- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 3a
- CHƯƠNG BA
- BA PHÁP
I. PHẨM NGƯỜI NGU
1-10. NGƯỜI NGU
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, Jetanava, tại vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Thế Tôn gọi
các Tỷ-kheo :
- Này các Tỷ-kheo.
- Thưa vâng. Bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau :
- Phàm có sự sợ hãi nào khởi
lên, này các Tỷ-kheo, tất cả sự sợ hãi ấy khơi lên từ người ngu, không
phải từ người hiền trí. Phàm có những nguy hiểm nào khởi lên, tất cả
những nguy hiểm ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền
trí. Phàm có những tai họa nào khởi lên, tất cả những tai họa ấy khởi
lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí.
Ví như, này các Tỷ-kheo, ngọn lửa
từ nhà bằng cỏ lau, hay từ nhà bằng cỏ, thiêu đốt những ngôi nhà có
nóc nhọn, các ngôi nhà có trét trong và trét ngoài, ngăn chận được gió,
các ngôi nhà có chốt cửa đóng chặt, có các cửa đóng kín. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, phàm có sự sợ hãi nào khởi lên, này các Tỷ-kheo, tất cả
sự sợ hãi ấy khởi lên từ ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm
có những nguy hiểm nào khởi lên, tất cả những nguy hiểm ấy khởi lên
từ người ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm có những tai họa
nào khởi lên, tất cả những tai họa ấy khởi lên từ người ngu, không
phải từ người hiền trí. Phàm có những nguy hiểm nào khởi lên, tất cả
những nguy hiểm ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền
trí. Phàm có những tai họa nào khởi lên, tất cả những tai họa ấy khởi
lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm có những nguy hiểm
nào khởi lên, tất cả những nguy hiểm ấy khởi lên từ người ngu, không
phải từ người hiền trí. Phàm có những tai họa nào khởi lên, tất cả
những tai họa ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền
trí.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, người
ngu có sợ hãi, người trí không sợ hãi, người ngu có nguy hiểm, người
trí không có nguy hiểm : người ngu có tai họa, người trí không có tai họa.
Này các Tỷ-kheo, không có sợ hãi đến với người trí, không có nguy hiểm
đến với người trí, không có tai họa đến với người trí.
Do vậy, ở đây, cần phải học tập
như sau : Thành tựu với ba pháp nào, một người ngu được biết là như vậy,
hãy từ bỏ ba pháp ấy. Thành tựu với ba pháp nào, một người trí được
biết là như vậy, hãy chấp nhận ba pháp ấy và thực hành chúng. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, cần phải học tập.
Này các Tỷ-kheo, tướng của các
người ngu ở trong hành động (của mình) ; tướng của người trí ở
trong hành động (của mình). Trí tuệ chói sáng trong nếp sống (của mình)
Thành tựu với ba pháp, này các Tỷ-kheo,
người ngu được biết đến. Thế nào là ba ? Thân làm ác, miệng nói ác,
ý nghĩ ác. Này các Tỷ-kheo, thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo,
người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp, này các Tỷ-kheo,
người trí được biết đến. Thế nào là ba ? Thân làm thiện, miệng nói
thiện, ý nghĩ thiện. Này các Tỷ-kheo, thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người trí được biết đến.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải
học tập nhu sau : Thành tựu với ba pháp nào, người ngu được biết đến,
hãy từ bỏ ba pháp ấy ; thành tựu với ba pháp nào, người trí được biết
đến ; hãy chấp nhận ba pháp ấy, và thực hành chúng. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, cần phải học tập.
Có những pháp này, này các Tỷ-kheo,
là đặc tính của người ngu, là tướng trạng của người ngu, là ẩn
tích của người ngu. Thế nào là ba ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu suy
nghĩ ác, nói ác và làm ác. Nếu người ngu này, này các Tỷ-kheo, không suy
nghĩ ác, không nói ác và không làm ác, thời lấy gì người hiền trí biết
được : "Người này là kẻ ngu, không phải là bậc chân nhân" ?
Vì rằng, này các Tỷ-kheo người ngu suy nghĩ ác, nói ác và làm ác, nên
các người hiền trí biết được : "Người này là kẻ ngu, không phải
là bậc chân nhân". Có những pháp này, này các Tỷ-kheo, là đặc tánh
của người ngu, là tướng trạng của người ngu, là ấn tích của người
ngu.
Có những pháp này, này các Tỷ-kheo,
là đặc tính của người hiền trí, là tướng trạng của người hiền trí,
là ẩn tích của người hiền trí. Thế nào là ba ? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
người hiền trí suy nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện. Nếu người hiền
trí này, này các Tỷ-kheo, không suy nghĩ thiện, không nói thiện và không
làm thiện, thời lấy gì người hiền trí biết được : "Người này
là người hiền trí, bậc chân nhân" ? Vì rằng, này các Tỷ-kheo người
hiền trí suy nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện, nên các người hiền trí
biết được : "Người này là người hiền trí, bậc chân nhân".
Có những pháp này, này các Tỷ-kheo, là đặc tánh của người hiền trí,
là tướng trạng của người hiền trí, là ấn tích của người hiền trí.
Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba ? Phạm tội,
không thấy là có phạm tội ; phạm tội sau khi thấy là có phạm tội,
không như pháp sám hối ; được người khác pháp lộ có tội, không như
pháp chấp nhận. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người ngu
được biết đến.
Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến. Thế nào là ba ? Phạm tội,
thấy là có phạm tội ; phạm tội sau khi thấy là có phạm tội, như pháp
sám hối ; được người khác pháp lộ có tội, như pháp chấp nhận.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết
đến.
Thành tựu với ba pháp, này các Tỷ-kheo,
người ngu được biết đến. Thế nào là ba ? Không như lý suy tư, đặt câu
hỏi ; không như lý suy tư, trả lời câu hỏi ; khi người khác như lý trả
lời câu hỏi với những câu, những chữ vuông tròn, với những hành văn
trơn tru chải chuốt, không có chấp nhận. Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp, này các Tỷ-kheo,
người hiền trí được biết đến. Thế nào là ba ? Như lý suy tư, đặt
câu hỏi ; Như lý suy tư, trả lời câu hỏi ; khi người khác như lý trả
lời câu hỏi với những câu, những chữ vuông tròn, với những hành văn
trơn tru chải chuốt, liền chấp nhận. Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến.
Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba ? Thân làm bất
thiện, miệng nói bất thiện, ý nghĩ bất thiện. Thành tựu ba pháp này,
này các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến. Thế nào là ba ? Thân
làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện. Thành tựu ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến.
Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba ? Thân làm có tội,
miệng nói có tội, ý nghĩ có tội. Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo,
người ngu được biết đến.
Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến. Thế nào là ba ? Thân
làm không có tội, miệng nói không có tội, ý nghĩ không có tội. Thành tựu
ba pháp này, này các Tỷ-kheo, người hiền trí được biết đến.
Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba ? Thân làm có
não hại, miệng nói có não hại, ý nghĩ có não hại. … (như trên)
Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người ngu được biết đến. Thế nào là ba ? Thân làm không
có não hại, miệng nói không có não hại, ý nghĩ không có não hại. …
(như trên)
Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người ngu vụng về, không phải bậc chân nhân, tự mình xử
sự như một kẻ mất gốc, bị thương tích, phạm tội, bị kẻ trí quở
trách và tạo nên nhiều điều vô phước. Thế nào là ba ? Thân làm ác, miệng
nói ác, ý nghĩ ác (như trên) …
Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, người hiền trí không vụng về, là bậc chân nhân, tự mình
xử sự không như một kẻ mất gốc, không bị thương tích, không phạm tội,
không bị kẻ trí quở trách và tạo nên nhiều phước đức … (như trên)
…
10. Do thành tựu ba pháp, này các Tỷ-kheo,
do không đoạn tận ba cấu uế, tương xứng như vậy, bị quăng vào địa
ngục. Thế nào là ba ? Ác giới và cấu uế của ác giới được đoạn tận
; tật đố và cấu uế của tật đố không được đoạn tận ; xan tham và
cấu uế của xan tham không được đoạn tận. Thành tựu với ba pháp này,
này các Tỷ-kheo, được không đoạn tận với ba cấu uế này, như vậy bị
quăng vào địa ngục tương xứng.
Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy được sinh lên cõi Trời. Thế nào là
ba ? Có giữ giới và cấu uế của các giới được đoạn tận ; không có
tật đố và cấu uế của tật đố được đoạn tận ; không có xan tham
và cấu uế của xan tham được đoạn tận. Thành tựu với ba pháp này,
đoạn tận với ba cấu uế này, tương xứng như vậy được sanh lên cõi
Trời.
II. PHẨM NGƯỜI ĐÓNG XE
BA PHÁP
- Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo có danh tiếng, sống đem lại bất hạnh cho đa số,
không lợi ích cho đa số, đem lại bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loại
người. Thế nào là ba ? Khuyến khích các thân nghiệp không tùy thuận ;
khuyến khích các ngữ nghiệp không tuỳ thuận. Thành tựu với ba pháp
này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo có danh tiếng sống … cho chư Thiên và
loài người.
- Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo có danh tiếng, sống đem lại hạnh phúc cho đa số,
an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc cho chư Thiên
và loại người. Thế nào là ba ? Khuyến khích các thân nghiệp tùy thuận
; khuyến khích các ngữ nghiệp tuỳ thuận ; khuyến khích các pháp tùy thuận.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo có danh tiếng sống
đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem
lại hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài người.
BA CHỖ
- Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một
vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh cần phải trọn đời ghi nhớ. Thế
nào là ba ?
Tại chỗ nào, này các Tỷ-kheo, một
vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh được sanh ra ; đây là pháp thứ
nhất, này các Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh cần
phải trọn đời ghi nhớ.
Lại nữa, tại chỗ nào, này các Tỷ-kheo,
một vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, đây là pháp thứ hai, này
các Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh cần phải trọn
đời ghi nhớ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, tại chỗ
nào, một vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh sau khi chiến thắng một
trận, tại chỗ vị ấy chiếm như là cầm đầu trong cuộc chiến thắng ;
đây là pháp thứ ba, này các Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ
quán đảnh cần phải trọn đời ghi nhớ.
Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một
vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh cần phải trọn đời ghi nhớ.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có ba
pháp này, một Tỷ-kheo cần phải trọn đời ghi nhớ. Thế nào là ba ?
