với chúng Tỷ-kheo. Lúc bấy giờ nhiều người
Niganthà ở Vesàli, từ đường lớn này đến đường lớn khác, từ đường
hẻm này đến đường hẻm khác, múa tay la lớn : "Hôm nay, tướng quân
Sìha đã giết một con thú lớn, và một bữa cơm được soạn cho Sa-môn
Gotama, và Sa-môn tuy biết vậy, vẫn ăn món thịt được sửa soạn, do duyên
vì mình được sửa soạn ra". Rồi một người đi đến tướng quân
Sìha, sau khi đến, nói nhỏ vào tai tướng quân Sìha, : "Thưa Tôn giả,
Tôn giả có biết chăng ? Nhiều Niganthà ở Vesàli, từ đường lớn này đến
đường lớn khác, từ đường hẻm này đến đường hẻm khác, múa tay la
lớn : "Hôm nay, tướng quân Sìha đã giết một con thú lớn, và một bữa
cơm được soạn cho Sa-môn Gotama, và Sa-môn tuy biết vậy, vẫn ăn món thịt
được sửa soạn, do duyên vì mình được sửa soạn ra". - Thôi vừa rồi,
này bạn. Đã lâu rồi, các Tôn giả ấy muốn chỉ trích Phật, muốn chỉ
trích Pháp, muốn chỉ trích các chúng Tăng. Nhưng các Tôn giả ấy không
làm hại gì được Thế Tôn với những lời xuyên tạc không có thật, trống
rỗng, láo khoét. Và chúng ta không vì sinh mạng lại cố ý sát hại sinh mạng
của loài hữu tình.
12. Rồi tướng quân Sìha tự tay
mình hầu hạ và làm cho thỏa mãn chúng Tỷ-kheo với đức Phật và người
cầm đầu các món ăn thượng vị, loại cứng và mềm. Rồi tướng quân
Sìha, sau khi biết Thế Tôn ăn đã xong, bàn tay đã rời khỏi bát, liền ngồi
xuống một bên, và Thế Tôn với bài pháp thoại thuyết giảng cho tướng
quân Sìha, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, rồi từ chỗ ngồi
đứng dậy ra đi.
(III)(13) CON NGỰA THUẦN THỤC
1. - Đầy đủ với tám đức tánh,
này các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua hiền thiện, thuần thục, xứng đáng
để vua dùng, thuộc quyền sở sữu của vua, và được xem như là biểu tượng
của vua. Thế nào là tám ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, một
con ngựa của vua hiền thiện, thuần thục, khéo sanh cả hai từ mẫu hệ
và phụ hệ, tại phương hướng nào, các con ngựa hiền thiện, thần thục
không sanh trưởng, tại phương hướng ấy, con ngựa ấy được sanh ; họ
cho ăn các món ấn gì, ướt hay khô, con ngựa ấy ăn một cách cẩn thận,
không có làm rơi rớt. Con ngựa ấy nhàm chán khi phải đứng hay nằm gần
phân hay nước tiểu ; con ngựa ấy sống hoan hỷ và dễ dàng sống chung với
các con ngựa khác, và không làm các con ngựa khác hoảng sợ. Phàm có những
gian dối, giả dối, xảo trá, quanh co gì, nó nêu rõ như thật cho người
đánh xe biết, và người đánh xe cố gắng nhiếp phục nó. Khi đang kéo
xe, nó nghĩ : "Hãy để cho các con ngựa khác muốn hay không muốn kéo,
còn ta, ta sẽ kéo". Khi đi, nó đi con đường thẳng. Kiên trì, nó kiên
trì cho đến khi mạng sống chấm dứt.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
một con ngựa của vua hiền thiện, thuần thục, xứng đáng để vua dùng,
thuộc quyền sở sữu của vua, và được xem như là biểu tượng của vua.
