- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 10b
- (VIII) (28) NHỮNG CÂU HỎI LỚN (2)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Kajangalà, tại Trúc Lâm. Bấy giờ có rất nhiều nam cư sĩ ở Kajangalà đi
đến Tỷ-kheo-ni trú ở Kajangalà, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo-ni rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các nhà cư sĩ ở Kajangalà
nói với Ty-kheo-ni ở Kjangalà :
2. - Thưa Đại Tỷ, Thế Tôn có
tuyên bố trong các câu hỏi lớn : "Một câu hỏi, một câu tuyên bố,
một câu trả lời ; hai câu hỏi, hai câu tuyên bố, hai xâu trả lời ; ba
câu hỏi, ba câu tuyên bố, ba câu trả lời ; bốn câu hỏi, bốn câu tuyên
bố, bốn câu trả lời ; năm câu hỏi. Năm câu tuyên bố, năm câu trả lời
; sáu câu hỏi, sáu câu tuyên bố, sáu câu trả lời ; bảy câu hỏi, bảy
câu tuyên bố, bảy câu trả lời ; tám câu hỏi, tám câu tuyên bố, tám
câu trả lời ; chín câu hỏi, chín câu tuyên bố, chín câu trả lời ; mười
câu hỏi, mười câu tuyên bố, mười câu trả lời." Thưa Đại Tỷ, lờ
nói vắn tắt này của Thế Tôn ý nghĩa rộng rãi cần phải hiểu như thế
nào ?
3. - Này cá Hiền giả, tôi không
được tận mặt nghe và tận mặt lãnh thọ từ Thế Tôn. Tôi cũng không
được tận mặt nghe và tận mặt lãnh thọ từ các Tỷ-kheo có tu tập về
ý. Tuy vậy, ở đây, vấn đề được trình bày với tôi như thế nào,
hãy nghe và khéo tác ý, tôi sẽ nói.
- Thưa vâng, Đại tỷ
Các nam cư sĩ ở Kajangalà vâng đáp
Ty-kheo-ni ở Kajangalà nói như sau :
4-5. - Một câu hỏi, một câu tuyên
bố, một câu trả lời được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói
đến như vậy ? (Ở đây, giống như câu hỏi đầu của kinh trước).
6. Bốn câu hỏi, bốn câu tuyên bố,
bốn câu trả lời được thế Tôn nói đến như vậy. Do duyên gì được
nói đến như vậy ?
Trong bốn pháp, này chư hiền, Tỷ-kheo
chơn chánh khéo tu tập, chơn chánh thấy được cứu cánh, sau hi chơn chánh
thắng tri mục đích, ngay trong hiện tại là người chấm dứt khổ đau. Thế
nào là trong bốn pháp ?
Trong bốn niệm xứ.
Trong bốn pháp này, này chư hiền,
Tỷ-kheo chơn chánh khéo tu tập, chơn chánh... là người chấm dứt khổ
đau.
Bốn câu hỏi, bốn câu tuyên bố,
bốn câu trả lời, Thế Tôn đã nói như vậy. Do duyên gì được nói đến
như vậy.
7-8. Năm câu hỏi, năm câu tuyên bố,
năm câu trả lời, Thế Tôn đã nói như vậy. Do duyên gì được nói đến
như vậy ?
Trong năm pháp, này chư Hiền, Tỷ-kheo
chơn chánh khéo tu tập tâm... là người chấm dứt khổ đau. Trong năm pháp
gì ?
Trong năm căn...
Trong sáu pháp gì ?
Trong sáu xuất ly giới...
Trong bảy pháp gì ?
Trong bảy giác chi...
Trong tám pháp chi...
Trong tám pháp gì ?
Trong con đường Thánh có tám
ngành...
Trong chín pháp gì ?
Trong chín hữu tình cư...
9. Mười câu hỏi, mười câu tuyên
bố, mười câu trả lời, Thế Tôn đã nói như vậy. Do duyên gì được nói
đến như vậy ?
Trong mười pháp, này chư Hiền, Tỷ-kheo
chơn chánh khéo tu tập tâm, chơn chánh thấy được cứu cánh, sau khi chơn
chánh thắng tri mục đích, ngay trong hiện tại là người chấm dứt khổ
đau. Thế nào là trong mười pháp ?
Trong mười thiện đạo
Trong mười pháp này, này chư Hiền,
Tỷ-kheo chơn chánh tu tập tâm, chơn chánh thấy được cứu cánh, chơn chánh
thắng tri mục đích, ngay trong hiện tại, là người chấm dứt khổ đau.
Mười câu hỏi, mười câu tuyên bố,
mười câu trả lời, Thế Tôn đã nói như vậy. Do duyên này được nói như
vậy.
10. Như vậy, này chư Hiền, Thế Tôn
đã nói đến trong các câu hỏi lớn : "Một câu hỏi, một câu tuyên bố,
một câu trả lời... ; mười câu hỏi, mười câu tuyên bố, mười câu trả
lời". Này chư Hiền, lời Thế Tôn tuyên bố tuyên bố vắn tắt này,
tôi hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy. Này chư Hiền, nếu muốn các
vị hãy đi đến Thế Tôn và hỏi ý nghĩa này. Thế Tôn trả lời các hiền
giả như thế nào, hay như vậy thọ trì.
- Thưa vâng, Đại tỷ.
Các nam cư sĩ ở Kajangalà sau khi
hoan hỷ tín thọ lời Tỷ-kheo-ni ở Kajangalà nói, từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ Tỷ-kheo-ni ở Kajangalà, thân phía sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo-ni
rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, các nam cư sĩ ở Kajangalà, đem câu chuyện nói
với Tỷ-kheo-ni ở Kajangalà như thế nào, tất cả đều thuật lên Thế
Tôn rõ.
11. - Lành thay, lành thay, này các
Gia chủ. Này các Gia chủ, có trí tuệ là Tỷ-kheo-ni ở Kajangalà ! Này các
Gia chủ, có trí tuệ là Tỷ-kheo-ni ở Kajangalà ! Này các Gia chủ, có trí
tuệ, nếu các Ông có đi đến Ta và hỏi ý nghĩa này, Ta cũng trả lời
như vậy, như Tỷ-kheo-ni ở Kajangalà đã trả Lời
Đây là ý nghĩa của lời nói ấy,
hãy như vậy thọ trì.
(IX) (29) NGƯỜI KOSALÀ
1. - Này các Tỷ-kheo, xa trông như
thế nào là nước Kàsi Kosalà, xa rộng như thế nào, là sự trị vì của
vua pasanadi nước Kosalà, trong phạm vi như vậy, vua Pasenadi nước Kosalà
được xem là tối thượng ! Tuy vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vua Pasena
di, nước Kosalà có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các
Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều nhàm chán trong (vấn đề) ấy ; do
nhàm chán trong (vấn đề) ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói
gì đối với hạ liệt.
2. Này các Tỷ-kheo, xa cho đến mặt
trăng, mặt trời di chuyển, xoay chuyển, chói sáng các phương, cho đến
như vậy là ngàn thế giới. Trong ngàn thế giới ấy, có 1.000 mặt trăng,
có 1000 mặt trời, có 1000 vua núi Sineru, có 1000 cõi Diêm phù đề, 1000 Tây
ngưu Hóa châu, 1000 Bắc-cu-lô-chân, 1000 Đông thắng Thần châu, 4000 biển lớn,
4000 Đại vương, 1000 Bốn đại Thiên vương, 1000 Tam thập tam thiên, 1000
Hóa lạc thiên, 1000 Dạ-ma-thiên, 1000 Đâu-suất thiên, 1000 Hóa lạc thiên,
1000 Tha hóa Tự tại thiên, 1000 Phạm thiên giới. Này các Tỷ-kheo, xa rộng
cho đến 1000 thế giới, Đại phạm Thiên ở đấy được xem là tối thượng.
Tuy vậy, này các Tỷ-kheo, đối với Đại Phạm thiên có sự đổi khác,
có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều
nhàm chán trong (Đại Phạm thiên) ấy, do nhàm chán trong (Đại Phạm thiên)
ấy, từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ liệt.
3. Này các Tỳ-kheo, có một thời,
đến thời ấy, thế giới này chuyển hoại, này các Tỷ-kheo, các loài hữu
tình phần lớn sanh qua cõi Àbhassara (Quang âm thiên). Ở tại đấy, chúng
sanh này do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư
không, sống trong sự quang vinh, và sống như vậy một thời gian khá dài.
Này các Tỷ-kheo, trong khi thế giới chuyển hoại, các Quang âm thiên được
xem là tối thượng. Nhưng này các Tỷ-kheo, đối với chư Quang âm thiên,
có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong (chư Quang âm thiên) ấy ; do nhàm
chán trong (Quang âm thiên) ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói
gì đối với hạ liệt.
4. Này các Tỷ-kheo, có mười Thiền
án xứ này. Thế nào là mười ?
Một người tưởng tri Thiền án đất,
phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng. Một người tưởng
tri Thiền án nước... một người tưởng tri Thiền án lửa... một người
tưởng tri Thiền án gió, một người tưởng tri Thiền án xanh... một người
tưởng tri Thiền án vàng... một người tưởng tri Thiền đỏ... một người
tưởng tri Thiền án trắng... một người tưởng tri Thiền án hư không...
một người tưởng tri Thiền án thức, phía trên, phía dưới, bề ngang, không
hai, vô lượng.
Này các Tỷ-kheo, có mười Thiền
án xứ này.
5. Các này là tối thượng, này
các Tỷ-kheo, trong mười Thiền án xứ này, tức là Thiền án thức. Có người
tưởng tri phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng. Này các Tỷ-kheo,
có những chúng sanh có tưởng như vậy. Đối với các chúng sanh có tưởng
như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy,
này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều nhàm chán trong ấy ; do nhàm
chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì với hạ liệt.
6. Này các Tỷ-kheo, có tám thắng xứ
này. Thế nào là tám ?
Một vị quán tưởng nội sắc, thấu
các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu. Sau khi nhiếp thắng chúng,
vị ấy tưởng tri như sau : "Ta biết, ta thấy". Đó là thắng xứ
thứ nhất.