Tại chỗ nào, này các Tỷ-kheo, một
Tỷ-kheo cạo bỏ tóc, đắp áo cà sa ; xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình ; đây là pháp thứ nhất, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cần
phải trọn đời ghi nhớ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, tại chỗ
nào, Tỷ-kheo như thật biết rõ : "Đây là khổ", như thật rõ biết
: "Đây là khổ tập", như thật rõ biết : "Đây là khổ diệt",
như thật rõ biết : "Đây là con đường đưa đến khổ diệt" ;
đây là pháp thứ hai, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cần phải trọn đời
ghi nhớ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, tại chỗ
nào, môt Tỷ-kheo, sau khi đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự
mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát ; đây là pháp thứ ba, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo
cần phải trọn đời ghi nhớ.
Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một
Tỷ-kheo cần phải trọn đời ghi nhớ.
BA HẠNG NGƯỜI
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
xuất hiện, có mặt ở đời. Thế nào là ba ? Không hy vọng, có hy vọng,
ly hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người
không hy vọng ?, Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người được sanh trong một
gia đình thấp kém, gia đình một người đổ phân, hay gia đình một người
thợ săn hay gia đình một người đan tre, hay gia đình người đóng xe, hay
gia đình người quét rác, hay trong gia đình một người nghèo khổ, khó
tìm được đồ ăn uống để sống, khó tìm cho được đồ ăn đồ mặc
… Và người ấy xấu xí, khó ngó, lùn, thấp, nhiều bệnh hoạn, đui một
mắt, còm, què, hay đi khập khễnh, không có được đồ ăn, đồ uống đồ
mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, chỗ nằm, chỗ ở hay đèn. Người
ấy nghe nói như sau : "Vị Sát-đế-lỵ tên như vậy đã được các
Sát-đế-lỵ làm lễ quán đảnh theo lễ quán đảnh của các Sát-đế-lỵ".
Người ấy không nghĩ như sau : "Không biết khi nào Sát-đế-lỵ mới làm
lễ quán đảnh cho ta theo lễ quán đảnh của Sát-đế-lỵ ?". Người
như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là người không hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người
có hy vọng ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, trưởng nam của vua Sát-đế-lỵ đã
làm lễ quán đảnh, xứng đáng để được làm lễ quán đảnh, nhưng
chưa làm lễ quán đảnh và đạt đến địa vị bất động, (đã đến tuổi
thành niên) Người ấy nghe nói như sau : "Vị Sát-đế-lỵ tên như vậy
đã được các Sát-đế-lỵ làm lễ quán đảnh theo lễ quán đảnh của các
Sát-đế-lỵ". Người ấy suy nghĩ như sau : "Không biết khi nào
Sát-đế-lỵ mới làm lễ quán đảnh cho ta theo lễ quán đảnh của Sát-đế-lỵ
?". Người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là người hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người
ly hy vọng ? Ở đây này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Vị ấy nghe nói như sau : "Vị Sát-đế-lỵ tên như vậy đã được các
Sát-đế-lỵ làm lễ quán đảnh theo lễ quán đảnh của các Sát-đế-lỵ".
Người ấy không nghĩ như sau : "Không biết khi nào Sát-đế-lỵ mới làm
lễ quán đảnh cho ta theo lễ quán đảnh của Sát-đế-lỵ ? "Vì cớ
sao ? Sự hy vọng được làm lễ quán đảnh trước khi chưa làm lễ quán
đảnh, hy vọng ấy được hoàn toàn chấm dứt. Người như vậy, này các
Tỷ-kheo, được gọi là người ly hy vọng.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
xuất hiện, có mặt ở đời. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có ba hạng người
xuất hiện, có mặt giữa các Tỷ-kheo. Thế nào là ba ? Không hy vọng, có
hy vọng, ly hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người
không hy vọng ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người ác giới, tánh tình độc
ác, sở hành bất tịnh, có những hành vi che đậy, không phải là Sa-môn,
nhưng hiện tướng là Sa-môn, không sống Phạm hạnh, nhưng hiện tướng có
Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy tham dục, tánh tình bất tịnh. Người
này nghe : "Tỷ-kheo có tên như vậy, do đoạn tận các lậu hoặc ngay
trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an
trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát". Người ấy không suy nghĩ
như sau : "Đến khi nào, do đoạn tận các lậu hoặc ngay trong hiện tại,
tự mình với thắng trí, ta sẽ chứng đạt, chứng ngộ và an trú vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát". Người như vậy, này các Tỷ-kheo,
được gọi là người không hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người
có hy vọng ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo giữ tánh tình hiền
thiện. Vị ấy nghe : "Tỷ-kheo có tên như vậy, do đoạn tận các lậu
hoặc ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt
và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát". Người ấy suy
nghĩ như sau : "Đến khi nào, do đoạn tận các lậu hoặc ngay trong hiện
tại, tự mình với thắng trí, ta sẽ chứng đạt, chứng ngộ và an trú
vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát". Người như vậy, này các Tỷ-kheo,
được gọi là người có hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người
ly hy vọng ? Ở đây này các Tỷ-kheo, một vị A-la-hán, đã đoạn tận các
lậu hoặc. Vị này nghe : "Tỷ-kheo có tên như vậy … tuệ giải thoát".
Vị ấy không suy nghĩ như sau như sau : "Đến khi nào, do đoạn tận …
tuệ giải thoát". Vì cớ sao ? Hy vọng được giải thoát trước khi
chưa giải thoát, này các Tỷ-kheo, hy vọng ấy đã được hoàn toàn chấm
dứt. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, là người ly hy vọng.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
xuất hiện, có mặt giữa các vị Tỷ-kheo.
PHÁP
- Phàm vua Chuyển Luân nào, đúng
pháp, pháp vương, vị ấy cũng chuyển bánh xe (cai trị), không phải không
có vua.
Được nghe nói vậy, một Tỷ-kheo
bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, ai là vua cho vua
Chuyển Luân đúng pháp, pháp vương ?
- Đó là pháp, này Tỷ-kheo.
Thế Tôn nói :
- Ở đây, này Tỷ-kheo, vị Chuyển
Luân, đúng pháp, pháp vương, y cứ pháp, cung kính pháp, kính trọng pháp,
tôn kính pháp, lấy pháp làm tràng phan, lấy pháp làm cờ xí, lấy pháp
làm tối thắng, ra lệnh hộ trì, che chở, ủng hộ đúng pháp đối với
quần chúng.
Lại nữa, này Tỷ-kheo, vua Chuyển
Luân, đúng pháp, pháp vương … ra lệnh hộ trì, che chở, ủng hộ đúng
pháp đối với các Sát-đế-lỵ, đối với các tùy tùng, đối với quân
đội, đối với các Bà-la-môn và gia chủ, đối với các thị trấn và quốc
độ, đối với các Sa-môn, Bà-la-môn, đối với các loài thú và các loài
chim.
Vua Chuyển Luân ấy, này các Tỷ-kheo,
đúng pháp … sau khi ra lệnh hộ trì, che chở … đối với các loài thú
và các loài chim, chuyển bánh xe đúng pháp. Bánh xe ấy không bị ngăn cản
sự chuyển vận, bởi bất cứ người nào, hay bởi loài hữu tình thù nghịch
nào.
Cũng vậy, này Tỷ-kheo, Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, đúng pháp, vị Pháp Vương, ý cứ pháp, cung
kính pháp, kính trọng pháp, tôn kính pháp, lấy pháp làm tràng phan, lấy
pháp làm cờ xí, lấy pháp làm tối thắng, ra lệnh hộ trì, che chở, ủng
hộ đúng pháp đối với thân nghiệp, nghĩ rằng : "Thân nghiệp như vậy
cần phải hành trì, thân nghiệp như vậy không được hành trì".
Lại nữa, này Tỷ-kheo, Như Lai, bậc
A-la-hán … ủng hộ đúng pháp đối với khẩu nghiệp, nghĩ rằng :
"Khẩu nghiệp như vậy cần phải hành trì, Khẩu nghiệp như vậy không
được hành trì, đối với ý nghiệp", nghĩ rằng "Ý nghiệp như vậy
cần phải hành trì, Ý nghiệp như vậy không được hành trì".
Như Lai ấy, này Tỷ-kheo, bậc
A-la-hán … đúng pháp, sau khi ra lệnh hộ trì che chở … đối với thân
nghiệp … đối với khẩu nghiệp … đối với ý nghiệp … chuyển bánh
xe đúng pháp. Bánh xe ấy không bị ngăn chặn sự chuyển vận, bởi Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên, Ác ma, Phạm thiên, hay bất cứ một ai ở đời.
NGƯỜI ĐÓNG THÙNG XE HAY PACETANA.
Một thời Thế Tôn ở tại
Bàranàsi, Isipatana, chỗ Vườn Nai, tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo :
- Này các Tỷ-kheo.
- Bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn. Thế
Tôn nói như sau :
- Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có vị
vua tên là Pacetana. Rồi, này các Tỷ-kheo, vua Pacetana cho gọi người thợ
đóng xe :
- "Này người đóng xe, sau sáu
tháng, sẽ có trận chiến. Này người đóng xe, ông có thể làm cho ta một
cặp bánh xe mới được không ?"
- "Thưa Đại Vương, có thể
được".
Người đóng xe trả lời cho vua
Pacetana.
Rồi này các Tỷ-kheo, người đóng
xe, sau sáu tháng trừ sáu ngày, làm xong một bánh xe. Rồi vua Pacetana bảo
người đóng xe :
- "Sau sáu ngày, này người đóng
xe, sẽ có trận chiến. Đôi bánh xe mới có thể làm xong được không
?"
- "Thưa Đại vương, sau sáu
tháng trừ sáu ngày, một bánh xe đã làm xong".
- "Này người đóng xe, Ông có
thể, với sáu ngày (còn lại) này, làm xong bánh xe thứ hai ?"
- "Thưa Đại vương, con có thể
làm được".
Người đóng xe trả lời cho vua
Pacetana.
Rồi này các Tỷ-kheo, người đóng
xe trong sáu ngày, sau khi làm xong bánh xe thứ hai, cầm cặp bánh xe mới, đi
đến vua Pacetana ; sau khi đến, thưa với vua Pacetana :
- "Thưa Đại vương, cặp bánh
xe mới này đã làm xong cho Ngài".
- "Này người đóng xe, cái
bánh xe này làm xong trong sáu tháng trừ sáu ngày và cái bánh xe này làm
xong trong sáu ngày, có cái gì sai khác giữa hai cái này, ta không thấy có
các gì sai khác hết".
- "Có sự sai khác giữa hai cái
này, thưa Đại vương. Thưa Đại vương, hãy nhìn sự sai khác".