3. Như vậy, này các Tỷ-kheo, thành
tựu tám pháp này, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính … là ruộng phương
vô thượng ở đời. Thế nào là tám ?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ
uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học
tập trong các học pháp. Phàm nhận các món đồ ăn gì, thô hay tế, vị
ấy ăn một cách cẩn thận, không có oán thán gì, vị ấy có nhàm chán,
nhàm chán thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, nhàm chán sự thành tựu
các pháp ác bất thiện. Vị ấy sống hoan hỷ và dễ dàng sống chung với
các Tỷ-kheo khác, và không làm các Tỷ-kheo khác hoảng sợ. Phàm có những
gian dối, giả dối, xảo trá, quanh co gì, nêu rõ như thật cho vị Đạo
sư hay các đồng Phạm hạnh có trí cố gắng để nhiếp phục. Trong khi học
tập, vị ấy khởi lên ý nghĩ : "Hãy để cho các Tỷ-kheo khác học tập,
hay không học tập, còn ta, ta sẽ học tập ở đây ". Khi đi, vị ấy
đi con đường thẳng, tại đây, con đường thẳng này tức là Chánh tri kiến,
Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm,
Chánh định. Vị ấy sống tinh cần, nghĩ rằng : "Dầu chỉ có da, gân
hay xương còn lại, dầu thịt và máu có khô cạn trong thân, điều mà sự
kiên của con người, sự tinh tấn của con người, sự nỗ lực có thể đạt
được, nếu chưa đạt được thời tinh tấn không có chấm dứt.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng
dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời.
(IV)(14) NGỰA CHƯA ĐIỀU PHỤC
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
về tám loại ngựa chưa điều phục, tám tánh xấu của con ngựa, tám hạng
người chưa điều phục, tám tánh xấu của con người. Hãy lắng nghe và
uy niệm, ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế tôn nói như sau :
2. - Này các Tỷ-kheo, thế nào là
tám loại ngựa chư được điều phục ? Thế nào là tám tánh xấu của ngựa
?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại
ngựa chưa được điều phục, khi bảo đi, bị gậy thúc, bị người đánh
xe la và thúc đẩy, nó đi lùi, và với lưng, làm chiếc xe chạy vòng lại.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này
các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ nhất của con ngựa.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loại ngựa chưa được điều phục, khi đã đi, bị gậy thúc hay
bị người đánh xe la, nó nhảy lùi, đạp vào thành xe, làm gãy gọng xe.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này
các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ hai của con ngựa.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loại ngựa chưa được điều phục, khi bảo đi, bị gậy thúc hay
bị người đánh xe la, rút bắp vế ra khỏi gọng xe và dẫm nát gọng xe.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này
các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ ba của con ngựa.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loại ngựa chưa được điều phục, khi đã đi, bị gậy thúc hay
bị người đánh xe la, liền đi con đường xấu và làm cho xe bị lạc hướng.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này
các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ bốn của con ngựa.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loại ngựa chưa được điều phục, khi đã đi, bị gậy thúc hay
bị người đánh xe la, nó trường đứng phía chân trước và đạp lên
không trung với chân trước. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa
chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ năm của
con ngựa.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loại ngựa chưa được điều phục, khi đã đi, bị gậy thúc hay
bị người đánh xe la, không để ý đến người đánh xe la, không để ý
đến cây gậy thúc ngựa, lấy răng nghiền hàm thiết (khớp ngựa) ngựa
và đi chỗ nào nó muốn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa
được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ sáu của con
ngựa.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loại ngựa chưa được điều phục, khi đã đi, bị gậy thúc hay
bị người đánh xe la, không đi tới, không đi lui, đứng lại tại chỗ
như một cột trụ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa
được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ bảy của con
ngựa.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có loại ngựa chưa được điều phục, khi đã đi, bị gậy thúc hay
bị người đánh xe la, liền tréo hai chân trước, tréo lại hai chân sau,
và quỵ xuống bốn chân tại đấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại
ngựa chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ
tám của con ngựa.