Một vị quán tưởng nội sắc, thấy
các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Sau khi nhiếp thắng chúng vị
ấy tưởng tri như sau : "Ta biết, ta thấy". Đó là thắng xứ thư
hai.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận
thức rằng : Sau khi nhiếp thắng chúng vị ấy tưởng tri như sau : "Ta
biết, Ta thấy". Đó là thắng xứ thứ ba.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Sau khi nhiếp thắng
chúng, vị ấy tưởng tri như sau : "Ta biết, ta thấy". Đó là thắng
xứ thứ tư.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, tưởng sắc xanh, hình
sắc xanh, ánh sáng xanh - như bông gai màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc
xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh - như lụa Ba-la-nại, cả hai mặt láng trơn,
màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Sau
khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau : "Ta thấy, ta biết".
Đó là thắng xứ thứ năm.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng, sắc màu xám, tướng sắc vàng,
hình sắc vàng, ánh sáng vàng - như bông kannikàra màu vàng, sắc màu vàng,
tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng - như lụa Ba-la-nại cả
hai mặt láng trơn màu vàng, sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc
vàng, ánh sáng vàng. Như vậy, vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy
các loại ngoài sắc màu vàng, sắc màu vàng, tưởng sắc màu vàng, hình sắc
vàng, ánh sáng vàng. Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau :
"Ta biết, ta thấy". Đó là thắng xứ thứ sáu.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ,
hình màu đỏ - như lụa Ba-la-nại, cả ai mặt láng trơn, màu đỏ, sắc màu
đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ. Như vậy, vị này
quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc
màu đỏ, tướng sắc đỏ, ánh sáng đỏ. Sau khi nhiếp thắng chúng, vị
ấy tưởng tri như sau : "Ta biết, ta thấy". Đó là thắng xứ thư
bảy.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng,
hình sắc trắng, ánh sáng trắng - như sao mai Osadhi màu trắng, sắc màu trắng,
tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng - như lụa Ba-la-nại,
cả hai mặt láng trơn, màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình
sắc trắng, ánh sáng trắng. Như vậy, vị này quán tưởng vô sắc ở nội
tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng,
hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Sau khi nhiếp thăng chúng, vị ấy tưởng
tri như sau : "Ta biết, ta thấy". Đó là thắng thứ tám
Này các Tỷ-kheo, có tám thắng xứ
này.
7. Các này lá tối thượng, này
các Tỷ-kheo, trong tám thắng xứ này, tức là có người tưởng vô sắc
ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, tướng màu trắng,
hình sắc màu trắng, ánh sáng trắng. Sau khi nhiếp thắng cúng, vị ấy tưởng
tri như sau : "Ta biết, ta thấy. Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh
có tưởng như vậy. Đối với các chúng sanh tưởng như vậy, này các Tỷ-kheo,
có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy. Do nhàm chán trong ấy, vị
ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nó gì đối với hạ liệt.
8. Này các Tỷ-kheo, có bốn con đường
này. Thế nào là bốn ?
Con đường khổ thắng tri chậm ;
con đường khổ thắng tri mau ; con đường lạc thắng tri chậm ; con đường
lạc thắng tri mau.
Này các Tỷ-kheo, có bốn con đường
này.
9. Cái này là tối thượng, này
các Tỷ-kheo, trong bốn con đường này, tức là con đường lạc thắng tri
mau. Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh thực hành như vậy. Đối với các
chúng sanh thực hành như vậy, này các Tỷ-kheo có sự đổi khác, có sự
biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm
chán trong ấy. Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn
nói gì đối với hạ liệt.
10. Này các Tỷ-kheo, có bốn tưởng
này. Thế nào là bốn ?
Có người tưởng tri có hạn lượng.
Có người tưởng tri đại hành. Có người tưởng tri Vô sở hữu xứ, nghĩ
rằng : "Không có sự vật gì"
Này các Tỷ-kheo, có bốn tưởng này.
11. Các này là tối thượng, này
các Tỷ-kheo, trong bốn tưởng này, tức là có người tưởng tri Vô sở hữu,
nghĩ rằng : "Không có sự vật gì". Này các Tỷ-kheo có những
chúng sanh có tưởng như vậy. Đối với các chúng sanh có tưởng như vậy,
này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến thoại. Thấy vậy, này
các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy. Do nhàm
chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ
liệt.
12. Cái này là tối thượng, này
các Tỷ-kheo, trong các thành khiến của các dị học, tức là : "Nếu
ta không có trong lúc ấy, thời nay đã không có của ta. Nếu ta sẽ không
có, thời sẽ không có của ta". Với người có tri kiến như vậy, này
các Tỷ-kheo, có thể chờ đợi như sau : Sự không nhàm chán này đối với
hữu sẽ không có đối với người ấy. Sự nhàm chán này đối với hữu
diệt sẽ không có đối với người ấy. Này các Tỷ-kheo, có những chúng
sanh có tri kiến như vậy. Đối với chúng sanh có tri kiến như vậy, này
các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo,
vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy. Do vậy nhàm chán trong
ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói đối với các hạ liệt.
13. Này các Tỷ-kheo, có một số
Sa-môn, Bà-la-môn... tuyên bố thanh tịnh là mục đích tối thắng.
14. Cái này là tối thượng, này
các Tỷ-kheo, trong các vị tuyên bố thanh tịnh là mục đích tối thắng, tức
là sự vượt qua một cách an toàn Vô sở hữu xứ, sự chứng đạt và an
trú Phi tưởng phi tưởng xứ. Họ thuyết pháp để thắng tri cái ấy, để
giác ngộ cái ấy. Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh có nói như vậy. Này
các Tỷ-kheo, đối với các chúng sanh có nói như vậy, có sự đổi khác,
có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều,
nhàm chán trong ấy. Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng
còn nói gì với các hạ liệt.
15. Này các Tỷ-kheo, có một số
Sa-môn, Ba-la-môn... tuyên bố hiện tại Niết-bàn là mục đích tối thắng.
16. Cái này là tối thượng, này
các Tỷ-kheo, trong các vị tuyên bố hiện tại Niết-bàn là mục đích tối
thắng, tức là sau khi như thật sự tập khởi, sự chấm dứt vị ngọt, sự
nguy hại và sự xuất ly của sáu xúc xứ, được giải thoát không có chấp
thủ. Này các Tỷ-kheo Ta là người đã nói như vậy, đã tuey6n bố như vậy.
Và một số Sa-môn, Ba-la-môn xuyên tạc Ta với điều không thật là phi hữu,
trống không, nói láo, nói rằng : "Sa-môn Gotama không tuyên bố sự liễu
tri các dục, không tuyên bố sự liễu tri các sắc, không tuyên bố sự liễu
tri các thọ".
17. Và này các Tỷ-kheo, ta tuyên bố
sự liễu tri các dục, Ta tuyên bố sự liễu tri các sắc, ta tuyên bố sự
liễu tri các thọ, Ta tuyên ngay trong hiện tại sự vô dục, tịch diệt,
thanh lương không chấp thủ, Bát-niết-bàn.
(X) (30) KOSALÀ (2)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, Jetavana, tại khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, vua
Pasenadi nước Kosala, từ một trận chiến trở về, thắng trận, mục đích
đã đạt được. Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến khu vườn. Xa cho đến
đất có thể đi xe được, vua đi xe, rồi xuống xe đi bộ và vào khu vườn.
2. Lúc bấy giờ, một số đông Tỷ-kheo
đang đi kinh hành ngoài trời. Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến các Tỷ-kheo
ấy, sau khi đến, nói với các Tỷ-kheo :
- Thưa các Tôn giả, nay Thế Tôn bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trú ở đâu ? Thưa các Tôn giả, chúng tôi muốn
yết kiến thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
Tâu Đại vương, đây là ngôi tịnh
xá, có cửa đóng. Ngài hãy đi đến ngôi nhà ấy, đừng có tiếng động,
đừng có hấp tấp, bước vào mái hiên, đằng hắng, rồi gõ nơi then cửa.
Thế Tôn sẽ mở cửa cho đại Vương.
Rồi vua Pasenadi nước Kosalà, đi đến
ngôi tịnh xá cửa đóng ấy, đi đến không có tiếng động không có hấp
tấp, bước vào mái hiên, đằng hắng, rồi gõ vào then cửa. Thế Tôn mở
cửa. Rồi vua Pasenadi, nước Kosalàđi vào tịnh xá, đầu cúi rạp xuống
trước chân Thế Tôn, miệng hôn chân Thế Tôn, lấy tay xoa bóp, và nói
lên tên mình :
- Bạch Thế Tôn, con là vua Pasnadi nước
Kosalà. Bạch Thế Tôn, con là vua Pasenadi nước Kosalà.
- Thưa Đại vương, do Đại vương
thấy ý nghĩa lợi ích gì mà Đại vương lại làm những cử chỉ hạ liệt
quá mức như vậy và tỏ lòng kính mộ đối với cái thân này ?
4. Bạch Thế Tôn, để nêu rõ lòng
biết ơn của con, để nói lên lòng cảm tạ của con đối với Thế Tôn,
mà con làm những cử chỉ hạ liệt quá mức như vậy và tỏ bày lòng từ
ái đối với Thế Tôn. bạch Thế Tôn, Thế Tôn là vị đã thực hiện hạnh
phúc cho đa số, an lạc cho đa số, là vị đã an lập Thánh chánh lý cho
đa số, tức là chánh chơn pháp tánh. thiện pháp tánh. Bạch Thế Tôn, vì
Thế Tôn là vị đã thực hiện hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, tức
là chánh chơn pháp tánh, thiện pháp tánh ; vì con thấy ý nghĩa lợi ích
này nên con đã làm những cử chỉ hạ liệt quá mức như vậy, và tỏ
bày lòng kính mộ đối với Thế Tôn.
5. Lại nữa, Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn có giới, có Phật giới, có Thánh giới, có thiện giới, có đầy đủ
thiện giới. Bạch Thế Tôn, vì rằng Thế Tôn có giới, có Phật giới,
có Thánh giới, có thiện giới, có đầy đủ thiện giới ; Bạch Thế Tôn,
vì con thấy ý nghĩa lợi ích này, mà con đã làm nhưng cử hạ liệt quá mức
như vậy và bày tỏ lòng kính mộ đối với Thế Tôn.
