- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 4f
- (V) (185) CÁC SỰ THẬT
BÀ-LA-MÔN
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Ràjagaha (Vương Xá), núi Gijjhakùta (Linh Thứu). Lúc bấy giờ, nhiều vị du
sĩ có danh tiếng, có danh tiếng sống ở khu vườn của các du sĩ trên bờ
sông Sappini như Annabhàra, Varadhara, Sakuludàyi, và những vị du sĩ có danh tiếng,
có danh tiếng khác.
Rồi Thế Tôn vào buổi chiều từ
Thiền Tịnh đứng dậy, đi đến khu vườn của các du sĩ trên bờ sông
Sappini. Lúc bấy giờ, giữa các du sĩ ngoại đạo ấy đang ngồi tập họp,
câu chuyện này được khởi lên : "Đây là những sự thật Bà-la-môn,
đây là những sự thật Bà-la-môn".
2. Rồi Thế Tôn đi đến các du sĩ
ấy, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Ngồi xong, Thế
Tôn nói với các du sĩ ấy :
- Nay câu chuyện gì được khởi lên,
này các du sĩ, khi các Ông đang ngồi họp ở đây? Câu chuyện gì chưa được
nói xong giữa các Ông ?
- Ở đây, thưa Tôn giả Gotama,
chúng tôi đang ngồi họp, câu chuyện sau này khởi lên giữa chúng tôi :
"Đây là những sự thật Bà-la-môn, đây là những sự thật
Bà-la-môn".
3.- Bốn sự thật này, này các du sĩ,
sau khi tự mình chứng ngộ với thắng trí, đã được ta tuyên bố lên. Thế
nào là bốn ?
- Ở đây, này các du sĩ, Bà-la-môn
nói như sau : "Tất cả loài hữu tình không được làm hại". Người
Bà-la-môn nói như vậy là nói sự thật, không nói láo. Do vậy, vị ấy
không nghĩ đến "Sa-môn", không nghĩ đến "Bà-la-môn",
không nghĩ đến: "Ta hơn (các người khác)", không nghĩ đến
:"Ta bằng (các người khác)", không nghĩ đến : "Ta là hạ liệt".
Lại nữa do thắng tri sự thật hàm chứa ở đấy, người ấy thực hành
lòng thương tưởng, lòng từ mẫn đối với các loài hữu tình.
4. Lại nữa, này các du sĩ, Bà-la-môn
nói như sau : "Mọi dục là vô thường, khổ, chịu sự biến hoại".
Người Bà-la-môn nói như vậy là nói sự thật, không nói láo. Do vậy, vị
ấy không nghĩ đến "Sa-môn", không nghĩ đến "Bà-la-môn",
không nghĩ đến: "Ta hơn (các người khác)", không nghĩ đến
:"Ta bằng (các người khác)", không nghĩ đến : "Ta là hạ liệt".
Lại nữa do thắng tri sự thật hàm chứa ở đấy, người ấy thực hành
nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với các dục.
5. Lại nữa, này các du sĩ, Bà-la-môn
nói như sau : "Tất cả hữu là vô thường, khổ, chịu sự biến hoại".
Người Bà-la-môn nói như vậy là nói sự thật, không nói láo. Do vậy, vị
ấy không nghĩ đến "Sa-môn", không nghĩ đến "Bà-la-môn",
không nghĩ đến: "Ta hơn (các người khác)", không nghĩ đến
:"Ta bằng (các người khác)", không nghĩ đến : "Ta là hạ liệt".
Lại nữa do thắng tri sự thật hàm chứa ở đấy, người ấy thực hiện
nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với các hữu.
6. Lại nữa, này các du sĩ, người
Bà-la-môn nói như sau : "Ta không là bất cứ ai, bất cứ thuộc ai, bất
cứ là gì. Trong ấy, không có cái gì được gọi là của ta, bất cứ ở
đâu, bất cứ là gì". Người Bà-la-môn nói như vậy là nói sự thật,
không nói láo. Do vậy, vị ấy không nghĩ đến "Sa-môn", không nghĩ
đến "Bà-la-môn", không nghĩ đến: "Ta hơn (các người khác)",
không nghĩ đến :"Ta bằng (các người khác)", không nghĩ đến :
"Ta là hạ liệt". Lại nữa do thắng tri sự thật hàm chứa ở đấy,
người ấy thực hành con đường không có sự vật gì.
Này các du sĩ, có bốn sự thật
Bà-la-môn này, Ta đã tự mình chứng ngộ với thắng trí và tuyên bố
lên.
(VI) (186) CON ĐƯỜNG SAI LẠC
1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, thế giới do cái
gì hướng dẫn, thế giới do cái gì được diễn tiến, đi đến sự thuần
phục của cái gì được khởi lên ?
- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo !
Hiền thiện là con đường Thầy đặt vấn đề, hiền thiện là sự biện
tài, hiền thiện là câu hỏi ! Này Tỷ-kheo, có phải Thầy hỏi như sau :
"Bạch Thế Tôn, thế giới do cái gì hướng dẫn, thế giới do cái gì
được diễn tiến, đi đến sự thuần phục của cái gì được khởi lên
?"
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Này Tỷ-kheo, thế giới do tâm hướng
dẫn. Thế giới do tâm được diễn tiến, đi đến sự thuần phục của tâm
được khởi lên.
2. - Lành thay, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy sau khi hoan hỷ, tín thọ
lời Thế Tôn dạy, lại hỏi Thế Tôn một câu khác :
- Bậc nghe nhiều, trì pháp. Bậc
nghe nhiều, trì pháp, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến
như thế nào, bạch Thế Tôn, là một bậc nghe nhiều, trì pháp ?
- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo !
Hiền thiện là con đường Thầy đặt vấn đề, hiền thiện là sự biện
tài, hiền thiện là câu hỏi ! Này Tỷ-kheo, có phải Thầy hỏi như sau:
"Bậc nghe nhiều, trì pháp. Bậc nghe nhiều, trì pháp, bạch Thế Tôn,
được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là một
bậc nghe nhiều, trì pháp ?"
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Nhiều, này Tỷ-kheo, là pháp ta
thuyết giảng : Kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như
thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu, Phương quảng. Này Tỷ-kheo, nếu ai
hiểu nghĩa một bài kệ có bốn câu, hiểu pháp và thực hành pháp tùy
pháp, người ấy được gọi là vị nghe nhiều, trì pháp.
3. - Lành thay, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo sau khi hoan hỷ … lại hỏi
thêm câu nữa :
- Bậc có nghe với trí tuệ thể nhập
(quyết trạch), bậc có nghe với trí tuệ thể nhập, bạch Thế Tôn, được
nói đến như vậy. Cho đến khi nào, bạch Thế Tôn, được gọi là bậc
có nghe với trí tuệ thể nhập ?
- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo,
hiền thiện … hiền thiện là câu hỏi ! Này Tỷ-kheo, có phải Thầy hỏi
như sau: "Bậc có nghe với trí tuệ thể nhập (quyết trạch), bậc có
nghe với trí tuệ thể nhập, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy.
Cho đến khi nào, bạch Thế Tôn, được gọi là bậc có nghe với trí tuệ
thể nhập ?"
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
được nghe : "Đây là khổ", thể nhập và thấy ý nghĩa với trí
tuệ. Được nghe : "Đây là khổ tập", thể nhập và thấy ý nghĩa
với trí tuệ. Được nghe : "Đây là khổ diệt", thể nhập và thấy
ý nghĩa với trí tuệ. Được nghe : "Đây là con đường đi đến khổ
diệt", thể nhập và thấy ý nghĩa với trí tuệ. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là vị có nghe với trí tuệ thể nhập.
4.- Lành thay, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy sau khi hoan hỷ, tín thọ
lời Thế Tôn dạy, lại hỏi Thế Tôn một câu khác :
- Bậc Hiền trí, Đại tuệ. Bậc
Hiền trí, Đại tuệ, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến
như thế nào bạch Thế Tôn, được gọi là Bậc Hiền trí, Đại tuệ ?
- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo !
Hiền thiện là con đường Thầy đặt vấn đề, hiền thiện là sự biện
tài, hiền thiện là câu hỏi ! Này Tỷ-kheo, có phải Thầy hỏi như sau:
"Bậc Hiền trí, Đại tuệ. Bậc Hiền trí, Đại tuệ, bạch Thế Tôn,
được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào bạch Thế Tôn, được gọi
là Bậc Hiền trí, Đại tuệ ?"
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Ở đây, này Tỷ-kheo, Bậc Hiền
trí, Đại tuệ, không có nghĩ tự làm hại mình, không có nghĩ tự làm hại
người, không có nghĩ tự mình làm hại cả hai, có suy nghĩ điều gì thời
suy nghĩ lợi mình, lợi người, lợi cả hai, lợi toàn thể thế giới. Như
vậy, này Tỷ-kheo, là Bậc Hiền trí, Đại tuệ.
(VII) (187) VASSAKÀRA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Ràjagaha (Vương Xá), tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Rồi
Bà-la-môn Vassakàra, vị đại thần nước Magadha đi đến Thế Tôn, sau khi
đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón thăm hỏi. Sau khi nói
lên với Thế Tôn những lời chào đón thăm hỏi thân hữu, Bà-la-môn
Vassakàra, vị đại thần nước Magadha bạch Thế Tôn :
- Thưa Tôn giả Gotama, bậc không phải
chân nhân có thể biết một người không phải chân nhân : "VỊ này
không phải là bậc chân nhân" ?
- Không có trường hợp này, này
Bà-la-môn, không có cơ hội để một người không phải chân nhân có thể
biết một người không phải chân nhân : "VỊ này không phải là bậc
chân nhân".
2.- Thưa Tôn giả Gotama, bậc không
phải chân nhân có thể biết bậc chân nhân là: "Vị này là bậc chân
nhân" ?
- Không có trường hợp này, này
Bà-la-môn, không có cơ hội để một người không phải chân nhân có thể
biết một người chân nhân : "Vị này là bậc chân nhân".
3.- Thưa Tôn giả Gotama, bậc chân
nhân có thể biết một bậc chân nhân : "Vị này là bậc chân
nhân" ?
- Có trường hợp, này Bà-la-môn,
có cơ hội để một người chân nhân có thể biết một người phải chân
nhân : "Vị này là bậc chân nhân".
4. - Nhưng thưa Tôn giả Gotama, có
trường hợp một người chân nhân biết một người không phải là chân
nhân : "Vị này không phải là bậc chân nhân" ?
- Có trường hợp, này Bà-la-môn,
có cơ hội để một người chân nhân có thể biết một người không phải
là chân nhân : "Vị này không phải là bậc chân nhân".
5. - Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
Gotama, thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật khéo là lời nói này của
Tôn giả Gotama : "Không có trường hợp này, này Bà-la-môn, không có cơ
hội để một người không phải chân nhân có thể biết một người không
phải chân nhân : "Vị này không phải là bậc chân nhân". Không có
trường hợp này, này Bà-la-môn, không có cơ hội để một người không
phải chân nhân có thể biết một người chân nhân : "Vị này là bậc
chân nhân". Không có trường hợp này, này Bà-la-môn, không có cơ hội
để một người không phải chân nhân có thể biết một người chân nhân
: "Vị này là bậc chân nhân". Có trường hợp, này Bà-la-môn, có
cơ hội để một người chân nhân có thể biết một người phải chân
nhân : "Vị này là bậc chân nhân". Có trường hợp, này
Bà-la-môn, có cơ hội để một người chân nhân có thể biết một người
không phải là chân nhân: "Vị này không phải là bậc chân nhân".
