- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 3c
- VENÀGA
1-7
Một thời, Thế Tôn đang đi du hành
giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo, đi đến một làng
Bà-la-môn Kosala, tên là Venàgapura. Các gia chủ Bà-la-môn ở Venàgapura được
nghe : "Sa-môn Gotama, dòng họ Thích ca, xuất gia từ gia tộc Thích ca đến
Venàgapura. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Thế Tôn
Gotama : "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân sư, Phật, Thế Tôn. Ngài với thắng trí, tự thân chứng ngộ và
tuyên bố về thế giới này, cùng với Thiên Giới, Ma Giới, Phạm Thiên Giới,
cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời. Ngài thuyết pháp, sơ thiện,
trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, và giới thiệu đời sống Phạm
hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch". Tốt đẹp thay được chiêm ngưỡng
một vị A-la-hán như vậy".
Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở
Venàgapura đi đến Thế Tôn, sau khi đến, có người đảnh lễ Sa-môn
Gotama rồi ngồi xuống một bên ; có người nói lên với Sa-môn Gotama những
lời chào đón hỏi thăm rồi ngồi xuống một bên ; Có người chắp tay vái
chào Sa-môn Gotama rồi ngồi xuống một bên ; có người xưng tên và dòng họ
rồi ngồi xuống một bên ; có người im lặng rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Vacchagotta, người xứ Venàgapura bạch Thế
Tôn :
- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama
! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama ! Các căn của Tôn giả Gotama thật trong
sáng, màu da thật thanh tịnh chói sáng. Ví như, thưa Tôn giả Gotama, trái
táo vàng vào mùa thu, được thanh tịnh chói sáng ; cũng vậy, các căn của
Tôn giả Gotama thật trong sáng, màu da thật thanh tịnh chói sáng. Ví như,
thưa Tôn giả Gotama, trái cây tala chín vừa rời khỏi cành, thanh tịnh,
chói sáng ; cũng vậy, các căn của Tôn giả Gotama thật trong sáng, màu da
thật thanh tịnh, chói sáng. Ví như, thưa Tôn giả Gotama, một đồ trang sức
bằng vàng đỏ, được người thợ vàng thiện xảo khéo luyện trong lò,
khéo đạp và đặt tên tấm vải vàng, được chiếu sáng, chói sáng, rực
sáng ; cũng vậy, các căn của Tôn giả Gotama thật trong sáng, màu da thật
thanh tịnh chói sáng.
Thưa Tôn giả Gotama, còn các giường
cao và lớn như ghế bành, nệm trải giường bằng lông cừu, vải trải giường
nhiều tấm, nhiều màu, chăn len trắng, chăn len thêu bông nệm bông, nệm
thêu hình các con thú, mền bằng lông thú cả hai phía, mền bằng lông thú
một phía, mền có đính ngọc, mền bằng lụa, tấm thảm lớn có thể chứa
mười sáu người cùng múa, nệm voi, nệm ngựa, nệm xe, nệm bằng da sơn
dương khâu lại với nhau, nệm bằng da con sơn dương gọi là Kadali, tấm
thảm có lầu che phía trên, ghế dài có hai đầu gối chân màu đỏ. Các
loại giường cao và giường lớn như vậy, chắc Tôn giả Gotama có được
không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức ?
- Này Bà-la-môn, các giường cao và
lớn ấy, như ghế bành … có hai đầu gối chân màu đỏ, thật rất khó
được các vật ấy. Và nếu có được, cũng không thích hợp với những
người xuất gia.
Này Bà-la-môn, có ba loại giường
cao và giường lớn này, nay Ta được chúng không khó khăn, có được không
mệt nhọc, có được không phí sức. Thế nào là ba ?
Giường cao, giường lớn chư Thiên,
giường cao, giường lớn Phạm thiên, giường cao, giường lớn Bậc thánh.
Ba giường cao, giường lớn này, này Bà-la-môn, Ta được chúng không khó
khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức.
- Và thưa Tôn giả Gotama, thế nào
là giường cao, giường lớn chư Thiên, mà Tôn giả Gotama được chúng
không khó khăn … được chúng không phí sức ?
Ở đây, này Bà-la-môn, Ta sống gần
một làng hay một thị trấn. Buổi sáng, Ta đắp y, cầm y bát, đi vào
làng ấy hay thị trấn ấy để khất thực. Sau khi ăn xong, trên con đường
đi khất thực trở về, Ta đi đến góc cuối của ngôi rừng. Ở tại đấy,
Ta lượm cỏ hay là chất thành một đống, rồi ta ngồi kiết già, lưng thẳng,
để niệm trước mặt, ly dục, ly pháp bất thiện, Ta chứng đạt và an
trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ.
Làm cho chỉ tịnh tầm và tứ, Ta chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất
tâm. Ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm lạc thọ mà các bậc
Thánh gọi là xả niệm lạc trú, Ta chứng đạt và an trú Thiền thứ ba.
Đoạn lạc và đoạn khổ, chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ trước, Ta chứng
đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ lạc, xả niệm thanh tịnh.
Này Bà-la-môn, trong trạng thái như
vậy, nếu ta đi kinh hành, thời trong lúc ấy, chỗ kinh hành của Ta thuộc
Chư Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta đứng, thời
trong lúc ấy, chỗ đứng của Ta thuộc Chư Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng
thái như vậy, nếu ta ngồi, thời trong lúc ấy, chỗ ngồi của thuộc Chư
Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta nằm, thời trong lúc
ấy, chỗ nằm của Ta thuộc Chư Thiên. Này Bà-la-môn, đây là giường cao,
giường lớn thuộc chư Thiên, mà Ta có được không khó khăn, được chúng
không có mệt nhọc, được chúng không phí sức.
- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama
! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama ! Ai khác, ngoài Tôn giả Gotama, có thể
có được giường cao, giường lớn chư Thiên như vậy, được chúng không
có khó khăn, được chúng không có mệt nhọc, được chúng không có phí sức
!
Thế nào, thưa Tôn giả Gotama, thế
nào là giường cao, giường lớn Phạm thiên, mà Tôn giả Gotama được chúng
không khó khăn, được chúng không mệt nhọc, được chúng không phí sức
?
Ở đây, này Bà-la-môn, Ta sống gần
một làng hay một thị trấn. Buổi sáng, Ta đắp y, cầm y bát, đi vào
làng ấy hay thị trấn ấy để khất thực. Sau khi ăn xong, trên con đường
đi khất thực trở về, Ta đi đến góc cuối của ngôi rừng. Ở tại đấy,
Ta lượm cỏ hay là chất thành một đống, rồi ta ngồi kiết già, lưng thẳng,
để niệm trước mặt. Ta an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu
với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy
phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết
thảy phương xứ cùng khắp vô biên giới, ta an trú biến mãn với tâm câu
hữu với từ, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân. Với
tâm câu hữu với bi, … Với tâm câu hữu với hỷ, … Với tâm câu hữu
với xả, cũng vậy phương thứ hai … quảng đại, đại hành, vô biên,
không hận, không sân.
Này Bà-la-môn, trong trạng thái như
vậy, nếu ta đi kinh hành, thời trong lúc ấy, chỗ kinh hành của Ta thuộc
Phạm Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta đứng, thời
trong lúc ấy, chỗ đứng của Ta thuộc Phạm Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng
thái như vậy, nếu ta ngồi, thời trong lúc ấy, chỗ ngồi của thuộc Phạm
Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta nằm, thời trong lúc
ấy, chỗ nằm của Ta thuộc Phạm Thiên. Này Bà-la-môn, đây là giường
cao, giường lớn thuộc Phạm Thiên, mà Ta có được không khó khăn, được
chúng không có mệt nhọc, được chúng không phí
Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama !
Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama ! Ai khác, ngoài Tôn giả Gotama, có thể
có được giường cao, giường lớn Phạm Thiên như vậy, được chúng
không có khó khăn, được chúng không có mệt nhọc, được chúng không có
phí sức !
7. Thế nào, thưa Tôn giả Gotama, thế
nào là giường cao, giường lớn Bậc Thánh, mà Tôn giả Gotama được chúng
không khó khăn, được chúng không mệt nhọc, được chúng không phí sức
?
Ở đây, này Bà-la-môn, Ta sống gần
một làng hay một thị trấn. Buổi sáng, Ta đắp y, cầm y bát, đi vào
làng ấy hay thị trấn ấy để khất thực. Sau khi ăn xong, trên con đường
đi khất thực trở về, Ta đi đến góc cuối của ngôi rừng. Ở tại đấy,
Ta lượm cỏ hay là chất thành một đống, rồi ta ngồi kiết già, lưng thẳng,
để niệm trước mặt. Ta biết rõ như sau : "Tham ái đã được Ta đoạn
tận, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể
hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Sân đã được ta
đoạn tận … trong tương lai. Si đã được Ta đoạn tận, chặt đứt từ
gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho
không thể sanh khởi trong tương lai".
Này Bà-la-môn, trong trạng thái như
vậy, nếu ta đi kinh hành, thời trong lúc ấy, chỗ kinh hành của Ta thuộc
bậc Thánh. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta đứng, thời
trong lúc ấy, chỗ đứng của Ta thuộc bậc Thánh. Này Bà-la-môn, trong trạng
thái như vậy, nếu ta ngồi, thời trong lúc ấy, chỗ ngồi của thuộc bậc
Thánh. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta nằm, thời trong lúc
ấy, chỗ nằm của Ta thuộc bậc Thánh. Này Bà-la-môn, đây là giường
cao, giường lớn thuộc bậc Thánh, mà Ta có được không khó khăn, được
chúng không có mệt nhọc, được chúng không phí
Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama !
Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama ! Ai khác, ngoài Tôn giả Gotama, có thể
có được giường cao, giường lớn bậc Thánh như vậy, được chúng
không có khó khăn, được chúng không có mệt nhọc, được chúng không có
phí sức ! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn
giả Gotama ! Thưa Tôn giả, như người dựng đứng lại những gì bị quăng
ngã xuống … Mong Tôn giả nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng
chung, con trọn đời quy ngưỡng.
SARABHA
1-6
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương
Xá), tại núi Gijjhakùta (Linh Thứu).
Lúc bấy giờ, du sĩ Sarabha, từ bỏ
pháp và Luật này không bao lâu, đang tuyên bố như sau với hội chúng ở
Ràjagaha : "Ta đã hiểu rõ pháp của các Sa-môn Thích tử. Và vì hiểu
rõ pháp của các Sa-môn Thích tử, nên ta đã từ bỏ pháp và Luật ấy".
2. Rồi có nhiều Tỷ-kheo, vào buổi
sáng đắp y, cầm bát y đi vào Ràjagaha để khất thực. Các vị ấy nghe
du sĩ Sarabha tuyên bố như sau với hội chúng ở Ràjagaha : "Ta đã hiểu
rõ pháp của các Sa-môn Thích tử. Và vì hiểu rõ pháp của các Sa-môn
Thích tử, nên ta đã từ bỏ pháp và Luật ấy".