6. Lại nữa, Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn đã lâu ngày là vị sống ở rừng, sống tại các trú xứ rừng núi,
các vùng cao nguyên hẻo lánh xa vắng. Bạch Thế Tôn, vì rằng Thế Tôn đã
lâu ngày là vị sống ở rừng, sống tại các Trú xứ rừng núi, các vùng
cao nguyên hẻo lánh xa vắng ; Bạch Thế Tôn, vì con thấy... lòng kính mộ
đối với Thế Tôn.
7. Lại nữa, Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn là vị biết đủ với bất cứ vật dụng nào được cúng dường,
như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Bạch Thế
Tôn, vì rằng Thế Tôn là vị biết đủ với bất cứ vật dụng nào cúng
dường, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh ;
Bạch Thế Tôn, vì con thấy... lòng kính mộ đối với Thế Tôn.
8. Lại nữa, Bạch Thế Tôn, Thế
tôn là vị đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng
đường, đáng được chắp tay là phước điền vô thượng ở đời. Vì rằng,
Bạch Thế tôn, Thế Tôn là vị đáng được cung kính, đáng được tôn trọng,
đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng
ở đời ; Bạch Thế Tôn, vì con thấy... lòng kính mộ với Thế Tôn.
9. Lại nữa, bạch Thế Tôn, những
câu chuyện nào thuộc hướng ứng khai mở tâm trí, ví như câu chuyện vế
ít dục, câu chuyện biết đủ, câu chuyện về viễn ly, câu chuyện về
không tụ hội, câu chuyện về tinh cần tinh tấn, câu chuyện về giới,
câu chuyện về định, câu chuyện về tuệ, câu chuyện về giải thoát,
câu chuyện về giải thoát về tri kiến, các câu chuyện như vậy, Thế Tôn
có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí
sức. Vì rằng bạch Thế Tôn, những câu chuyện nào thuộc hướng thượng...
có được không phí sức ; bạch Thế Tôn, vì con thấy... lòng kính mộ đối
với Thế Tôn.
10. Lại nữa, bạch thế tôn, Thế
Tôn đối với bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú,
có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí
sức. Vì rằng bạch Thế Tôn, Thế Tôn đối với bốn Thiền... có lòng
không phí sức ; bạch Thế Tôn, vì con thấy... lòng kính mộ đối với Thế
Tôn.
11. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Thế
Tôn tùy niệm nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời... nhớ
lại nhiều đời với các nét đại cương vá các chi tiết. Vì rằng bạch
thế Tôn, Thế Tôn nhớ lại nhiều đời quá khứ, như một đời, hai đời...
nhớ lại nhiều đời sống với các nét đại cương và các chi tiết ; bạch
Thế Tôn, vì con thấy... lòng kính mộ đối với Thế Tôn.
12. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Thế
Tôn với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân...đều do hạnh nghiệp của họ
(xem Trường kinh tập I, trang 82). Bạch Thế Tôn, vì rằng Thế Tôn với
thiên thanh nhãn tịnh siêu nhân, vì con thấy... lòng kính mộ đối với Thế
Tôn.
13. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Thế
Tôn do đoạn tận các lâu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng
trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát. Vì rằng bạch Thế Tôn, Thế Tôn do đoạn tận các lậu hoặc, ngay
trong hiện tại tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú
vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát ; vì con thấy ý nghĩa lợi ích
này nên con đã làm những cử chỉ hạ liệt quá mức như vậy, và tỏ
lòng kính mộ đối với Thế Tôn.
14. Bạch Thế Tôn, nay chúng con phải
đi, chúng con có nhiều công tác, có nhiều công việc phải làm.
- Thưa Đại vương, nay Đại vương
hãy làm những gì Đại vương nghĩ là hợp thời.
Rồi vua Pasanadi nước Kosalà, từ
chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài
rồi ra đi.
IV. PHẨM UPÀLI VÀ ÀNANDA
(I) (31) UPÀLI VÀ GIỚI BỔN
1. Bấy giờ có tôn giả Upàli đi
đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Tôn giả Upàli bạch Thế Tôn :
2. - Bạch Thế Tôn, do duyên bao
nhiêu mục đích, các học pháp thiết lập cho các đệ tử Như Lai và giới
bổn Pàtimokkha được tuyên đọc ?
- Này Upàli, do duyên mười mục đích,
các học pháp được thiết lập cho các đệ tử Như Lai và giới bổn
Pàtimokkha được tuyên đọc. Thế nào là mười ?
3. Để tăng chúng được cực thiện,
để Tăng chúng được an ổn, để chận đứng các người cứng đầu, đề
các thiện Tỷ-kheo được sống an ổn, để chế ngự các lậu hoặc ngay
trong hiện tại, để chận đứng các lậu hoặc trong tương lai, để đem lại
tịnh tín cho những người không tin, để diệu pháp được tồn tại, để
luật được chấp nhận.
Do duyên mười mục đích này, này
Upàli, các học pháp được thiết lập cho các đệ tử Như Lai, và giới bổn
Pàtimokkha được tuyên đọc.
4. - Bạch Thế Tôn, có bao nhiêu trường
hợp, giới bổn Pàtimokkha bị ngưng tuyên đọc ?
- Này Upàli, có mười trường hợp,
giới bổn Pàtimokkha bị ngưng tuyên đọc. Thế nào là mười ?
5. Khi có người phạm Ba-la-di tội
ngồi trong hội chúng ấy, khi thảo luận về người phạm Ba-la-di tôi chưa
chấm dứt, khi có người thọ cụ túc giới ngồi trong hội chúng ấy, khi
thảo luận về người chưa thọ cụ túc giới chưa chấm dứt, khi một
người từ bỏ học pháp ngồi xuống trong hội chúng, khi cuộc thảo luận
về con người từ bỏ học pháp chưa chấm dứt, khi có người thiếu nam
căn còn ngồi trong hội chúng ấy, khi cuộc thảo luận về người thiếu
nam căn chưa chấm dứt, khi có người "ô nhục Tỷ-kheo-ni" còn ngồi
trong hội chúng ấy, khi cuộc thảo luân về người ô nhục Tỷ-kheo-ni chưa
được chấm dứt.
Này Upàli, đây là mười trường hợp
giới bổn Pàtimokkha bị ngưng tuyên đọc.
(II) (32) NGƯỜI ĐOẠN SỰ
1. - Bạch Thế Tôn, một Tỷ-kheo
thành tựu bao nhiêu pháp để được làm người đoạn sự viên ?
- Này Upàli, một Tỷ-kheo thành tựu
mười pháp để được làm người đoạn sự viên. Thế nào là mười ?
2. Ở đây, này Upàli, vị Tỷ-kheo
giữ giới sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầu
đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận
và học tập trong các học pháp, là người nghe nhiều, thọ trì điều đã
nghe, cất chứa điều đã nghe. Những pháp nào, sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện, có nghĩa, có văn, tán thán Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh,
những pháp như vậy, vị ấy được nghe nhiều, được thọ trì, được
đọc tụng bằng lời, được quan sát với ý, được khéo léo thể nhập
với chánh kiến. Cả hai giới bổn Pàtimokkha được khéo truyền đạt một
cách rộng rãi, được khéo phân tích, khéo thông hiểu khéo quyết định
theo kinh, theo chi tiết. Vị ấy được khéo an trú trên luật, không có dao
động ; có khả năng làm cho cả hai phe chống đối thông hiểu, chinh phục
họ, làm cho họ thấy, làm cho họ hòa giải với nhau. Vị ấy thiện xảo
trong sự sanh khởi và chấm dứt các tránh sự, biết các tránh sự, biết
tránh sự sanh khởi, biết tránh sự đoạn diệt, biết con đường đưa đến
tránh sự được đoạn diệt.
Thành tựu mười pháp này, này
Upàli, Tỷ-kheo được xem là khả năng làm vị đoạn sự viên.
(III) (33) CỤ TÚC GIỚI
1. - Bạch Thế Tôn, thành tựu bao
nhiêu pháp, một Tỷ-kheo có khả năng trao truyền cụ túc giới ?
- Thành tựu mười pháp, này Upàli,
vị Tỷ-kheo có khả năng trao truyền cụ túc giới. Thế nào là mười ?
2. Ở đây, này Upàli, Tỷ-kheo có
giới, sống được chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha,
đầy đủ uy nghi chánh hạnh thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp
nhận và học tập trong các học pháp, là người nghe nhiều, thọ trì điều
đã được nghe, cất chứa điều đã được nghe... khéo thông hiểu, khéo
quyết định, theo kinh, theo chi tiết. Vị ấy có khả năng nuôi dưỡng bệnh
nhân hay khiến người nuôi dưỡng, có khả năng làm cho tịnh chỉ bất
mãn hay khiến tịnh chỉ bất mãn, có khả năng đoạn trừ đúng pháp ác
tác khởi lên, có khả năng phân biệt chỉ trích tà kiến khởi lên, có khả
năng khích lệ trong tăng thượng giới, có khả năng khích lệ trong tăng
thượng tâm, có khả năng khích lệ trong tăng thượng tuệ.
Thành tựu mười pháp này, này
Upàli, một Tỷ-kheo có khả năng trao duyên truyền cụ túc giới.
(VI) (34) Y CHỈ SA-DI
1. - Thành tựu bao nhiêu pháp, bạch
Thế Tôn, một Tỷ-kheo có thể trao truyền y chỉ,...có khả năng nuôi dưỡng
Sa-di ?
- Thành tựu mười pháp, này Upàli,
này Upàli, một Tỷ-kheo có thể trao tuyền y chỉ...có khả năng nuôi dưỡng
Sa-di. Thế nào là mười ?
2. Ở đây, này Upàli, vị Tỷ-kheo
có giới...chấp nhận và học tập trong các học pháp. Là vị nghe nhiều...
khéo thể nhập với chánh kiến. Cả hai giới bổn Pàtimokkha, khéo truyền
đạt một cách rộng rãi, khéo phân tích, khéo thông hiểu, khéo quyết định,
theo kinh, theo chi tiết. Vị ấy có khả năng nuôi dưỡng nhân hay khiến người
nuôi dưỡng ; có khả năng làm cho tịnh chỉ bất mãn ha khiến người khác
tịnh chỉ bất mãn ; có khả năng đoạn trừ đúng pháp ác tác khởi lên
; có khả năng phân tích chỉ trích tà kiến khởi lên ; có khả năng khích
lệ trong tăng thượng giới ; có khả năng khích lệ trong tăng thượng tâm
; có khả năng khích lệ trong tăng thượng tuệ.