6. Một thời, thưa Tôn giả Gotama,
hội chúng của Bà-la-môn Todeyya đang nói lên những lời nhiếc mắng người
khác như sau : "Ngu si là vua Eleyya, đã quá hoan hỷ với Sa-môn
Ràmaputta, đã làm những cử chỉ hết sức hạ liệt như sau đối với
Sa-môn Ràmaputta, tức là đảnh lễ, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay,
đối xử thân thiện. Lại nữa, những tập đoàn này của vua Eleyya là ngu
si, như Yamaka, Moggalla, Ugga, Nàvindaki, Gandhabba, Aggivessa. Những người này
đã quá hoan hỷ với Sa-môn Ràmaputta, đã làm những cử chỉ hết sức hạ
liệt như sau đối với Sa-môn Ràmaputta, tức là đảnh lễ, từ chỗ ngồi
đứng dậy, chắp tay, đối xử thân thiện".
- Này Bà-la-môn, Ông có thấy như
thế nào Bà-la-môn Todeyya dẫn dắt chúng bằng cách dắt dẫn này :
"Các vị nghĩ thế nào, hiền trí là vua Eleyya ? Giữa những người có
minh kiến giải quyết những vấn đề tranh chấp, giữa những người có
minh kiến giải quyết những vấn đề cần được giải thích, có phải
vua Eleyya được xem là vị có minh kiến thù thắng ?"
- Thưa vâng, Tôn giả ! Hiền trí
là vua Eleyya. Giữa những người có minh kiến giải quyết những vấn đề
tranh chấp, giữa những người có minh kiến giải quyết những vấn đề cần
được giải thích, vua Eleyya được xem là vị có minh kiến thù thắng. Vì
rằng Sa-môn Ràmaputta còn hiền trí hơn sự hiền trí, còn có minh kiến
thù thắng hơn sự minh kiến thù thắng của vua Eleyya, giữa những người
có minh kiến giải quyết những vấn đề tranh chấp, giữa những người có
minh kiến giải quyết những vấn đề cần được giải thích; do vậy vua
Eleyya đã quá hoan hỷ với Sa-môn Ràmaputta, đã làm những cử chỉ hết sức
hạ liệt như sau đối với Sa-môn Ràmaputta, tức là đảnh lễ, từ chỗ
ngồi đứng dậy, chắp tay, đối xử thân thiện.
- Các Tôn giả nghĩ thế nào
"Hiền trí hiền trí là tập đoàn của vua Eleyya, như Yamaka, Moggalla,
Ugga, Nàvindaki, Gandhabba, Aggivessa không ? Giữa những người có minh kiến giải
quyết những vấn đề tranh chấp, giữa những người có minh kiến giải
quyết những vấn đề cần được giải thích, có phải tập đoàn của
vua Eleyya được xem là những bậc có minh kiến thù thắng ?
- Thưa vâng, Tôn giả ! Hiền trí
là tập đoàn của vua Eleyya, như Yamaka, Moggalla, Ugga, Nàvindaki, Gandhabba,
Aggivessa. Giữa những người có minh kiến giải quyết những vấn đề
tranh chấp, giữa những người có minh kiến giải quyết những vấn đề cần
được giải thích, tập đoàn của vua Eleyya được xem là những bậc có
minh kiến thù thắng. Vì rằng Sa-môn Ràmaputta còn hiền trí hơn sự hiền
trí, còn có minh kiến thù thắng hơn sự minh kiến thù thắng của tập đoàn
vua Eleyya, giữa những người có minh kiến giải quyết những vấn đề
tranh chấp, giữa những người có minh kiến giải quyết những vấn đề cần
được giải thích; do vậy tập đoàn của vua Eleyya đã quá hoan hỷ với
Sa-môn Ràmaputta, đã làm những cử chỉ hết sức hạ liệt như sau đối với
Sa-môn Ràmaputta, tức là đảnh lễ, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay,
đối xử thân thiện.
7. - Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
Gotama, thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật khéo là lời nói này của
Tôn giả Gotama : "Không có trường hợp này, này Bà-la-môn, không có cơ
hội để một người không phải chân nhân có thể biết một người không
phải chân nhân : "Vị này không phải là bậc chân nhân". Không có
trường hợp này, này Bà-la-môn, không có cơ hội để một người không
phải chân nhân có thể biết một người chân nhân : "Vị này là bậc
chân nhân". Không có trường hợp này, này Bà-la-môn, không có cơ hội
để một người không phải chân nhân có thể biết một người chân nhân
: "Vị này là bậc chân nhân". Có trường hợp, này Bà-la-môn, có
cơ hội để một người chân nhân có thể biết một người phải chân
nhân : "Vị này là bậc chân nhân". Có trường hợp, này
Bà-la-môn, có cơ hội để một người chân nhân có thể biết một người
không phải là chân nhân: "Vị này không phải là bậc chân nhân".
Thưa Tôn giả Gotama, nay chúng tôi
phải đi, chúng tôi có nhiều công việc, có nhiều phận sự phải làm.
- Này Bà-la-môn, Ông hãy làm những
gì mà Ông nghĩ là hợp thời.
Rồi Bà-la-môn Vassakàra, vị đại
thần xứ Magadha, hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn nói, từ chỗ ngồi đứng
dậy rồi ra đi.
(VIII) (188) UPAKA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Ràjagaha, tại Gijjhakùta. Rồi Upaka Mandikàputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Upaka
Mandikàputta bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, con nói như sau,
con thấy như sau : "Ai bắt đầu mắng nhiếc người khác và tiếp tục
như vậy, người ấy về mọi phương diện không thể bênh vực lập trường
của mình, do không thể bênh vực lập trường của mình, người ấy đáng
bị quở trách, đáng bị phạm tội".
- Này Upaka, ai bắt đầu mắng nhiếc
người khác và tiếp tục như vậy, người ấy về mọi phương diện không
thể bênh vực lập trường của mình, do không thể bênh vực lập trường
của mình, người ấy đáng bị quở trách, đáng bị phạm tội ! Này
Upaka, Ông bắt đầu mắng nhiếc người khác và tiếp tục như vậy, Ông về
mọi phương diện không thể bênh vực lập trường của mình, do không thể
bênh vực lập trường của mình, Ông đáng bị quở trách, đáng bị phạm
tội !
2. - Ví như, bạch Thế Tôn, một người
bắt con vật của mình săn với một bẫy sập lớn, khi con vật thò đầu
ra. Cũng vậy, con bị Thế Tôn bắt với cái bẫy sập lớn bằng chữ khi
con vừa mới mở miệng (khi con vừa mới thò đầu ra).
- Này Upaka, "Đây là bất thiện".
Ta nêu rõ như vậy với vô lượng câu, với vô lượng chữ, với vô lượng
thuyết pháp của Như Lai. "Đây là bất thiện !", này Upaka, bất
thiện này cần phải đoạn tận. Ta nêu rõ như vậy với vô lượng câu, với
vô lượng chữ, với vô lượng thuyết pháp của Như Lai. "Đây pháp bất
thiện này cần phải đoạn tận". "Đây là thiện", này Upaka.
Ta nêu rõ như vậy với vô lượng câu, với vô lượng chữ, với vô lượng
thuyết pháp của Thế Tôn : "Đây là pháp thiện". Thiện pháp này
cần phải tu tập. Này Upaka, Ta nêu rõ như vậy với vô lượng câu, với
vô lượng chữ, với vô lượng thuyết pháp của Thế Tôn : "Đây,
pháp thiện này cần phải tu tập".
3. Rồi Upaka Mandikàputta hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn,
thân hữu hướng về phía Ngài, rồi đi đến Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước
Magadha. Sau khi đến, Upaka tường thuật lại cho Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước
Magadha nghe tất cả cuộc đàm luận với Thế Tôn.
Do đó nghe nói như vậy, Ajàtasattu
Vedehiputta, vua nước Magadha phẫn nộ, không hoan hỷ nói với Upaka
Mandikàputta :
- Thật là độc hại, đứa trẻ làm
muối này ! Thật là lắm mồm, thật là kẻ liều mạng. Nghĩ rằng nó có
thể nhiếc mắng Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Hãy đi đi, này
Upaka ! Chớ để Ta thấy Ông nữa !
(IX) (189) CHỨNG NGỘ
1.- Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp
này cần phải chứng ngộ. Thế nào là bốn ?
Này các Tỷ-kheo, có pháp cần phải
chứng ngộ bằng thân; có pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải chứng ngộ bằng
niệm; có pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải chứng ngộ bằng mắt; có
pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải chứng ngộ bằng trí tuệ.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
các pháp cần phải chứng ngộ bằng thân ? Tám giải thoát, này các Tỷ-kheo,
cần phải chứng ngộ bằng thân.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
các pháp cần phải chứng ngộ bằng niệm ? Đời sống trước, này các Tỷ-kheo,
cần phải chứng ngộ bằng niệm.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
các pháp cần phải chứng ngộ bằng con mắt? Sanh tử của chúng sanh, này
các Tỷ-kheo, cần phải chứng ngộ bằng con mắt.
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
các pháp cần phải chứng ngộ bằng trí tuệ ? Sự đoạn diệt các lậu
hoặc, này các Tỷ-kheo, cần phải chứng ngộ bằng trí tuệ.
Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp này
cần phải chứng ngộ.
(X) (190) NGÀY TRAI GIỚI
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại Pubbàràma trong lâu đài của mẹ Migàrà. Lúc bấy giờ, Thế
Tôn nhân ngày lễ trai giới, đang ngồi có chúng Tỷ-kheo vây quanh. Sau khi
nhìn quanh chúng Tỷ-kheo đang im lặng, im lặng, rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo
:
- Không nói lời phù phiếm, này
các Tỷ-kheo, là hội chúng này; không nói lời vô ích, này các Tỷ-kheo,
là hội chúng này, thanh tịnh, an lập trên căn bản. Chúng Tỷ-kheo này như
vậy, này các Tỷ-kheo, hội chúng này như vậy, này các Tỷ-kheo; hội
chúng như vậy khó tìm được ở đời ! Chúng Tỷ-kheo này như vậy, này
các Tỷ-kheo, hội chúng như vậy, đáng được tôn trọng, đáng được
cung kính, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước
vô thượng ở đời. Chúng Tỷ-kheo này như vậy, này các Tỷ-kheo, hội
chúng này như vậy, này các Tỷ-kheo, hội chúng này như vậy dầu cho ít,
được lợi nhiều, còn cho nhiều, lại được lợi nhiều hơn nữa. Chúng
Tỷ-kheo này như vậy, này các Tỷ-kheo, hội chúng này như vậy, này các Tỷ-kheo
! Hội chúng này như vậy, nếu phải đi do một tuần để được yết kiến
cũng nên đi, dầu có phải mang theo trên vai túi đựng đồ ăn. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là chúng Tỷ-kheo này.