Rồi, này các Tỷ-kheo, người đóng
xe đẩy cho chạy bánh xe được làm trong sáu ngày. Bánh xe ấy tiếp tục
chạy cho đến khi sức đẩy (ban đầu) còn tồn tại rồi xoay quanh vài
vòng và rơi xuống đất. Rồi nó đẩy cho chạy bánh được làm xong trong
sáu tháng trừ sáu ngày. Bánh xe ấy tiếp tục chạy cho đến khi sức đẩy
(ban đầu) còn tồn tại, rồi nó đứng lại như đang mắc vào trong trục
xe.
- "Do nhân gì, này người đóng
xe, do duyên gì cái bánh xe được làm trong sáu ngày, tiếp tục chạy cho đến
khi sức đẩy (ban đầu) còn tồn tại, rồi xoay quanh vài vòng và rơi xuống
đất. Do nhân gì, này Người đóng xe, do duyên gì cái bánh xe được làm
trong sáu tháng trừ sáu ngày, tiếp tục chạy cho đến khi sức đẩy (ban
đầu) còn tồn tại, rồi nó đứng lại như mắc vào trục xe ?"
- "Thưa Đại vương, cái bánh
xe này được làm trong sáu ngày, vành xe bị cong, có chỗ hỏng, có khuyết
điểm ; các căm xe bị cong, có chỗ hỏng, có khuyết điểm, trục xe bị
cong, có chỗ hỏng, có khuyết điểm. Vì rằng vành xe bị cong, có chỗ hỏng,
có khuyết điểm ; vì rằng các căm xe bị cong, có chỗ hỏng, có khuyết
điểm, vì rằng trục xe bị cong, có chỗ hỏng, có khuyết điểm nên bánh
xe ấy tiếp tục chạy cho đến khi sức đẩy (ban đầu) còn tồn tại, rồi
xoay quanh vài vòng rồi rơi xuống đất. Còn bánh kia, thưa Đại Vương,
được làm xong trong sáu tháng trừ sáu ngày, bánh xe ấy không bị cong,
không có chỗ hỏng, không có khuyết điểm ; trục xe không bị cong, không
có chỗ hỏng, không có khuyết điểm. Vì rằng vành xe không bị cong,
không có chỗ hỏng, không có khuyết điểm ; vì rằng các căm xe không bị
cong, không có chỗ hỏng, không có khuyết điểm, vì rằng trục xe không bị
cong, không có chỗ hỏng, không có khuyết điểm nên bánh xe ấy tiếp tục
chạy cho đến khi sức đẩy (ban đầu) còn tồn tại, nó đứng lại như
đang mắc vào ở trong trục xe.
Rất có thể, này các Tỷ-kheo, các
thầy nghĩ rằng trong thời ấy, người đóng xe ấy là một người khác.
Này các Tỷ-kheo, chớ có nghĩ như vậy. Trong thời ấy, ta chính là người
đóng xe. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, ta khéo léo về chỗ cong của gỗ,
về chỗ hỏng của gỗ, về khuyết điểm của gỗ. Nay, này các Tỷ-kheo,
ta là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, khéo léo về chỗ cong của thân, về
chỗ hỏng của thân, về khuyết điểm của thân ; khéo léo về chỗ cong của
lời nói, về chỗ hỏng của lời nói, về khuyết điểm của lời nói ;
khéo léo về chỗ cong của ý, về chỗ hỏng của ý, về khuyết điểm của
ý.
Đối với các Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo
ni nào, thân cong không có đoạn tận, thân hư hỏng, thân khuyết điểm (không
có đoạn tận), lời nói cong không có đoạn tận, lời nói hư hỏng, lời
nói khuyết điểm (không có đoạn tận), ý cong không có đoạn tận, ý hư
hỏng, ý khuyết điểm (không có đoạn tận), như vậy, này các Tỷ-kheo, vị
ấy rời khỏi pháp luật này, ví như bánh xe ấy được làm xong trong sáu
ngày.
Đối với các Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo
ni nào, thân cong được đoạn tận, thân hư hỏng, thân khuyết điểm (được
đoạn tận), lời nói cong … ý cong được đoạn tận, ý hư hỏng, ý khuyết
điểm (được đoạn tận), như vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy an trú trong
pháp luật này, ví như bánh xe ấy được làm xong trong sáu tháng trừ sáu
ngày.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy học
tập như sau : "Chúng tôi sẽ đoạn tận thân cong, thân hư hỏng, thân
khuyết điểm, chúng tôi sẽ đoạn tận lời nói cong, lời hư hỏng, lời
nói khuyết điểm, chúng tôi sẽ đoạn tận ý cong, ý hư hỏng, ý khuyết
điểm". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
CON ĐƯỜNG KHÔNG CÓ LỖI LẦM
- Thành tựu ba pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thực hành con đường không có lầm lỗi, và có những căn bản thắng
tấn để đoạn diệt các lậu hoặc. Thế nào là ba ? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống và chú tâm cảnh giác.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
hộ trì các căn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì, vì nhãn căn không được bảo vệ, khiến tham ưu, các
ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo tự bảo vệ nguyên nhân ấy, phòng
hộ nhãn căn, thật hành phòng hộ nhãn căn. Khi tai nghe tiếng … mũi ngửi
hương … lưỡi nếm vị … thân cảm xúc … ý nhận thức các pháp, vị
ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những
nguyên nhân gì, ví ý căn không được bảo vệ, khiến tham mưu, các ác bất
thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo bảo vệ nguyên nhân ấy, phòng hộ ý căn,
thật hành phòng hộ ý căn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo hộ trì
các căn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
tiết độ trong ăn uống ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
như lý gác sát thọ dụng các món ăn, không phải để vui đùa, không phải
để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình,
mà chỉ để thân này được an trú và được bảo dưỡng, để (thân
này) khỏi bị thương hại, để hộ trợ Phạm hạnh, nghĩ rằng : ",
Như vậy, ta diệt trừ các cảm thọ cũ, và không cho khởi lên các cảm thọ
mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn". Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo tiết độ trong ăn uống.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
chú tâm cảnh giác ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ban ngày trong khi đi kinh hành và ngồi, gột sạch tâm khỏi các triền cái,
ban đêm trong canh một, trong khi đi kinh hành và ngồi,, gột sạch tâm khỏi
các triền cái, ban đêm trong giữa canh, nằm xuống như con sư tử về phía
hông bên phải, hai chân gác lên nhau, chánh niệm tỉnh giấc, tác ý tưởng
thức dậy, ban đêm trong canh cuối, sau khi thức dậy trong khi đi kinh hành
và ngồi, gột sạch tâm khỏi các triền cái. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chú tâm cảnh giác.
Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thực hành con đường không có lỗi lầm, và có những căn bản thắng
tấn để đoạn diệt các lậu hoặc.
BA PHÁP
- Có ba pháp này, này các Tỷ-kheo,
đưa đến hại mình, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai. Thế
nào là ba ? Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Ba pháp này, này các Tỷ-kheo,
đưa đến hại mình, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai.
Có ba pháp này, này các Tỷ-kheo,
không đưa đến hại mình, không đưa đến hại người, không đưa đến hại
cả hai. Thế nào là ba ? Thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện.
Có ba pháp này, này các Tỷ-kheo, không đưa đến hại mình, không đưa đến
hại người, không đưa đến hại cả hai.
THIÊN GIỚI
- Nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi các
thầy như sau : "Chư Hiền, có phải Sa-môn Gotama sống Phạm hạnh để
được sanh lên cõi Trời ? "Này các Tỷ-kheo, được hỏi vậy, các Thầy
có bực phiền, tủi nhục, chán ngấy đối với thiên sắc, thiên lạc,
thiên danh vọng, thiên thù thắng, còn nói gì, này các Tỷ-kheo, đối với
thân làm ác, các Thầy bực phiền, tủi nhục, chán ngấy như thế nào, đối
với miệng nói ác … đối với ý nghĩ ác, các Thầy bực phiền, tủi nhục,
chán ngấy như thế nào.
NGƯỜI BUÔN BÁN
- Thành tựu ba chi phần, này các Tỷ-kheo,
một người buôn bán không thâu nhận được tài sản chưa thâu nhận và
không tăng trưởng tài sản đã được thâu nhận. Thế nào là ba ? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, người buôn bán, vào buổi sáng không có nhiệt tâm chăm
chú vào công việc, vào buổi trưa không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc,
vào buổi chiều không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc. Thành tựu với
ba chi phần này, này các Tỷ-kheo, một người buôn bán không thâu nhận
được tài sản chưa được thâu nhận và không tăng trưởng tài sản đã
được thâu nhận.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo
thành tựu ba chi phần, không thâu nhận được thiện pháp chưa được thâu
nhận, không tăng trưởng được thiện pháp đã được thâu nhận. Thế
nào là ba ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vào buổi sáng không có nhiệt tâm chăm
chú vào định tướng, vào buổi trưa không có nhiệt tâm chăm chú vào định
tướng, vào buổi chiều không có nhiệt tâm chăm chú vào định tướng. Thành
tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo không thâu nhận được
thiện pháp chưa được thâu nhận, và không tăng trưởng thiện pháp đã
được thâu nhận.
Thành tựu ba chi phần, này các Tỷ-kheo,
một người buôn bán thâu nhận được tài sản chưa thâu nhận, tăng trưởng
tài sản đã được thâu nhận. Thế nào là ba ? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
người buôn bán, vào buổi sáng có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào
buổi trưa có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi chiều có nhiệt
tâm chăm chú vào công việc. Thành tựu với ba chi phần này, này các Tỷ-kheo,
một người buôn bán thâu nhận được tài sản chưa được thâu nhận và
không tăng trưởng tài sản đã được thâu nhận.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo
thành tựu ba pháp, thâu nhận được thiện pháp chưa được thâu nhận, tăng
trưởng thiện pháp đã được thâu nhận. Thế nào là ba ? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, vào buổi sáng có nhiệt tâm chăm chú vào định tướng, vào
buổi trưa có nhiệt tâm chăm chú vào định tướng, vào buổi chiều có
nhiệt tâm chăm chú vào định tướng. Thành tựu với ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo thâu nhận được thiện pháp chưa được thâu nhận,
và tăng trưởng thiện pháp đã được thâu nhận.
NGƯỜI BUÔN BÁN
- Thành tựu với ba chi phần, này
các Tỷ-kheo, người buôn bán không bao lâu đạt được về tài sản lớn
mạnh và rộng lớn. Thế nào là ba ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người
buôn bán có mắt, khéo phấn đấu xây dựng được cơ bản.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người
buôn bán có mắt ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người buôn bán biết các thương
phẩm. Vật này mua như vậy, bán như vậy, sẽ đưa lại tiền như vậy, tiền
lời như vậy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người buôn bán có mắt.
Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là
người buôn bán khéo phấn đấu ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người
thương gia khéo léo mua và bán các thương phẩm. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là người buôn bán khéo phấn đấu.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người
thương gia xây dựng được căn bản ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người buôn
bán được các gia chủ hay con các gia chủ, được các nhà giàu, có tiền
bạc lớn, có tài sản lớn biết đến như sau : "Người buôn bán này
là người có mắt, khéo phấn đấu, có đủ sức cấp dưỡng vợ con, và
thường trả tiền lời cho chúng ta. Chúng ta trao hàng hóa cho người này :
"Này bạn thương gia, hãy lấy tiền này, xây dựng tài sản để nuôi
dưỡng vợ con và thường thường trả tiền lời cho chúng tôi". Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là người buôn bán xây dựng do có cơ bản.
Thành tựu với ba chi phần này,
này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo không bao lâu, đạt đến lớn mạnh và rộng
lớn về các Thiện pháp. Thế nào là ba ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có mắt khéo phấn đấu và xây dựng được cơ bản.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
có mắt ? ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật biết rõ : "Đây
là khổ"… như thật rõ biết : "Đây là con đường đưa đến khổ
diệt". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo có mắt.
Và như thế nào, này các Tỷ-kheo,
là Tỷ-kheo khéo phấn đấu ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống tin cần
tinh tấn, đoạn tận các pháp bất thiện, làm cho sanh khởi các pháp thiện,
dõng mãnh, kiên trì, tinh tấn, không có từ bỏ gánh nặng đối với các
thiện pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo khéo phấn đấu.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
xây dựng được cơ bản ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các
Tỷ-kheo nghe nhiều, thông hiểu các tập À-gà-ma (A-hàm) bậc trì Pháp, trì
Luật, trì Toát yếu, thường thường đến yết kiến, phỏng vấn, đặt các
câu hỏi : "Thưa Tôn giả, cái này là thế nào ? Pháp này ý nghĩa gì ?
"Các Tôn giả ấy mở rộng những gì chưa được mở rộng, phơi bày
những gì chưa được phơi bày, và đối với những đoạn sai khác còn có
những chỗ nghi ngờ, các vị ấy giải thích sự nghi ngờ. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo xây dựng được cơ bản.
Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không bao lâu, đạt đến sự lớn mạnh và rộng lớn
về các thiện pháp.
III. PHẨM NGƯỜI
21-30. CHỨNG THỰC VỚI THÂN
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi,
tại Jetanava, vườn ông Anàthapindika. Rồi Tôn giả Savittha, Tôn giả
Mahàkotthita đi đến Tôn giả Sàriputta ; sau khi đến nói lên với Tôn giả
những lời chào đón hỏi thăm … Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả
Savittha đang ngồi xuống một bên :
- Có ba hạng người này, này Hiền
giả Savittha, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba ? Thân chứng, kiến
chí, tín giải. Ba hạng người này, này Hiền giả, có mặt, xuất hiện
ở đời. Trong ba hạng người này, này Hiền giả, hạng người nào Hiền
giả chấp nhận là hy hữu hơn, là thù diệu hơn ?
- Có ba hạng người này, này Hiền
giả Sàriputta, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba ? Thân chứng,
kiến chí, tín giải. Ba hạng người này, này Hiền giả, có mặt, xuất hiện
ở đời. Trong ba hạng người này, thưa Hiền giả, hạng người tín giải,
hạng người này, tôi chấp nhận là hy hữu hơn, là thù diệu hơn. Vì cớ
sao ? Vì rằng, thưa Hiền giả, với hạng người này, tín căn được tăng
thượng.
Rồi Tôn giả Sàriputta nói với
Tôn giả Mahàkotthita :
- Có ba hạng người này, này Hiền
giả Kotthita, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba ? Thân chứng, kiến
chí, tín giải. Ba hạng người này, thưa Hiền giả, có mặt, xuất hiện
ở đời. Trong ba hạng người này, này Hiền giả, hạng người nào Hiền
giả chấp nhận là hy hữu hơn, là thù diệu hơn ?
- Có ba hạng người này, này Hiền
giả Sàriputta, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba ? Thân chứng,
kiến chí, tín giải. Ba hạng người này, này Hiền giả, có mặt, xuất hiện
ở đời. Trong ba hạng người này, thưa Hiền giả, hạng người thân chứng,
hạng người này, tôi chấp nhận là hy hữu hơn, là thù diệu hơn. Vì cớ
sao ? Vì rằng, thưa Hiền giả, với hạng người này, định căn được
tăng thượng.
Rồi Tôn giả Mahàkotthita thưa với
Tôn giả Sàriputta :
- Có ba hạng người này, này Hiền
giả Sàriputta, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba ? Thân chứng,
kiến chí, tín giải. Ba hạng người này, thưa Hiền giả, có mặt, xuất
hiện ở đời. Trong ba hạng người này, này Hiền giả, hạng người nào
Hiền giả chấp nhận là hy hữu hơn, là thù diệu hơn ?
- Có ba hạng người này, này Hiền
giả Kotthita, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba ? Thân chứng, kiến
chí, tín giải. Ba hạng người này, này Hiền giả, có mặt, xuất hiện
ở đời. Trong ba hạng người này, thưa Hiền giả, hạng người kiến chí,
hạng người này, tôi chấp nhận là hy hữu hơn, là thù diệu hơn. Vì cớ
sao ? Vì rằng, thưa Hiền giả, với hạng người này, tuệ căn được
tăng thượng.
Rồi Tôn giả Sàriputta nói với
Tôn giả Savittha và Tôn giả Mahàkotthita như sau :
- Thưa các Hiền giả, tất cả
chúng ta đã trả lời, tuỳ theo biện tài của mình. Thưa các Hiền giả,
chúng ta hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến chúng ta sẽ hỏi Thế Tôn về
ý nghĩa này. Thế Tôn trả lời chúng ta như thế nào, chúng ta hãy như vậy
thọ trì.
- Vâng, thưa Hiền giả.
Tôn giả Savittha và Tôn giả
Mahàkotthita vâng đáp Tôn giả Sàriputta. Rồi Tôn giả Sàriputta, Tôn giả
Savittha và Tôn giả Mahàkotthita đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, đảng lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống, một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Sàriputta thuật lại với Thế Tôn tất cả câu chuyện xảy ra với Tôn giả
Savittha và Tôn giả Mahàkotthita.
- Ở đây, này Sàriputta, thật
không dễ gì để trả lời một chiều là hạng người này hy hữu hơn, thù
diệu hơn trong ba hạng người kia. Sự kiện này xảy ra, này Sàriputta, là
hạng người tín giải này là hạng người đang hướng đến A-la-hán, là
hạng người thân chứng này là hạng người Nhất Lai hay Bất Lai, hạng
người kiến chí này là hạng người Nhất Lai hay Bất Lai.
Ở đây, này Sàriputta, thật không
dễ gì để trả lời một chiều là hạng người này hy hữu hơn, thù diệu
hơn trong ba hạng người kia. Sự kiện này xảy ra, này Sàriputta, là hạng
người thân chứng này là hạng người đang hướng đến A-la-hán, là hạng
người tín giải này là hạng người Nhất Lai hay Bất Lai, hạng người kiến
chí này là hạng người Nhất Lai hay Bất Lai.
Ở đây, này Sàriputta, thật không
dễ gì để trả lời một chiều là hạng người này hy hữu hơn, thù diệu
hơn trong ba hạng người kia. Sự kiện này xảy ra, này Sàriputta, là hạng
người kiến chí này là hạng người đang hướng đến A-la-hán, còn hạng
người tín giải này là hạng người Nhất Lai hay Bất Lai, và hạng người
thân chứng này là hạng người Nhất Lai hay Bất Lai.
Ở đây, này Sàriputta, thật không
dễ gì để trả lời một chiều rằng hạng người này là hy hữu hơn và
thù diệu hơn trong ba hạng người kia ?
NGƯỜI BỆNH
- Có mặt ba hạng người bệnh này,
này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một hạng
người bệnh, dầu có được ăn các món thích hợp, dầu có được các
thuốc men thích hợp hay không được các thuốc men thích hợp, dầu có được
sự chăm sóc thích đáng hay không được sự chăm sóc thích đáng, không
được bình phục từ chứng bệnh ấy.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người bệnh, dầu có được ăn các món thích hợp, dầu có được các
thuốc men thích hợp hay không được các thuốc men thích hợp, dầu có được
sự chăm sóc thích đáng hay không được sự chăm sóc thích đáng, được
bình phục từ chứng bệnh ấy.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người bệnh, có được ăn các món thích hợp, không phải không được, có
các thuốc men thích hợp, không phải không được, có được sự chăm sóc
thích đáng, không phải không được, được bình phục từ chứng bệnh
ấy.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng người
bệnh này, có được các món ăn thích hợp, không phải không được, có
các thuốc men thích hợp, không phải không được, có được sự chăm sóc
thích đáng, không phải không được, được bình phục khỏi chứng bệnh
ấy. Chính do duyên với hạng người bệnh này, này các Tỷ-kheo, các món
ăn thích hợp với người bệnh đã được chấp thuận, các thuốc men
thích hợp với người bệnh đã được chấp thuận., sự chăm sóc thích
đáng với người bệnh đã được chấp thuận. Chính do duyên với hạng
người bệnh này, này các Tỷ-kheo, các người bệnh khác cần phải được
chăm sóc như vậy.
Ba hạng người bệnh này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có ba hạng
người này, có mặt, xuất hiện ở đời, có thể so sánh với ba hạng người
bệnh này. Thế nào là ba ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người được thấy Như Lai hay không được thấy Như Lai, được nghe Pháp
và Luật do Như Lai trình bày, hay không được nghe Pháp và Luật do Như Lai
trình bày, không có đi vào tánh quyết định, tánh chơn chánh đối với các
Thiện pháp.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng người
không được thấy Như Lai, được nghe Pháp và Luật do Như Lai trình bày,
hay không được nghe Pháp và Luật do Như Lai trình bày, đi vào tánh quyết
định, tánh chơn chánh đối với các Thiện pháp.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người được thấy Như Lai, không phải không được thấy, được nghe Pháp
và Luật do Như Lai trình bày, không phải không được nghe Pháp và Luật do
Như Lai trình bày, đi vào tánh quyết định, tánh chơn chánh đối với các
Thiện pháp.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người được thấy Như Lai, không phải không được thấy, được nghe Pháp
và Luật do Như Lai thuyết giảng, không phải không được nghe, đi vào
tánh quyết định, tánh chơn chánh đối với các Thiện pháp. Chính do
duyên hạng người này, này các Tỷ-kheo, thuyết pháp được chấp nhận, và
chính do duyên hạng người này, này các Tỷ-kheo, pháp được thuyết giảng
cho các người khác.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, xuất hiện ở đời được ví dụ với ba hạng người bệnh.