Thành tựu mười pháp này, này
Upàli., một Tỷ-kheo có khả năng nuôi dưỡng Sa-di.
(V) (35) PHÁ HÓA HỢP TĂNG
1. - Phá hòa hợp tăng, phá hòa hợp
tăng, bạch Thế Tôn được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch
Thế Tôn là phá hòa hợp Tăng ?
2. - Ở đây, này Upáli, các Tỷ-kheo
thuyết phi pháp là pháp, thuyết pháp là phi pháp ; thuyết luật là phi luật
; thuyết điều Như Lai không nói, không thuyết, là điều Như Lai nó, Như
Lai thuyết ; thuyết điều Nhu Lai có nói, có thuyết, là điều Như Lai không
nói, không thuyết ; thuyết điều Như Lai thường không sở hành là điều
Như Lai thường sở hành ; thuyết điều Như Lai thường sở hành là điều
Như Lai không thường sở hành ; thuyết điều Như Lai không chế đặt là
điều Như Lai chế đặt ; thuyết điều Như Lai có chế đặt là điều
Như Lai không có chế đặt.
Chính do mười sự này, họ phá hoại,
họ chia rẽ, họ hành bất động yết-ma, họ tuyên đọc giới bốn Pátimokkha
khác biệt. Cho đến như vậy, này Upàli, là chúng Tăng bị phá hoại.
(VI) (36) HÒA HỢP TĂNG
1. - Tăng hòa hợp, Tăng hòa hợp. Bạch
Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế
Tôn, là Tăng hòa hợp ?
2. - Ở đây, này Upàli, các Tỷ-kheo
thuyết phi pháp là phi pháp, thuyết pháp là pháp, thuyết phi pháp là phi luật,
thuyết điều là điều Như Lai không nói, không thuyết, là điều Như Lai có
nói, có thuyết điều Như Lai thường không sở hành là điều Như Lai thường
không sở hành ; thuyết điều Như Lai thường sỏ hành là điều Như Lai
thường sở hành ; thuyết điều Như Lai không chế đặt là điều Như Lai
không chế đặt ; thuyết điều Như Lai có chế đặt là điều Như Lai có
chế đặt.
Với mười sự này, các Tỷ-kheo
không phá hoại, các Tỷ-kheo không chia rẽ, các Tỷ-kheo không hành bất cộng
yết-ma, các Tỷ-kheo không tuyên d0ọc giới bổn Pàtimkkha khác biệt. Cho đến
như vậy, này Upàli, là Tăng chúng được hòa hợp.
(VII) (37) PHÁ HÒA HỢP TĂNG
(Tôn giả Ànanda hỏi câu hỏi tương
tợ và được câu trả lời tương tợ như kinh 25)
(VIII) (38) QUẢ CỦA PHÁ HÒA HỢP TĂNG
1. - Phá hoại Tăng hòa hợp, đem lại
kết quả gì ?
2. - Này Ànanda, đem lại tội ác
kéo dài đến một kiếp.
3. - Bạch Thế Tôn, tội ác gì kéo
dài một kiếp ?
4. - Này Ananda, bị nấu trong địa
ngục một kiếp.
Kẻ phá hòa hợp Tăng
Bị rơi vào đọa xứ,
Bị rơi vào địa ngục
Kéo dài đến một kiếp ;
Ưa thích sự bất hòa,
An trú trên phi pháp,
An ổn các khố ách,
Lại xa lìa, từ bỏ ;
Ai phá sự hòa hợp,
Của Tăng chúng Tỷ-kheo,
Trong một kiếp, người ấy,
Bị địa ngục nung nấu.
(XI) (39) HÒA HỢP TĂNG
(Ànanda hỏi cùng một câu hỏi như
ở 36 và được trả lời tương tợ)
(X) (40) QUẢ DO HÒA HỢP TĂNG ĐƯA LẠI
1.- Bạch Thế Tôn, với chúng Tăng
bị phá, làm cho hòa hợp lại, đem đến kết quả gì ?
2. - Này Ànanda, đem đến phạm công
đức !
3. - Bạch Thế Tôn, thế nào là phạm
công đức ?
4. - Này Ànanda, trong một kiếp,
được sống hoan hỷ ở Thiên giới.
Sống an lạc là người,
Làm hòa hợp chúng Tăng ;
Sống an lạc là người,
Giúp chúng Tăng hòa hợp ;
Ưa thích sự hòa hợp,
An trú trên Chánh pháp.
Ai khiến cho chúng Tăng,
Được sống trong hòa hợp,
Trong một kiếp, người ấy
Sống hoan hỷ Thiên giới.
V. PHẨM MẮNG NHIẾC
(I) (41) TRANH LUẬN
1. Bấy giờ có Tôn giả Upàli đi
đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả upàli bạch Thế Tôn :
2. - Do nhân gì, do duyên gì, bạch
Thế Tôn, Tăng chúng khởi lên cạnh tranh, tranh luận, xung đột, đấu tranh
và Tỷ-kheo sống không an ổn ?
3. - Ở đây, này Upàli, các Tỷ-kheo
thuyết phi pháp là pháp...(như 35)...
(II-III) (42-43) CỘI GỐC CỦA TRANH
LUẬN
1. - Bạch Thế Tôn, có bao nhiêu cội
gốc của tranh luận ?
2. - Này Upàli, có mười cội gốc
của tranh luận. Thế nào là mười ?
3. Ở đây, này Upàli, Tỷ-kheo thuyết
phi pháp là pháp...(như 35)...
(IV) (44) TẠI KUSINÀRÀ
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Kusanàrà, trong khóm rừng Baliharana. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo :
- Này các Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn, Thế Tôn nói như sau :
2. - Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo buộc
tội muốn buộc tôi người khác sau khi quan sát nội trú thân năm pháp, sau
khi khiến năm pháp an trú nội thân, rồi hãy buộc tội người khác. Thế
nào là năm pháp cần phải quán sát nội thân ?
3. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo buộc
tôi, trong khi buộc tôi người khác, cần quán sát như sau : "Ta có thân
hành thanh tịnh hay không ? Ta có thành tựu thân hành thanh tịnh không có sứt
mẻ, không có uế hay không ? Ta có pháp này hay không có ? " Này các Tỷ-kheo,
nếu Tỷ-kheo thân hành không có thanh tịnh, không thành tựu thân hành thân
hình, vó sứt mẻ, có uế mẻ, có uế nhiễm, có người sẽ nói với vị
ấy như sau : "Tôn giả hãy học tập về thân đi". Như vậy các Tỷ-kheo
nói với vị ấy.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
buộc tội, muốn buộc tôi người khác, cần phải quán sát như sau :
"Ta có khẩu hành thanh tịnh hay không ? Ta có thành tựu khẩu hành thanh
tịnh, không có pháp này hay không có ? " Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo,
khẩu hành không có uế nhiễm hay không ? Ta có pháp này hay không có ?
"Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo, khẩu hành không có thanh tịnh, không
có thành tựu khẩu hành thanh tịnh, không có sứt mẻ, không có uế nhiễm,
có người sẽ nói về vị ấy như sau : " Tôn giả hãy học tập về lời".
Như vậy, các Tỷ-kheo nó với vị ấy.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
buộc tội, muốn buộc tội người khác, cần phải quán sát như sau :
"Ta có an lập từ tâm, không sân hận đối với các đồng Phạm hạnh
hay không ? Trong ta có pháp ấy hay không có ? " Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
không an lập từ tâm, sân hận đối với các đồng Phạm hạnh, có người
sẽ nói về vị ấy như sau : "Tôn giả hãy an lập tử tâm đối với
các vị đồng Phạm hạnh". Như vậy, các Tỷ-kheo nói với vị ấy.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
buộc tội muốn buộc tôi người khác, cần phải quán sát như sau :
"Ta có phải là người nghe nhiều, thọ trì điều đã nghe, cất giữ
điều đã nghe hay không ? Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có
nghĩa, có văn, đề cao đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh,
những pháp ấy, ta có nghe nhiều, có thọ trì, có tụng đọc bằng lời, có
suy tư với ý, được khéo thể nhập với chánh kiến không ? Pháp ấy có
nơi ta hay không ? " Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không phải là vị
nghe nhiều, thọ trì điều đã nghe, cất giữ điều đã nghe. Những ph1p sơ
thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời sống Phạm
hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh ; các pháp ấy, vị ấy không có nghe
nhiều, không có thọ trì, không có tụng đọc bằng lời, không có suy tư
với ý, không khéo thể nhập như sau : "Tôn giả hãy học tập về
Àgama (a-hàm) đi". Như vậy, có người sẽ nói về vị ấy.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
buộc tội muốn buộc tội người, hãy quán sát như sau : "Cả hai bộ
giới bổn Pàtimokkha, ta có khéo truyền đạt một cách rộng rãi, khó phân
tích, khéo thông hiểu, khéo quyết định theo kinh, theo chi tiết hay không ?
" Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không khéo truyền đạt một cách rộng
rãi về hai bộ giới bổn Pàtimokkha, không khéo phân tích, khéo thông hiểu,
khéo quyết định theo kinh, theo chi tiết thì : "Thưa Tôn giả, vấn đề
này được thế Tôn nói tại chỗ nào ? ", được hỏi như vậy, vị
ấy không có thể trả lời. Người ta sẽ nói về vị ấy như sau :
"Mong rằng Tôn giả hãy học tập về luật". Như vậy, có người
sẽ nói về vị ấy.
Năm pháp này, cần phải tự quán
sát về nội thân
8. Năm pháp nào cần phải an trú nội
tâm ?
9. "Ta nói đúng thời, không phải
phi thời ; ta nói đúng sự thật, không phải không đúng sự thật ; ta nói
lời nhu hòa, không phải nói lời thô bạo ; ta nói lời liên hệ đến mục
đích, không phải lời không liên hệ đến mục đích ; ta nói với tâm từ
bi, không nói với tâm sân hận".
Năm pháp này cần phải an trú nội
tâm.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo muốn buộc
tội người khác, sau khi quán sát nội tâm về năm pháp này, sau khi an trú
nội tâm về năm pháp này, hãy buộc tội người khác.