2. Có những Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo,
trong chúng Tỷ-kheo này, sống đạt được địa vị chư Thiên. Có những Tỷ-kheo,
này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, sống đạt được địa vị Phạm
Thiên. Có những Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, sống đạt
được địa vị Bất động. Có những Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, trong
chúng Tỷ-kheo này, sống đạt được Thánh vị.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo sống đạt được địa vị chư Thiên ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ly dục … chứng và trú Sơ Thiền … Thiền thứ hai … Thiền thứ ba …
chứng và trú Thiền thứ tư và an trú. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
đạt được địa vị chư Thiên.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo sống đạt được địa vị Phạm Thiên ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
với tâm cùng khởi với từ - biến mãn một phương và an trú … với tâm
cùng khởi với bi … với tâm cùng khởi với hỷ … với tâm cùng khởi với
xả, biến mãn một phương và an trú. Cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy
phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới,
trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên thế giới,
vị ấy biến mãn với tâm cùng khởi với xả, quảng đại, đại hành,
vô biên, không hận, không sân. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo sống
đạt được địa vị Phạm Thiên.
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo sống đạt được địa vị Bất động ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
sau khi vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn, sau khi chấm dứt các
tưởng chướng ngại, sau khi không tác ý các tưởng sai biệt, nghĩ rằng :
"Hư không là vô biên" chứng đạt và an trú "Không vô biên xứ".
Sau khi vượt qua Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, nghĩ rằng : "Thức
là vô biên", chứng đạt và an trú "Thức vô biên xứ". Sau khi
vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, nghĩ rằng : "Không có
vật gì" chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ. Sau khi vượt qua Vô sở
hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng
xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo khéo chứng đạt Bất động.
6. - Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là Tỷ-kheo chứng đạt địa vị bậc Thánh ?
ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
như thật quán tri : "Đây là khổ" … như thật quán tri : "Đây
là con đường đưa đến khổ diệt. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
đạt được địa vị bậc Thánh.
XX. ĐẠI PHẨM
(I) (191) NGHE VỚI TAI
1.- Này các Tỷ-kheo, các pháp do
được nghe bằng tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo
thể nhập, có bốn lợi ích được chờ đợi. Thế nào là bốn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
học thuộc lòng pháp, như kinh : Ứng tụng … Phương quảng. Các pháp ấy,
vị ấy được nghe bằng tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến
khéo thể nhập. Vị ấy khi mạng chung bị thất niệm, được sanh cộng trú
với một loại Thiên nhân. Tại đấy, các vị sống an lạc đọc các pháp
cú cho vị ấy. Này các Tỷ-kheo, chậm chạp niệm được khởi lên. Rồi
mau chóng, chúng sanh ấy đi đến thù thắng.
Này các Tỷ-kheo, do được nghe các
pháp bằng tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập;
đây là lợi ích thứ nhất được chờ đợi.
2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
học thuộc lòng pháp, như kinh : Ứng tụng … Phương quảng. Các pháp ấy,
vị ấy được nghe bằng tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến
khéo thể nhập. Vị ấy khi mạng chung bị thất niệm, được sanh cộng trú
với một loại Thiên nhân. Tại đấy, các vị sống an lạc không đọc các
pháp cú cho vị ấy. Nhưng có Tỷ-kheo có thần thông, đã đạt được tâm
tự tại, thuyết pháp cho hội chúng chư Thiên. Vị ấy sung sướng nghĩ
như sau : "Đây chính là Pháp và Luật mà trước đây ta đã sống Phạm
hạnh". Này các Tỷ-kheo, chậm chạp niệm được khởi lên. Rồi mau
chóng, chúng sanh ấy đi đến thù thắng.
Ví như, này các Tỷ-kheo, một người
thiện xảo về tiếng trống. Người ấy trong khi đi giữa đường có thể
nghe được tiếng trống. Người ấy không có nghi ngờ, không có do dự, đó
là tiếng trống hay không phải là tiếng trống. Người ấy đi đến kết
luận : "Đây là tiếng trống". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
học thuộc lòng pháp, như kinh : Ứng tụng … Phương quảng. Các pháp ấy,
vị ấy được nghe bằng tai … chúng sanh ấy đi đến thù thắng.
Này các Tỷ-kheo, do được nghe các
pháp bằng tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập,
đây là lợi ích thứ hai được chờ đợi.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
học thuộc lòng pháp, như kinh : Ứng tụng … Phương quảng. Các pháp ấy,
vị ấy được nghe bằng tai, được tụng đọc bằng lời, do ý quan sát,
do kiến khéo thể nhập … nhưng không có Tỷ-kheo thần thông, đạt được
tâm tự tại thuyết pháp cho hội chúng chư Thiên; và một Thiên tử thuyết
pháp cho hội chúng chư thiên. Vị ấy suy nghĩ như sau : "Đây chính là
Pháp và Luật mà trước đây ta đã sống Phạm hạnh". Chậm chạp,
này các Tỷ-kheo niệm được khởi lên. Rồi mau chóng, chúng sanh ấy đi đến
thù thắng.
Ví như, này các Tỷ-kheo, một người
thiện xảo về tiếng tù và. Người ấy trong khi đi giữa đường có thể
nghe được tiếng tù và. Người ấy không có nghi ngờ, không có do dự, đó
là tiếng tù và hay không phải là tiếng tù và. Người ấy đi đến kết
luận : "Đây là tiếng tù và". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
học thuộc lòng pháp, như kinh : Ứng tụng … Phương quảng. Các pháp ấy,
vị ấy được nghe bằng tai, được tụng đọc bằng lời, do ý quan sát,
do kiến khéo thể nhập … nhưng không có Tỷ-kheo thần thông, đạt được
tâm tự tại thuyết pháp cho hội chúng chư Thiên; và một Thiên tử thuyết
pháp cho hội chúng chư thiên. Vị ấy suy nghĩ như sau : "Đây chính là
Pháp và Luật mà trước đây ta đã sống Phạm hạnh". Này các Tỷ-kheo,
chậm chạp niệm được khởi lên. Rồi mau chóng, chúng sanh ấy đi đến
thù thắng.
Này các Tỷ-kheo, do được nghe bằng
tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập; đây
là lợi ích thứ ba được chờ đợi.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
học thuộc lòng pháp, như kinh : Ứng tụng … Phương quảng. Các pháp ấy,
được nghe bằng tai, được tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến
khéo thể nhập … nhưng không có Tỷ-kheo thần thông, đạt được tâm tự
tại thuyết pháp cho hội chúng chư Thiên; và không có Thiên tử thuyết
pháp cho hội chúng chư thiên. Nhưng có thể có người được hóa sanh
:"Này bạn, bạn có nhớ không ? Này bạn, bạn có nhớ không, tại chỗ
ấy chúng ta đã sống Phạm hạnh ?". Vị ấy trả lời : "Này bạn,
tôi nhớ ! Này bạn, tôi nhớ". Chậm chạp, này các Tỷ-kheo, niệm được
khởi lên. Rồi mau chóng, chúng sanh ấy đi đến thù thắng.
Ví như, này các Tỷ-kheo, hai người
bạn cùng chơi trò chơi đất bùn, hai người vào một thời nào, một chỗ
nào được gặp nhau. Người bạn này có thể nói với người bạn kia :
"Này bạn, bạn có nhớ cái này không ? Này bạn, bạn có nhớ cái này
không ?". Người ấy có thể trả lời : "Này bạn, tôi có nhớ !
Này bạn, tôi có nhớ !". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo học thuộc
lòng pháp, như kinh : Ứng tụng … Phương quảng. Các pháp ấy, được nghe
bằng tai, được tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập
… nhưng không có Tỷ-kheo thần thông, đạt được tâm tự tại thuyết
pháp cho hội chúng chư Thiên; và không có Thiên tử thuyết pháp cho hội
chúng chư thiên. Nhưng có thể có người được hóa sanh :"Này bạn, bạn
có nhớ không ? Này bạn, bạn có nhớ không, tại chỗ ấy chúng ta đã sống
Phạm hạnh ?". Vị ấy trả lời : "Này bạn, tôi nhớ ! Này bạn,
tôi nhớ". Chậm chạp, này các Tỷ-kheo, niệm được khởi lên. Rồi
mau chóng, chúng sanh ấy đi đến thù thắng.
Này các Tỷ-kheo, do được nghe bằng
tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập; đây
là lợi ích thứ tư được chờ đợi.
Này các Tỷ-kheo, do được nghe bằng
tai, do tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập; có bốn
lợi ích này được chờ đợi.
(II) (192) TRƯỜNG HỢP
1.- Này các Tỷ-kheo, có bốn trường
hợp này, cần phải được hiểu với bốn trường hợp. Thế nào là bốn
?
Này các Tỷ-kheo, với cộng trú, giới
cần phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời gian dài, không
khác được có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ, không phải với
liệt tuệ.
Này các Tỷ-kheo, cùng với một nghề
thanh tịnh liêm khiết cần phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời
gian dài, không thể khác được, có tác ý, không có không tác ý, với trí
tuệ, không phải với liệt tuệ.
Này các Tỷ-kheo, trong những hoạn
nạn, sức kiên trì cần phải được hiểu biết, như vậy trong một thời
gian dài … với liệt tuệ.
Này các Tỷ-kheo, với đàm luận,
trí tuệ cần phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời gian dài
… với liệt tuệ.
2. Này các Tỷ-kheo, với cộng trú,
giới cần phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời gian dài,
không khác được có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ, không phải
với liệt tuệ, như vậy được nói đến … Do duyên gì được nói đến
như vậy ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
do cộng trú với một người khác biết được như sau : "Trong một thời
gian dài, vị Tôn giả này làm giới bị bể vụn, làm giới bị cắt xén,
làm giới bị vết nhơ, làm giới bị chấm, đen, làm việc không có liên tục,
hạnh kiểm không có liên tục trong các giới. A飠giới là Tôn giả, Tôn giả này không giữ giới".
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, người
này do cộng trú với người kia, biết như sau : "Trong một thời gian dài,
vị Tôn giả này không làm giới bị bể vụn, không làm giới bị cắt
xén, không làm giới bị vết nhơ, không làm giới bị chấm, đen, làm việc
có liên tục, hạnh kiểm có liên tục trong các giới. Giữ giới là Tôn giả
này, Tôn giả này không phải ác giới".
Này các Tỷ-kheo, với cộng trú giới
cần phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời gian dài, không có
tác ý vấn đề khác, không có không tác ý, với trí tuệ, không phải với
liệt tuệ. Như vậy được nói đến, do duyên này được nói đến như vậy.
3. Này các Tỷ-kheo, với cùng chung
làm một nghề thanh tịnh liêm khiết cần phải được hiểu biết. Như vậy
trong một thời gian … với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên
gì được nói đến như vậy ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một người
cùng làm một nghề với một người khác, biết được như sau : "Khác
thay, vị Tôn giả này khi làm việc với một người ; khác thay, với hai người;
khác thay, với ba người ; khác thay, với nhiều người, làm trái ngược là
vị Tôn giả này, các sở hành trước khác với sở hành sau. Không thanh tịnh
là sở hành của vị Tôn giả này. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, một người
do cùng làm một nghề với một người khác, biết được như sau :
"Như thế nào, Tôn giả này khi làm việc với một người, như thế
ấy với hai người, như thế ấy với ba người, như thế ấy với nhiều
người, không làm trái ngược là vị Tôn giả này, các sở hành trước giống
với sở hành sau. Thanh tịnh là sở hành của vị Tôn giả này."