CHẤT CHỨA
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người chất chứa các thân hành có não hại, chất chứa các khẩu hành
có não hại, chất chứa các ý hành có não hại. Sau khi chất chứa thân
hành có não hại, chất chứa khẩu hành có não hại, chất chứa ý hành
có não hại, người ấy sanh trong thế giới có não hại. Vì phải sanh
trong thế giới có não hại, người ấy cảm giác các cảm xúc có não hại.
Người ấy, vì cảm giác các cảm xúc có não hại, nên cảm giác các cảm
thọ có não hại, nhất hướng đau khổ, như các chúng sanh ở trong địa
ngục.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
chất chứa thân hành không có não hại … chất chứa ý hành không có não
hại. Sau khi chất chứa thân hành không có não hại … chất chứa ý hành
không có não hại, người ấy được sanh trong thế giới không có não hại.
Được sanh trong thế giới không có não hại, người ấy cảm giác các cảm
xúc không có não hại. Do cảm giác các cảm xúc không có não hại, người
ấy cảm giác các cảm thọ không có não hại, nhất hướng lạc, như chư
Thiên ở Biến Tịnh Thiên.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
chất chứa thân hành có não hại và không có não hại … chất chứa ý
hành có não hại và không có não hại. Sau khi chất chứa thân hành có não
hại và không có não hại …, sau khi chất chứa ý hành có não hại và
không có não hại, được sanh vào thế giới có não hại và không có não
hại. Được sanh vào thế giới có não hại và không có não hại, người
ấy cảm giác các cảm xúc có não hại và không có não hại. Do cảm giác
các cảm xúc có não hại và không có não hại, người ấy cảm giác các cảm
thọ có não hại và không có não hại, xen lẫn lạc và khổ, ví như loài
Người, một loại chư Thiên và một loại sanh trong đọa xứ.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, xuất hiện ở đời.
NHIỀU LỢI ÍCH
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
làm nhiều lợi ích cho người khác. Thế nào là ba ?
Do người nào, này các Tỷ-kheo, có
người được quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, người ấy là hạng người
làm lợi ích nhiều cho người kia. Đây là hạng người làm nhiều lợi
ích cho người khác.
Lại nửa, này các Tỷ-kheo, do người
nào, người khác rõ biết : "Đây là khổ", … rõ biết : "Đây
là con đường đưa đến khổ diệt", người ấy là hạng người làm
nhiều lợi ích cho người kia. Đây là hạng người làm nhiều lợi ích cho
người khác.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do người
nào, người khác đoạn trừ các lậu hoặc ngay trong hiện tại, với thắng
trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát. Đây
là hạng người làm nhiều lợi ích cho người khác.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
Đây làm lợi ích nhiều cho người khác. Ta nói rằng không có một người
nào khác làm lợi ích nhiều hơn cho người bằng ba hạng người này. Ta
nói rằng người này không thể khéo léo trả ơn cho ba hạng người kia,
như đảnh lễ, đứng dậy, chắp tay, hành động thân thiện, bố thí các
vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, thuốc trị bệnh …
VẾT THƯƠNG LÀM MỦ
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba ? Hạng người với tâm ví dụ
như vết thương, với tâm ví dụ như chớp sáng, với tâm ví dụ như kim
cang.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người với tâm ví dụ như vết thương ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
phẫn nỗ, nhiều hiềm hận, dầu có bị nói chút ít, cũng tức tối phẫn
nộ, sân hận, sừng sộ, biểu lộ sự phẫn nộ, sân hận và bực tức.
Ví như môt vết thương đang làm mủ, nếu bị cây gậy hay một mảnh sành
đánh phải, liền chảy mủ nhiều hơn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đây gọi
là hạng người được ví dụ với vết thương đang làm mủ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người được ví dụ như chớp sáng ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người như thật rõ biết : "Đây là khổ",.. như thật rõ biết
"Đây là con đường đưa đến khổ diệt". Ví như một người có
mắt, thấy các sắc trong đêm tối mù mịt, khi có chớp sáng. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, ở đây có người thật rõ biết : "Đây là khổ",
… như thật rõ biết : "Đây là con đường đưa đến khổ diệt".
Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là hạng người với tâm được ví như
chớp sáng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người với tâm được ví dụ như kim cang ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
hạng người, nhờ đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự
mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là hạng người,
với tâm được ví dụ như kim cang.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, xuất hiện ở đời.
CẦN PHẢI CẨN THẬN
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba ? Có hạng người này, này
các Tỷ-kheo, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ
cúng dường. Có hạng người, này các Tỷ-kheo, nên thân cận gần gũi, nên
sống chung, nên hầu hạ cúng dường. Có hạng người, này các Tỷ-kheo,
sau khi cung kính, tôn trọng, nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ
cúng dường.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường
? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người thấp kém về giới, định, tuệ.
Hạng người như vậy, này các Tỷ-kheo, không nên gần gũi, không nên sống
chung, không nên hầu hạ cúng dường, trừ khi vì lòng thương tưởng, vì
lòng từ mẫn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường ? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, có hạng người đồng đẳng với mình về giới định,
tuệ. Hạng người như vậy, này các Tỷ-kheo, nên gần gũi, nên sống
chung, nên hầu hạ cúng dường. Vì cớ sao ? Với ý nghĩ : "(Cả hai)
thiện xảo về giới, câu chuyện của chúng ta sẽ thuộc về giới, được
diễn tiến (lợi ích) cho cả hai chúng ta, và sẽ làm cho hai chúng ta được
an lạc. (Cả hai) là thiện xảo về định… (Cả hai) là thiện xảo về
định … (Cả hai) là thiện xảo về tuệ, câu chuyện của chúng ta sẽ
thuộc về tuệ, được diễn tiến (lợi ích) cho cả hai, và chúng sẽ làm
cho hai chúng ta an lạc". Cho nên, người như vậy nên gần gũi, nên sống
chung, nên hầu hạ cúng dường ? Thế nào là hạng người, này các Tỷ-kheo,
sau khi cung kính, tôn trọng, nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ
cúng dường.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người thù thắng về giới, định và tuệ. Hạng người ấy, này các Tỷ-kheo,
sau khi cung kính tôn trọng, cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần
phải hầu hạ cúng dường. Vì cớ sao ? Với y nghĩ : "Như vậy, nếu
giới chưa đầy đủ, ta sẽ làm đầy đủ, hay nếu giới được đầy đủ,
ta sẽ hỗ trợ thêm cho chỗ này chỗ kia với trí tuệ. Hay nếu định
chưa đầy đủ, ta sẽ làm đầy đủ, hay nếu định được đầy đủ, ta
sẽ hỗ trợ thêm cho chỗ này chỗ kia với trí tuệ. Hay nếu tuệ chưa đầy
đủ, ta sẽ làm đầy đủ, hay nếu tuệ được đầy đủ, ta sẽ hỗ trợ
thêm cho chỗ này chỗ kia với trí tuệ. Cho nên, với hạng người này, sau
khi cung kính tôn trọng, cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải
hầu hạ cúng dường.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, xuất hiện ở đời.
Người gần kẻ hạ liệt
Rồi cũng bị hạ liệt
Thân cận người đồng đẳng
Được khỏi bị thối đọa
Ai gần bậc thù thắng
Mau chóng được thăng tiến
Do vậy hãy sống chung
Bậc ưu thắng hơn mình
ĐÁNG GHÊ TỞM
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba ? Có hạng người đáng ghê tởm,
không cần phải gần gũi, không cần phải sống chung, không cần phải hầu
hạ cúng dường. Có hạng người, này các Tỷ-kheo, cần phải nhìn một
cách thản nhiên, không cần phải gần gũi, không cần phải sống chung,
không cần phải hầu hạ cúng dường. Có hạng người, này các Tỷ-kheo, cần
phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng dường.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người đáng ghê tởm, không cần phải gần gũi, không cần phải sống
chung, không cần phải hầu hạ cúng dường ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, co
hạng người ác giới, tính tình độc ác, sở hành bất tịnh, có những
hành vi che đậy, không phải là Sa-môn nhưng hiện tướng là Sa-môn, không
sống Phạm hạnh, nhưng hiện tướng có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, đầy
những tham dục, tánh tình bất tịnh. Hạng người như vậy, này các Tỷ-kheo,
đáng ghê tởm, không cần phải gần gũi, không cần phải sống chung,
không cần phải hầu hạ cúng dường. Vì cớ sao ? Vì rằng, dầu không thuận
theo một chút nào tri kiến của người như vậy, nhưng tiếng xấu được
đồn xa về người ấy là có bạn ác, có bằng hữu ác, tôn sùng kẻ ác.
Ví như, này các Tỷ-kheo, một con rắn đi vào trong đống phân, dầu nó
không cắn ai, người cũng bị (đống phân) làm cho ô uế. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, dầu không thuận theo một chút nào tri kiến của người như
vậy … là tôn sùng kẻ ác. Cho nên, hạng người như vậy đáng ghê tởm,
không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường.
và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người cần phải nhìn một cách thản nhiên, không nên gần gũi, không nên
sống chung, không nên hầu hạ cúng dường ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
hạng người phẫn nộ, sân hận và bực tức. Ví như, này các Tỷ-kheo, một
vết thương làm mủ, nếu bị cây gậy hay mảnh sành đánh phải, thời chảy
mủ ra nhiều hơn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có hạng người phẫn nộ, sân
hận và bực tức. Ví như, này các Tỷ-kheo, một que lửa bằng gỗ
tindukà, nếu bị cây gậy hay mảnh sành đánh phải, thời xịt lửa xịt
khói ra nhiều hơn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, … Ví như, này các Tỷ-kheo,
một hố phân được cây gậy hay mảnh sành quật vào, thời mùi hôi thốt
lại càng nhiều hơn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có hạng người phẫn nộ,
sân hận và bực tức. Hạng người như vậy, này các Tỷ-kheo, không nên gần
gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường. Vì cớ sao ? Vì
nghĩ rằng : "Người ấy có thể nhục mạ ta. Người ấy có thể chửi
mắng ta. Người ấy có thể làm hại ta." Cho nên, hạng người như vậy
cần phải nhìn một cách thản nhiên, không nên gần gũi, không nên sống
chung, không nên hầu hạ cúng dường.