(V) (45) ĐI VÀO HẬU CUNG
1. - Này các Tỷ-kheo, vào hậu cung
của vua có mười nguy hại này. Thế nào là mười ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vua
đang ngồi với hoàng hậu. Khi thấy Tỷ-kheo, hoành hậu mỉm cười ; hay
khi thấy hoàng hậu, Tỷ-kheo mỉm cười. Ở đây, vua khởi lên ý nghĩ :
"Chắc những người này đã làm hay sẽ làm (tội lỗi) gì ? " Này
các Tỷ-kheo, đây là nguy hại thứ nhất khi vào hậu cung của vua.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vua bận
nhiều công việc, bận nhiều công việc phải làm, đi đến với một cung
nữ rồi quên. Cung nữ ấy có thai. Ở đây, vua khởi lên ý nghĩ : "Không
có một ai vào đây, trừ vị xuất gia. Có thế vị xuất gia đã làm như vậy".
Này các Tỷ-kheo, đây là nguy hại thứ hai khi vào các hậu cung của vua.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
hậu cung của vua có một châu báu bị mất cắp. Ở đây, vua khởi lên ý
nghĩ : "Không có một ai vào đây, trừ vị xuất gia. Có thể là vị xuất
gia đã làm như vậy". Này các Tỷ-kheo, đây là sự nguy hại thứ ba,
khi vào hậu cung của cung.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
hậu cung của vua, có những việc cơ mật bị tiết lộ ra ngoài. Ở đây,
vua khởi lê ý nghĩ : "Không có một ai vào đây, trừ vị xuất gia. Có
thể là vị xuất gia đã làm như vậy". Này các Tỷ-kheo, đây là sự
nguy hại thứ tư, khi vào hậu cung của vua.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong
hậu cung của vua, cha giết con, hay con muốn giết cha. Họ khởi lên ý nghĩ
: "Không có một ai vào đây, trừ vị xuất gia. Có thể vị xuất gia
đã làm như vậy." Này các Tỷ-kheo, đây là sự nguy hại thứ năm, khi
vào hậu cung của vua.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vua
đặt người có địa vị thấp lên địa vị cao. Việc này không làm vừa
ý một số người. Các người này khởi lên ý nghĩ : "Vua thân cận với
vị xuất gia. Có thể vị xuất gia đã làm như vậy". Này các Tỷ-kheo,
đây là sự nguy hại thứ sáu, khi vào hậu cung nhà vua.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vua
đặt người có địa vị cao xuống chỗ địa vị thấp. Việc này không
làm vừa lòng một số người. Các người này khởi lên ý nghĩ : "Vua
thân cận với vị xuất gia. Có thể là vị xuất gia đã làm như vậy".
Này các Tỷ-kheo đây là sự nguy hại thứ bảy, khi vào hậu cung của vua.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vua
điều động quân đội không đúng thời. Việc này không làm vừa lòng một
số người. Các người này khởi lên ý nghĩ : "Vua thân cận với vị
xuất gia. Có thể vị xuất gia đã làm thứ tám, khi vào hậu cung của vua.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vua
điều động quân đội không đúng thời, từ giữa đường lại rút lui
quân. Việc làm này không làm vừa lòng một số người. Các người này khởi
lên ý nghĩ : "Vua thân cận với vị xuất gia. Có thể la vị xuất gia
đã làm như vậy". Này các Tỷ-kheo, đây là sự nguy hại thứ chín,
khi vào hậu cung của cung.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
trong hậu cung nhà vua, rộn rịp với voi, rộn rịp với ngựa, rộn rịp với
xe cộ, có những sắc, thanh, hương, vị, xúc hấp dẫn, không thích hợp với
người xuất gia. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là sự nguy hại thứ mười,
khi vào hậu cung của vua.
Này các Tỷ-kheo, đây là mười sự
nguy hại khi vào hậu cung của vua.
(VI) (46) CÁC VỊ SAKKÀ (Thích tử)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa
các Thích tử tại Kapilavatthu, trong khu vườn Nigrodha. Bấy giờ có rất nhiều
nam cư sĩ Thích tử, trong ngày trai giới Uposatha, đi đến Thế Tôn ; sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với
các nam tu sĩ Thích tử đang ngồi một bên :
2.- Này các Thích tử, các Ông có
thực hành ngày trai giới, đầy đủ tám chi phần không ?
- Bạch Thế Tôn, có khi chúng con thực
hành ngày trai giới, đầy đủ tám chi phần, có khi chúng con không thực
hành.
- Này các Thích tử, như vậy không
được lợi cho các Ông ! Như vậy khó được lợi cho các Ông ! Vì rằng
trong đời sống liên hệ đến sợ hãi về sầu khổ, trong đời sống liên
hệ đến sợ hãi về chết, có khi các Ông thực hành ngày trai giới đầy
đủ tám chi phần, có khi các Ông không thực hành, các Ông nghĩ thế nào,
này các Thích tử, ở đây, có người trong một vài công việc, không gặp
một ngày kém may mắn nào, lãnh được nữa đồng tiền vàng. Như vậy, có
vừa đủ để có người nói về người ấy như sau : "Thật là người
thông minh, đầy đủ sự tháo vát" ?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn !
- Các Ông nghĩ thế nào, này các
Thích tử, ở đây, có người trong một vài công việc, không gặp một
ngày kém may mắn nào, lãnh được một đồng tiền vàng... lãnh được hai
đồng tiền vàng... lãnh được ba đồng tiền vàng... lãnh được bốn đồng
tiền vàng... lãnh được năm đồng tiền vàng... lãnh được sáu đồng tiền
vàng... lãnh được bảy đồng tiền vàng... lãnh được tám đồng tiền vàng...
lãnh được chín đồng tiền vàng... lãnh được mười đồng tiền vàng...
lãnh được hai mươi... lãnh được ba mươi... lãnh được bốn mươi... lãnh
được năm mươi đồng tiền vàng. Như vậy, có vừa đủ để người ta nói
về người ấy như sau : "Người này là thông minh, đầy đủ sự tháo
vát" ?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Các Ông nghĩ thế nào, này các
Thích tử, nếu người ấy, mỗi ngày lãnh được 100 đồng tiền vàng,
1.000 đồng tiền vàng, cất giấu số tiền đã lãnh được, đến 100 tuổi,
sống được đến 100 năm, có phải người ấy thâu được một số tài sản
sở hữu lớn ?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn !
- Các Ông nghĩ thế nào, này các
Thích tử, người ấy do nhân của cải sở hữu, do duyên của cải sở hữu,
do kết quả của cải sở hữu trong một đêm hay trong một ngày, hay chỉ
trong nữa đêm, hay chỉ trong nữa ngày, sống hưởng nhất hướng lạc chịu
không ?
- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì sao ?
- Dục, bạch Thế Tôn là vô thường,
là trống rỗng, là giả dối, bản chất là giả dối.
3. Ở đây, này các Thích tử, đệ
tử của Ta, trong 10 năm sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như lời
Ta giảng dạy, như vậy, vị ấy thực hành, vị ấy có thể sống 100 năm,
100 trăm năm, 100 ngàn năm, 100 ngàn năm được cảm thọ nhất hướng lạc.
Vị ấy có thể chứng được quả Nhất lai, quả Nhất lai hay quả Dự
lưu, không có sai chạy. Này các Thích tử, đâu phải là 10 năm ! Ở đây,
đệ tử của Ta trong 9năm, trong 8 năm, trong 7 năm, trong 6 năm, trong 5 năm,
trong 4 năm, trong 3 năm, trong 2 năm, trong 1 năm sống không phóng dật, nhiệt
tâm, tinh thần như lời Ta giảng dạy, vị ấy thực hành, vị ấy có thể
sống 100 năm, 100 ngàn năm được cảm thọ nhứt hướng lạc. Vị ấy có
thể chứng quả Nhất lai, quả Bất lai, hay quả Dự lưu không có sai chạy.
Này các Thích tử, đâu phải là một năm. Ở đây, vị đệ tử của Ta
trong 10 tháng sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh thần như lời Ta giảng
dạy ; như vậy vị ấy thực hành, vị ấy có thể sống 100 năm, 100 trăm
năm, 100 ngàn năm, 100 trăm ngàn năm được cảm thọ nhứt hướng lạc. Vị
ấy có thể chứng quả Nhất lai, quả Bất lai, hay quả Dự lưu không có
sai chạy. Này các Thích tử, đâu phải là 10 tháng. Ở đây, đệ tử của
Ta trong 9 tháng, trong 8 tháng, trong 7 tháng, trong 6 tháng, trong 5 tháng, trong 4
tháng, trong 3 tháng, trong 2 tháng, trong 1 tháng, trong nữa tháng sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như lời Ta giảng dạy ; vị ấy thực hành,
vị ấy có thể sống 100 năm, 100 trăm năm, 100 ngàn năm, 100 trăm ngàn năm
được cảm thọ nhất hướng lạc. Vị ấy có thể chứng quả Nhất lai,
quả Bất lai, hay quả Dự lưu không có sai chạy. Này các Thích tử, đâu
phải là nữa tháng. Ở đây, đệ tử của ta trong 10 đêm 10 ngày... trong 9
đêm 9 ngày... trong 7 đêm 7 ngày... trong 6 đêm 6 ngày... trong 5 đêm 5
ngày... trong 4 đêm 4 ngày... trong 3 đêm 3 ngày... trong 2 đêm 2 ngày... trong
1 đêm 1 ngày... sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như lời Ta giảng
dạy ; vị ấy thực hành. Vị ấy có thể sống 100 năm, 100 trăm năm, 100
ngàn năm, 100 trăm ngàn năm được cảm thọ nhất hướng lạc. Vị ấy có
thể chứng quả Nhất lai, quả Bất lai hay quả Dự lưu không có sai chạy.
Này các Thích tử, như vậy không
được lợi ích cho các Ông ! Như vậy khó được lợi ích cho các Ông !
Vì rằng trong đời sống liên hệ đến sợ hãi về đau khổ, trong đời sống
liên hệ đến sợ hãi về chết, có khi các Ông thực hành ngày trai giới
đầy đủ tám chi phần, có khi các Ông không thực hành.