Này các Tỷ-kheo, đây là tám loại
ngựa chưa được điều phục và tám tánh xấu của con ngựa.
10. Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là tám hạng người chưa được điều phục và tám tánh xấu của con người
?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo
buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc tội,
tránh né (vấn đề) như là không nhớ, nói rằng : "Tôi không nhớ,
tôi không nhớ ". Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa chưa được điều
phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh xe la, nó đi lùi
với cái lưng làm cho cái xe chạy vòng lại. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng,
người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là hạng
người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ
nhất của con người.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, phát ra lời chất vấn Tỷ-kheo buộc tội : "Thầy lấy quyền gì
mà nói, này kẻ ngu Sìha không thông minh ? Tại sao Thầy nghĩ rằng Thầy phải
nói ? " Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa chưa được điều phục ấy,
khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh xe la, nó nhảy lùi lại, đạp
vào thành xe, làm gãy gọng xe. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống
như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chưa được
điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu hai của con người.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, liền cật nạn Tỷ-kheo buộc tội : "Thầy cũng phạm tội tên
là như vậy. Vậy Thầy hãy phát lộ trước". Ví như, này các Tỷ-kheo,
con ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị
người đánh xe la, rút bắp vế ra khỏi xe và dẫm nát gọng xe. Này các Tỷ-kheo,
Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
đây là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là
tánh xấu ba của con người.
13. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, liền tránh né vấn đề với một vấn đề khác, hướng dẫn câu
chuyện ra ngoài và biểu lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Ví như, này
các Tỷ-kheo, con ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy
thúc, hay bị người đánh xe la, liền đi vào con đường xấu và làm cho xe
bị lạc hướng. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ
ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chưa được điều phục.
Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ tư của con người.
14. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, liền nói ba hoa, khua tay múa chân. Này các Tỷ-kheo, ví như con ngựa
chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh
xe la, liền trườn đứng phía thân trước và đạp lên không với chân trước.
Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo,
đây là tánh xấu thứ năm của con người.
15. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, không để ý đến chúng Tăng, không để ý đến các Tỷ-kheo buộc tội,
vị ấy đi chỗ nào vị ất muốn. Này các Tỷ-kheo, ví như con ngựa chưa
được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh xe
la, không để ý đến người đánh xe, không để ý đến cây roi, lấy răng
nghiến hàm thiết ngựa, và đi chỗ nào nó muốn. Này các Tỷ-kheo, Ta nói
rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây
là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu
thứ sáu của con người.
16. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, liền nói : "Tôi không phạm tội, tôi không có phạm tội"
và vị ấy làm chúng Tăng bực mình với sự im lặng. Này các Tỷ-kheo, ví
như con ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị
người đánh xe la, không đi tới, không đi lui, đứng lại như một cột trụ.
Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo,
đây là tánh xấu thứ bảy của con người.
17. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc
tội, nói như sau : "Tại sao các Tôn giả lại quá lo cho tôi. Bắt đầu
từ nay, tôi sẽ từ bỏ bọc và hoàn tục". Rồi vị ấy sau khi từ bỏ
học pháp và hoàn tục nói như sau : "Nay các Tôn giả ấy được hoan hỷ".
Này các Tỷ-kheo, ví như con ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo
đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh xe la, liền tréo lại hai chân trước,
tréo lại hai chân sau và nằm xuống bốn chân tại đấy. Này các Tỷ-kheo,
Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
đây là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là
tánh xấu thứ tám của con người.
Này các Tỷ-kheo, đây là tám hạng
người chưa được điều phục và tám tánh xấu của con người.
(V) (15) CÁC CẤU UẾ
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám tâm cấu
uế này, thế nào là tám ?