Rồi các vị Tỷ-kheo đi khất thực
ở Ràjagaha xong, trên con đường khất thực trở về, đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, có vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn :
Du sĩ Sarabha, bạch Thế Tôn, đã từ
bỏ pháp và Luật này không bao lâu. Vị ấy tuyên bố : "Ta đã hiểu
rõ pháp của các Sa-môn Thích tử. Và vì hiểu rõ pháp của các Sa-môn
Thích tử, nên ta đã từ bỏ pháp và Luật ấy". Lành thay, bạch Thế
Tôn, nếu Thế Tôn vì lòng lân mẫn, hãy đi đến du sĩ Sarabha !
Thế Tôn im lặng nhận lời.
Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ
chỗ Thiền định đứng dậy, đi đến bờ sông Sappinikàti, khu vườn của
các du sĩ, đến du sĩ Sarabha ; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn
sẵn. Sau khi ngồi xuống, Thế Tôn nói với du sĩ Sarabha :
- Có thật chăng, này Sarabha, Ông đã
nói như sau : "Ta đã hiểu rõ pháp của các Sa-môn Thích tử. Và vì hiểu
rõ pháp của các Sa-môn Thích tử, nên ta đã từ bỏ pháp và Luật này
"?
Khi được nghe nói như vậy, du sĩ
Sarabha giữ im lặng.
Lần thứ hai, Thế Tôn nói với du
sĩ Sarabha :
- Hãy nói lên, này Sarabha, Ông đã
hiểu rõ pháp các Sa-môn Thích tử như thế nào ? Nếu Ông hiểu chưa được
đầy đủ, thời Ta sẽ làm cho được đầy đủ. Nhưng nếu Ông hiểu được
đầy đủ, thời Ta sẽ hoan hỉ tiếp nhận.
Lần thứ hai, du sĩ Sarabha giữ im lặng.
Lần thứ ba, Thế Tôn nói với du sĩ
Sarabha :
- Chính do Ta, này Sarabha, pháp các
Sa-môn Thích tử được trình bày lên. Hãy nói lên, này Sarabha, Ông đã hiểu
rõ pháp các Sa-môn Thích tử như thế nào ? Nếu Ông hiểu chưa được đầy
đủ, thời Ta sẽ làm cho được đầy đủ. Nhưng nếu Ông hiểu được đầy
đủ, thời Ta sẽ hoan hỉ tiếp nhận.
Lần thứ ba, du sĩ Sarabha giữ im lặng.
Rồi các du sĩ ở Ràjagaha nói với
du sĩ Sarabha :
- Này Hiền giả, những điều gì,
Hiền giả cần hỏi Sa-môn Gotama, Sa-môn Gotama đã cho Hiền giả có cơ hội
nói lên. Hãy nói lên, này Sarabha, Hiền giả đã hiểu pháp các Sa-môn
Thích tử như thế nào ? Nếu Hiền giả hiểu chưa được đầy đủ, Sa-môn
Gotama sẽ làm cho đầy đủ. Nếu Hiền giả hiểu được đầy đủ, Sa-môn
Gotama sẽ hoan hỷ tiếp nhận.
Được nói như vậy, du sĩ Sarabha
giữ im lặng, hoang mang, rụt vai, cúi đầu, sững sờ, không thể trả lời.
5. Rồi Thế Tôn biết được du sĩ
Sarabha đang giữ im lặng, hoang mang, rụt vai, cúi đầu, sững sờ, ngồi không
trả lời, liền nói với các du sĩ ấy :
- Này các du sĩ, ai nói với Ta như
sau : "Dầu Ông tự cho là đã Chánh Đẳng Giác, nhưng Ông không có
Chánh Đẳng Giác các pháp này". Ở đây, Ta sẽ khéo cật vấn, nạn vấn,
thảo luận với người ấy. Người ấy bị ta khéo cật vấn, nạn vấn,
thảo luận như vậy, không có chỗ nào, không có trường hợp nào, ngoài
cách dựa vào một trong ba thái độ như sau : Hoặc là tránh né về vấn đề
với một vấn đề khác, sẽ hướng dẫn câu chuyện ra ngoài (đề tài
chính), hay tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, và bất mãn hay im lặng, hoang mang,
rụt vai, cúi đầu, sững sở, không nói gì, như du sĩ Sarabha.
Này các du sĩ, nếu có ai nói về
ta như sau : "Dầu Ông tự cho đã đoạn tận các lậu hoặc, nhưng các
lậu hoặc này chưa được đoạn tận !". Ở đây, Ta sẽ cật vấn, nạn
vấn, chất vấn người ấy. Người ấy bị Ta cật vấn, nạn vấn, chất
vấn … sững sờ không nói gì, như du sĩ Sarabha.
Này các du sĩ, nếu có ai nói về
Ta như sau : "Pháp Ông thuyết giảng với mục đích chơn chánh đoạn tận
khổ đau, không có đưa người thực hành đến mục đích ấy". Ở đây,
Ta sẽ cật vấn, nạn vấn, chất vấn người ấy. Người ấy bị Ta cật
vấn, nạn vấn, chất vấn … sững sờ không nói gì, như du sĩ Sarabha.
Rồi Thế Tôn, tại khu vườn các
du sĩ, trên bờ sông Sappinnikàti, sau khi rống lên ba lần tiếng rống con sư
tử, liền ra đi trên hư không.
Rồi các du sĩ ấy, sau khi Thế Tôn
ra đi không bao lâu, liền bao vây du sĩ Sarabha, công kích du sĩ Sarabha với
những dòng nước nhiếc mắng như sau :
- "Này Hiền giả Sarabha, như
con gia con già yếu trong rừng rậm nghĩ rằng : "Ta sẽ rống tiếng con
Sư tử", nhưng nó chỉ thốt ra tiếng rú con dã can, chỉ thốt ra tiếng
rú con thú ăn thịt. Cũng vậy, này Hiền giả Sarabha, ngoài Sa-môn Gotama có
thể có tiếng rống con sư tử, Ông nghĩ : "Ta sẽ rống tiếng rống
con sư tử", nhưng Ông chỉ thốt ra tiếng rú con giã can, chỉ thốt ra
tiếng rú con thú ăn thịt.
Ví như, này Hiền giả Sarabha, con
gà con nghĩ rằng : "Ta sẽ gáy lên tiếng gáy con gà trống", nhưng
nó chỉ có thể thốt ra tiếng kêu con gà con. Cũng vậy, này Hiền giả
Sarabha, ngoài Sa-môn Gotama có thể gáy lên tiếng con gà trống, Ông nghĩ :
"Ta có thể gáy lên tiếng gáy con gà trống", nhưng Ông chỉ thốt
ra tiếng gáy con gà con.
Ví như, con bò cái con, này Hiền giả
Sarabha, khi chuồng bò trống không, nghĩ rằng có thể rống tiếng rống
sâu đậm con bò đực. Cũng vậy, này Hiền giả Sarabha, ngoài Sa-môn Gotama
ra, Ông nghĩ rằng Ông có thể rống lên tiếng rống sâu đậm con bò đực.
Như vậy, các du sĩ ấy bao quanh du
sĩ Sarabha, công kích du sĩ Sarabha với những dòng nước nhiếc mắng như vậy.
CÁC VỊ Ở KESAPUTTA
1-17
Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn đang đi du hành
giữa dân chúng Kosala, cùng với đại chúng Tỷ-kheo, đi đến thị trấn của
các người Kàlàmà tên là Kesaputta. Các người Kàlàmà ở Kesaputta được
nghe : "Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích ca đã đến
Kesaputta. Tiếng đồn tốt đẹp như sau được truyền đi về Sa-môn Gotama
: "Ngài là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác …". Lành thay,
nếu chúng tôi được yết kiến một vị A-la-hán như vậy".
Rồi các người Kàlàmà ở
Kesaputta đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, có người đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên ; có người nói lên với Thế Tôn những lời chào đón
thăm hỏi, sau khi nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi
xuống một bên ; có người chắp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên ; có người xưng tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên ; có người
im lặng rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các người
Kàlàmà ở Kesaputta bạch Thế Tôn :
- Có một số Sa-môn, Bà-la-môn, bạch
Thế Tôn, đi đến Kesaputta. Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của
mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, kinh miệt, chê bai. Bạch
Thế Tôn, và một số Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng đi đến Kesaputta, Họ làm
sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm
người khác, kinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Đối với họ, bạch Thế Tôn,
chúng con có những nghi ngờ phân vân : "Trong những Tôn giả Sa-môn
này, ai nói sự thật, ai nói láo ?"
- Đương nhiên, này các Kàlàmà,
các Ông có những nghi ngờ ! Đương nhiên, này các Kàlàmà, các Ông có những
phân vân ! Trong những trường hợp đáng nghi ngờ, các Ông đương nhiên khởi
lên phân vân.
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì
nghe truyền thuyết ; chớ có tin vì nghe theo truyền thống ; chớ có tin vì
nghe theo người ta nói ; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng ; chớ
có tin vì nhân lý luận siêu hình ; chớ có tin vì đúng theo một lập trường
; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện ; chớ có tin vì phù hợp
với định kiến ; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng
này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau : "Các pháp này là bất
thiện - Các pháp này là có tội ; Các pháp này bị các người có trí chỉ
trích ; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh
khổ đau", thời này Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng !
Các Ông nghĩ thế nào, này Kàlàmà
! Lòng tham khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa
lại hạnh phúc hay bất hạnh ?
- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
- Người này có tham, này các
Kàlàmà, bị tham chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của
không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như
vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạng đau khổ lâu dài hay không
?
- Thua có, bạch Thế Tôn.
Các Ông nghĩ thế nào, này các
Kàlàmà, lòng sân khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy
là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh ?
- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
- Người này có sân, này các
Kàlàmà, bị sân chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của
không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như
vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạng đau khổ lâu dài hay không
?
- Thua có, bạch Thế Tôn..
6. Các Ông nghĩ thế nào, này các
Kàlàmà, lòng si khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy
là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh ?
- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
- Người này có si, này các
Kàlàmà, bị si chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của
không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như
vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạng đau khổ lâu dài hay không
?
- Thua có, bạch Thế Tôn..
Các Ông nghĩ thế nào, này các
Kàlàmà, các pháp này là thiện hay bất thiện ?
- Là bất thiện, bạch Thế Tôn.
- Có tội hay không có tội ?
- Có tội, bạch Thế Tôn.
- Bị người có trí quở trách hay
không bị người có trí quở trách ?
- Bị người có trí quở trách, bạch
Thế Tôn.
- Nếu được thực hiện, được
chấp nhận, có đưa đến bất hạnh đau khổ không ? hay ở đây, là như
thế nào ?
- Được thực hiện, được chấp
nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến bất hạnh, đau khổ, ở đây, đối
với chúng con là vậy.
- Như vậy, này các Kàlàmà, điều
Ta vừa nói với các Ông : "Chớ có tin vì nghe theo truyền thống ; chớ
có tin vì nghe theo người ta nói ; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng
; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình ; chớ có tin vì đúng theo một lập
trường ; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện ; chớ có tin
vì phù hợp với định kiến ; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư
của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau : "Các
pháp này là bất thiện - Các pháp này là có tội ; Các pháp này bị các
người có trí chỉ trích ; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận
đưa đến bất hạnh khổ đau", thời này Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng !
Điều đã được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy đã được nói
lên.
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì
nghe truyền thuyết … chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.
Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau : "Các pháp
này là thiện - Các pháp này là không có tội ; Các pháp này không bị các
người có trí chỉ trích ; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận
đưa đến hạnh phúc an lạc", thời này Kàlàmà, hãy từ đạt đến và
an trú !
10. Các Ông nghĩ thế nào, này các
Kàlàmà, không tham, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy,
đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy ? - Hạnh phúc, bạch Thế
Tôn.
- Người này không tham, này các
Kàlàmà, không bị tham chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết
các sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không
nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người
ấy hạnh phúc an lạc lâu dài hay không ?
- Thua có, bạch Thế Tôn.
11. Các Ông nghĩ thế nào, này các
Kàlàmà, không sân, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy
là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy ?
- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.
- Người này không sân, này các
Kàlàmà, không bị sân chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết
các sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không
nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có đem lại
đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho người ấy hay không ?
- Thua có, bạch Thế Tôn..
12. Các Ông nghĩ thế nào, này các
Kàlàmà, không si khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy
là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy ?
- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.
- Người này không si, này các
Kàlàmà, không bị si chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các
sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói
láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có đem lại hạnh
phúc an lạc lâu dài cho người ấy bất hay không ?
- Thua có, bạch Thế Tôn..
13. Các Ông nghĩ thế nào, này các
Kàlàmà, các pháp này là thiện hay bất thiện ?
- Là thiện, bạch Thế Tôn.
- Các pháp này có tội hay không có
tội ?
- Không có tội, bạch Thế Tôn.
- Bị người có trí quở trách hay
được người có trí tán thán ?
- Được người trí tán thán, bạch
Thế Tôn.
- Nếu được thực hiện, được
chấp nhận, có đưa đến hạnh phúc an lạc không, hay ở đây, là như thế
nào ?
- Được thực hiện, được chấp
nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến hạnh phúc, an lạc. Ở đây, đối với
chúng con là vậy.
14. - Như vậy, này các Kàlàmà, điều
Ta vừa nói với các Ông : "Chớ có tin vì nghe theo truyền thống ; chớ
có tin vì nghe theo người ta nói ; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng
; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình ; chớ có tin vì đúng theo một lập
trường ; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện ; chớ có tin
vì phù hợp với định kiến ; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư
của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau : "Các
pháp này là thiện - Các pháp này là không có tội ; Các pháp này không bị
các người có trí chỉ trích ; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận
đưa đến hạnh phúc an lạc", thời này Kàlàmà, hãy chứng đạt và
an trú ! Điều đã được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy đã
được nói lên.
Này các Kàlàmà, vị Thánh đệ tử
nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu
với từ … với tâm câu hữu với bi … với tâm câu hữu với hỷ … với
tâm câu hữu với xả, biết mãn một phương, cũng vậy phương thứ hai ;
cũng vậy phương thứ ba ; cũng vậy phương thứ tư ; Như vậy, cùng khắp
thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô
biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại,
đại hành, vô biên, không hận, không sân. Thánh đệ tử ấy, này các
Kàlàmà, với tâm không oán như vậy, thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại,
người ấy đạt được bốn sự an ủi.
"Nếu có đời sau, nếu có kết
quả dị thực các nghiệp thiện ác, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ
sanh lên cõi thiện, cõi trời, coi đời này" ; đây là an ủi thứ nhất
vị ấy có được. "Nếu không có đời sau, nếu không có kết quả
các nghiệp thiện ác thời ở đây, trong hiện tại, ta tự sống với tâm
không oán, không sân, không phiền não, được an lạc" ; đây là an ủi
thứ hai vị ấy có được. Nếu việc ác có làm, nhưng ta không có tâm ác
đối với ai cả, và nếu ta không làm điều ác, sao ta có thể cảm thọ
khổ đau được" ; đây là an ủi thứ ba vị ấy có được. "Nếu
việc ác không có làm, như vậy, cả hai phương diện (do ta làm vô ý hay cố
ý), ta quán thấy ta hoàn toàn thanh tịnh" ; đây là an ủi thứ tư vị
ấy có được. Thánh đệ tử ấy, này các Kàlàmà, với tâm không oán như
vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không uế nhiễm như vậy, với
tâm không thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, vị có được bốn an
ủi này.
Sự việc là như vậy, bạch Thế Tôn
! Sự việc là như vậy, bạch Thiện Thệ ! Thánh đệ tử ấy, với tâm
không oán như vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không uế nhiễm
như vậy, với tâm không thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, vị có
được bốn an ủi : "Nếu có đời sau, nếu có kết quả các nghiệp
thiện ác thời ở đây, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh lên
cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này" ; đây là an ủi thứ nhất vị
ấy có được. "Nếu không có đời sau, nếu không có kết quả các
nghiệp thiện ác thời ở đây, trong hiện tại, ta tự sống với tâm
không oán, không sân, không phiền não, được an lạc" ; đây là an ủi
thứ hai vị ấy có được. Nếu việc ác có làm, nhưng ta không có tâm ác
đối với ai cả, và nếu ta không làm điều ác, sao ta có thể cảm thọ
khổ đau được" ; đây là an ủi thứ ba vị ấy có được. "Nếu
việc ác không có làm, như vậy, cả hai phương diện (do ta làm vô ý hay cố
ý), ta quán thấy ta hoàn toàn thanh tịnh" ; đây là an ủi thứ tư vị
ấy có được. Thánh đệ tử ấy, này các Kàlàmà, với tâm không oán như
vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không uế nhiễm như vậy, với
tâm không thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, vị có được bốn an
ủi này.
Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn,
… bạch Thế Tôn, chúng con xin quy y Thế Tôn, quy y pháp, quy y chúng Tỷ-kheo.
Mong Thế Tôn nhận chúng con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng
chung, chúng con xin trọn đời quy ngưỡng.
SÀLHÀ
1-13
Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Nandaka trú ở
Sàvatthi, tại Đông Viên, ở lâu đài mẹ của Migàra.
Rồi Sàlhà, cháu của Migàra, và
Rohana, cháu của Pekhuniya đi đến Tôn giả Nandaka ; sau khi đến, đảnh lễ
Tôn giả Nandaka rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Nandaka nói với Sàlhà, cháu trai của Migàra như sau :
- Hãy đến này các Sàlhà Nandaka,
chớ có tin vài nghe truyền thuyết, chớ có tin vì nghe theo truyền thống
… chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các
Sàlhà, khi nào tự mình biết như sau : "Các pháp này là bất thiện ;
các pháp này là có tội ; các pháp này bị người trí quở trách ; các
pháp này nếu được thực hành và chấp nhận, đưa lại bất hạnh cà
đau khổ :, thời này các Sàlhà, các thầy cần phải từ bỏ chúng
Này các Sàlhà, các thầy nghĩ thế
nào, có tham hay không ?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
- Tham, này các Sàlhà, ta nói nghĩa
này là vậy. Này các Sàlhà, người có tham này bị tham chinh phục, giết
các sinh loại, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ
người ác cùng làm như vậy, như vậy có làm người ấy bất hạnh đau khổ
lâu dài hay không ?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
4. Này các Sàlhà, các thầy nghĩ thế
nào, có sân hay không ?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
- Sân, này các Sàlhà, ta nói nghĩa
này là vậy. Này các Sàlhà, người có sân này bị sân chinh phục, giết
các sinh loại, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ
người ác cùng làm như vậy, như vậy có làm người ấy bất hạnh đau khổ
lâu dài hay không ?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
5. Này các Sàlhà, các thầy nghĩ thế
nào, có si hay không ?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
- Si, này các Sàlhà, ta nói nghĩa này
là vậy. Này các Sàlhà, người có si này bị si chinh phục, giết các sinh
loại, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người
ác cùng làm như vậy, như vậy có làm người ấy bất hạnh đau khổ lâu
dài hay không ?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
Các thầy nghĩ thế nào, này các
Sàlhà. Các pháp này là thiện hay bất thiện ?
- Là bất thiện, thưa Tôn giả.
- Có tội hay không có tội ?
- Có tội, thưa Tôn giả.
- Bị người trí quở trách hay được
người trí tán thán ?
- Bị người trí quở trách, thưa Tôn
giả.
- Được thực hiện, được chấp
thuận, có đưa lại bất hạnh hay đau khổ không ? Hay ở đây là thế nào
?
- Được thực hiện, được chấp
thuận, thưa Tôn giả, chúng đưa lại bất hạnh đau khổ. Ở đây, đối với
chúng con là như vậy.
Như vậy, này các Sàlhà, điều ta
vừa nói với các thầy, "Chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì
theo truyền thống ; chớ có tin vì nghe tin đồn ; chớ có tin vì được
Kinh Tạng truyền tụng ; chớ có tin vì nhân lý luận ; chớ có tin vì nhân
định lý ; chớ có tin, sau khi thẩm lự hay chấp nhận một vài lý thuyết
; chớ có tin vì thấy là thích hợp ; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo
sư của mình". Này các Sàlhà, khi nào tự mình biết như sau : "Các
pháp này là bất thiện ; các pháp này là có tội ; các pháp này bị người
trí quở trách ; các pháp này nếu được thực hành và chấp nhận, đưa lại
bất hạnh cà đau khổ", thời này các Sàlhà, hãy từ bỏ chúng ! Điều
này đã được nói lên như vậy, chính là do duyên như vậy được nói
lên.
Như vậy, này các Sàlhà, chớ có
tin vì nghe người ta nói … chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sự của
mình". Nhưng này các Sàlhà, khi nào tự mình biết như sau : "Các
pháp này là thiện ; các pháp này là không có tội ; các pháp này không bị
người trí quở trách ; các pháp này nếu được thực hành và chấp nhận,
đưa đến hạnh phúc an lạc", thời này các Sàlhà, hãy đạt đến và
an trú !
Các Ông nghĩ như thế nào, này các
Sàlhà, không tham khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy
là đưa lại bất hạnh hay hạnh phúc lâu dài cho người ấy ?
- Hạnh phúc, thưa Tôn giả.
- Người này không tham, này các
Sàlhà, không bị tham chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các
sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói
láo, không khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người
ấy được hạnh phúc, an lạc lâu dài hay không ?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
9. Các Ông nghĩ như thế nào, này
các Sàlhà, không sân khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như
vậy là đưa lại bất hạnh hay hạnh phúc lâu dài cho người ấy ?
- Hạnh phúc, thưa Tôn giả.
- Người này không sân, này các
Sàlhà, không bị sân chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các
sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói
láo, không khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người
ấy được hạnh phúc, an lạc lâu dài hay không ?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
10. Các Ông nghĩ như thế nào, này
các Sàlhà, không si khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy
là đưa lại bất hạnh hay hạnh phúc lâu dài cho người ấy ?
- Hạnh phúc, thưa Tôn giả.
- Người này không si, này các
Sàlhà, không bị si chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các
sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói
láo, không khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người
ấy được hạnh phúc, an lạc lâu dài hay không ?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
11. Các ông nghĩ thế nào, này các
Sàlhà. Các pháp này là thiện hay bất thiện ?