- Bạch Thế Tôn, vậy bắt đầu từ
hôm nay chúng con sẽ hành trì ngày trai giới đầy đủ tám chi phần.
(VII) (47) MAHALI
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Vesàli, tại Đại Lâm, tại ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Mahàli người
Licchavi, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Mahàli người Licchavi bạch Thế Tôn :
2.- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp tục làm ?
- Này Mahàli, do nhân tham, do duyên
tham, ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp tục làm. Này Mahali, do
nhân sân, do duyên sân, ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp tục
làm. Do nhân si, do duyên si, ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp
tục làm. Này Mahàli, do nhân phi như lý tác ý, do duyên phi như lý tác ý,
ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp tục làm. Này Mahàli, do
nhân tâm tà hướng, do duyên tâm tà hướng, ác nghiệp được làm, ác nghiệp
được tiếp tục làm. Này Mahàli, đây là nhân, đây là duyên, ác nghiệp
được làm, ác nghiệp được tiếp tục làm.
3. - Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, thiện nghiệp được làm, thiện nghiệp được tiếp tục làm ?
- Này Mahàli, do nhân vô tham, do
duyên vô tham, thiện nghiệp được làm, thiện nghiệp được tiếp tục làm.
Này Mahàli, do nhân vô sân, do duyên vô sân... do nhân vô si, do nhân vô si...
do nhân như lý tác ý, do duyên như lý tác ý... do nhân tâm chánh hướng, do
duyên tâm chánh hướng, thiện nghiệp được làm, thiện nghiệp được tiếp
tục làm. Này Mahàli, đây là nhân, đây là duyên, thiện nghiệp được làm,
thiện nghiệp được tiếp tục là.
Và này Mahàli, nếu 10 pháp này
không thực hiện hữu ở đời, thời đây không có lời tuyên bố về phi
pháp hành, bất bình đẳng hành. Vì rằng, này Mahàli, mười pháp này hiện
hữu ở đời, thời ở đây có lời tuyên bố về phi pháp hành bất bình
đẳng hành, hay pháp hành, bình đẳng hành.
(VIII) (48) CÁC PHÁP
1. - Này các Tỷ-kheo, có mười pháp
này, vị xuất gia phải luôn luôn quán sát. Thế nào là mười ?
2. Người xuất gia phải luôn luôn
quán sát : "Ta nay đi đến tình trạng là người không có giai cấp"
(mất hết giai cấp). Người xuất gia phải luôn luôn quán sát : "Đời
sống của ta tùy thuộc vào người khác." Vị xuất gia cần phải luôn
luôn quán sát : "Nay cử chỉ uy nghi của ta cần phải thay đổi ! "
Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Không biết tư ngã có chỉ
trích ta về giới hạnh không ? " Vị xuất gia cần luôn luôn quán sát
: "Không biết các đồng Phạm có trí, sau khi tìm hiểu, có chỉ thích
ta về giới hạnh không ? " Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát
: "Mọi sự vật khả ái, khả ý của ta bị đổi khác, bị biến hoại".
Vị xuất gia cần phải quán sát : "Ta là chủ của nghiệp, là thừa tự
của nghiệp. là thai tạng của nghiệp, là bà con của nghiệp. là chỗ quy
hướng của nghiệp ; phàm nghiệp gì ta sẽ làm, thiện hay ác ta sẽ thừa
tự nghiệp ấy". Vị xuất gia cần phải luôn quán sát : "Đêm
ngày trôi qua bên ta và nay ta đã thành người như thế nào ? Vị xuất gia
cần phải cố gắng hoan hỷ trong ngôi nhà trống không hay không ? " Vị
xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Ta có chứng được pháp Thượng
nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh không, để đến những ngày
cuối cùng, các đồng Phạm hạnh có hỏi, ta sẽ không có xấu hổ ? "
Này các Tỷ-kheo, mười pháp này, vị
xuất gia cần phải luôn luôn quán sát.
(IX) (49) TRÚ THÂN
1. - Này các Tỷ-kheo, mười pháp
này liên hệ đến thân. Thế nào là mười ?
2. Lạnh, nóng, đói, khát, đại tiện,
tiểu tiện, chế ngự thân, chế ngự lời, chế ngự mạng sống, tái sanh,
hữu hành.
Này các Tỷ-kheo, có mười pháp
này liên hệ đến thân.
(X) (50) ĐẤU TRANH
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại Ơetavana, trong khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ,
một số đông Tỷ-kheo sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về, cùng
nhau ngồi hội họp trong hội trường, cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, sống
đã thương nhau với binh khí miệng, lưỡi. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều,
từ chỗ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến hội trường, sau khi đến. Ngồi
xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi xuống, Thế Tôn nói với các
Tỷ-kheo :
2. - Này các Tỷ-kheo, nay các thầy
họp, bàn đến vấn đề gì ? Câu chuyện gì giữa Thầy đã bị gián đoạn
?
- Ở đây, bạch Thê Tôn, chúng con
sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về, chúng con ngồi hội họp trong
hội trường, cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, sống đã thương nhau với
binh khí miệng lưỡi.
- Này các Tỷ-kheo, thật là không xứng
đáng cho các Thầy, các thiện nam nữ, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, lại sống canh tranh, luận tranh đấu tranh, đả
thưng* nhua với binh khí miệng lưỡi. Này các Tỷ-kheo, có mười pháp này,
cần phải ghi nhớ tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến
hòa đồng, đưa đến không tranh luận, hòa hợp, nhất trí. Thế nào là mười
?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có giới, sống được chế ngự với sự chế ngự của giới bổn
Patimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi
nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Phàm vị Tỷ-kheo
nào có giới, sống chế ngự... trong các học pháp : Đây là pháp cần phải
ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính hòa hợp, nhất trí
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo có
nghe nhiều, thọ trì điều đã được nghe cất giữ điều đã nghe. Những
pháp gì, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, tán thán Phạm
hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh, các pháp như vậy, vị ấy nghe nhiều,
thọ trì, đã đọc tụng bằng lời, đã quan sát với ý, đã khéo thông đạt
nhờ chánh kiến. Này các Tỷ-kheo, phàm vị Tỷ-kheo nào nghe nhiều, thọ
trì điều đã được nghe... khéo thông đạt nhờ chánh kiến. Đây là
pháp cần kính... hòa hợp, nhất trí.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện. Này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nào làm bạn với thiện... giao thiệp với thiện. Đây
là pháp cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái... hòa hợp, nhất trí.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
dễ nói, thành tựu những pháp tác thành người dễ nói, kham nhẫn và
khéo chấp nhận những lời giáo giới. Này các Tỷ-kheo, vì rằng vị Tỷ-kheo
nào dễ nói... khéo chấp nhận những lời giáo giới. Đây là pháp cần phải
ghi nhớ, tạo thành tương ái... hòa hợp, nhất trí.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
phàm có những công việc cần phải làm, hoặc lớn, hoặc nhỏ đối với
các đồng Phạm hạnh. Ở đây, vị ấy khéo léo và tinh cần, thành tựu sự
suy tư đến các phương tiện, vừa đủ để làm, vừa đủ để tổ chức.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào phàm có những công việc gì... vừa đủ để
tổ chức tương ái... hòa hợp, nhất trí.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ưa pháp, cùng nói chuyện một cách dễ thương, vô cùng hân hoan trong thắng
Pháp, trong thắng Luật. Này các Tỷ-kheo, phàm Tỷ-kheo nào ưa Pháp... trong
thắng Luật. Đây là pháp cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái.. hòa hợp,
nhất trí.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống tinh cần, tinh tấn, đoạn trừ các pháp bất diệt, làm cho đầy đủ
các tiện pháp, nỗ lực kiên trì, không bỏ rơi gánh nặng đối với các
thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, phàm Tỷ-kheo nào sống tinh cần, tinh tấn...
đối với các thiện pháp. Đây là pháp cần phải ghi nhớ, tạo thành tương
ái... hòa hợp, nhất trí.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
biết đủ đối với các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sáng tọa,
dược phẩm trị bệnh. Này các Tỷ-kheo, phàm Tỷ-kheo nào biết đủ... dược
phẩm trị bệnh. Đây là pháp cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái...
hòa hợp, nhất trí.
11. Lại nữa, này các Tỷ-khoe, Tỷ-kheo
chánh niệm thành tựu niệm tuệ tối thắng, ức niệm tùy niệm việc đã
làm từ lâu, đã nói từ lâu... Này các Tỷ-kheo, phàm Tỷ-kheo nào chánh niệm...
đã nói từ lâu. Đây là pháp cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái...
hòa hợp, nhất trí.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có trí tuệ, thành tựu với trí tuệ về sanh diệt, trí tuệ thuộc bậc
Thánh, thể nhập và hướng đến chơn chánh đoạn tận khổ đau. Này các
Tỷ-kheo, phàm Tỷ-kheo nào có trí tuệ, thành tựu với trí tuệ về sanh diệt,
trí tuệ thuộc bậc Thánh, thể nhập và hướng đến chơn chính đoạn tận
thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến không
tranh luận, hòa hợp, nhất trí.
VI. PHẨM TÂM CỦA MÌNH
(I) (51) TÂM CỦA MÌNH
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sávatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Ở đây, Thế Tôn gọi
các Tỷ-kheo :
- Này các Tỷ-kheo.
- Bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau :
2. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo,
không thiện xảo trong hành tướng tâm người khác, thời cần phải nguyện
rằng : "Ta sẽ thiện xảo trong hành tướng tâm của ta." Như vậy,
các Tỷ-kheo, như thế nào, Tỷ-kheo thiện xảo trong hành tướng tâm của
mình ?