Này các Tỷ-kheo, với cùng chung
làm một nghề, thanh tịnh liêm khiết cần phải được hiểu biết, như vậy
trong một thời gian dài … với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do
duyên này được nói đến như vậy.
4. Này các Tỷ-kheo, trong các hoạn
nạn, sức kiên trì cần phải được hiểu biết. Như vậy trong một thời
gian … với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên gì được nói
đến như vậy ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
cảm thọ bà con bị ách nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm thọ sức
khỏe bị ách nạn, suy nghĩ như sau : "Bản chất như vậy là sự an
trú thế giới này; Bản chất như vậy là bản tánh tự ngã có được này;
Bản chất như vậy là sự an trú thế giới. Bản chất như vậy là có
được bản tánh tự ngã. Tám thế giới pháp này vận chuyển thế giới,
và thế giới vận chuyển tám pháp, tức là, lợi và thất lợi, không danh
tiếng và danh tiếng, chê và khen, lạc và khổ". Người ấy, cảm thọ
bà con bị ách nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm thọ sức khỏe
bị ách nạn, sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh.
Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người cảm thọ bà con bị ách nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm
thọ sức khỏe bị ách nạn, suy nghĩ như sau : "Bản chất như vậy là
sự an trú thế giới … lạc và khổ". Người ấy cảm thọ bà con bị
ách nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm thọ sức khỏe bị ách nạn,
không sầu muộn, không than van, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi
vào bất tỉnh.
Này các Tỷ-kheo, trong các hoạn nạn,
sức mạnh kiên trì cần phải được hiểu biết. Như vậy trong một thời
gian dài … với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên này được
nói đến như vậy.
5. Này các Tỷ-kheo, trong đàm luận,
trí tuệ cần phải được hiểu biết. Như vậy trong một thời gian … với
liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên gì được nói đến như vậy
?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người,
do đàm luận với một người khác, biết như vầy : "Vị Tôn giả
này, đối một câu hỏi như vậy, phản ứng là như vậy, giải đáp câu hỏi
là như vậy, thời liệt tuệ là Tôn giả này, Tôn giả này không có trí
tuệ. Vì sao ? Vì Tôn giả này không nói lên câu nghĩa sâu sắc an tịnh,
thù thắng, vượt ngoài lý luận suông, tế nhị, được người hiền trí
cảm thọ. Còn về pháp, vị này thuyết giảng, vị ấy không có khả năng,
hoặc tóm tắt, hoặc rộng rãi, nói lên ý nghĩa, thuyết giảng, trình bày,
an lập, mở rộng, phân tích, phát lộ. Liệt tuệ là vị Tôn giả này, vị
Tôn giả này không có trí tuệ". Ví như, này các Tỷ-kheo, một người
có mắt, đứng trên bờ một hồ nước, thấy một con cá nhỏ nổi lên,
người ấy suy nghĩ như sau : "Như vậy, con cá này nổi lên; như vậy,
làm cho gợn sóng; như vậy là độ nhanh của nó. Nhỏ bé là con cá này,
con cá này không lớn". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có người đàm luận
với một người khác, biết như vầy : "Vị Tôn giả này, đối một câu
hỏi như vậy, phản ứng là như vậy, giải đáp câu hỏi là như vậy, thời
có trí tuệ là Tôn giả này, Tôn giả này không phải là liệt tuệ. Vì
sao ? Vì Tôn giả này nói lên câu nghĩa sâu sắc an tịnh, thù thắng, vượt
ngoài luận lý suông, tế nhị, được người hiền trí cảm thọ. Còn về
pháp, vị này thuyết giảng, vị ấy có khả năng, hoặc tóm tắt, hoặc rộng
rãi, nói lên ý nghĩa, thuyết giảng, trình bày, an lập, mở rộng, phân
tích, phát lộ. Có trí tuệ là vị Tôn giả này, vị Tôn giả này không phải
là liệt tuệ". Ví như, này các Tỷ-kheo, một người có mắt, đứng
trên bờ một hồ nước, thấy một con cá lớn nổi lên, người ấy suy
nghĩ như sau : "Như vậy, con cá này nổi lên; như vậy, con cá này làm
cho gợn sóng; như vậy là độ nhanh của nó. To lớn là con cá này, con cá
này không nhỏ". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có người đàm luận với
một người khác, biết như vầy : "Vị Tôn giả này, đối một câu hỏi
như vậy, phản ứng là như vậy, giải đáp câu hỏi là như vậy, thời có
trí tuệ là Tôn giả này, Tôn giả này không phải là liệt tuệ. Vì sao ?
Vì Tôn giả này nói lên câu nghĩa sâu sắc an tịnh, thù thắng, vượt ngoài
luận lý suông, tế nhị, được người hiền trí cảm thọ. Còn về pháp,
vị này thuyết giảng, vị ấy có khả năng, hoặc tóm tắt, hoặc rộng
rãi, nói lên ý nghĩa, thuyết giảng, trình bày, an lập, mở rộng, phân
tích, phát lộ. Có trí tuệ là vị Tôn giả này, vị Tôn giả này không phải
là liệt tuệ"
Này các Tỷ-kheo, trong đàm luận,
trí tuệ cần phải được hiểu biết. Như vậy trong một thời gian dài,
không thể khác được, có tác ý, không phải không tác ý với trí tuệ,
không phải với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên này được
nói đến như vậy.
Có bốn trường hợp này, này các
Tỷ-kheo, cần phải được hiểu với bốn trường hợp này.
(III) (193) BHADDIYA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Vesàli tại Mahàvana trong ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Licchavii Bhaddiya đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Licchavii Bhaddiya bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, con nghe như sau :
"Là một nhà huyễn thuật, Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi
cuốn những đệ tử ngoại đạo". Bạch Thế Tôn, những ai nói như
sau : "Sa-môn Gotama là một huyễn thuật sư, biết được huyễn thuật
lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo", những người ấy, bạch Thế Tôn,
có phải nói đúng ý kiến của Thế Tôn, không có xuyên tạc Thế Tôn với
điều không thật. Có phải họ trả lời về pháp hợp với chánh pháp ?
Và ai là vị đồng pháp, theo đồng môt quan điểm, không có lý do để chỉ
trích ? Bạch Thế Tôn, chúng con không muốn xuyên tạc Thế Tôn".
2.- Này Bhaddiya, chớ có tin vì nghe
truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe người
ta nói; chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân
lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin
vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định
kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền; chớ có tin vì vị
Sa-môn là bậc Đạo sư của mình. Nhưng này Bhaddiya, khi nào tự mình ông
biết rõ như sau : "Các pháp này là bất thiện; các pháp này là có tội;
các pháp này là bị người có trí chỉ trích; các pháp này nếu được thực
hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh và khổ đau", thời này
Bhaddiya, Ông hãy từ bỏ chúng !
3. Ông nghĩ như thế nào, này
Bhaddiya ! Lòng tham khi khởi lên trong một nội tâm người nào, khởi lên như
vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh ?
- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
- Người này có tham, này Bhaddiya, bị
tham chinh phục, tâm mất tự chủ, giết loài hữu tình, lấy của không
cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cùng làm như vậy,
như vậy có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không ?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
4. - Ông nghĩ như thế nào, này
Bhaddiya, lòng sân … lòng si … lòng hung bạo khi khởi lên trong một nội
tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hy bất hạnh ?
- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
- Người có lòng hung bạo, này
Bhaddiya, bị hung bạo chinh phục, tâm mất tự chủ, giết loài hữu tình, lấy
của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cùng
làm như vậy, như vậy có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài
hay không ?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
5. - Ông nghĩ như thế nào, này
Bhaddiya, các pháp này là thiện hay bất thiện ?
- Là bất thiện, bạch Thế Tôn.
- Có tội hay không có tội ?
- Có tội, bạch Thế Tôn.
- Bị người có trí quở trách hay
không bị người có trí quở trách ?
- Bị người có trí quở trách, bạch
Thế Tôn.
- Nếu được thực hiện, được
chấp nhận, có đem lại bất hạnh đau khổ không, hay ở đây là thế nào
?
- Được thực hiện, được chấp
nhận, chúng đem lại bất hạnh đau khổ. Ở đây, đối với chúng con là
như vậy.
6.- Như vậy, này Bhaddiya, điều ta
vừa nói với các Ông : "chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin
vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe người ta nói; chớ có tin vì được
kinh tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin
vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ
kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất
từ nơi có uy quyền; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc Đạo sư của mình.
Nhưng này Bhaddiya, khi nào tự mình ông biết rõ như sau : "Các pháp này
là bất thiện; các pháp này là có tội; các pháp này là bị người có
trí chỉ trích; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận đưa đến
bất hạnh và khổ đau", thời này Bhaddiya, Ông hãy từ bỏ chúng
!". Như vậy, đã được nói lên, chính do duyên này được nói lên như
vậy.
7. Này Bhaddiya, chớ có tin vì nghe
truyền thuyết … chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc Đạo sư của mình. Nhưng
này Bhaddiya, khi nào ông tự mình biết rõ như sau : "Các pháp này là
thiện; các pháp này không có tội; các pháp này là không bị người có
trí chỉ trích; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, đưa
đến hạnh phúc an lạc", thời này Bhaddiya, Ông hãy chứng đạt và an
trú.
8. Ông nghĩ như thế nào, này
Bhaddiya ! Không tham khi khởi lên trong một nội tâm người nào, khởi lên
như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh ?
- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.
- Người này không tham, này
Bhaddiya, không bị tham chinh phục, tâm không mất tự chủ, không giết loài
hữu tình, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói
láo, không khích lệ người khác cùng làm như vậy, như vậy có làm cho người
ấy hạnh phúc an lạc lâu dài hay không ?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
9. - Ông nghĩ như thế nào, này
Bhaddiya, không sân … không si … không hung bạo khi khởi lên trong một nội
tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hy bất hạnh ?
- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.
- Người này không có lòng hung bạo,
này Bhaddiya, không bị hung bạo chinh phục, tâm không mất tự chủ, không
giết loài hữu tình, không lấy của không cho, không đi đến vợ người,
không nói láo, không khích lệ người khác cùng làm như vậy, như vậy có
làm cho người ấy hạnh phúc an lạc lâu dài hay không ?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
10. - Ông nghĩ như thế nào, này
Bhaddiya, các pháp này là thiện hay bất thiện ?
- Là thiện, bạch Thế Tôn.
- Có tội hay không có tội ?
- Không có tội, bạch Thế Tôn.
- Bị người có trí quở trách hay
không bị người có trí quở trách ?
- Không bị người có trí quở
trách, bạch Thế Tôn.
- Nếu được thực hiện, được
chấp nhận, có đem lại hạnh phúc an lạc không, hay ở đây là thế nào ?