- Là thiện, thưa Tôn giả.
- Có tội hay không có tội ?
- Không có tội, thưa Tôn giả.
- Bị người trí quở trách hay được
người trí tán thán ?
- Được người trí tán thán, bạch
Tôn giả.
- Nếu được thực hiện, được
chấp thuận, có đem đến hạnh phúc an lạc không ? Hay ở đây là thế
nào ?
- Được thực hiện, được chấp
thuận, thưa Tôn giả, chúng đem đến hạnh phúc an lạc. Ở đây, đối với
chúng con là như vậy.
Như vậy, này các Sàlhà, điều ta
vừa nói với các thầy, "Chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì
theo truyền thống ; chớ có tin vì nghe tin đồn ; chớ có tin vì được
Kinh Tạng truyền tụng ; chớ có tin vì đúng theo một lập trường ; chớ
có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện ; chớ có tin vì phù hợp với
định kiến ; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền ; chớ có tin
vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình". Này các Sàlhà, khi nào tự
mình biết như sau : "Các pháp này là thiện ; các pháp này không có tội
; các pháp này không bị người trí quở trách ; các pháp này nếu được
thực hành và chấp nhận, đưa lại hạnh phúc an lạc", thời này các
Sàlhà, hãy chứng đạt và an trú ! Điều này đã được nói lên như vậy,
chính là do duyên như vậy được nói lên.
Này các Sàlhà, vị Thánh đệ tử
nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu
với từ … với tâm câu hữu với bi … với tâm câu hữu với hỷ … với
tâm câu hữu với xả, biến mãn một phương, cũng vậy pháp thứ hai, cũng
vậy phương thứ ba ; cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế
giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới,
vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, đại hành,
vô biên, không hận, không sân. Vị ấy rõ biết như sau : "Có trạng
thái này, có trạng thái liệt, có trạng thái thù thắng, có xuất ly ra khỏi
tướng giới này." Do vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm được
giải thoát khởi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong
sự giải thoát, trí khởi lên : "Ta được giải thoát". Vị ấy
rõ biết : "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã
làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
Vị ấy rõ biết như sau : "Trước
ta có tham, tham ấy là bất thiện. Nay ta không có nữa. Như vầy là thiện.
Trước ta có sân, sân ấy là bất thiện. Nay ta không có nữa. Như vầy là
thiện. Trước ta có si, si ấy là bất thiện. Nay ta không có nữa. Như vầy
là thiện". Như vậy, ngay trong đời sống hiện tại, vị ấy được
giải thoát khởi hy cầy, được tịch tịnh, được thanh lương, cảm thấy
an lạc, tự mình an trú trong Phạm tánh.
CÁC VẤN ĐỀ ĐƯỢC NÓI ĐẾN
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba vấn đề
này được nói đến. Thế nào là ba ? Có thể nói về quá khứ, này các Tỷ-kheo,
nói rằng : "Như vầy đã xảy ra trong thời quá khứ. Có thể nói về
tương lai, này các Tỷ-kheo, nói rằng : "Như vầy sẽ xảy ra trong thời
tương lai". Có thể nói về hiện tại, này các Tỷ-kheo, nói rằng :
"Như vầy đang xảy ra trong thời hiện tại".
Với sự thảo luận, này các Tỷ-kheo,
một người có thể biết được là có khả năng nói chuyện hay không có
khả năng ?
Nếu người nào, này các Tỷ-kheo,
khi được hỏi một câu không trả lời dứt khoát một câu hỏi cần phải
trả lời dứt khoát, không trả lời một cách phân tích một câu hỏi cần
trả lời một cách phân tích, không trả lời một câu hỏi ngược lại với
một câu hỏi cần phải trả lời với một hỏi ngược lại, không có gạt
qua một bên một câu hỏi cần phải gạt qua một bên. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
một người như vậy không có khả năng để thảo luận.
Nếu người nào, này các Tỷ-kheo,
khi được hỏi một câu trả lời dứt khoát một câu hỏi cần phải trả
lời dứt khoát, trả lời một cách phân tích một câu hỏi cần trả lời
một cách phân tích, trả lời với một câu hỏi ngược lại một câu hỏi
cần phải trả lời với một hỏi ngược lại, gạt qua một bên một câu
hỏi cần phải gạt qua một bên. Như vậy, này các Tỷ-kheo, một người
như vậy có khả năng để thảo luận.
Với sự thảo luận, này các Tỷ-kheo,
một người có thể biết được là có khả năng thảo luận hay không có
khả năng thảo luận ?
Nếu một người, này các Tỷ-kheo,
khi được hỏi một câu, không xác nhận là đúng hay không đúng, không
xác nhận là một giả thuyết, không xác nhận là quan điểm của bậc trí,
không xác nhận là sở hành thường làm. Nếu là như vậy, này các Tỷ-kheo,
người ấy không có khả năng thảo luận.
Nếu một người, này các Tỷ-kheo,
khi được hỏi một câu, xác nhận là đúng hay không đúng, xác nhận là một
giả thuyết, xác nhận là quan điểm của bậc trí, xác nhận là sở hành
thường làm. Nếu là như vậy, này các Tỷ-kheo, người ấy có khả năng
thảo luận.
Với sự thảo luận, này các Tỷ-kheo,
một người có thể biết được là có khả năng thảo luận hay không có
khả năng thảo luận ?
Nếu một người, này các Tỷ-kheo,
khi được hỏi một câu, tránh câu hỏi ấy với một câu hỏi khác, hướng
câu chuyện ra ngoài vấn đề, bày tỏ sự phẫn nộ, sân, hận, bất mãn.
Nếu là như vậy, này các Tỷ-kheo, người này không có khả năng thảo luận.
Nếu một người, này các Tỷ-kheo,
khi được hỏi một câu, không tránh câu hỏi ấy với một câu hỏi khác,
không hướng câu chuyện ra ngoài vấn đề, không bày tỏ sự phẫn nộ,
sân, hận, bất mãn. Nếu là như vậy, này các Tỷ-kheo, người này có khả
năng thảo luận.
Với sự thảo luận, này các Tỷ-kheo,
một người có thể biết được là có khả năng thảo luận hay không có
khả năng thảo luận ?
Nếu một người, này các Tỷ-kheo,
khi được hỏi một câu, lại mắng chửi, đánh đập, nhạo báng, chụp lấy
chỗ sơ hở. Nếu là như vậy, này các Tỷ-kheo, người này có không khả
năng thảo luận.
Nếu một người, này các Tỷ-kheo,
khi được hỏi một câu, không lại mắng chửi, không đánh đập, không nhạo
báng, không chụp lấy chỗ sơ hở. Nếu là như vậy, này các Tỷ-kheo, người
này có khả năng thảo luận.
Với sự thảo luận, này các Tỷ-kheo,
có thể biết được một người có duyên hay không có duyên.
Không có lóng tai, này các Tỷ-kheo,
là không có duyên. Có lóng tai là có duyên. Người có duyên thắng tri một
pháp, biến tri một pháp. Do thắng tri một pháp, liễu tri một pháp, từ bỏ
một pháp, chứng đắc một pháp, vị ấy cảm thấy chánh giải thoát. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là lợi ích của thảo luận, như vậy là lợi ích
của đàm luận, như vậy là lợi ích có duyên, như vậy là lợi ích nghe lời
khuyên, tức là tâm giải thoát không có chấp thủ.
Nói chuyện với hiềm thù
Thiên chấp và kiêu mạn
Nghịch lại đức bậc Thánh
Bới móc lỗi lầm nhau
Thích nghe nói xấu người
Người lầm, người bối rối
Người bị thua, bị hại
Bậc Thánh không làm vậy.
Nếu muốn cùng đàm luận
Bậc hiền biết thời gian
Câu chuyện của bậc Thánh
Liên hệ pháp, pháp nghĩa
Người có trí nói chuyện
Không hiềm thù kiêu mạn
Với tâm không chấp trước
Không hiềm tận độc đoán
Không để tâm lơ đãng
Nói lên với chánh trí
Hoan hỷ lời khéo nói
Không vui lời vụng về
Không học cách chỉ trích,
Không chụp sơ hở người
Không nhiếc mắng đánh đập
Không nói lời vu vơ
Lời nói của bậc Thánh
Vừa dạy vừa hoan hỷ
Như vầy bậc Thánh nói
Như vầy bậc Thánh luận đàm
Bậc trí biết rõ vậy
Nói lời thật khiêm tốn
DU SĨ NGOẠI ĐẠO
1. - Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ
ngoại đạo hỏi như sau : "Có ba pháp này, này các Hiền giả. Thế
nào là ba ? Tham, sân, si. Những pháp này, này các Hiền giả, là ba pháp.
Trong ba pháp này, này các Hiền giả, thế nào là đặc thù, thế nào là
thù thắng, thế nào là khác biệt ? "Được hỏi như vậy, này các Tỷ-kheo,
các Ông trả lời như thế nào với các du sĩ ngoại đạo ấy ?
- Đối với chúng con, bạch Thế
Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làn căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lất
Thế Tôn làm nương tựa. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết ý
nghĩa lời nói này cho chúng con. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ
trì.
- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và
khéo tác ý, ta sẽ nói !
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các vị
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :
- Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ
ngoại đạo hỏi như sau : "Có ba pháp này, này các Hiền giả. Thế
nào là ba ? Tham, sân, si. Những pháp này, này các Hiền giả, là ba pháp.
Trong ba pháp này, này các Hiền giả, thế nào là đặc thù, thế nào là
thù thắng, thế nào là khác biệt ? "Được hỏi như vậy, này các Tỷ-kheo,
các Thầy cần phải trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như sau :
"Tham, thưa các Hiền giả, là tội nhỏ, nhưng ly tham là chậm chạp.
Sân là tội lớn, nhưng ly sân là mau chóng. Si là tội lớn, và ly si là chậm
chạp."
"Do nhân gì, này chư Hiền, do
duyên gì tham chưa sanh được sanh khởi, và tham sanh rồi đưa đến tăng
trưởng, quảng đại ?"
Cần phải trả lời là "Tịnh
tướng". "Với ai không như lý tác ý tịnh tướng, thời tham chưa
sanh được sanh khởi, và tham đã sanh được tăng trưởng quảng đại. Đây
là nhân, này các Hiền giả, đây là duyên, tham chưa sanh được sanh khởi,
và tham đã sanh được tăng trưởng quảng đại".
3. "Do nhân gì, này các chư Hiền,
do duyên gì sân chưa sanh được sanh khởi, và sân đã sanh được tăng trưởng,
quảng đại ?"
Cần phải trả lời là "Chướng
ngại tướng". "Với ai không như lý tác ý chướng ngại tướng,
thời sân chưa sanh được sanh khởi, và tham đã sanh được tăng trưởng
quảng đại. Đây là nhân, này các Hiền giả, đây là duyên, khiến sân chưa
sanh được sanh khởi, và tham đã sanh được tăng trưởng quảng đại".
4. "Do nhân gì, này các chư Hiền,
do duyên gì si chưa sanh được sanh khởi, và si đã sanh được tăng trưởng,
quảng đại ?"