3. Ví như, này các Tỷ-kheo, một người
đàn bà hay một người đàn ông, còn trẻ, trong tuổi thanh niên, tánh ưa
trang điểm, quán sát hình ảnh mặt mình trong tấm gương thanh tịnh trong sáng,
hay trong một bát nước trong. Nếu thấy trên mặt có hốt bụi hay dấu nhớp
gì, người ấy cố gắng đoạn bụi hay dấu nhớp ấy. Nếu không thấy hột
bụi hay dấu nhớp, người ấy hoan hỷ, thỏa mãn : "Thật lợi đắc
cho ta ! Ta thật là trong sạch ! " Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
quán sát như vậy, được nhiều lợi ích trong các thiện pháp. "Có phải
ta sống nhiều với tham ? Có phải ta sống nhiều với tâm có sân ? Có phải
ta sống nhiều vớt tâm không có sân ? Có phải ta sống nhiều với hôn trầm
thụy miên chi phối, hay ta sống nhiều với trạo cử, hay ta sống nhiều với
không trạo cử ? Có phải ta sống nhiều với nghi ngờ, hay ta sống nhiều
vượt qua được nghi ngờ ? Có phải ta sống nhiều với phẫn nộ, hay ta sống
nhiều không bị phẫn nộ ? Có phải ta sống nhiều với tâm bị ô nhiễm,
hay ta sống nhiều với tâm không bị ô nhiễm ? Có phải ta sống nhiều với
thân nhiệt nóng, hay ta sống nhiều với thân không nhiệt nóng ? Có phải
ta sống nhiều với biếng nhác, hay ta sống nhiều với tinh tấn, tinh cần
? Có phải ta sống nhiều với không định tĩnh, hay ta sống nhiều với định
tĩnh ? "
4. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
quán sát như vậy, biết rằng : "Ta sống nhiều với tâm tham ; ta sống
nhiều với tâm sân ; ta sống nhiều với tâm bị hôn trầm thụy miên chi
phối ; ta sống nhiều với trạo cử ; ta sống nhiều với nghi ngờ ; ta sống
nhiều với phẫn nộ ; ta sống nhiều với tâm bị nhiễm ô ; ta sống nhiều
với thân nhiệt nóng ; ta sống nhiều với biếng nhác ; ta sống nhiều với
không định tĩnh", thời Tỷ-kheo ấy cần phải quyết định, ước muốn,
tinh tấn, nỗ lực, dõng mãnh, bất thối, chánh niệm, tỉnh giác để đoạn
tận các pháp ác bất thiện ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, khi khăn bị cháy,
hay khi đầu bị cháy, cần phải quyết định, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực,
dõng mãnh, bất thối, chánh niệm, tỉnh giác để dập tắt khăn ấy cần
phải quyết định, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, dõng mãnh, bất thối,
chánh niệm, tỉnh giác để đoạn tận các pháp bất thiện ấy.
5. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
quán sát như vậy biết rằng : "Ta sống nhiều với tâm không tham với
tâm không trầm thụy miên ; ta sống nhiều với tâm không trạo cử ; ta sống
nhiều với tâm nghi ngờ được vượt qua ; ta sống nhiều với tâm không
phẫn nộ ; ta sống nhiều với tâm không nhiễm nộ ; ta sống nhiều với
thân không nhiệt nóng ; ta sống nhiều với tâm tinh tấn, tinh cần ; ta sống
nhiều với tâm định tĩnh", thời Tỷ-kheo ấy, sau khi an trú trong các
thiện pháp ấy, tồi hơn nữa cần chú tâm đoạn diệt các lậu hoặc.
(II) (52) TÂM CỦA MÌNH (2)
1. Rồi Tôn giả Sàriputta nói với
các Tỷ-kheo :
- Này chư Hiền giả !
- Thưa vâng Tôn giả.
Các Vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn
giả Sàriputta. Tôn giả Sàriputta nói như sau : (giống như kinh trước, chỉ
khác đây là tôn giả Sàriputta nói với các Tỷ-kheo).
(III) (53) ĐỨNG MỘT CHỖ
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta không tán
thán đứng một chỗ trong các thiện pháp, còn nói gì tổn giảm. Này các
Tỷ-kheo, Ta tán thán tăng trưởng trong các thiện pháp, không đứng một chỗ,
không tổn giảm. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tổn giảm trong các thiện
pháp, đứng một chỗ, không tăng trưởng ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo
đang cố gắng để đạt được lòng tin, giới đức, nghe nhiều, bố thí,
biện tài với trí tuệ. Các pháp ấy đối với vị này đứng một chỗ,
không tăng trường. Này các Tỷ-kheo, Ta gọi như vậy là tổn giảm trong
các thiện pháp, này các Tỷ-kheo, là tổn giảm trong các thiện pháp, đứng
một chỗ, không tăng trưởng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là đứng một
chỗ trong các thiện pháp, không tổn giảm, không tăng trưởng.
3. - Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
cố gắng để đạt được lòng tin, giới đức, nghe nhiều, bố thí và biện
tài với trí tuệ. Những pháp ấy đối với vị này, không tổn giảm,
không tăng trưởng. Này các Tỷ-kheo, Ta gọi như vậy là đứng một chỗ
trong các thiện pháp, không tổn giảm, không tăng trưởng. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là tăng trưởng trong các biện pháp, không đứng một chỗ, không
tổn giảm.
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
cố gắng để đạt lòng tin, giới đức, nghe nhiều, bố thí và biện tài
với trí tuệ. Những pháp ấy đối với vị này không đứng một chỗ, không
tổn giảm. Này các Tỷ-kheo, Ta gọi như vậy là tăng trưởng trong các thiện
pháp, không đứng một chỗ, không tổn giảm. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là tăng trưởng trong các thiện pháp, không đứng chỗ, không tổn giảm.
5. Này các Tỷ-kheo, dầu Tỷ-kheo
không thiện xảo trong hành tướng tâm người khác, thời cần phải nguy rằng
: "Ta sẽ thiện xảo trong hành tướng tâm của ta". Như vậy, này
các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập. Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là Tỷ-kheo thiện xảo trong hành tướng tâm của mình ? (như kinh 51, từ số
3, 4, 5).
(VI) (54) TỊNH CHỈ
1. - Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
không thiện xảo trong hành tướng tâm của người khác, thời cũng phải
nguyện rằng : "Ta sẽ thiện xảo trong hành tướng tâm của ta". Như
vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là Tỷ-kheo thiện xảo trong hành tướng tâm của mình ?
2. Ví như, này các Tỷ-kheo, một người
đàn bà hay một người đàn ông, còn trẻ, trong tuổi thanh niên, ưa muốn
trang điểm, quán sát hình ảnh mặt mình trong tấm gương thanh tịnh trong sáng,
hay trong một bát nước trong. Nếu thấy trên mặt có một hột bụi hay dấu
nhớp gì, người ấy cố gắng đoạn trừ hột bụi ấy hay dấu nhớp ấy.
Nếu không thấy hột bụi hay dấu nhớp, người ấy hoan hỷ thỏa mãn :
"Thật lợi đắc cho ta ! Ta thật là trong sạch ! ". Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát như vậy được nhiều lợi ích trong các thiện
pháp : "Có phải ta được lợi đắc nội tâm tịnh chỉ, hay ta không
được lợi đắc nội tâm tịnh nhỉ ? Có phải ta được tăng thượng tuệ
pháp quán, hay không được tăng thượng tuệ pháp quán ?
3. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
trong khi quán sát, biết như sau : "Ta có được nội tâm tịnh chỉ, nhưng
ta không được tăng thượng tuệ pháp quán", thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sau khi an trú nội tâm tịnh chỉ, cần phải nỗ lực để đạt cho được
tăng thượng tuệ pháp quán ấy ; sau một thời gian, đạt được nội tâm
tịnh chỉ và được tăng thượng tuệ pháp quán.
4. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
trong khi quán sát, biết như sau : "Ta có được tăng thượng tuệ pháp
quán, nhưng không có được nội tâm tịnh chỉ", thời này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo sau khi an trú tăng thượng tuệ pháp quán, cần phải nổ lực để
đạt cho được nội tâm tịnh chỉ. Vị ấy sau một thời gian, đạt được
tăng thượng tuệ pháp quán và chứng được nội tâm tịnh chỉ.
5. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
trong khi quán sát, biết như sau : "Ta không có được nội tâm tịnh chỉ.
Ta không có được tăng thượng tuệ pháp quán", thời này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy cần phải quyết định, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, dõng
mãnh, bất thối, chánh niệm, tỉnh giác để đạt cho được các thiện
pháp. Ví như, này các Tỷ-kheo, khi khăn bị cháy hay khi đầu bị cháy, cần
phải quyết định, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, dõng mãnh, bất thối,
chánh niệm, tỉnh giác để dập tắt khăn ấy hay đầu ấy. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần phải quyết định, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực,
dõng mãnh, bất thối, chánh niệm, tỉnh giác để đạt cho được các thiện
pháp ấy. Vị ấy trong một thời gian khác, đạt được nội tâm tịnh chỉ
và đạt được tăng thượng tuệ pháp quán.
6. Nhưng này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
trong khi quan sát biết như sau : "Ta có được nội tâm tịnh chỉ, ta
có được tăng thượng tuệ pháp quán", thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy sau khi an trú trong các thiện pháp ấy, cần phải nỗ lực, chú tâm để
đoạn diệt các lậu hoặc nữa.
7. Này các Tỷ kheo, ta nói, Y có hai
loại : nên sử dụng và không nên sử dụng. Này các Tỳ kheo, Ta cũng nói,
đồ ăn khất thực có hai loại : nên sử dụng và không nên sử dụng.
Này các Tỳ Kheo, Ta cũng nói, làng, thị trấn có hai loại : nên sử dụng
và không nên sử dụng.. Này các Tỳ kheo, Ta cũng nói, người có hai loại
: nên sử dụng và không nên sử dụng.
8. Này các Tỳ kheo, Ta nói, Y có hai
loại : nên sử dụng và không nên sử dụng, như vậy được nói đến. Do
duyên gì được nói đến như vậy ?
Ở đây, nếu biết được y áo
nào : "Y áo này, được ta sử dụng, các pháp bất thiện tăng trưởng,
các pháp thiện tồn giảm", thời y áo như vậy không nên sử dụng,
các pháp bất thiện tồn giảm, các thiện pháp tăng trưởng", thời y
áo như vậy nên sử dụng.
Này các Tỳ-kheo, Ta nói rằng, y có
hai loại : nên sử dụng và không nên sử dụng, như vậy được nói đến.
Do duyên này được nói đến như vậy.
9. Này các Tỳ Kheo, Ta nói rằng, đồ
ăn khất thực có hai loại : nên sử dụng và không nên sử dụng, như vậy
được nói đến. Do duyên gì được nói đến như vậy ?