Và như thế nào, này các Tỷ-kheo,
là hạng người cần gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng
dường.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người giữ giới, tánh tình hiền thiện. Người như vậy, này các Tỷ-kheo,
cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng dường.
Vì cớ sao ? Vì rằng, dầu không thuận theo chúng nào tri kiến của người
như vậy, nhưng tiếng tốt được đồn xa về người ấy là có bạn
lành, là có bằng hữu, là tôn sùng kẻ lành. Cho nên, hạng người như vậy,
cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng dường.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, xuất hiện ở đời.
Người gần kẻ hạ liệt
Rồi cũng bị hạ liệt
Thân cận người đồng đẳng
Được khỏi bị thối đọa
Ai gần bậc thù thắng
Mau chóng được thăng tiến
Do vậy hãy sống chung
Bậc ưu thắng hơn mình
NÓI NHƯ HOA
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba ? Hạng người nói như phân,
hạng người nói như hoa, hạng người nói như mật.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người nói như phân ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người khi đi vào
hội trường, hay đi vào hội chúng, hay đi đến giữa các người bà con,
hay khi đi đến giữa các người đồng một tổ hợp, hay đi đến giữa
cung vua, hay bị dẫn như là người làm chứng, được nói : "Ngươi biết
gì, hãy nói lên". Người ấy không biết, nói rằng : "Tôi có biết"
; có biết, nói rằng : "Tôi không biết" ; không thấy, nói rằng :
"Tôi có thấy" ; có thấy, nói rằng : "Tôi không thấy". Do
vì mình hay vì người, hay vì một vài lợi vật nhỏ mà đã cố ý nói
láo. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là người nói như phân.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người nói như hoa ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người khi đi vào
hội trường, hay đi vào hội chúng, hay đi đến giữa các người bà con,
hay khi đi đến giữa các người đồng một tổ hợp, hay đi đến giữa
cung vua, hay bị dẫn như là người làm chứng, được nói : "Ngươi biết
gì, hãy nói lên". Người ấy không biết, nói rằng : "Tôi không biết"
; có biết, nói rằng : "Tôi có biết" ; không thấy, nói rằng :
"Tôi không thấy" ; có thấy, nói rằng : "Tôi có thấy".
Không vì mình hay vì người, hay vì một vài lợi vật nhỏ mà đã cố ý
nói láo. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là người nói như
hoa.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người nói như mật ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người đoạn tận ác
ngữ, từ bỏ lời nói ác ngữ. Lời nói của người ấy không hại, tai
ưa nghe, khả ái, đi thẳng đến tâm, lễ độ, được nhiều người ưa thích,
được nhiều người thích ý, người ấy nói những lời như vậy. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người nói như mật.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, xuất hiện ở đời.
MÙ LÒA
- Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba ? Người mù, người một mắt,
người có hai mắt.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người
mù ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người không có mắt để có thể với
mắt như vậy, thâu hoạch được tài sản chưa được thâu hoạch hay làm
cho tăng trưởng tài sản đã được thâu hoạch ; không có mắt để có thể
với mắt như vậy, biết được pháp thiện và pháp bất thiện, có tội
và không tội, pháp liệt và thắng, pháp thuộc thành phần đen và trắng.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người mù.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người có một mắt ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người có mắt để có
thể với mắt như vậy, thâu hoạch được tài sản chưa được thâu hoạch
hay làm cho tăng trưởng tài sản đã được thâu hoạch ; nhưng không có mắt
để có thể với mắt như vậy, biết được pháp thiện và pháp bất thiện,
có tội và không tội, pháp liệt và thắng, pháp thuộc thành phần đen và
trắng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người một mắt.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người có hai mắt ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người có mắt để có
thể với mắt như vậy, thâu hoạch được tài sản chưa được thâu hoạch
hay làm cho tăng trưởng tài sản đã được thâu hoạch ; có mắt để có
thể mới mắt như vậy, biết được pháp thiện và pháp bất thiện, có tội
và không tội, pháp liệt và thắng, pháp thuộc thành phần đen và trắng.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người có hai mắt.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, xuất hiện ở đời.
Kẻ mù mắt bị hư’
Cả hai đều bất hạnh
Vừa công đức không làm
Vừa không được tài sản
Thứ đến là hạng người
Được gọi là một mắt
Liên hệ pháp phi pháp
Tầm cầu các tài sản
Với trộm và man trá
Cùng với cả nói láo
Vừa khéo góp tài sản
Vừa giỏi hưởng dục lạc
Từ đây đến địa ngục
Người một mắt bị hại.
Còn vị có hai mắt
Được gọi người tối thượng
Thâu hoạch các tài sản
Một cách đúng chánh pháp
Các tài sản đã có,
Tăng trưởng đúng chánh pháp
Bố thí, ý tốt đẹp
Không phân vân ngập ngừng
Được sanh chỗ hiền thiện
Đi chỗ ấy không sầu
Vậy hãy tránh thật xa
Người mù, người một mắt
Thân cận bậc hai mắt
Bậc tối thắng trượng phu !
LỘN NGƯỢC
- Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba ? Hạng người với trí tuệ
lộn ngược, hạng người với trí tuệ bắp vế, hạng người với trí tuệ
rộng lớn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người
với trí tuệ lộn ngược ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người đi
đến khu vườn (tinh xá) thường thường nghe pháp từ các Tỷ-kheo. các vị
Tỷ-kheo thuyết pháp cho người ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có
nghĩa, có văn, trình bày Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Người
ấy, tại chỗ ngồi ấy, đối với bài thuyết giảng ấy, không có tác ý
đến đoạn đầu, không có tác ý đến đoạn giữa, không có tác ý đến
đoạn cuối. Cũng vậy, khi người ấy từ chỗ ngồi ấy đứng lên, đối
với bài thuyết giảng ấy, người ấy không có tác ý đến đoạn đầu,
không có tác ý đến đoạn giữa, không có tác ý đến đoạn cuối. Ví như
này các Tỷ-kheo, mộ cái ghè bị lộn ngược, nước chứa trong ấy tuôn
chảy, không có dừng lại. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, có hạng
người đi đến khu vườn … không có tác ý đoạn cuối. Cũng vậy, khi
người ấy từ chỗ ngồi ấy đứng lên … không có tác ý đoạn cuối. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người với trí tuệ lộn ngược.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người
với trí tuệ bắp vế ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người đi đến
khu vườn (tinh xá). Người ấy, tại chỗ ngồi ấy, đối với bài thuyết
giảng ấy, có tác ý đến đoạn đầu, có tác ý đến đoạn giữa, có
tác ý đến đoạn cuối. Nhưng khi người ấy từ chỗ ngồi ấy đứng dậy,
đối với bài thuyết giảng ấy, người ấy không có tác ý đến đoạn
đầu, không có tác ý đến đoạn giữa, không có tác ý đến đoạn cuối.
Ví như này các Tỷ-kheo, trên bắp vế của một người, các loại đồ ăn
được chồng lên như hạt mè, hột gạo, các loại kẹo và trái táo. Khi từ
chỗ ngồi đứng dậy, vì vô ý, người ấy làm đổ vãi tất cả. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, ở đây, có hạng người đi đến khu vườn … Người
ấy, tại chỗ ngồi ấy … có tác ý đoạn cuối. Nhưng khi người ấy tại
chỗ ngồi ấy đứng dậy … không có tác ý đoạn cuối. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là hạng người với trí tuệ bắp vế.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng
người có trí tuệ rộng lớn ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người đi đến
khu vườn (tinh xá) … trình bày Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh.
Tại chỗ ngồi ấy, vị ấy đối với bài thuyết giảng ấy, có tác ý đến
đoạn đầu … có tác ý đến đoạn cuối. Cũng vậy, khi vị ấy, từ chỗ
ngồi ấy đứng lên, đối với bài thuyết giảng ấy, có tác ý đến đoạn
đầu … có tác ý đến đoạn cuối. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái
ghè được dựng đứng, nước chứa trong ấy được giữ lại, không có
chảy đi. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ở đây, có hạng người đi đến
khu vườn (tinh xá) … trình bày Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh.
Tại chỗ ngồi ấy, vị ấy đối với bài thuyết giảng ấy, có tác ý đến
đoạn đầu … có tác ý đến đoạn cuối. Cũng vậy, khi vị ấy, từ chỗ
ngồi ấy đứng lên, đối với bài thuyết giảng ấy, có tác ý đến đoạn
đầu … có tác ý đến đoạn cuối. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng
người có trí tuệ rộng lớn.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, xuất hiện ở đời.
Hạng trí tuệ lộn ngược
Không thông minh, không mắt
Họ thường thường đi đến
Đến gần các Tỷ-kheo
Đoạn đầu của bài giảng
Đoạn giữa và đoạn cuối
Họ không học được gì,
Họ không có trí tuệ
Hạng trí tuệ bắp vế
Được gọi là tốt hơn
Họ thường thường đi đến
Đến gần các Tỷ-kheo
Đoạn đầu của bài giảng
Đoạn giữa và đoạn cuối
Ngồi trên chỗ mình ngồi
Nắm giữ được lời văn
Đứng dậy không hiểu rõ
Quên mất điều đã nắm
Bậc trí tuệ rộng lớn
Được gọi tốt hơn cả
Họ thường thường đi đến
Đến gần các Tỷ-kheo
Đoạn đầu của bài giảng
Đoạn giữa và đoạn cuối
Ngồi trên chỗ mình ngồi
Nắm giữ được lời văn
Thọ trì điều được nghe
Suy tư điều tối thắng
Với ý không dao động
Là hạng người như vậy
Thực hành pháp, tùy pháp
Có thể đoạn khổ đau.
IV. PHẨM SỨ GIẢ CỦA TRỜI
NGANG BẰNG VỚI PHẠM THIÊN
- Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo,
trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được
chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên. Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo,
trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được
chấp nhận như các Đạo sư thời xưa. Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo,
trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được
chấp nhận là đáng được cúng dường.
Phạm Thiên, này các Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với cha mẹ. Các Đạo sư thời xưa, này các Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với cha mẹ. Đáng được cúng dường, này các Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với cha mẹ. Vì cớ sao ? Giúp đỡ rất nhiều, này các Tỷ-kheo, là
cha mẹ đối với con cái, nuôi chúng lớn, dưỡng dục chúng, giới thiệu
chúng vào đời.