- Được thực hiện, được chấp
nhận, chúng đem lại hạnh phúc an lạc. Ở đây, đối với chúng con là như
vậy.
11.- Như vậy, này Bhaddiya, điều ta
vừa nói với các Ông : "chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin
vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe người ta nói; chớ có tin vì được
kinh tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin
vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ
kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất
từ nơi có uy quyền; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc Đạo sư của mình.
Nhưng này Bhaddiya, khi nào tự mình ông biết rõ như sau : "Các pháp này
là thiện; các pháp này là không có tội; các pháp này được người có
trí tán thán ; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận đưa đến
hạnh phúc và an lạc", thời này Bhaddiya, Ông hãy chứng đạt và an
trú. Điều này đã được nói lên, chính do duyên này được nói lên như
vậy.
12. Này Bhaddiya, tất cả những bậc
Chân nhân tịch tịnh ở đời, khích lệ đệ tử như sau : "Hãy đến,
này bạn ! hãy nhiếp phục tham, hãy sống nhiếp phục tham ! Do sống nhiếp
phục tham, bạn sẽ không làm nghiệp do tham sanh, về thân, về lời, về ý
! Hãy nhiếp phục sân ! Hãy nhiếp phục sân ! Do sống nhiếp phục sân, bạn
sẽ không làm nghiệp do sân sanh, về thân, về lời, về ý ! Hãy nhiếp phục
si ! Hãy nhiếp phục si! Do sống nhiếp phục si, bạn sẽ không làm nghiệp
do si sanh, về thân, về lời, về ý ! Hãy nhiếp phục hung bạo! Hãy nhiếp
phục sung bạo ! Do sống nhiếp phục hung bạo, bạn sẽ không làm nghiệp
do hung bạo sanh, về thân, về lời, về ý !".
13. Khi được nói như vậy, Bhaddiya
người Licchavi bạch Thế Tôn :
- Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn, mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng
chung, con trọn đời quy ngưỡng !
- Này Bhaddiya, Ta có nói với Ông như
sau : "Hãy đến, này Bhaddiya; hãy đến làm đệ tử của Ta, này
Bhaddiya ! Ta sẽ là Đạo sư (của Ông)" không ?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Như vậy, này Bhaddiya, những
Sa-môn, Bà-la-môn nói như sau, tuyên bố như sau, những vị ấy là không thiện,
trống không, nói láo, xuyên tạc với điều không thật : "Là một nhà
huyễn thuật, Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ
tử ngoại đạo !".
- Bạch Thế Tôn, hiền thiện là
huyễn thuật dụ dỗ này. Bạch Thế Tôn, hiền lành là huyễn thuật dụ dỗ
này. Con mong rằng, bạch Thế Tôn, các bà con huyết thống thân ái của con
được huyễn thuật dụ dỗ này dụ dỗ. Như vậy, những bà con huyết thống
của con tất cả được hạnh phúc an lạc lâu dài ! Bạch Thế Tôn, nếu tất
cả những người Sát-đế-lỵ được huyễn thuật dụ dỗ này cám dỗ, tất
cả các Sát-đế-lỵ được hạnh phúc an lạc trong một thời gian dài ! Bạch
Thế Tôn, nên tất cả người Bà-la-môn … tất cả người Phệ xá … tất
cả Thủ đà được huyễn thuật dụ dỗ này cám dỗ, tất cả các Thủ
đà ấy được hạnh phúc an lạc trong một thời gian dài !
- Như vậy là phải, này Bhaddiya !
Như vậy là phải, này Bhaddiya ! Này Bhadiya, nếu tất cả những người Sát-đế-lỵ
được huyễn thuật dụ dỗ này cám dỗ, tất cả các Sát-đế-lỵ được
hạnh phúc an lạc trong một thời gian dài ! Này Bhàddiya, nếu cả người Bà-la-môn
… tất cả người Phệ xá … tất cả mọi người Thủ đà được cám dỗ
(với sự dụ dỗ này) để đoạn tận các pháp bất thiện, để đầy đủ
các pháp thiện, như vậy tất cả các Thủ đà được hạnh phúc an lạc
trong một thời gian dài !
Này Bhaddiya, nếu thế giới cùng với
chư Thiên, Màra, Phạm thiên, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên
và loài Người được huyễn thuật dụ dỗ này cám dỗ, để đoạn tận
các pháp bất thiện, để đầy đủ các pháp thiện, như vậy chúng được
hạnh phúc an lạc trong một thời gian dài !
Này Bhaddiya, nếu các cây sala to lớn
này được huyễn thuật dụ dỗ này cám dỗ, để đoạn tận các pháp bất
thiện, để đầy đủ các pháp thiện, như vậy tất cả cây sala to lớn
này được hạnh phúc an lạc trong một thời gian dài nếu chúng có thể
suy nghĩ được, còn nói gì với con người !
(IV) (194) CÁC VỊ SÀPÙGIYÀ
1. Một thời, Tôn giả Ànanda trú
ở giữa các dân chúng Koliya tại một thị trấn các Koliya tên là
Sàpùgà. Rồi rất nhiều Koliya tử ở Sàpùgà đi đến Tôn giả Ànanda;
sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ànanda rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả
Ànanda nói với các Koliya tử ấy ở Sàpùgà :
- Này các Vyagghapajjà, có bốn thanh
tịnh, tinh cần chi phần này được Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
chơn chánh nói lên để chúng sanh được thanh tịnh, để vượt qua sầu
bi, để chấm dứt khổ ưu, để đạt đến chánh lý, để chứng ngộ Niết-bàn.
Thế nào là bốn ?
Giới thanh tịnh tinh cần chi phần,
tâm thanh tịnh tinh cần chi phần, kiến thanh tịnh tinh cần chi phần, giải
thoát thanh tịnh tinh cần chi phần.
2. Và này các Vyagghapajjà, thế nào
là giới thanh tịnh tinh cần chi phần ?
Ở đây, này Vyagghapajjà, Tỷ-kheo
có giới …, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Này các
Vyagghapajjà, đây gọi là giới thanh tịnh ; với lời nguyền : "Nếu giới
thanh tịnh như vậy chưa đầy đủ, tôi sẽ làm cho đầy đủ. Nếu giới
thanh tịnh như vậy được đầy đủ, tôi sẽ học thêm chỗ này chỗ kia
với trí tuệ". Ở đây, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, phấn chấn,
không có lối thoát, chánh niệm tỉnh giác, này các Vyagghapajjà, đều được
gọi là giới thanh tịnh tinh cần chi phần.
Và này các Vyagghapajjà, thế nào
là tâm thanh tịnh tinh cần chi phần ?
3. Ở đây, này các Vyagghapajjà, vị
Tỷ-kheo ly các dục … chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Này các
Vyagghapajjà, đây gọi là tâm thanh tịnh ; với lời nguyện : "Nếu tâm
thanh tịnh như vậy chưa đầy đủ, tôi sẽ làm cho đầy đủ. Nếu tâm
thanh tịnh như vậy được đầy đủ, tôi sẽ học thêm chỗ này chỗ kia
với trí tuệ". Ở đây, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, phấn chấn,
không có lối thoát, chánh niệm tỉnh giác, này các Vyagghapajjà, đều được
gọi là tâm thanh tịnh tinh cần chi phần.
4. Và này các Vyagghapajjà, thế nào
là kiến thanh tịnh tinh cần chi phần ?
Ở đây, này các Vyagghapajjà, Tỷ-kheo
như thật quán tri : "Đây là khổ"; như thật quán tri : "Đây
là khổ tập"; như thật quán tri : "Đây là khổ diệt"; như thật
quán tri : "Đây là con đường đưa đến khổ diệt". Này
Vyagghapajjà, đây gọi là kiến thanh tịnh; với lời nguyện : "Nếu kiến
thanh tịnh như vậy chưa đầy đủ, tôi sẽ làm cho đầy đủ. Nếu kiến
thanh tịnh như vậy được đầy đủ, tôi sẽ học thêm chỗ này chỗ kia
với trí tuệ". Ở đây, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, phấn chấn,
không có lối thoát, chánh niệm tỉnh giác, này các Vyagghapajjà, đều được
gọi là kiến thanh tịnh tinh cần chi phần.
5. Và này các Vyagghapajjà, thế nào
là giải thoát thanh tịnh tinh cần chi phần ?
Vị Thánh đệ tử nào, này các
Vyagghapajjà, thành tựu với giới thanh tịnh tinh cần chi phần này, thành tựu
với tâm thanh tịnh tinh cần chi phần này, thành tựu với kiến thanh tịnh
tinh cần chi phần này, tâm được ly tham đối với các pháp hấp dẫn,
tâm được giải thoát đối với các pháp cần được giải thoát. Vị ấy,
sau khi tâm được ly tham đối với các pháp hấp dẫn, tâm được giải
thoát đối với các pháp cần được giải thoát, cảm xúc chánh giải
thoát. Này các Vyagghapajjà, đây gọi là giải thoát thanh tịnh ; với lời
nguyện : "Nếu giải thoát thanh tịnh như vậy chưa đầy đủ, tôi sẽ
làm cho đầy đủ. Nếu giải thoát thanh tịnh như vậy được đầy đủ,
tôi sẽ học thêm chỗ này chỗ kia với trí tuệ". Ở đây, ước muốn,
tinh tấn, nỗ lực, phấn chấn, không có lối thoát, chánh niệm tỉnh
giác, này các Vyagghapajjà, đều được gọi là giải thoát thanh tịnh tinh
cần chi phần.
Bốn thanh tịnh tinh cần chi phần
này, này các Vyagghapajjà, đã được Thế Tôn, bậc đã biết đã thấy, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chơn chánh nói lên để chúng sanh được thanh tịnh,
để vượt qua sầu bi, để chấm dứt khổ ưu, để chứng đắc chánh lý,
để chứng ngộ Niết-bàn !
(V) (195) VAPPA
1. Một thời, Thế Tôn ở giữa
dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu khu vườn Nigrodha. Rồi thích tử Vappa, đệ
tử của Nigantha đi đến Tôn giả Mahàmoggalàna; sau khi đến, đảnh lễ Tôn
giả Mahàmoggalàna rồi ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahàmoggallàna nói với
thích tử Vappa, đệ tử của Nigantha đang ngồi một bên :
- Ở đây, này Vappa, có thể có người
với thân chế ngự, với lời chế ngự, với ý chế ngự, vô minh được
viễn ly, minh được sanh khởi. Ông có thấy người ấy, do một nhân duyên
nào, các lậu hoặc khiến họ cảm thọ đau khổ có thể khởi lên cho người
ấy trong tương lai ?
- Thưa Tôn giả, con có thể thấy
trường hợp ấy. Ở đây thưa Tôn giả, do ác nghiệp tạo ra về trước
chưa đưa đến quả dị thục, do một nhân duyên ấy, các lậu hoặc khiến
họ cảm thọ đau khổ có thể khởi lên cho người ấy trong tương lai.
Và câu chuyện này giữa Tôn giả
Mahàmoggallàna và Thích tử Vappa, đệ tử của Niganthà bị bỏ dở.
2. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều từ
Thiền Tịnh đứng dậy đi đến hội trường; sau khi đến, ngồi xuống trên
chỗ đã soạn sẵn. Ngồi xuống, Thế Tôn nói với Tôn giả Mahàmoggallàna
:
- Này Mahàmoggallàna, câu chuyện gì
được nói đến, khi các Ông ngồi tụ họp ở đây ? Và câu chuyện giữa
các Ông chưa được nói xong ?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con nói với
Thích tử Vappa, đệ tử của Nigantha : "Ở đây, này Vappa, có thể có
người với thân chế ngự, với lời chế ngự, với ý chế ngự, vô minh
được viễn ly, minh được sanh khởi. Ông có thấy người ấy, do một nhân
duyên nào, các lậu hoặc khiến họ cảm thọ đau khổ có thể khởi lên
cho người ấy trong tương lai ?" Bạch Thế Tôn, khi người nói như vậy,
Thích tử Vappa, đệ tử của Nigantha nói với con như sau: "Thưa Tôn giả,
con có thể thấy trường hợp ấy. Ở đây thưa Tôn giả, do ác nghiệp tạo
ra về trước chưa đưa đến quả dị thục, do một nhân duyên ấy, các lậu
hoặc khiến họ cảm thọ đau khổ có thể khởi lên cho người ấy trong
tương lai !". Bạch Thế Tôn, ở đây là câu chuyện giữa Thích Tử
Vappa, đệ tử của Nigantha và chúng con, câu chuyện bị bỏ dở khi Thế
Tôn đến !
3. Rồi Thế Tôn nói với Thích tử
Vappa, đệ tử của Nigantha :
- Này Vappa, nếu Ông có thể chấp
nhận điều Ông có thể chấp nhận, và có thể bác bỏ điều đáng được
bác bỏ, và trong trường hợp Ông không có thể biết được ý nghĩa lời
nói của Ta, nếu Ông hỏi ta thêm về vấn đề ấy : "Bạch Thế Tôn,
lời nói này, ý nghĩa là gì ?", thời có thể có cuộc nói chuyện giữa
chúng ta.
- Bạch Thế Tôn, con có thể chấp
nhận điều con có thể chấp nhận, và có thể bác bỏ điều đáng được
bác bỏ, và trong trường hợp con không có thể biết được ý nghĩa lời
nói của Ta, con sẽ hỏi Thế Tôn thêm về vấn đề ấy : "Bạch Thế
Tôn, lời nói này, ý nghĩa là gì ?", mong rằng ở đây có cuộc nói
chuyện giữa chúng ta.
4.- Ý Ông nghĩ thế nào, này Vappa ?
Nếu do nhân duyên thân khởi động, các lậu hoặc tàn hại, nhiệt não khởi
lên ; với người chế ngự được thân khởi động, như vậy, các lậu hoặc
tàn hại, nhiệt não ấy không có nơi người ấy nữa. Người ấy không
làm nghiệp mới, còn hành động trước của người ấy, do cảm xúc thường
xuyên được chấm dứt; con đường đưa đến sự héo mòn các phiền não
là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả
năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu.
Này Vappa, Ông có thấy trường hợp
ấy, do nhân duyên này, các lậu hoặc khiến cảm thọ khổ đau có thể khởi
lên cho người ấy trong tương lai không ?
- Thưa không, bạch Thế Tôn !
5. - Ý Ông nghĩ thế nào, này Vappa
? Nếu do nhân duyên lời khởi động, các lậu hoặc tàn hại, nhiệt não
khởi lên ; với người chế ngự được lời khởi động, như vậy, các lậu
hoặc tàn hại, nhiệt não ấy không có nơi người ấy nữa. Người ấy không
làm nghiệp mới, còn hành động trước của người ấy, do cảm xúc thường
xuyên được chấm dứt; con đường đưa đến sự héo mòn các phiền não
là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả
năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu.
Này Vappa, Ông có thấy trường hợp
ấy, do nhân duyên này, … trong tương lai không ?
6.- Ý Ông nghĩ thế nào, này Vappa ?
Nếu do nhân duyên ý khởi động, các lậu hoặc tàn hại, nhiệt não khởi
lên ; với người chế ngự được ý khởi động, như vậy, các lậu hoặc
tàn hại, nhiệt não ấy không có nơi người ấy nữa. Người ấy không
làm nghiệp mới, còn hành động trước của người ấy, do cảm xúc thường
xuyên được chấm dứt; con đường đưa đến sự héo mòn các phiền não
là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả
năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu.
Này Vappa, Ông có thấy trường hợp
ấy, do nhân duyên này, các lậu hoặc khiến cảm thọ khổ đau có thể khởi
lên cho người ấy trong tương lai không ?
- Thưa không, bạch Thế Tôn !
7.- Ý Ông nghĩ thế nào, này Vappa ?
Đối với các lậu hoặc tàn hại, nhiệt não ấy do duyên vô minh khởi
lên, vô minh được ly tham, minh được khởi lên, như vậy, các lậu hoặc
tàn hại, nhiệt não ấy không có với người ấy nữa. Người ấy không
làm nghiệp mới, còn hành động trước của người ấy, do cảm xúc thường
xuyên được chấm dứt; con đường đưa đến sự héo mòn các phiền não
là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả
năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu.
Này Vappa, Ông có thấy trường hợp
ấy, do nhân duyên này, các lậu hoặc khiến cảm thọ khổ đau có thể khởi
lên cho người ấy trong tương lai không ?
- Thưa không, bạch Thế Tôn !
8.- Như vậy, này Vappa, với vị Tỷ-kheo
có tâm được chơn chánh giải thoát, sáu an trú thường hằng được chứng
đắc. Vị ấy, khi mắt thấy sắc, không có ý đẹp, không có phật ý,
trú xả, chánh niệm tỉnh giác. Khi tai nghe tiếng…, khi mũi ngửi hương…
khi lưỡi nếm vị… khi thân cảm xúc … khi ý thức tri pháp, không có ý
đẹp, không có phật ý, trú xả, chánh niệm tỉnh giác. Khi vị ấy cảm
giác một cảm thọ tận cùng của thân, vị ấy quán tri : "Ta cảm
giác một cảm thọ tận cùng của thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm
thọ tận cùng của sinh mạng, vị ấy quán tri : "Ta cảm giác một cảm
thọ tận cùng của sinh mạng". Vị ấy quán tri : "Sau khi thân hoại
mạng chung, ở đây tất cả các cảm thọ không còn hỷ lạc, sẽ trở
thành vắng lạnh".
9. Ví như, này Vappa, duyên một
thân cây, bóng cây hiện ra. Rồi có người đến cầm các cuốc và cái giỏ,
chặt thân cây ấy ở nơi rễ. Sau khi chặt ở nơi rễ, người ấy đào
cái mương. Sau khi đào cái mương, người ấy nhổ lên các rễ lớn cho đến
các rễ con và rễ phụ. Rồi người ấy chặt cây ấy thành từng khúc, người
ấy bửa. Sau khi bửa, người ấy chẻ thành từng miếng nhỏ. Sau khi chẻ
thành từng miếng nhỏ, người ấy phơi giữa gió và nắng, người ấy lấy
lửa đốt. Sau khi lấy lửa đốt, người ấy vun thành đống tro. Sau khi
người ấy vun thành đống tro, người ấy sàng tro giữa gió lớn, hay để
tro ấy vào dòng nước mạnh cho nước cuốn đi. Như vậy, này Vappa, do
duyên thân cây nên có bóng cây. Bóng cây ấy, rễ bị chấm dứt, làm
thành như thân cây tala, làm cho không thể tái sanh trong tương lai, không thể
sống lại được. Cũng vậy, này Vappa, vị Tỷ-kheo có tâm được chơn chánh
giải thoát, sáu an trú thường hằng được chứng đắc. Vị ấy, khi mắt
thấy sắc, không có ý đẹp, không có phật ý, trú xả, chánh niệm tỉnh
giác. Khi tai nghe tiếng…, khi mũi ngửi hương… khi lưỡi nếm vị… khi
thân cảm xúc … khi ý thức tri pháp, không có ý đẹp, không có phật ý,
trú xả, chánh niệm tỉnh giác. Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận
cùng của thân, vị ấy biết : "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của
thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng, vị
ấy biết : "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng".
Vị ấy biết: "Sau khi thân hoại mạng chung, ở đây tất cả các cảm
thọ không còn hỷ lạc, sẽ trở thành vắng lạnh".
10. Khi được nói như vậy, Thích tử
Vappa, đệ tử của Nigantha bạch Thế Tôn :
- Ví như, bạch Thế Tôn, một người
mong ước được tài sản, lo nuôi dưỡng tài sản của mình, nhưng không
được tăng trưởng gì, trái lại chỉ được mệt nhọc và sự phần vào
phiền muộn. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con cầu mong được lợi ích khi con
hầu hạ kẻ ngu Nigantha này. Con đã không được lợi ích gì, trái lại
con chỉ được mệt nhọc và sự phần vào phiền muộn. Bắt đầu từ hôm
này, bạch Thế Tôn, với lòng tin gì con đã có với kẻ ngu Nigantha, con sẽ
sàng lòng tin ấy giữa gió lớn, hay để lòng tin ấy vào dòng nước lạnh
cho nước cuốn đi.
- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn,
mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con
trọn đời quy ngưỡng !
(VI) (196) SÀLHA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Vesàli (Tỳ-xá-ly) tại Đại Lâm, trong ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Licchavì
Sàlha và Licchavì Abhaya đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Licchavì Sàlha bạch Thế
Tôn :
- Bạch Thế Tôn, có những Sa-môn,
Bà-la-môn trình bày sự vượt qua dòng nước mạnh với hai pháp môn : nhân
giới thanh tịnh và nhân khổ hạnh nhàm chán. Ở đây, bạch Thế Tôn, Thế
Tôn có nói gì ?
- Này Sàlha, Ta nói rằng giới thanh
tịnh là một chi phần của Sa-môn hạnh. Các vị Sa-môn, Bà-la-môn nào,
này Salha, sống chủ trương nhân khổ hạnh nhàm chán, xem khổ hạnh nhàm
chán là lõi cây, chấp chặt vào khổ hạnh nhàm chán, những vị ấy không
thể nào vượt qua dòng nước mạnh. Các vị Sa-môn, Bà-la-môn nào, này
Sàlha, thân hành không thanh tịnh, lời nói không thanh tịnh, ý hành không
thanh tịnh, sanh sống không thanh tịnh, những vị ấy không có thể đạt
được tri kiến vô thượng Bồ-đề.
3. Ví như, này Sàlhà, một người
muốn vượt qua sông, cầm một cây búa sắc bén đi vào rừng. Tại đấy,
nó thấy một cây sàla lớn, cao, thẳng, còn trẻ, không có lồi lõm. Nó chặt
cây ấy tại gốc, sau khi chặt ở gốc, nó đốn ngọn. Sau khi đốn ngọn,
nó tỉa cành lá và làm cho thân cây trơn tru. Sau khi tỉa cành lá và làm
cho thân cây trơn tru, nó gọt đẽo với cái búa. Sau khi gọt đẽo với cái
búa, nó gọt đẽo với con dao. Sau khi gọt đẽo với con dao, nó bào sạch
với cái bào. Sau khi bào sạch với cái bào, nó bào sạch với hòn đá
mài. Sau khi bào sạch với hòn đá mài, nó đem cây ấy xuống sông. Ý Ông
nghĩ thế nào, này Sàlhà người ấy có thể vượt qua sông được không ?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
4. Vì sao ? Bạch Thế Tôn, vì cây
sàla ấy, tuy bề ngoài rất khéo làm, nhưng bề trong không được làm sạch.