Cần phải trả lời là "Không
như lý tác ý". "Với ai không như lý tác ý chướng ngại tướng,
thời si chưa sanh được sanh khởi, và si đã sanh được tăng trưởng quảng
đại. Đây là nhân, này các Hiền giả, đây là duyên, khiến si chưa sanh
được sanh khởi, và si đã sanh được tăng trưởng quảng đại".
"Do nhân gì, này các chư Hiền,
do duyên gì tham chưa sanh được không sanh khởi, hay tham đã sanh được đoạn
tận ?"
Cần phải trả lời là "tướng
bất tịnh". "Với ai như lý tác ý tướng bất tịnh, thời tham
chưa sanh khởi không sanh khởi, hay tham đã sanh khởi được đoạn tận. Đây
là nhân, này các Hiền giả, đây là duyên khiến tham chưa sanh khởi không
sanh khởi, hay tham đã sanh khởi được đoạn tận."
6. "Do nhân gì, này các chư Hiền,
do duyên gì sân chưa sanh được không sanh khởi, hay sân đã sanh được đoạn
tận ?"
Cần phải trả lời là "từ
tâm giải thoát". "Với ai như lý tác ý từ tâm giải thoát, thời
sân chưa sanh khởi không sanh khởi, hay sân đã sanh khởi được đoạn tận.
Đây là nhân, này các Hiền giả, đây là duyên khiến sân chưa sanh khởi
không sanh khởi, hay sân đã sanh khởi được đoạn tận."
7. "Do nhân gì, này các chư Hiền,
do duyên gì si chưa sanh được không sanh khởi, hay si đã sanh được đoạn
tận ?"
Cần phải trả lời là "như lý
tác ý". "Với ai như lý tác ý thời si chưa sanh khởi không sanh khởi,
và si đã sanh khởi được đoạn tận. Đây là nhân, này các Hiền giả,
đây là duyên khiến si chưa sanh khởi không sanh khởi, hay si đã sanh khởi
được đoạn tận."
CÁC CĂN BẢN BẤT THIỆN
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản
bất thiện. Thế nào là ba ? Tham là căn bản bất thiện, sân là căn bản
bất thiện, si là căn bản bất thiện.
Cái gì là tham, này các Tỷ-kheo,
cái ấy bất thiện. Ai với lòng tham có làm về thân, về lợi, về ý,
cái ấy bất thiện. Ai có lòng tham, bị lòng tham chinh phục, tâm không được
tự chủ, vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc,
tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên : "Ta là sức mạnh,
ta có sức mạnh." Cái ấy là bất thiện. Như vậy, rất nhiều ác bất
thiện pháp này sanh từ tham, duyên khởi từ tham, tập khởi từ tham, khởi
lên nơi người ấy.
Cái gì là sân, này các Tỷ-kheo,
cái ấy bất thiện. Ai với lòng sân có làm gì về thân, về ý, cái ấy bất
thiện. Với ai có lòng sân, bị lòng sân chinh phục, tâm không được tự
chủ, vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch
thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên : "Ta là sức mạnh,
ta có sức mạnh." Cái ấy là bất thiện. Như vậy, rất nhiều ác bất
thiện pháp này sanh từ sân, duyên khởi từ sân, tập khởi từ sân, khởi
lên nơi người ấy.
Cái gì là si, này các Tỷ-kheo, cái
ấy bất thiện. Ai với lòng si có làm gì về thân, về lời, về ý, cái
ấy bất thiện. Với ai có lòng si, bị lòng si chinh phục, tâm không được
tự chủ, vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc,
tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên : "Ta là sức mạnh,
ta có sức mạnh." Cái ấy là bất thiện. Như vậy, rất nhiều ác bất
thiện pháp này sanh từ si, duyên khởi từ si, tập khởi từ si, khởi lên
nơi người ấy.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, người
này được gọi là người nói phi thời, nói không thực, nói không trúng
đích, nói phi pháp, nói phi luật. Vì sao người như vậy, này các Tỷ-kheo,
được gọi là người nói phi thời, nói không thực, nói không trúng đích,
nói phi pháp, nói phi luật ? Như vầy là vì người này, này các Tỷ-kheo,
đã vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch
thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên : "Ta là sức mạnh,
ta có sức mạnh." Khi được đối chất với sự thật, người ấy phủ
nhận, không có chấp nhận ; khi được đối chất với sự thật, người
ấy không có nhiệt tình thoát mở ra ngoài, nói rằng : "Đây là không
chân, đây là không thực". Cho nên, người như vậy được gọi là người
nói phi thời, nói không thực, nói không trúng đích, nói phi pháp, nói phi
luật. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, bị các ác bất thiện pháp do
tham sanh nhiếp phục, tâm mất tự chủ, ngay trong hiện tại sống đau khổ
với sự tổn não, với sự ưu não, với sự nhiệt não, sau khi thân hoại
mạng chung, được chờ đợi là ác thú. Người như vậy, này các Tỷ-kheo,
bị các ác bất thiện pháp do sân sanh nhiếp phục, tâm mất tự chủ, ngay
trong hiện tại sống đau khổ với sự tổn não, với sự ưu não, với sự
nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác thú. Người
như vậy, này các Tỷ-kheo, bị các ác bất thiện pháp do si sanh nhiếp phục,
tâm mất tự chủ, ngay trong hiện tại sống đau khổ với sự tổn não, với
sự ưu não, với sự nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ
đợi là ác thú.
Ví như này các Tỷ-kheo, cây sàla
hay cây dhava hay cây phandana bị phá hoại, bị bao trùm bởi ba loại tầm gởi,
đi đến tổn hại, đi đến bất hạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, người
như vậy, bị các ác bất thiện pháp do tham sanh chinh phục, tâm mất tự
chủ, ngay trong hiện tại sống đau khổ với sự tổn não, với sự ưu não,
với sự nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác
thú … bị các ác bất thiện pháp so sân sanh … bị các ác bất thiện
pháp so si sanh chinh phục, tâm mất tự chủ, ngay trong hiện tại sống đau
khổ với sự tổn não, với sự ưu não, với sự nhiệt não, sau khi thân
hoại mạng chung, được chờ đợi là ác thú
Những pháp này, này các Tỷ-kheo,
là ba căn bản bất thiện.
Có ba căn bản của thiện, này các
Tỷ-kheo. Thế nào là ba ? Không tham là căn bản của thiện, không sân là căn
bản của thiện, không si là căn bản của thiện.
Cái gì là không tham, này các Tỷ-kheo,
cái ấy thiện. Ai với lòng không tham có làm về thân, về lợi, về ý,
cái ấy thiện. Ai không có lòng tham, không bị lòng tham chinh phục, tâm
được tự chủ, không vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại,
trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên :
"Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh." Cái ấy là thiện. Như vậy, rất
nhiều thiện pháp này sanh từ không tham, duyên khởi từ không tham, tập khởi
từ không tham, khởi lên nơi người ấy.
Cái gì là không sân, này các Tỷ-kheo,
cái ấy thiện. Ai với lòng không sân có làm về thân, về lợi, về ý,
cái ấy thiện. Với ai không có lòng sân, không bị lòng sân chinh phục,
tâm được tự chủ, không vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát
hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên :
"Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh." Cái ấy là thiện. Như vậy, rất
nhiều thiện pháp này sanh từ không sân, duyên khởi từ không sân, tập khởi
từ không sân, khởi lên nơi người ấy.
Cái gì là không si, này các Tỷ-kheo,
cái ấy thiện. Ai với lòng không si có làm về thân, về lợi, về ý, cái
ấy thiện. Với ai không có lòng si, không bị lòng si chinh phục, tâm được
tự chủ, không vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói
buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên : "Ta là
sức mạnh, ta có sức mạnh." Cái ấy là thiện. Như vậy, rất nhiều
thiện pháp này sanh từ không si, duyên khởi từ không si, tập khởi từ
không si, khởi lên nơi người ấy.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, người
này được gọi là người nói đúng thời, nói thực, nói trúng đích, nói
đúng pháp, nói đúng luật. Vì sao người như vậy, này các Tỷ-kheo, được
gọi là người nói đúng thời, nói thực, nói trúng đích, nói đúng pháp,
nói đúng luật ? Như vầy là vì người này, này các Tỷ-kheo, đã không vu
cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu
tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên : "Ta là sức mạnh, ta
có sức mạnh." Khi được đối chất với sự thật, người ấy chấp
nhận, không có phủ nhận ; khi được đối chất với sự thật, người
ấy nhiệt tình thoát mở ra ngoài, nói rằng : "Đây là chân, đây là
thực". Cho nên, người như vậy được gọi là người nói đúng thời,
nói thực, nói trúng đích, nói đúng pháp, nói đúng luật.
Người như vậy, này các Tỷ-kheo,
đoạn tận các ác bất thiện do tham sanh, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho
như thân cây tala, làm cho không hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi
trong tương lai, ngay trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không
có ưu não, không có nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, ngay trong hiện
tại được Bát-niết-bàn. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, không bị
các ác bất thiện pháp do sân sanh nhiếp phục, tâm không mất tự chủ …
Người như vậy, này các Tỷ-kheo, không bị các ác bất thiện pháp do si
sanh nhiếp phục, tâm không mất tự chủ, ngay trong hiện tại sống an lạc,
không có tổn não, không có ưu não, sau khi thân hoại mạng chung, ngay trong
hiện tại được Bát-niết-bàn.
Ví như, này các Tỷ-kheo, cây sàla
hay cây dhava, cây phandana, bị ba cây tầm gởi phá hoại bao trùm. Rồi có
người đi đến, cầm cuốc và thúng. Người ấy chặt đứt rễ cây tầm
gởi ấy, sau khi chặt đứt rễ, người ấy đào mương. Đào mương xong,
người ấy nhổ các rễ lên, nhỏ cho đến các rễ nhỏ, rễ usira. Rồi người
ấy chặt cây tầm gởi thành từng khúc nhỏ, bửa và chẻ thành từng mảnh
nhỏ, người ấy đem phơi giữa gió và mặt trời. Sau khi phơi giữa gió
và mặt trời, người ấy lấy lửa đốt, làm thành một đống tro, và quạt
chúng ra giữa gió lớn, hay đổ chúng xuống dòng nước chảy nhanh. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, các cây tầm gởi ấy, bị cắt đứt gốc từ rễ, bị làm
cho như thân cây tala, làm cho không hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi
trong tương lai. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với người như vậy, các ác bất
thiện pháp do tham sanh đã được đoạn tận, được chặt từ gốc rễ,
được làm cho như thân cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được
làm cho không sanh khởi trong tương lai, ngay trong hiện tại được sống an
lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não, ngay trong hiện
tại được Bát-niết-bàn … do sân, sanh … các ác bất thiện pháp do si
sanh đã được đoạn tận, được chặt từ gốc rễ, được làm cho như
thân cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không
sanh khởi trong tương lai, ngay trong hiện tại được sống an lạc, không
có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não, ngay trong hiện tại được
Bát-niết-bàn
Những pháp này, này các Tỷ-kheo,
là ba căn bản của thiện.
CÁC LỄ UPOSATHA
Như vầy tôi nghe.