Mẹ cha gọi Phạm Thiên,
Bậc Đạo sư thời trước
Xứng đáng được cúng dường
Vì thương đến con cháu
Do vậy, bậc Hiền triết
Đảnh lễ và tôn trọng
Dâng đồ ăn đồ uống
Vải mặc và giường nằm
Thoa bóp (cả thân mình)
Tắm rửa cả tay chân
Với sở hành như vậy,
Đối với mẹ và cha
Đời này người Hiền khen
Đời sau hưởng Thiên lạc
ÀNANDA
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên ; ngồi xuống
một bên, Tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :
- Rất có thể, bạch Thế Tôn, một
Tỷ-kheo được định như vậy, trong cái thân có thức này, không có ngã
kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên ; đối với tất cả tướng ở
ngoài, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ miên ; và do chứng
đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không có ngã kiến, ngã sở
kiến, ngã mạn tuỳ miên ; vị ấy có thể chứng đạt và an trú tâm giải
thoát, tuệ giải thoát ấy.
- Rất có thể, này, Ànanda, một Tỷ-kheo
được định như vậy … có thể chứng đạt và an trú tâm giải thoát,
tuệ giải thoát ấy.
- Như thế nào, bạch Thế Tôn, rất
có thể, một Tỷ-kheo được định như vậy … có thể chứng đạt và an
trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy ?
- Ở đây, này Ànanda, vị Tỷ-kheo
suy nghĩ như sau : "Đây là an tịnh, đây là thù diệu, tức là chỉ tức
tất cả hành, từ bỏ tất cả sanh y, đoạn tận tham, ly tham, đoạn diệt,
Niết-bàn". Như vậy, này Ànanda, rất có thể Tỷ-kheo được định
như vậy, … có thể chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải
thoát ấy.
Lại nữa, này Ànanda, liên hệ đến
vấn đề này, Ta đã nói như sau trong kinh tên là "Những câu hỏi của
Punnaka", chương về Pàràyana.
Do phân tích ở đời
Những vật cao và thấp
Với vị không dao động
Bởi vật gì ở đời,
An tịnh, không tối mù,
Không phiền muộn, không cầu
Ta nói người như vậy,
Đã vượt khỏi sanh già.
SÀRIPUTTA
Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn
nói với Tôn giả Sàriputta đang ngồi xuống một bên :
- Này Sàriputta, Ta có thể thuyết
pháp một cách tóm lược. Này, Sàriputta, ta có thể thuyết pháp một cách
rộng rãi. Này Sàriputta, ta có thể thuyết pháp một cách tóm lược và rộng
rãi. Và những người hiểu biết được thật là khó tìm !
- Nay đã đến thời, bạch Thế Tôn,
nay đã đến thời, bạch Thế Tôn, để Thế Tôn thuyết pháp một cách
tóm lược, thuyết pháp một cách rộng rãi, và thuyết pháp một cách tóm
lược và rộng rãi. Sẽ có những người có thể hiểu rõ Chánh pháp.
- Vậy này Sàriputta, hãy học tập
như sau : "Trong cái thân có thức này, sẽ không có ngả kiến, ngã sở
kiến, ngã mạn tùy miên ; và do chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ
giải thoát, không có ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên, chúng
tôi sẽ chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy !".
Như vậy, này Sàriputta, các Ông cần phải học tập. Khi nào Tỷ-kheo đối
với thân có thức này, không có ngả kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy
miên ; đối với tất cả các tướng ở ngoài, không có ngả kiến, ngã sở
kiến, ngã mạn tùy miên ; và do chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ
giải thoát, không có ngả kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên ; vị ấy
chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy. Người như vậy,
này Sàriputta, được gọi là Tỷ-kheo đã chặt đứt khát ái, đã cởi mở
kiết sử, với chơn chánh hiệu quán kiêu mạn, đã đoạn tận khổ đau.
- Lại nữa, này Sàriputta, liên hệ
đến vấn đề này, ta đã nói như sau trong kinh tên là "Những câu hỏi
của Udaya" trong chương Pàràyana.
Đoạn tận cả hai pháp
Dục tham và sân hận
Và từ bỏ hôn trầm
Cận đứng mọi trạo hối
Với xả niệm thanh tịnh
cạy trước pháp tư duy ?
Ta nói trí giải thoát
Vô minh được phá tận.
33. CÁC NGUYÊN NHÂN
- Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo,
khởi lên các nghiệp. Thế nào là ba ? Tham là nguyên nhân khởi lên các
nghiệp. Sân là nguyên nhân khởi lên các nghiệp. Si là nguyên nhân khởi
lên các nghiệp.
Phàm nghiệp nào được làm vì
tham, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ tham, duyên khởi từ tham, tập khởi từ
tham, tại chỗ nào tư 5 ngã được hiện hữu, tại chỗ ấy, nghiệp ấy
được thuần thục. Chỗ nào nghiệp ấy được thuần thục, cỗ ấy quả
dị thục của nghiệp ấy được cảm thọ ngay trong hiện tại, hay trong đời
sống kế tiếp, hay trong một đời sau nữa.
Phàm nghiệp nào được làm từ
sân, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ sân … Phàm nghiệp nào được làm từ
si, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ si … tại chỗ ấy, nghiệp ấy được thuần
thục … hay trong một đời sau nữa.
Ví dũ, này các Tỷ-kheo, các hạt
giống không bị bể vụn, không bị hư thối, không bị gió và nắng làm hư,
còn tươi tốt được khéo gieo vào một đồng ruộng tốt, được trồng vào
đất khéo sửa soạn, và được trời mưa xuống đều đặn, các hạt giống
ấy, này các Tỷ-kheo, được lớn lên, tăng trưởng, lớn mạnh. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, phàm nghiệp nào được làm từ tham … hay trong môt đời
sau nữa. Phàm nghiệp nào được làm từ sân … hay trong một đời sau nữa.
Phàm nghiệp nào được làm từ si … hay trong một đời sau nữa.
Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo,
khởi lên các nghiệp.
Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo,
khởi lên các nghiệp. Thế nào là ba ? Không tham là nguyên nhân khởi lên
các nghiệp. Không sân là nguyên nhân khởi lên các nghiệp. Không si là
nguyên nhân khởi lên các nghiệp.
Phàm nghiệp nào được làm vì
không tham, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ không tham, duyên khởi từ không
tham, tập khởi từ không tham. Vì rằng tham được từ bỏ, như vậy, nghiệp
ấy được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm như thân
cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể
sanh khởi trong tương lai.
Phàm nghiệp nào được làm từ
không sân … Phàm nghiệp nào được làm từ không si, này các Tỷ-kheo,
sanh ra từ không si … Vì rằng si được từ bỏ, như vậy, nghiệp ấy
được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm như thân
cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể
sanh khởi trong tương lai.
Ví như này các Tỷ-kheo, các hạt
giống không thể bị bể vụn, không hư thối, không bị gió và nắng làm
hư, còn được tươi tốt, được khéo gieo. Và một người lấy lửa đống
chúng, sau khi lấy lửa đốt, làm cho chúng thành tro, sau khi làm thành tro,
quạt chúng trong gió lớn, hay cho vào dòng nước sông chảy nhanh mang cuốn
đi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các hạt giống ất được đoạn tận, được
cắt đứt từ gốc rễ, được làm cho như thân cây tala, được làm cho
không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm nghiệp nào được làm từ không tham …
không thể sanh khởi trong tương lai. Phàm nghiệp nào được làm từ không
sân … không thể sanh khởi trong tương lai. Phàm nghiệp nào được làm từ
không si … không thể sanh khởi trong tương lai.
Có ba nguyên nhân này, này các Tỷ-kheo,
khởi lên các nghiệp :
Phàm có hạnh nghiệp nào,
Sanh từ tham sân si,
Do kẻ vô trí làm
Dầu có ít hay nhiều
tại đây được cảm thọ,
Không phải tại chỗ khác
Do vậy vị Tỷ-kheo
Từ bỏ tham, sân, si
Làm khởi lên minh trí,
Từ bỏ mọi ác thú.
VỀ ÀLAVÌ
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Àlavì, tại
Gomagga, trong rừng Simsapà, trên chỗ có trải lá.
Rồi Hatthaka, người Àlavì, đang
đi bộ hàng du ngoạn, thấy Thế Tôn đang ngồi trên chỗ có trải lá trong
rừng Simsapà ở Gomagga, thấy vậy, liền đi đến Thế Tôn ; sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống mộ bên. Ngồi xuống một bên,
Hatthaka người Àlavì bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sống có
an lạc không ?
- Phải, này Hoàng Tử, ta sống được
an lạc. Và những ai cảm thấy an lạc ở đời, Ta là một trong số những
người ấy.
- Bạch Thế Tôn, lạnh là đếm mùa
đông, thời gian giữa những ngày tám (trước và sau ngày rằm) là thời
gian tuyết rơi, cứng rắn là đất do trâu bò dẫm đạp, mỏng manh là nệm
làm bằng lá, lưa thưa là những lá của cây, lạnh là tấm vải cà
Savittha, và lạnh là làn gió thổi.
Rồi Thế Tôn nói như sau :
- Dẫu vậy, này Hoàng Tử, Ta sống
được an lạc. Và những ai cảm thấy an lạc ở đời, Ta là một trong số
những người ấy. Vậy nay, này Hoàng Tử, ở đây ta sẽ hỏi Hoàng Tử, nếu
có thể kham nhẫn, Hoàng Tử hãy trả lời. Hoàng Tử nghĩ thế nào, này
Hoàng Tử ? Ở đây, người gia chủ hay con người gia chủ có nhà có nóc
nhọn, với các tường trét trong trét ngoài, che chở khỏi gió, chốt cửa
được khóa chặt, các cửa sổ được đóng kín. Trong ấy, có một chỗ nằm
có tấm thảm len với lông dài, với tấm vải giường bằng len trắng,
chăn len thêu bông, nệm bằng da quý con sơn dương kadaki, tấm thảm có tàn
tre phía trên và gối nệm đỏ cả hai đầu, có đèn thắp đỏ và bốn
bà vợ đẹp hầu hạ. Này Hoàng Tử, Hoàng Tử nghĩ thế nào, người ấy
nằm ngủ có an lạc không ? Hay Hoàng Tử nghĩ thế nào ?
- Bạch Thế Tôn, người ấy nằm
ngủ an lạc. Nếu có những người cảm thấy an lạc ở đời, người ấy
là một trong những người ấy.