Do vậy, sự việc chờ đợi rằng : "Cây sàla ấy chìm xuống và người
ấy rơi vào ách nạn".
- Cũng vậy, này Sàlhà, những
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sống khổ hạnh nhàm chán, xem khổ hạnh
nhàm chán là lõi cây, chấp chặt lấy khổ hạnh nhàm chán, những vị ấy
không có thể vượt qua dòng nước mạnh. Này Sàlhà, những vị Sa-môn,
Bà-la-môn nào, thân hành không thanh tịnh, lời nói không thanh tịnh, ý
hành không thanh tịnh, sinh sống không thanh tịnh, chúng không có thể chứng
được tri kiến vô thượng Bồ-đề. Này Sàlhà, những Sa-môn, Bà-la-môn
nào sống không chủ trương khổ hạnh nhàm chán, không xem khổ hạnh nhàm
chán là lõi cây, không chấp chặt lấy khổ hạnh nhàm chán, những vị ấy
có thể vượt qua dòng nước mạnh. Này Sàlhà, những vị Sa-môn,
Bà-la-môn nào, thân hành thanh tịnh, lời nói thanh tịnh, ý hành thanh tịnh,
sinh sống thanh tịnh, những vị ấy có thể chứng được tri kiến vô thượng
Bồ-đề.
5. Ví như, này Sàlhà, một người
muốn vượt qua sông, cầm một cây búa sắc bén đi vào rừng. Tại đấy,
người ấy thấy một cây sàla lớn, cao, thẳng, còn trẻ, không có lồi
lõm. Nó chặt cây ấy tại gốc, sau khi chặt ở gốc, người ấy đốn ngọn.
Sau khi đốn ngọn, người ấy tỉa cành lá và làm cho thân cây trơn tru.
Sau khi tỉa cành lá và làm cho thân cây trơn tru, người ấy gọt đẽo với
cái búa. Sau khi gọt đẽo với cái búa, người ấy gọt đẽo với con dao.
Sau khi gọt đẽo với con dao, người ấy bào sạch với cái bào. Sau khi
bào sạch với cái bào, người ấy bào sạch với hòn đá mài. Sau khi bào
sạch với hòn đá mài, người ấy làm thành chiếc thuyền, cột với cái
chèo và bánh lái, rồi cuối cùng người ấy thả xuống sông. Ý Ông nghĩ
thế nào, này Sàlhà người ấy có thể vượt qua sông được không ?
- Thưa được, bạch Thế Tôn.
4. Vì sao ? Bạch Thế Tôn, vì cây
sàla ấy, bề ngoài rất khéo làm, bề trong được làm sạch, được cột
với cái chèo và bánh lái. Do vậy, sự việc chờ đợi rằng : "Chiếc
thuyền ấy không chìm, và người ấy sẽ đến bờ bên kia an toàn".
- Cũng vậy, này Sàlhà, những
Sa-môn, Bà-la-môn nào không chủ trương khổ hạnh nhàm chán, những vị ấy
có thể vượt qua dòng nước mạnh. Này Sàlhà, những vị Sa-môn,
Bà-la-môn nào, thân hành thanh tịnh, lời nói thanh tịnh, ý hành thanh tịnh,
sinh sống thanh tịnh, những vị ấy có thể chứng được tri kiến vô thượng
Bồ-đề".
7. Ví như, này Sàlhà, một chiến sĩ
dầu nó biết được nhiều cung thuật, nhưng về ba phương diện nó xứng
đáng là của vua, thuộc sở hữu của vua, đi đến làm biểu tượng của
vua. Thế nào là ba ?
Bắn xa, bắn nhanh như chớp nhoáng,
và bắn thủng được vât lớn.
8. Ví như, này Sàlhà, người chiến
sĩ bắn xa, cũng vậy, này Sàlhà, là Thánh đệ tử có chánh định; phàm
có sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô
hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, cần phải như thật thấy
với trí tuệ rằng : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải
là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi". Phàm có thọ gì …
phàm có tưởng gì … phàm có hành gì … phàm có thức gì, quá khứ, vị
lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng,
hoặc xa hay gần, cần phải như thật thấy với trí tuệ rằng : "Cái
này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải
là tự ngã của tôi".
9. Ví như, này Sàlhà, người chiến
sĩ bắn như chớp nhoáng; cũng vậy, này Sàlhà là vị Thánh đệ tử có
chánh tri kiến. Vị Thánh đệ tử này Sàlhà, có chánh tri kiến như thật
quán tri : "Đây là khổ … Đây là khổ tập…, Đây là khổ diệt …,
Đây là con đường đưa đến khổ diệt".
10. Ví như, này Sàlhà, người chiến
sĩ đâm thủng được thân hình lớn. Cũng vậy, này Sàlhà là vị Thánh đệ
tử có chánh giải thoát. Vị Thánh đệ tử này Sàlhà, có chánh giải
thoát đâm thủng được vô minh uẩn to lớn.
(VII) (197) MALLIKÀ
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Thắng Lâm), khu vườn ông Anàthapinkida. Rồi
hoàng hậu Mallikà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, hoàng hậu Mallikà bạch Thế
Tôn :
- Do nhân gì, bạch Thế Tôn, do
duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây một số nữ nhân, dung sắc xấu, sắc đẹp
xấu, hình dáng hạ liệt, nghèo khổ, tài sản ít, sở hữu ít, ảnh hưởng
uy tín ít ?
Do nhân gì, bạch Thế Tôn, do duyên
gì, bạch Thế Tôn, ở đây một số nữ nhân, dung sắc xấu, sắc đẹp xấu,
dáng hạ liệt, nhưng giàu sang, tài sản lớn, sở hữu lớn, uy tín ảnh hưởng
lớn ?
Do nhân gì, bạch Thế Tôn, do duyên
gì, bạch Thế Tôn, ở đây một số nữ nhân, dung sắc đẹp, được ưa
nhìn, tịnh tín, thành tựu với dung sắc thù thắng, tuy vậy nghèo khổ,
tài sản ít, sở hữu ít, ảnh hưởng uy tín ít ?
Do nhân gì, bạch Thế Tôn, do duyên
gì, bạch Thế Tôn, ở đây một số nữ nhân, dung sắc đẹp, được ưa
nhìn, tịnh tín, thành tựu với dung sắc thù thắng, giàu sang, tài sản lớn,
sở hữu lớn, uy tín ảnh hưởng lớn ?
2.- Ở đây, này Mallikà, có hạng nữ
nhân phẫn nộ, não hại nhiều, tuy bị ít nói, liền nổi nóng, nổi giận,
nổi sân, sừng sộ, gây hấn, biểu lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Người
này không bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn món ăn vật uống, vải mặc, xe cộ,
vòng hoa, hương, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc; tánh tình
keo kiệt; thấy người khác được lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, tôn
kính, đảnh lễ, cúng dường, thì ganh tỵ, tức tối, trói buộc bởi ganh
tỵ. Người ấy, sau khi từ bỏ đời này, trở lui lại trạng thái này, tại
đấy, tại đấy, tái sanh hạ liệt, dung sắc xấu, sắc đẹp xấu, hình
dáng hạ liệt, nghèo khổ, tài sản ít, sở hữu ít, ảnh hưởng uy tín
ít.
3. Ở đây, này Mallikà, có nữ
nhân phẫn nộ, não hại nhiều, tuy bị ít nói, liền nổi nóng, nổi giận,
nổi sân, sừng sộ, gây hấn, biểu lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Người
này bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn món ăn vật uống, vải mặc, xe cộ, vòng
hoa, hương, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc; tánh tình không
keo kiệt; thấy người khác được lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, tôn
kính, đảnh lễ, cúng dường, thì không ganh tỵ, tức tối, trói buộc bởi
ganh tỵ. Người ấy, sau khi từ bỏ đời này, trở lui lại trạng thái
này, tại đấy, tại đấy, tái sanh hạ liệt, dung sắc xấu, sắc đẹp xấu,
hình dáng hạ liệt, nhưng giàu sang, tài sản lớn, sở hữu lớn, uy tín
ảnh hưởng lớn.
4. Ở đây, này Mallikà, có nữ
nhân không phẫn nộ, não hại không nhiều, tuy bị nói nhiều, không có nổi
nóng, không có nổi giận, không nổi sân, không sừng sộ, không gây hấn,
không biểu lộ phẫn nộ, không sân hận, không bất mãn. Người này không
bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn món ăn vật uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa,
hương, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc; tánh tình keo kiệt;
thấy người khác được lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, tôn kính, đảnh
lễ, cúng dường, thì ganh tỵ, tức tối, trói buộc bởi ganh tỵ. Người
ấy, sau khi từ bỏ đời này, trở lui lại trạng thái này, tại đấy, tái
sanh dung sắc đẹp, sắc đẹp tốt, tịnh tín, thành tựu với dung sắc
thù thắng, nhưng nghèo khổ, tài sản ít, sở hữu ít, ảnh hưởng uy tín
ít.
5. Ở đây, này Mallikà, có nữ
nhân không phẫn nộ, não hại không nhiều, tuy bị nói nhiều, không có nổi
nóng, không có nổi giận, không nổi sân, không sừng sộ, không gây hấn,
không biểu lộ phẫn nộ, không sân hận, không bất mãn. Người này bố
thí cho Sa-môn, Bà-la-môn món ăn vật uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương,
phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc; tánh tình không keo kiệt; thấy
người khác được lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, tôn kính, đảnh lễ,
cúng dường, không ganh tỵ, tức tối, trói buộc bởi ganh tỵ. Người ấy,
sau khi từ bỏ đời này, trở lui lại trạng thái này, tại đấy, tái sanh
dung sắc đẹp, sắc đẹp tốt, tịnh tín, thành tựu với dung sắc thù thắng,
giàu sang, tài sản lớn, sở hữu lớn, uy tín ảnh hưởng lớn.
6. Này Mallikà, đây là nhân, đây
là duyên, ở đây có hạng nữ nhân dung sắc xấu … ảnh hưởng uy tín
ít.
Này Mallikà, đây là nhân, đây là
duyên, ở đây có hạng nữ nhân dung sắc xấu … ảnh hưởng uy tín lớn.
Này Mallikà, đây là nhân, đây là
duyên, ở đây có hạng nữ nhân dung sắc đẹp … ảnh hưởng uy tín ít.
Ở đây, này Mallikà, đây là nhân,
đây là duyên, ở đây có hạng nữ nhân dung sắc đẹp … ảnh hưởng uy
tín lớn.