2. Này các Tỷ-kheo, không đọc tụng
là cấu uế của Thánh điển ; này các Tỷ-kheo, không thức dậy là cấu uế
của nhà ; này các Tỷ-kheo, biếng nhác là cấu uế của dung sắc ; này
các Tỷ-kheo, phóng dật là cấu uế của phòng hộ ; này các Tỷ-kheo, ác hạnh
là cấu uế của đàn bà ; này các Tỷ-kheo, xan tham là cấu uế của bố
thí ; các pháp ác, bất thiện, là cấu uế của đời này và đời sau.
Nhưng này các Tỷ-kheo, còn có cấu uế lớn hơn các cấu uế. Vô minh là cấu
uế lớn nhất.
Này các Tỷ-kheo, đây là tám loại
cấu uế.
Không tụng làm nhớp kinh
Không dậy làm nhớp nhà
Biếng nhác làm nhớp dung sắc
Phóng dật làm nhớp phòng hộ
Ác hạnh nhớp mỹ nhân
Xan tham nhớp bố thí
Các pháp ác làm nhớp
Đời này và đời sau
Nhưng có loại cấu uế
Hơn tất cả cấu uế
Đấy chính là vô minh
Là cấu uế lớn nhất.
(VI)(16) SỨ GIẢ
1. - Thành tựu tám pháp này, này
các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo xứng đáng đi làm sứ giả. Thế nào là tám ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
là người nghe, khiến người khác nghe, học và khiến người khác thọ
trì, biết và khiến người khác biết, thiện xảo trong vấn đề thích hợp
và không thích hợp (hay vấn đề kinh điển hay không kinh điển) không phải
là người ưa cãi nhau.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo xứng đáng đi làm sứ giả.
3. Thành tựu tám pháp này, này các
Tỷ-kheo, Sàriputta (Xá-lợi-phất) xứng đáng đi làm sứ giả. Thế nào là
tám ?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Sàriputta là người nghe, khiến người khác nghe, học và khiến người khác
thọ trì, biết và khiến người khác biết, thiện xảo trong vấn đề thích
hợp và không thích hợp, không phải là người ưa cãi nhau.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
Sàriputta xứng đáng đi làm sứ giả :
Với ai không run sợ,
Đến hội chúng bạo ngôn
Không quên lời đã học
Không che giấu giáo pháp
Không nói lời nghi hoặc
Được hỏi không phẫn nộ
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Xứng đáng đi sứ giả
(VII) (17) SỰ TRÓI BUỘC CỦA NỮA
NHÂN
1. - Với tám hình tướng, này các
Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân. Thế nào là tám ?
2. Này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói
buộc nam nhân với sắc ; này các Tỷ-kheo nữ nhân trói buộc nam nhân với
tiếng cười ; này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với lời nói
; này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với lời ca ; này các Tỷ-kheo,
nữ nhân trói buộc nam nhân với nước mắt ; này các Tỷ-kheo, nữ nhân
trói buộc nam nhân với áo quần ; này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam
nhân với vật tặng ; này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với
xúc chạm.
Với tám hình tướng, này các Tỷ-kheo,
nữ nhân trói buộc nam nhân. Các loài hữu tình bị khéo trói buộc bởi
các hình tướng ấy, giống như trói buộc bởi bẫy sập.
(VIII) (18) NAM NHÂN TRÓI BUỘC
1. - Với tám hình tướng, này các
Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân. Thế nào là tám?
2. Này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc
nữ nhân với sắc ; này các Tỷ-kheo nam nhân trói buộc nữ nhân với tiếng
cười ; này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân với lời nói ; này
các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân với lời ca ; này các Tỷ-kheo,
nam nhân trói buộc nữ nhân với nước mắt ; này các Tỷ-kheo, nam nhân
trói buộc nữ nhân với áo quần ; này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ
nhân với vật tặng ; này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân với
xúc chạm.
Với tám hình tướng, này các Tỷ-kheo,
nam nhân trói buộc nữ nhân. Các loài hữu tình bị khéo trói buộc bởi
các hình tướng ấy, giống như trói buộc bởi bẫy sập.