1. Một thời Thế Tôn ở Savatthi
(Xá-vệ), Pubbarama (Đông viên), lâu đài của mẹ Migara. Rồi Visakha, mẹ của
Migara, trong ngày Uposatha (Bố tát trai-giới) đi đến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Visakha, mẹ
của Migara đang ngồi xuống một bên :
- Này Visàkhà, từ đâu bà đến sáng
sớm như thế này ?
- Bạch Thế Tôn, hôm nay con thọ
trai giới.
- Có ba loại trai giới này, này
Visàkhà. Thế nào là ba ?
Trai giới người chăn bò, trai giới
Niganthà, trai giới bậc Thánh.
Như thế nào, này Visàkhà, là trai
giới người chăn bò ?
Ví như, này Visàkhà, người chăn bò
vào buổi chiều lùa các con bò về cho chủ của chúng. Người ấy suy nghĩ
: "Hôm nay, các con bò đã ăn cỏ tại chỗ này và chỗ này, đã uống
nước tại chỗ này và chỗ này. Này mai, các con bò đã ăn cỏ tại chỗ
này và chỗ này, đã uống nước tại chỗ này và chỗ này". Cũng vậy,
này Visàkhà, ở đây có người giữ trai giới suy nghĩ : "Hôm nay, ta đã
ăn loại đồ ăn cứng này, loại đồ ăn cứng này ta đã ăn loại đồ
ăn mềm này, loại đồ ăn mềm này. Ngày mai ta sẽ ăn loại đồ ăn cứng
này, loại đồ ăn cứng này ; ta sẽ ăn loại đồ ăn mềm này, loại đồ
ăn mềm này". Như vậy, người ấy sống cả ngày với tâm đồng hành
với thâm dục. Như vậy, này Visàkhà, là trai giới người chăn bò.
Này Visàkhà, thế nào là trai giới
các Nigantha ?
Ở đây, này Visàkhà, có hạng
Sa-môn tên là Niganthà, họ khích lệ đệ tử như sau : "Ông hãy quăng
bỏ trượng với các sinh loại sống ở phương Đông, ngoài một trăm do tuần.
Hãy quăng bỏ trượng với các sinh loại sống ở phương Tây, ngoài một
trăm do tuần … sống ở phương Bắc … sống ở phương Nam, ngoài một trăm
do tuần." Như vậy, họ khích lệ vì lòng thương, vì lòng từ mẫn đối
với một số sinh loại mà thôi, họ không khích lệ vì lòng thương, vì
lòng từ mẫn, đối với một số sinh loại khác. Trong ngày Uposatha, họ
khích lệ đệ tử như sau : "Này các Ông, hãy quăng bỏ tất cả áo quần
và nói như sau : "Ta không có bất cứ vật gì, bất cứ ở đâu, bất
cứ chỗ nào. Bất cứ vật gì, bất cứ ở đâu, bất cứ chỗ nào, không
có cái gì là của ta. ""Nhưng cha và mẹ của người ấy biết người
ấy là con của mình. Và người ấy biết họ là cha mẹ của mình. Vợ và
con người ấy biết người ấy là chồng, là cha của mình, và người ấy
biết họ là vợ, là con của mình. Các người nô tỳ làm công biết người
ấy là chủ của họ. Và người ấy biết họ là nô tỳ, là nhân viên của
mình. Như vậy, trong thời gian đáng phải khích lệ đúng với sự thật,
trong thời gian ấy, lại được khích lệ bằng điều nói láo. Đây ta
tuyên bố là một sự nói láo. Sau khi đêm ấy đã qua, người ấy thọ hưởng
tất cả tài sản chưa đem cho. Đây ta tuyên bố là lấy của không cho. Như
vậy, này Visàkhà, là lễ Uposathà của các Niganthà không quả lớn, không
lợi ích lớn, không chói sáng, không ánh sáng lớn.
Và này Visàkhà, thế nào là trai giới
các bậc Thánh ? Chính là làm thanh tịnh một tâm uế nhiễm với phương pháp
thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là làm
thanh tịnh một tâm uế nhiễm với phương pháp thích nghi ?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử
niệm Phật : "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh
Túc, Thiên Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn." Do vị ấy niệm Như Lai. tâm được tịnh tín,
hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví như, này
Visàkhà, đầu uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là đầu
uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi ?
Do duyên bột nhồi, do duyên đất sét,
do duyên nước và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. như vậy, này
Visàkhà, là đầu uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.
Cũng vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp
thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế
nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi ?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử
niệm Như Lai : "Đây là Thế Tôn, …, Phật, Thế Tôn". Do vị ấy
niệm Như Lai. tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của
tâm được đoạn tận. Này Visàkhà, đây gọi là Thánh đệ tử để thực
hành trai giới Phạm Thiên, vị ấy cùng sống với Phạm Thiên. Do duyên Phạm
Thiên, tâm vị ấy được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của
tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột
sạch với phương pháp thích nghi.
Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được
gột sạch với phương pháp thích nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế
nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi ?
Ở đây, này Visàkhà, vị Thánh đệ
tử niệm pháp : "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực
hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng
thượng, được nhà nước trí tự mình giác hiểu". Do vị ấy niệm
Pháp, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được
đoạn tận. Ví như, này Visàkhà, thân uế nhiễm được gột sạch với
phương pháp thích nghi.
Này Visàkhà, thế nào là thân uế
nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi ? Do duyên sottim (một
thứ đá bọt dùng để chà lưng), do duyên bột tắm, do duyên nước và do
duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này Visàkhà, là thân uế
nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này
Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.
Và như thế nào, này Visàkhà, là
tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi ?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử
niệm pháp : "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, … được người
trí tự mình giác hiểu". Do vị ấy niệm Pháp, tâm được tịnh tín,
hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Này
Visàkhà, đây gọi là Thánh đệ tử thực hành pháp trai giới, vị ấy sống
với pháp. Chính nhờ pháp, tâm vị ấy tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các
phiền não của tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visàkhà, uế nhiễm
được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.
Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được
gột sạch với phương pháp thích nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế
nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi ?
Ở đây, này Visàkhà, vị Thánh đệ
tử niệm Tăng : "Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn ; Trực hạnh
là chúng đệ tử Thế Tôn ; ứng lý là hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn ;
Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, tức là bốn đôi tám chúng.
Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng
cúng dường, đáng được bắt tay, là phước điền vô phượng ở đời".
Do vị ấy niệm Tăng, tâm vị ấy tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền
não của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visàkhà, một tấm vải bị uế
được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là một tấm
vải bị uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi ?
Do duyên usam (đất mặn) do duyên
khàram (nước tro), do duyên phân bò, do duyên nước, và do duyên nỗ lực
thích nghi của con người. Như vậy, này Visàkhà, một tấm vải bị uế
nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này
Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế
nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi ?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử
niệm Tăng : "Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn … là phước điền
vô thượng ở đời." Nhờ vị ấy niệm Tăng, tâm vị ấy tịnh tín,
hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Này
Visàkhà, đây gọi là Thánh đệ tử thực hành chúng Tăng trai giới, sống
với chúng tăng. Chính nhờ chúng tăng, tâm vị ấy tịnh tín, hân hoan sanh
khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visàkhà,
là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.
Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được
gột sạch với phương pháp thích nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế
nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi ?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử
niệm Giới : "Không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị ô nhiễm,
đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ,
đưa đến Thiền định". Vị ấy nhờ niệm Giới, tâm vị ấy tịnh
tín, hân hoàn sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví như,
này Visàkhà, một tấm gương uế nhiễm được gột sạch với phương pháp
thích nghi ?
Và này Visàkhà, thế nào là một tấm
gương uế nhiễm được rửa sạch nhờ phương pháp thích nghi ?
Do duyên dầu, do duyên tro, do duyên
bàn chải lông và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này
Visàkhà, là tấm gương uế nhiễm được gột sạch với phương pháp
thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là một tấm
gương uế nhiễm được rửa sạch nhờ phương pháp thích nghi ?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử
niệm Giới … đưa đến Thiền định. Vị ấy nhờ niệm Giới, tâm vị
ấy tịnh tín, hân hoàn sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận.
Này Visàkhà, đây gọi là thánh đệ tử thực hành giới Uposatha, sống
chung với giới. Nhờ giới, tâm vị ấy tịnh tín, hân hoàn sanh khởi, các
phiền não của tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visàkhà, là tâm uế
nhiễm được rửa sạch nhờ phương pháp thích nghi ?
8. Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được
gột sạch với phương pháp thích nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế
nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi ?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử
niệm Thiên : "Có Chư Thiên bốn Thiên Vương ; có Chư Thiên cõi trời
ba mươi ba ; có chư Thiên Yàmà ; có chư Thiên Tusita (Đâu suất) ; có chư
Thiên hóa lạc ; có chư Thiên tha hóa tự tại ; có chư Thiên Phạm chúng ;
có chư Thiên cao hơn nữa. Đầy đủ với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy,
sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Lòng tin như vậy cũng có
đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với giới như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết
ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Giới như vậy cũng có đầy đủ
nơi ta. Đầy đủ với nghe pháp như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ
này, được sanh tại chỗ kia. Nghe pháp như vậy cũng có đầy đủ nơi ta.
Đầy đủ với thí như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được
sanh tại chỗ kia. Thí như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ tuệ
như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ
kia. Tuệ như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Khi người ấy niệm giới,
nghe pháp, thí và tuệ của tự mình và chư Thiên ấy, tâm được tịnh tín,
hân hoan sanh khởi. Các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví như, này
Visàkhà, là vàng bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp
thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là vàng bị
uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi ?
Do duyên lò, do duyên đất muối, do
duyên phấn đỏ, do duyên ống bệ, do duyên cái kìm, và do duyên nỗ lực
thích nghi của con người. Như vậy, này Visàkhà, là tâm bị uế nhiễm
được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi.
Và này vì, thế nào là tâm bị uế
nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi.
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử
niệm Thiên : "Có Chư Thiên bốn Thiên Vương ; có Chư Thiên cõi trời
ba mươi ba ; có chư Thiên Yàmà ; có chư Thiên Tusita (Đâu suất) ; có chư
Thiên hóa lạc ; có chư Thiên tha hóa tự tại ; có chư Thiên Phạm chúng ;
có chư Thiên cao hơn nữa. Đầy đủ với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy,
mạng chung ở chỗ này, được sanh tại chỗ ấy. Ta cũng có lòng tin như vậy.
Đầy đủ với giới … với nghe pháp … với thí … với trí tuệ như vậy,
chư Thiên ấy, mạng chung ở chỗ này, được sanh tại chỗ ấy. Ta cũng có
trí tuệ như vậy". Khi vị ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí, và tuệ
của tự mình và của chư Thiên ấy,
tâm được tịnh tín, hân hoan sanh
khởi. Các phiền não của tâm được đoạn tận. Đây gọi là Thánh đệ
tử thực hành Thiên trai giới, sống chung với chư Thiên. Nhờ chư Thiên,
tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi. Các phiền não của tâm được
đoạn tận. Như vậy, này Visàkhà, là tâm bị uế nhiễm được làm cho
thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi.
Thánh đệ tử ấy, này Visàkhà,
suy tư như sau : "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ sát
sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ,
sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu
tình. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành
trai giới".
"Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong
những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Cũng vậy,
đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật
đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp.
Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".
"Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán từ bỏ tà Hạnh, tịnh tu Phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ
dâm dục hèn hạ. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ tà Hạnh,
tịnh tu Phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Về chi phần
này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".
"Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ
nơi sự thật chắc chắn, đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản lại
lời hứa đối với đời. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ
nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ nơi sự thật
chắc chắn, đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản lại lời hứa đối
với đời. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực
hành trai giới".
"Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán từ bỏ men rượu, rượu nấu làm cho đắm say, tránh xa rượu men,
rượu nấu làm cho đắm say. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ
men rượu, rượu nấu làm cho đắm say, tránh xa rượu men, rượu nấu làm
cho đắm say. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực
hành trai giới".
"Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán ăn một ngày một bữa, không ăn ban đêm, không ăn phí thời. Cũng
vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống ăn một ngày một bữa, không ăn ban đêm,
không ăn phí thời. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ
thực hành trai giới".
"Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán tránh xa không xem múa, hát, diễn kịch, không trang sức bằng vòng
hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Cũng vậy, đêm nay và ngày
nay, ta sống tránh xa không xem múa, hát, diễn kịch, không trang sức bằng
vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Về chi phần này, ta theo
gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".
"Cho đến trọn đời, các vị
A-la-hán từ bỏ giường cao, giường lớn, tránh xa giường cao, giường lớn.
Các vị ấy nằm trên giường thấp, trên giường nhỏ hay đệm cỏ. Cũng
vậy, đêm nay và ngày nay, ta từ bỏ giường cao, giường lớn, tránh xa giường
cao, giường lớn. Các vị ấy nằm trên giường thấp, trên giường nhỏ
hay đệm cỏ. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực
hành trai giới".
Như vậy, này Visàkhà, là Thánh
trai giới, thực hành Thánh trai giới, này Visàkhà, có quả lớn, có lợi
ích lớn, có chói sáng lớn, có ánh sáng lớn.
Quả lớn là như thế nào ? Lợi
ích lớn như thế nào ? Chói sáng lớn như thế nào ? Ánh sáng lớn như thế
nào ?
Ví như, này Visàkhà, có người áp
đặt chủ quyền trên 16 quốc độ lớn tràn đầy bảy báu như Anga,
Magadha, Kàsi, Kosala, Vajji, Mallà, Ceti, Vangà, Kurù, Pancàlà, Macchà, Surasenà,
Assakà, Avanti, Gandhàrà, Kambojà, nhưng chủ quyền ấy không bằng một phần
mười sáu của trai giới thực hành đầy đủ cả tám mặt. Vì cớ sao ?
Nhỏ nhoi thay, này Visàkhà, là vương quyền của loài người, so sánh với
hạnh phúc Chư Thiên !
Năm mươi năm của một đời người,
này Visàkhà, bằng một đêm một ngày của chư Thiên của Bốn Thiên Vương.
Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm
thành một năm. Năm mươi năm như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên
Bốn Thiên Vương. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây có người
đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hiện trai giới đầy đủ cả tám
mặt, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên của
Bốn Thiên Vương. Chính dựa trên trường hợp này được nói lên rằng :
"Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh
phúc chư Thiên !"
Một trăm năm của một đời người,
này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư Thiên ở cõi trời ba mươi
ba. Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm
thành một năm. Một ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của
chư Thiên ở cõi trời ba mươi ba. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà,
ở đây có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hiện trai giới
đầy đủ cả tám mặt, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú
với chư Thiên ở cõi trời ba mươi ba. Chính dựa trên trường hợp này
được nói lên rằng : "Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người,
so sánh với hạnh phúc chư Thiên !"
Hai trăm năm của một đời người,
này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư Thiên ở cõi trời Yàmà.
Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng. Mười hai tháng như vậy làm
thành một năm. Hai ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư
Thiên ở cõi trời Yàmà. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây
… được sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi trời Yàmà… chính dựa
trên trường hợp này … với hạnh phúc chư Thiên".
Bốn trăm năm của một đời người,
này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư Thiên ở cõi trời Tusita (Đâu-xuất).
Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng … làm thành một năm. Bốn ngàn
năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên ở cõi trời
Tusita. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây … được sanh cộng
trú với chư Thiên ở cõi trời Tusita… chính dựa trên trường hợp này
… với hạnh phúc chư Thiên".
Tám trăm năm của một đời người,
này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư Thiên ở cõi trời Hóa lạc.
Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng … làm thành một năm. Tám
ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên ở cõi trời
Hóa lạc. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây … được sanh cộng
trú với chư Thiên ở cõi trời Hóa lạc … chính dựa trên trường hợp này
… với hạnh phúc chư Thiên".
Mười sáu trăm năm của một đời
người, này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư Thiên ở cõi trời
Tha Hóa Tự tại. Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng, mười hai tháng
như vậy làm thành một năm. Mười sáu ngàn năm chư Thiên như vậy làm
thành thọ mạng của chư Thiên ở cõi trời Tha Hóa Tự tại. Sự kiện
này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây có người đàn bà hay người đàn
ông, sau khi thực hàng Uposatha đầy đủ cả tám mặt, sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi trời Tha Hóa Tự tại.
Chính dựa trên trường hợp này, được nói lên rằng : "Nhỏ nhoi thay
là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên".
Chớ giết hại sinh loài
Chớ lấy của không cho
Chớ nói lời nói láo
Chớ uống thứ rượu say
Từ bỏ không phạm hạnh
Từ bỏ, không dâm dục
Không ăn vào ban đêm
Tránh không ăn phi thời
Không mang các vòng hoa
Không dùng các hương liệu
Hãy nằm trên tấm thảm
Được trải dài trên đất
Chính hạnh trai giới này
Được gọi có tám phần
Do đức Phật nói lên
Đưa đến đoạn tận khổ
Mặt trăng và mặt trời
Được thấy là lành tốt
Chỗ nào chúng đi tới
Chúng chói sáng hào quang
Chúng làm mây sáng chói
Giữa hư không chúng đi
Trên trời chúng chói sáng
Sáng rực mọi phương hướng
Trong khoảng không gian ấy
Tài sản được tìm thấy
Trân châu và ngọc báu
Lưu ly, đá cầu may
Vàng cục trong lòng đất
Hay loại Kancana
Cùng loại vàng sáng chói
Được gọi là Hattaka
Tuy vậy chúng giá trị
Chỉ một phần mười sáu
Với hạnh giữ trai giới
Đầy đủ cả tám mặt
Kể cả ánh sáng trăng
Với cả vòm trời sao.
Vậy người nữ người nam
Hãy giữ theo định giới
Hành bố-tát trai giới
Đầy đủ cả tám mặt
Làm thiện các công đức
Đem lại nhiều an lạc
Được sanh lên cõi trời
Không bị người cười chê.
VIII. PHẨM ÀNANDA
CHANNA
1. Nhân duyên ở Sàvatthi
Rồi du sĩ Channa đi đến Tôn giả
Ànanda, sau khi đến, nói lên với Tôn giả những lời chào đón thăm hỏi
; sau khi nói lên với Tôn giả những lời chào đón thăm hỏi thân hữu, rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, du sĩ Channa nói với Tôn giả
Ànanda :
- Thưa Hiền giả Ànanda, có phải
các người tuyên thuyết về đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận
si ?
- Vâng, thưa Hiền giả, chúng tôi
tuyên thuyết về đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si.
- Thưa Hiền giả, do thấy nguy hại
của tham như thế nào, các Người tuyên thuyết về đoạn tận tham ? Do thấy
nguy hại của sân như thế nào, các Người tuyên thuyết về đoạn tận sân
? Do thấy nguy hại của si như thế nào, các Người tuyên thuyết về đoạn
tận si ?
- Người có tham, thưa Hiền giả, bị
tham chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ đến hại mình, nghĩ đến hại
người, nghĩ đến hại cả hai, cảm giác khổ ưu thuộc về tâm. Khi tham
được đoạn tận, không nghĩ đến hại mình, không nghĩ đến hại người,
không nghĩ đến hại cả hai, không cảm giác khổ ưu thuộc về tâm.
Người có tham, thưa Hiền giả, bị
tham chinh phục, tâm mất tự chủ, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác.
Khi tham được đoạn tận, thân không làm ác, miệng không nói ác, ý không
nghĩ ác.
Người có tham, thưa Hiền giả, bị
tham chinh phục, tâm mất tự chủ, không như thật rõ biết lợi mình,
không như thật rõ biết lợi người, không như thật rõ biết lợi cả
hai. Khi tham được đoạn tận, như thật rõ biết lợi mình, như thật rõ
biết lợi người, như thật rõ biết lợi cả hai.
Tham, thưa Hiền giả, làm thành mù,
làm thành không mắt, làm thành không trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần
vào tổn não, không đưa đến Niết-bàn.
Người có sân, thưa Hiền giả, bị
sân chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ đến hại mình … như thật rõ biết
lợi cả hai.
Sân, thưa Hiền giả, làm thành mù,
làm thành không mắt, làm thành không trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần
vào tổn não, không đưa đến Niết-bàn.
Người có si, thưa Hiền giả, bị
si chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ đến hại mình … Khi si được đoạn
tận, không nghĩ đến hại mình … không cảm giác khổ ưu thuộc về tâm.
như thật rõ biết lợi cả hai. Người có si, thưa Hiền giả, bị si chinh
phục, tâm mất tự chủ, làm ác hạnh với thân … làm ác hạnh với ý.
Khi si được đoạn tận, không làm ác hạnh với thân … với ý.
Người có si, thưa Hiền giả, bị
si chinh phục, tâm mất tự chủ, không như thật rõ biết lợi mình, …
không như thật rõ biết lợi cả hai. Khi si được đoạn tận, như thật rõ
biết lợi mình … như thật rõ biết lợi cả hai.
Si, thưa Hiền giả, làm thành mù,
làm thành không mắt, làm thành không trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần
vào tổn não, không đưa đến Niết-bàn.
Thấy sự nguy hại này của tham, thưa
Hiền giả, chúng tôi tuyên thuyết đoạn tận tham. Thấy sự nguy hại này
của sân, thưa Hiền giả, chúng tôi tuyên thuyết đoạn tận sân. Thấy sự
nguy hại này của si, thưa Hiền giả, chúng tôi tuyên thuyết đoạn tận
si.
- Có con đường nào, thưa Hiền giả,
có đạo lộ nào đưa đến đoạn tận tham, sân, si ?
- Có con đường, thưa Hiền giả, có
đạo lộ đưa đến đoạn tận tham, sân, si.
- Con đường ấy là gì, thưa Hiền
giả, đạo lộ ấy là gì đưa đến đoạn tận tham, sân, si ?
- Chính là Thánh đạo tám ngành, tức
là chánh tri kiến, chánh tư duy, … chánh định. Đây là con đường, thưa
Hiền giả, đây là đạo lộ đưa đến đoạn tận tham, sân, si.
- Hiền thiện là con đường, thưa
Hiền giả ! Hiền thiện là đạo lộ đưa đến đoạn tận tham, sân, si !