- Hoàng Tử nghĩ thế nào, này
Hoàng tử, với người gia chủ hay người con của người gia chủ ấy, khởi
lên những nhiệt lão về thân hay về tâm, do tham ái sanh. Bị nung đốt bởi
những nhiệt não do tham ái sanh, người ấy có cảm thấy đau khổ không ?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Người gia chủ hay con của người
gia chủ ấy, này Hoàng Tử, bị nung đốt bởi những nhiệt não do tham ái
sanh, cảm thấy đau khổ. Tham ái ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt từ
gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho
không thể sanh khởi trong tương lai. Do vậy ta cảm thấy an lạc.
Hoàng Tử nghĩ thế nào, này Hoàng
Tử, với người gia chủ hay con của người gia chủ ấy, khởi lên những
nhiệt não về thân hay tâm do sân sanh… do si sanh. Bị nung đốt bởi những
nhiệt não do si sanh, người ấy có cảm thấy đau khổ không ?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Người gia chủ hay con của người
gia chủ ấy, này Hoàng Tử, bị nung đốt bởi những nhiệt não do si sanh,
cảm thấy đau khổ. Si ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ,
làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể
sanh khởi trong tương lai. Do vậy ta cảm thấy an lạc.
Luôn luôn được an lạc,
Vi phạm chí tịch tịnh
Không bị dục uế nhiễm
Trong mát, không sanh y,
Mọi tham trước dứt đoạn,
Nhiếp phục tâm sầu khổ,
An tịnh, cảm thọ lạc
Với tâm đạt an tịnh.
DIÊM VƯƠNG
1-6
- Có ba Thiên sứ này, này các Tỷ-kheo,
Thế nào là ba ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Sau khi thân làm ác, miệng nói ác,
ý nghĩ ác, khi thâm hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục, với hai cánh tay bắt người ấy dẫn đến Vua Yama
(Diêm vương) và thưa :
- "Thưa Đại cương, người này
không kính mẹ, không kính cha, không kính Savittha-môn, không kính Bà-la-môn,
không tôn kính các bậc lớn tuổi trong gia đình, Đại vương hãy hình phạt
nó"
Rồi vua Yama chất vấn người ấy
:, cật vấn, nạn vấn người ấy về Thiên sứ thứ nhất :
- "Này người kia, người có thấy
vị Thiên sứ thứ nhất hiện ra giữa loài người không ?"
Người ấy trả lời :
- "Con không thấy, thưa ngài"
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy :
- "Này người kia, ngươi có bao
giờ thấy giữa loài người, một người đàn bà hay đàn ông 80 tuổi, hay
90 tuổi, hay 100 tuổi, già yếu, cong như nóc nhà, lưng còm, chống gậy, vừa
đi vừa run rẩy, bệnh hoạn, tuổi trẻ đã tận, răng rụng tóc bạc, hư
rụng, sói đầu, da nhăn, đầu rung, tay chân da mồi khô đét ?"
Người ấy nói như sau :
- "Thưa Ngài, con có thấy".
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy như sau :
- "Này người kia, với ngươi là
người có trí, và lớn tuổi, Ngươi có nghĩ rằng : "Ta rồi cũng bị
già, ta không vượt qua tuổi già. Vậy ta hãy làm điều lành, về thân, về
lời nói, về ý ?"
Người ấy nói như sau :
- "Không, thưa Ngài, con không
có làm. Thưa Ngài, con phóng dật"
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy :
- "Này người kia, chính vì do
phóng dật, ngươi đã không làm các điều lành về thân, về lời nói, về
ý. Thật vậy, này người kia, chúng ta sẽ làm cho ngươi, đúng theo sự
phóng dật của ngươi. Ác nghiệp ấy của ngươi, không phải mẹ làm,
không phải cha làm, không phải anh làm, không phải chị làm, không phải bạn
bè thân hữu làm, không phải bà con huyết thống làm, không phải chư Thiên
làm, không phải Sa-môn làm, Bà la - môn làm. Ác nghiệp ấy chính do ngươi
làm và Ngươi se thọ lãnh quả dị thục của ác nghiệp ấy.
Rồi vua Yama, này các Tỷ-kheo, sau
khi chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ nhất,
liền chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ
hai :
- "Này người kia, người có thấy
vị Thiên sứ thứ hai hiện ra giữa loài người không ?"
Người ấy trả lời :
- "Con không thấy, thưa ngài"
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy :
- "Này người kia, ngươi có bao
giờ thấy giữa loài người, một người đàn bà hay đàn ông, bệnh hoạn
khổ não nguy kịch, rơi nằm trong tiểu tiện, đại tiện của mình, cần
người khác nâng dậy, cần người khác dìu nằm xuống ?"
Người ấy nói như sau :
- "Thưa Ngài, con có thấy".
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy như sau :
- "Này người kia, với ngươi là
người có trí, và lớn tuổi, Ngươi có nghĩ rằng : "Ta rồi cũng bị
bệnh, ta không vượt qua bệnh hoạn. Vậy ta hãy làm điều lành, về thân,
về lời nói, về ý ?"
Người ấy nói như sau :
- "Không, thưa Ngài, con không
có làm. Thưa Ngài, con phóng dật"
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy :
- "Này người kia, chính vì do
phóng dật, ngươi đã không làm các điều lành về thân, về lời nói, về
ý. Thật vậy, này người kia … ngươi sẽ thọ lãnh quả dị thục của
các nghiệp ấy."
3. Rồi vua Yama, này các Tỷ-kheo,
sau khi chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ
hai, liền chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ
ba :
- "Này người kia, người có thấy
vị Thiên sứ thứ ba hiện ra giữa loài người không ?"
Người ấy trả lời :
- "Con không thấy, thưa ngài"
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy :
- "Này người kia, ngươi có bao
giờ thấy giữa loài người, một người đàn bà hay đàn ông, chết đã
được một ngày, hay chết được hai ngày, hay chết được ba ngày, sưng
phù lên, xanh xám lại và nát rữa ra ?"
Người ấy nói như sau :
- "Thưa Ngài, con có thấy".
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy như sau :
- "Này người kia, với ngươi là
người có trí, và lớn tuổi, Ngươi có nghĩ rằng : "Ta rồi cũng bị
chết, ta không vượt qua sự chết. Vậy ta hãy làm điều lành, về thân, về
lời nói, về ý ?"
Người ấy nói như sau :
- "Không, thưa Ngài, con không
có làm. Thưa Ngài, con phóng dật"
Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với
người ấy :
- "Này người kia, chính vì do
phóng dật, ngươi đã không làm các điều lành về thân, về lời nói, về
ý. Thật vậy, này người kia …ngươi sẽ thọ lãnh quả dị thục của
các nghiệp ấy."
4. Rồi vua Yama, này các Tỷ-kheo,
sau khi chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị Thiên sứ thứ
ba, rồi giữ im lặng.
Rồi này các Tỷ-kheo, những người
lính địa ngục bắt người ấy chịu hình phạt gọi là năm cọc. Họ lấy
cọc sắt nung đỏ đóng vào một bàn tay, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng
vào bàn tay thứ hai, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào một bàn chân, họ
lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn chân thứ hai, Họ lấy cọc sắt nung
đỏ đóng giữa ngực. Người ấy ở đây thọ lãnh các cảm giác đau đớn,
cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh
chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ. Này
các Tỷ-kheo, rồi các người lính địa ngục bắt người ấy nằm xuống
và lấy cái rìu chặt người ấy. Người ấy ở đây thọ lãnh … chưa
được tiêu trừ. Này các Tỷ-kheo, rồi các người lính địa ngục dựng
ngược người ấy, chân trên đầu dưới và lấy dao sắc chặt người ấy.
Người ấy ở đây thọ lãnh … chưa được tiêu trừ. Này các Tỷ-kheo,
các người lính địa ngục, cột người ấy vào một chiếc xe, kéo người
ấy chạy tới, kéo người ấy chạy lui, trên đất được đốt cháy đỏ,
cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Người ấy ở đây thọ lãnh … chưa được
tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, các người lính địa ngục đẩy người
ấy lên, kéo người ấy xuống trên một sườn núi đầy than hồng, cháy
đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực, Người ấy ở đây thọ lãnh … chưa
được tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, các người lính địa ngục nắm
ngược người ấy, chân phía trên, đầu phía dưới và quăng người ấy vào
một vạc dầu bằng đồng nung đỏ, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ
rực, Người ấy ở đây, bị nấu với bọt nước sôi sùng sục, khi thì
trôi nổi lên, khi thì chìm xuống đáy, khi thì trôi dạt ngang. Người ấy
ở đây thọ lãnh các cảm giác đau đớn, cực khổ, thống khổ, khốc liệt.
Nhưng người ấy không thể mệnh chung cho đến không ác nghiệp của người
ấy được tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, những người lính đĩa ngục
quăng người ấy vào Đại địa ngục. Này các Tỷ-kheo, Đại địa ngục
ấy :
- Có bốn góc, bốn cửa
- Chia thành phần bằng nhau,
- Xung quanh có tường sắt,
- Mái sắt lợp lên trên
- Nền địa ngục bằng sắt
- Nung đỏ cháy đỏ rực
- Đứng thẳng luôn có mặt
- Rộng một trăm do tuần
Một thời xưa lắm, này các Tỷ-kheo,
vua Yama suy nghĩ như sau : "Những ai làm ác nghiệp ở đời, phải thọ
lãnh những hình phạt sai khác như vậy. Mong rằng ta được làm người, và
Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời, ta có thể hầu
hạ Thế Tôn, Thế Tôn thuyết pháp cho ta, và ta có thể thông hiểu pháp do
Thế Tôn thuyết giảng".
Này các Tỷ-kheo, điều ta đang nói,
không phải ta nghe từ một Sa-môn hay một Bà-la-môn nào khác ; những điều
ta đang nói chỉ được ta biết mà thôi, chỉ được ta thấy mà thôi, chỉ
được ta hiểu mà thôi.
- Dầu Thiên sứ báo động,
- Thanh niên vẫn phóng dật
- Họ ưu buồn lâu dài,
- Sanh làm người hạ liệt.
- Ở đây, bậc Chân nhân,
- Được Thiên sứ báo động,
- Không bao giờ phóng dật
- Trong diệu pháp bậc thánh
- Thấy sợ trong chấp thủ
- Trong hiện hữu sanh tử
- Được giải thoát không thủ
- Sanh tử được đoan trừ
- Được yên ổn không lạc
- Ngay hiện tại tịch tịnh
- Mọi oán hận sợ hãi
- Các vị ấy vượt qua
- Mọi đau đớn khổ sầu
- Thảy đều được siêu thoát.