Ở đây, nếu biết được đồ ăn
khất thực nào : "Đồ ăn khất thực này được ta sử dụng, các
pháp bất thiện tăng trưởng, các pháp thiện tồn giảm", thời đồ
ăn khất thực như vậy không nên sử dụng. Ở đây, nếu biết được đồ
ăn khất thực nào : "Đồ ăn khất thực này được ta sử dụng, các
pháp bất thiện tổn giảm, các thiện pháp tăng trưởng", thời đồ
ăn khất thực như vậy nên sử dụng.
Này các Tỳ-kheo, Ta nói rằng, đồ
ăn khất thực có hai loại : nên sử dụng và không nên sử dụng, như vậy
được nói đến. Do duyên này được nói đến như vậy.
10. Này các Tỳ-Kheo, Ta nói rằng,
sàng tọa có hai loại : nên sử dụng và không nên sử dụng, như vậy được
nói đến. Do duyên gì được nói đến như vậy ?
Ở đây, nếu biết được sàng tọa
nào : "Sàng tọa này được ta sử dụng, các pháp bất thiện tăng trưởng,
các pháp thiện tồn giảm", thời sàng tọa như vậy không nên sử dụng.
Ở đây, nếu biết được sàng tọa nào : "Sàng tọa này được ta sử
dụng, các pháp bất thiện tồn giảm, các pháp thiện tăng trưởng",
thời sàng tọa như vậy nên sử dụng.
Này các Tỳ-kheo, Ta nói rằng, sàng
tọa có hai loại : nên sử dụng và không nên sử dụng, như vậy được nói
đến. Do duyên gì được nói đến như vậy ?
Ở đây, nếu biết được làng, thị
trấn nào : "Làng, thị trấn này được ta sử dụng, các pháp bất thiện
tăng trưởng, các pháp thiện bị tổng giảm", thời làng, thị trấn
như vậy không nên sử dụng. Ở đây, nếu biết được làng, thị trấn
nào : "Làng, thị trấn được ta sử dụng, các pháp thiện tổn giảm,
các pháp thiện tăng trưởng", thời làng, thị trấn như vậy nên sử
dụng.
Này, các Tỳ-kheo, Ta nói rằng,
làng, thị trấn có hai loại : nên sử dụng và không nên sử dụng, như vậy
được nói đến. Do duyên này được nói đến như vậy.'
12. Này các Tỳ-kheo, Ta nói rằng,
quốc độ có hai loại : nên sử dụng và không nên sử dụng, như vậy
được nói đến. Do duyên gì được nói đến như vậy ?
Ở đây, nếu biết được quốc độ
nào : "Quốc độ này được ta sử dụng, các pháp bất thiện tăng
trưởng, các thiện pháp tồn giảm", thời quốc độ như vậy không
nên sử dụng. Ở đây, nếu biết được quốc độ nào : "Quốc độ
này được ta sử dụng, các pháp bất thiện tổn giảm, các thiện pháp tăng
trưởng", thời quốc độ như vậy nên sử dụng".
Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, quốc
độ có hai loại : nên sử dụng và không nên sử dụng, như vậy được nói
đến. Do duyên này được nói đến như vậy.
13. Này các Tỷ譫heo, Ta nói rằng, người có hai loại : nên sử dụng và
không nên sử dụng, như vậy được nói đến. Do duyên gì được nói đến
như vậy ?
Ở đây, nếu biết được người
nào : "Người này được ta sử dụng, các pháp bất thiện tăng trưởng,
các pháp thiện tôn giảm", thời người như vậy không nên sử dụng.
Ở đây, nếu biết được người nào : "Người này được ta sử dụng,
các pháp bất thiện tôn giảm, các thiện tăng trưởng", thời người
như vậy nên sử dụng Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người có hai loại :
nên sử dụng và không nên sử dụng, như vậy được nói đến. Do duyên
này được nói đến như vậy.
(V) (55) TỔN GIẢM
1. Ở đây, Tôn giả Sàriputta gọi
các Tỷ-kheo :
- Này chư Hiền Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Sàriputta. Tôn giả Sàriputta nói như sau :
2. - Có người bản tánh tổn giảm,
có người bản tánh là không tổn giảm, này chư Hiền, được nói đến
như vậy. Cho đến như thế nào này chư Hiền, người bản tánh là tổn giảm
được Thế Tôn nói đến ? Cho đến như thế nào, này chư Hiền, người bản
tánh là không tổn giảm được Thế Tôn nói đến ?
- Thưa Hiền giả, chúng tôi đi từ
xa đến để được hiểu rõ ý nghĩa lời nói này từ Tôn giả Sàriputta.
Lành thay, nếu ý nghĩa lời nói này được Tôn giả Sàriputta nói lên. Sau
khi nghe Tôn giả Sàriputta, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này chư Hiền, hãy nghe và
khéo tác ý, ta sẽ nói :
- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tông giả
Sàriputta. Tông giả Sàriputta nói như sau :
- Cho đến như thế nào, này chư Hiền,
người bản tánh là tổng giảm được Thế Tôn nói đến ?
3. Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo
không nghe pháp chưa được nghe, và pháp đã được nghe đi đến bị quên
; các pháp trước kia tâm đã có cảm xúc, những pháp ấy không được hiện
hành, và không thức tri những pháp không được thức tri. Cho đến như vậy,
này chư Hiền, người bản tánh là tổn giảm được Thế Tôn nói đến.
Nhưng này chư Hiền, cho đến như thế nào, này chư Hiền, người bản tánh
là không tổn giảm được Thế Tôn nói đến ?
4. Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo
nghe pháp chưa được nghe, và các thiện pháp được nghe không có quên đi.
Và những pháp nào trước kia tâm đã có cảm xúc, những pháp ấy được
hiện hành, và thức tri những pháp chưa được thức tri. Cho đến như vậy,
này chư Hiền, là người bản tánh không bị tổn giảm được Thế Tôn
nói đến.
5. Này chư Hiền, nếu Tỷ-kheo không
thiện xảo, trong hành tướng tâm của người khác, thời cũng phải nguyện
rằng : "Ta sẽ thiện xảo trong hành tướng tâm của ta". Như vậy,
này chư Hiền, chư Hiền cần phải học tập. Và này chư Hiền, thế nào
là Tỷ-kheo thiện xảo trong hành tướng tâm của mình ?
6. Ví như, này chư Hiền, một người
đàn bà hay một người đàn ông, còn trẻ, trong tuổi thanh niên, tánh ưa
trang điểm, quán sát hình ảnh mặt của mình trong tấm gương thanh tịnh
trong sáng, hay trong một bát nước trong, nếu thấy trên mặt có hột bụi
hay dấu nhớp gì, người ấy cố gắng đoạn trừ hột bụi hay dấy nhớp
ấy. Nếu không thấy hột bụi hay dấu nhớp người ấy hoan hỷ thỏa mãn
: "Thật lợi đắc cho ta ! Trong ta thật là trong sạch ! ". Cũng vậy,
này chư Hiền, Tỷ-kheo có quán sát như vậy, được nhiều lợi ích trong
các thiện pháp : "Có phải ta sống nhiều với không tham, không biết
trong ta có pháp này hay không có ? Có phải ta sống nhiều với tâm không
sân ? Không biết trong ta có pháp này hay không có ? Có phải ta sống nhiều
với hôn trầm thụy miên đã từ bỏ ? Không biết trong ta có pháp này hay
không có ? Có phải ta sống nhiều với không trạo cử ? Không biết trong
ta có pháp này hay không có ? Có phải ta sống nhiều với nghi ngờ đã được
vượt qua ? Không biết trong ta có pháp này hay không có ? Có phải ta sống
nhiều với không phẫn nộ ? Không biết trong ta có pháp này hay không có ?
Có phải ta sống nhiều với tâm không nhiễm ô ? Không biết trong ta có
pháp này hay không có ? Có phải ta có được nội tâm pháp hỷ ? Không biết
trong ta có pháp này hay không có ? Có phải ta đã được nội tâm an chỉ ?
Không biết trong ta có pháp này hay không có ? Có phải ta đã có được tối
thắng tuệ pháp quán ? Không biết trong ta có pháp này hay không có ? "
7. Này chư Hiền, nếu vị Tỷ-kheo
trong khi quán sát, không thấy có trong tự ngã tất cả thiện pháp này, thời
Tỷ-kheo ấy cần phải quyết định ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, dõng
mãnh, bất thối và chánh niệm, tỉnh giác, để có được tất cả thiện
pháp này. Ví như, này chư Hiền, khi khăn bị cháy hay khi đầu bị cháy, cần
phải quyết định, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, dõng mãnh, bất thối
và chánh niệm, tỉnh giác, để dập tắt khăn ấy hay đầu ấy. Cũng vậy,
này chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải quyết định, ước muốn, tinh tấn,
nỗ lực, dũng mãnh, bất thối, chánh niệm, tỉnh giác, để có được tất
cả thiện pháp này.
8. Này chư Hiền, nếu Tỷ-kheo trong
khi quán sát, thấy trong tự ngã có một số thiện pháp và không thấy có
một số thiện pháp, thời này chư Hiền, đối với các thiện pháp nào vị
ấy thấy có trong tự ngã, vị ấy an trú trong các thiện pháp ấy. Đối với
các thiện pháp nào, vị ấy không thấy có trong tự ngã, vị ấy cần phải
quyết định, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, dõng mãnh, bất thối và
chánh niệm, tỉnh giác để có được tất cả thiện pháp này. Ví như, này
chư Hiền, khi khăn bị cháy hay khi đầu bị cháy, cần phải quyết định,
ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, dõng mãnh, bất thối và chánh niệm, tỉnh
giác để dập tắt khăn ấy hay đầu ấy. Cũng vậy, này chư Hiền, nếu Tỷ-kheo,
trong khi quán sát, thấy trong tự ngã có một số thiện pháp, thời an trú
trong các thiện pháp ấy. Còn đối với các thiện pháp vị ấy không thấy
trong tự ngã, vị ấy cần phải quyết định, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực,
dõng mãnh, bất thối và chánh niệm, tỉnh giác để có được các thiện
pháp ấy.
9. Này chư Hiền, nếu Tỷ-kheo trong
khi quán sát, thấy tất cả pháp này đều có trong tự ngã, thời này chư
Hiền, Tỷ-kheo ấy sau khi an trú trong tất cả thiện pháp này, cần phải nỗ
lực chú tâm để đoạn diệt các lậu hoặc.