Thật là vừa đủ, thưa Hiền giả Ànanda, để áp dụng không phóng dật.
TÀ MẠNG ĐỆ TỬ
1. Môt thời, tham gia Ànanda trú ở
Kosambi, tại khu vườn Ghosità
Rồi một tà mạng đệ tử gia chủ
đi đến Tôn giả Ànanda ; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ànanda rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, tà mạng đệ tử gia chủ nói với
Tôn giả Ànanda :
- Thưa Tôn giả Ànanda, pháp của những
ai được khéo thuyết ? Những ai khéo hành trì ở đời ? Những ai khéo vượt
qua ở đời ?
- Vậy này gia chủ, về vấn đề này
Ta sẽ hỏi Ông. Ông kham nhẫn thế nào, hãy trả lời như vậy. Ông nghĩ
thế nào, này gia chủ, những ai thuyết pháp để đoạn tận tham, thuyết
pháp để đoạn tận sân, thuyết pháp để đoạn tận si, pháp có được
các vị ấy khéo thuyết hay không ? Hay ở đây, Ông nghĩ thế nào ?
- Thưa Tôn giả, ai thuyết pháp để
đoạn tận tham, thuyết pháp để đoạn tận sân, thuyết pháp để đoạn
tận si, pháp ấy được khéo thuyết. Và ở đây, tôi nghĩ như vậy.
2. - Ông nghĩ thế nào, này gia chủ,
những ai thực hành đoạn tham, thực hành đoạn sân, thực hành đoạn si,
những vị ấy có khéo thực hành ở đời hay không ? Hay ở đây, Ông nghĩ
thế nào ?
- Thưa Tôn giả, những ai thực
hành đoạn tham, thực hành đoạn sân, thực hành đoạn si, những vị ấy
khéo thực hành ở đời. Và ở đây, tôi nghĩ như vậy.
3. - Ông nghĩ thế nào, này gia chủ,
với những ai tham được đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như
thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi
trong tương lai ; với những ai, sân được đoạn tận … với những ai, si
được đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm
cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai ; Những
vị ấy có khéo vượt qua ở đời hay không ? Hay ở đây, Ông nghĩ thế nào
?
- Thưa Tôn giả, với những ai tham
được đoạn tận, … với những ai, sân được đoạn tận … với những
ai, si được đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây
tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương
lai ; Những vị ấy có khéo vượt qua ở đời. Và ở đây, tôi nghĩ như vậy.
- Như vậy, Ông đã trả lời như
sau : "Thưa Tôn giả, những ai thuyết pháp để đoạn tận tham, thuyết
pháp để đoạn tận sân, thuyết pháp để đoạn tận si, pháp được các
vị ấy khéo thuyết." Và Ông đa trả lời như sau : "Thưa Tôn giả,
những ai đã thực hành đoạn tận tham … đoạn tận sân … đoạn tận
si, những vị ấy đã khéo thực hành ở đời". Và Ông đã trả lời
như sau : "Thưa Tôn giả, những ai đã đoạn tận tham, cắt đứt từ gốc
rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không
thể sanh khởi trong tương lai. Những ai đã đoạn tận sân … Những ai đã
đoạn tận si, đã cắt đứt từ gốc rễ … làm cho không thể sanh khởi
trong tương lai. Những vị ấy có khéo vượt qua ở đời".
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả ! Ở đây sẽ không có tự khen pháp của
mình, không có chê trách pháp của người khác, chỉ có thuyết pháp trong
giới xứ, chỉ nói đến mục đích mà không đề cập đến tự ngã.
Thưa Tôn giả, Tôn giả thuyết
pháp để đoạn tham, thuyết pháp để đoạn sân, thuyết pháp để đoạn
si, và thưa Tôn giả, pháp được Tôn giả khéo thuyết. Thưa Tôn giả
Ànanda, Tôn giả thực hành đoạn tham, … đoạn sân, … Tôn giả thực đoạn
si, Tôn giả đã khéo thực hành ở đời. Thưa Tôn giả Ànanda, tham đã
được Tôn giả đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây
tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương
lai … sân đã được Tôn giả đoạn tận … si đã được Tôn giả đoạn
tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể
hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Tôn giả đã khéo vượt
qua ở đời.
Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả !
Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả ! Thưa Tôn giả, người như dựng đứng lại
những gì bị quăng ngã xuống … Thưa Tôn giả Ànanda, con nay xin quy y Thế
Tôn, quy y pháp và chúng Tăng. Mong Tôn giả Ànanda nhận con làm đệ tử cơ
sở, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng !
NGƯỜI HỌ THÍCH
1. Một thời, Thế Tôn trú giữa
dân chúng Thích tử, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn khỏi bệnh,
được khỏi bệnh không bao lâu. Rồi họ Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, họ Thích (Sakka) bạch Thế Tôn :
- Đã lâu ngày, bạch Thế Tôn, con
biết pháp đã do đó dạy như sau : "Trí đến với người định tĩnh,
không đến với người không định tĩnh". Bạch Thế Tôn, định đến
trước rồi trí đến sau ? Hay trí đến trước rồi định đến sau ?
Rồi Tôn giả Ànanda suy nghĩ như
sau : "Thế Tôn mới khỏi bệnh, khỏi bệnh không bao lâu. Họ Thích
Mahànàma này hỏi một câu rất thâm sâu. Vậy ta hãy đưa họ Thích
Mahànàma qua một bên và thuyết pháp cho họ Thích".
Rồi Tôn giả Ànanda cầm tay họ
Thích Mahànàma, kéo qua một bên rồi nói với họ Thích Mahànàma :
- Giới của bậc hưu học, này
Mahànàma, được Thế Tôn nói đến. Và giới của bậc vô học cũng được
Thế Tôn nói đến. Định bậc hữu học được Thế Tôn nói đến. Định
bậc vô học cũng được Thế Tôn nói đến. Tuệ bậc hữu học được Thế
Tôn nói đến. Tuệ bậc vô học cũng được Thế Tôn nói đến
Này Mahànàma, thế nào là bậc hữu
học ?
Ở đây, này Mahànàma, vị Tỷ-kheo
giữ giới, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn, đầy đủ quy
nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, cấp nhận và học
tập các học giới. Này Mahànàma, đây là giới bậc hữu học.
Và này Mahànàma, thế nào là định
bậc hữu học ?
Ở đây, này Mahànàma, ly dục, ly bất
thiện pháp, vị Tỷ-kheo chứng đạt và an trú sơ Thiền … chứng đạt và
an trú Thiền thứ tư. Này Mahànàma, đây là định của bậc hữu học.
Và này Mahànàma, thế nào là trí
tuệ của bậc hữu học ?
Ở đây, này Mahànàma, vị Tỷ-kheo
như thật quán tri : "Đây là khổ" … như thật quán tri : "Đây
là con đường đưa đến Khổ diệt". Này Mahànàma, đây gọi là trí
tuệ của bậc Hữu học. Vị Thánh đệ tử như vậy đầy đủ giới, như
vậy đầy đủ định, như vậy đầy đủ tuệ, do đoạn tận các lậu hoặc,
ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và
an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Như vậy, này Mahànàma,
là giới bậc Hữu học được Thế Tôn thuyết, là giới bậc Vô học được
Thế Tôn thuyết, là định bậc Hữu học được Thế Tôn thuyết, là định
bậc Vô học được Thế Tôn thuyết, là tuệ bậc Hữu học được Thế Tôn
thuyết, là tuệ bậc Vô học được Thế Tôn thuyết.
VỊ LÕA THỂ
1. Một thời, Tôn giả Ànanda trú tại
Vesàli, rừng Đại Lâm, trong ngôi giảng đường có góc nhọn. Rồi Abhaya
người Licchavi và Panditakumàrako người Licchiva, đi đến Tôn giả Ànanda,
sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ànanda rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Abhaya người Licchiva thưa với Tôn giả Ànanda :
- Niganthà Nàthaputta, thưa Tôn giả,
tự cho là toàn tri, toàn kiến, có tri kiến toàn diện : "Khi ta đi, ta
đứng, ta ngủ, ta thức, tri kiến luôn luôn được an trú, không có gián
đoạn". Vị ấy tuyên bố chấm dứt các nghiệp cũ với khổ hạnh, và
phá hoại các nghiệp mới với vô Visàkhà (không hành động). Như vậy, do
nghiệp đoạn diệt nên khổ đoạn diệt ; do khổ đoạn diệt nên thọ đoạn
diệt ; do thọ đoạn diệt nên tất cả khổ sẽ được tiêu diệt. Như vầy
là (pháp môn) siêu thoát, thanh tịnh, diệt nhiệt não, thiết thực hiện tại.
Ở đây, thưa Tôn giả, Thế Tôn nói thế nào ?
- Này Abhaya, có ba (pháp môn) thanh tịnh,
diệt nhiệt não, được Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chơn chánh tuyên bố, khiến chúng sanh được
thanh tịnh, khiến vượt qua sầu bi, khiến chấm dứt khổ ưu, khiến đạt
được chánh lý, khiến chứng được Niết bàn. Thế nào là ba ?
Ở đây, này Abhaya, vị Tỷ-kheo giữ
giới, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh
hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập
trong các học giới. Vị ấy không làm các nghiệp mới, và với các nghiệp
cũ ảnh hưởng đến mình, chấm dứt các nghiệp ấy. Đây là (sự thanh tịnh
thứ nhất), thiết thực hiện tại, diệt nhiệt não, không có thời gian,
đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự
mình giác hiểu.
Vị Tỷ-kheo ấy, này Abhaya, đầy
đủ với giới như vậy, ly dục, ly pháp bất thiện, chứng đạt và an
trú sơ thiền … chứng đạt và an trú thiền thứ tư. Vị ấy không làm
các nghiệp mới, và với các nghiệp cũ ảnh hưởng đến mình, chấm dứt
các nghiệp ấy. Đây là (sự thanh tịnh thứ hai), thiết thực hiện tại,
diệt nhiệt não, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng
thượng, được người trí tự mình giác hiểu.
Vị Tỷ-kheo ấy, này Abhaya, đầy
đủ với giới như vậy, với sự đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong hiện
tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Vị ấy không làm các nghiệp mới, và với
các nghiệp cũ ảnh hưởng đến mình, chấm dứt các nghiệp ấy. Đây là
(sự thanh tịnh thứ ba), thiết thực hiện tại, diệt nhiệt não, không có
thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người
trí tự mình giác hiểu.
Này Abhaya, có ba sự thanh tịnh, diệt
nhiệt não này, được Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chơn chánh tuyên bố, khiến chúng sanh được
thanh tịnh, vượt qua sầu bi, chấm dứt ưu khổ, đạt được chánh lý, chứng
được Niết bàn.
Khi được nói như vậy, Panditakumàrako
người Licchavi nói với Abhaya người Licchavi:
- Này bạn Abhaya, bạn có tín thọ
lời khéo nói của Tôn giả Ànanda là khéo nói không?
- Này bạn, tôi là ai lại không
tín thọ lời khéo nói của Tôn giả Ànanda là khéo nói. Đầu người ấy
sẽ vỡ tan, nếu ai không tín thọ lời khéo nói của Tôn giả Ànanda là
khéo nói.