7. Khi được nói như vậy, hoàng hậu
Mallikà bạch Thế Tôn :
- Giả sử như con, bạch Thế Tôn,
trong một đời sống khác, con phẫn nộ, não hại nhiều, tuy bị nói ít,
nhưng nổi nóng, nổi giận, nổi sân, sừng sộ, gây hấn, biểu lộ phẫn
nộ, sân hận, bất mãn. Và bạch Thế Tôn, nay con dung sắc xấu, sắc đẹp
xấu, hình dáng hạ liệt. Giả sử như con, bạch Thế Tôn, trong một đời
sống khác, con có bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn món ăn vật uống, vải mặc,
xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Và bạch
Thế Tôn, nay con được giàu sang, có tài sản lớn, có sở hữu lớn. Giả
sử như con, bạch Thế Tôn, trong một đời sống khác, tánh tình không keo
kiệt; thấy người khác được lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, tôn
kính, đảnh lễ, cúng dường, con không ganh tỵ, tức tối, trói buộc bởi
ganh tỵ. Và bạch Thế Tôn, nay con được có ảnh hưởng uy tín lớn.
Bạch Thế Tôn, trong nội cung này,
có những thiếu nữ hoàng tộc, có những thiếu nữ Bà-la-môn, có những
thiếu nữ gia chủ, con có chủ quyền thủ lãnh. Và bạch Thế Tôn, bắt đầu
từ nay, con sẽ không phẫn nộ, não hại không nhiều, dầu cho bị nói nhiều,
con sẽ không nổi nóng, nổi giận, nổi sân, sừng sộ, gây hấn. Con sẽ
không biểu lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Con sẽ bố thí cho Sa-môn,
Bà-la-môn món ăn vật uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp,
giường nằm, trú xứ, đèn đuốc; con sẽ không keo kiệt; thấy người khác
được lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, tôn kính, đảnh lễ, cúng dường,
con sẽ không ganh tỵ, tức tối, trói buộc bởi ganh tỵ.
Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn
… mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung,
con trọn đời quy ngưỡng !
(VIII) (198) TỰ HÀNH HẠ MÌNH
1.- Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng
người này có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
có hạng người tự hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây,
này các Tỷ-kheo, có hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ
mình, và hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
có hạng người không hành khổ mình, không chuyên tâm hành khổ mình. Ở
đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không hành khổ người, không
chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không
hành khổ mình, không chuyên tâm hành khổ mình, không hành khổ người, không
chuyên tâm hành khổ người. Hạng người ấy không hành khổ mình, không
hành khổ người, hiện tại sống không tham ái, tịch tịnh, cảm thấy
mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào phạm thể.
2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi
khất thực không chịu bước tới, đi khất thực không chịu đứng một
chỗ, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn dành riêng, không
nhận mời đi ăn, không nhận từ nơi miệng nồi, không nhận từ nơi miệng
chảo, không nhận tại ngưỡng cửa, không nhận giữa những cây gậy,
không nhận giữa những cối giã gạo, không nhận từ hai người đang ăn,
không nhận từ người đàn bà có thai, không nhận từ người đàn bà
đang cho con bú, không nhận từ người đàn bà đang đi đến giữa người
đàn ông, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận tại chỗ có chó đứng,
không nhận tại chỗ có ruồi bu, không ăn cá, không ăn thịt, không uống
rượu nấu, rượu men, không uống nước cháo. Vị ấy chỉ nhận ăn tại
một nhà hay chỉ nhận ăn một miếng, hay vị ấy chỉ nhận ăn tại hai nhà
hay chỉ nhận ăn hai miếng, … hay vị ấy chỉ nhận ăn tại bảy nhà hay
chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với một bát, nuôi sống
chỉ với hai bát … nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày
một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy, vị ấy sống
theo hạnh tiết chế ăn uống, cho đến nửa tháng mới ăn một lần. Vị
ấy chỉ ăn cỏ hoang, ăn lúa tắc, ăn lúa hoang, ăn da vụn, ăn rong nước,
ăn bọt tấm, ăn váng gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ hay ăn phân bò. Vị ấy
ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái câu rụng để sống. Vị ấy
mặc vải gai thô, vải gai thô lẫn các vải khác, mặc vải tẩn liệm, rồi
quăng đi, mặc vải phấn tảo y, mặc vải vỏ cây tirita làm áo, mặc da
con sơn dương đen, mặc áo bện từ từng mảnh da con sơn dương đen, mặc
áo bằng vỏ cát tường, mặc áo bằng vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ,
mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại,
mặc áo bằng lông cú. Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, là người sống
theo hạnh nhổ râu tóc, là người theo hạnh thường đứng, từ bỏ chỗ
ngồi, là người ngồi chò hỏ, chuyên sống theo hạnh ngồi chò hỏ một
cách tinh tấn, là người dùng gai làm giường, thường nằm ngủ trên giường
gai, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch
tội lỗi). Như vậy, dưới nhiều hình thức, vị ấy sống tự hành khổ
mình. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người tự hành khổ
mình, chuyên tâm tự hành khổ mình.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
là người giết trâu, bò, là người giết heo, là người giết vịt, săn
thú, là thợ săn, người đánh cá, ăn trộm, người xử tử các người
ăn trộm, cai ngục và các người làm các nghề ác độc khác. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành
khổ người.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người vừa hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành
khổ người, chuyên tâm tự hành khổ người ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
làm vua, thuộc giai cấp Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, hay một vị
Bà-la-môn triệu phú. Vị này cho xây một giảng đường về phía đông
thành phố, cạo bỏ râu tóc, đắp áo da khô, toàn thân bôi thục tô và dầu,
gãi lưng với một sừng nai, đi vào giảng đường với người vợ chính
và một Bà-la-môn tế tự. Rồi vị ấy nằm xuống dưới đất trống
trơn chỉ có lá cỏ. Vị vua sống với sữa từ vú một con bò cái, có con
bò con cùng một màu sắc. Bà vợ chính sống với sữa từ vú thứ hai; và
Bà-la-môn tế tự sống với sữa từ vú thứ ba, sữa từ vú thứ tư thường
dùng để tế lửa. Còn con nghé con sống với đồ còn lại. Vua nói như
sau : "Hãy giết một số bò đực để tế lễ, hãy giết một số
nghé đực để tế lễ, hãy giết một số nghé cái để tế lễ, hãy giết
một số dê để tế lễ, hãy giết một số cừu để tế lễ, hãy giết
một số ngựa để tế lễ, hãy chặt một số thân cây để làm cột tế
lễ, hãy thâu lượm một số cỏ dabbhà để làm chỗ tế lễ. Và những
người nô tỳ, những người phục vụ, những người làm công, những người
này vì sợ đòn gậy, vì sợ nguy hiểm, với mặt tràn đầy nước mắt,
khóc lóc làm các công việc. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng
người vừa hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ
người, chuyên tâm tự hành khổ người.
5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người vừa không hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ
mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm tự hành khổ người ?
Hạng người này không tự hành khổ mình, không hành khổ người, hiện tại
sống không tham ái, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm thấy lạc thọ,
tự ngã trú vào Phạm thể.
6. Ở đây, Như Lai xuất hiện ở
đời là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều ngự Trượng phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Như Lai sau khi tự mình chứng ngộ với thắng trí, thế giới này với
Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với
Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên bố bốn điều Ngài đã chứng ngộ.
Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đầy đủ văn, đầy
đủ nghĩa. Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.
Người gia trưởng hay con của người gia trưởng, hay một người sanh ở
giai cấp hạ tiện nghe pháp ấy. Sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tin
ở Như Lai.
7. Khi có được lòng tin ấy, người
ấy suy nghĩ : "Gò bó là đời sống gia đình, con đường đầy những
bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật không dễ
gì cho một người sống ở gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn
toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên
cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình". Một thời gian sau, người ấy từ bỏ tài sản nhỏ hay từ
bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bỏ bà con quyến thuộc
lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình.
8. Vị ấy xuất gia như vậy, hành
trì các học giới và hạnh sống của các vị Tỷ-kheo, đoạn tận sát
sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ,
sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Vị
ấy đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy
những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh,
không có trộm cướp. Vị ấy đoạn tận đời sống không Phạm hạnh, sống
theo Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly, tránh xa dâm dục hạ liệt. Vị
ấy đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, liên
hệ đến sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Vị
ấy đoạn tận nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi., nghe điều gì ở chỗ
này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy,
vị này sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hoà hợp,
hoan hỷ trong hòa hợp, thích thú trong hòa hợp hân hoan trong hòa hợp, nói
những lời đưa đến hòa hợp. Vị ấy đoạn tận lời nói độc ác, từ
bỏ lời nói độc ác, nói những lời dịu hiền, đẹp tai, dễ thương, thông
cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vị ấy nói những lời
như vậy. Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm,
nói đúng thời, nói chân thật, nói liên hệ đến nghĩa, nói Pháp, nói Luật,
nói những lời đáng giữ gìn, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch
lạc hệ thống, có ích lợi.
9. Vị ấy từ bỏ không làm hại
đến các loại hạt giống cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban
đêm, từ bỏ các món ăn phi thời; từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc,
các cuộc trình diễn; từ bỏ không dùng giường cao và giường lớn; từ
bỏ không nhận vàng và bạc; từ bỏ không nhận các hạt sống; từ bỏ
không nhận thịt sống; từ bỏ không nhận đàn bà con gái; từ bỏ không
nhận nô tỳ gái và trai; từ bỏ không nhận cừu và dê ; từ bỏ không nhận
gia cầm và heo ; từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; ; từ bỏ
không nhận ruộng nương đất đai; ; từ bỏ không dùng người làm môi giới,
hoặc từ mình làm người đưa tin ; từ bỏ không buôn bán ; từ bỏ các sự
gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh như hối
lộ, gian trá, lừa đảo, gạt lường; từ bỏ không làm thương tổn, sát
hại, câu thúc, cướp đường, cướp giật, cưỡng đoạt.
10. VỊ ấy sống biết đủ, bằng
lòng với tâm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi
tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát), như con chim bay đến chỗ nào cũng
mang theo hai cánh. Cũng vậy, Tỷ-kheo bằng lòng với tâm y để che thân, với
đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo. Vị ấy
thành tựu. Thánh giới uẩn này, nội tâm hưởng lạc không có lỗi lầm.
11. Khi mắt thấy sắc, vị ấy
không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Do nguyên nhân
gì khiến nhãn căn này không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các bất
thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn
căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Vị ấy thành tựu Thánh hộ trì các
căn này, nội tâm hưởng vô uế lạc.
12. Vị ấy khi đi tới, khi đi lui
đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay,
khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh
giác; khi ăn, uống, nhai, nếm đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện
đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh
giác.
13. Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn
này, thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này (thành tựu Thánh biết đủ
này), lựa một trú xứ thanh vắng như khu rừng, gốc cây, đồi, núi, khe nước,
hang đá, bãi thời hạn ma, rừng rậm, ngoài trời, đống rơm. Sau khi ăn
xong và đi khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng tại
chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy đoạn tận tham
ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Đoạn
tận sân hận, vị ấy sống với tâm không ân hận, lòng từ mẫn thương
xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Đoạn tận hôn
trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng
hướng về ánh sánh, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm
thụy miên. Đoạn tận trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử hối
quá, nội tâm trầm lặng, gột rửa hết tâm trạo cử, hối quá. Đoạn tận
nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột
rửa tâm hết nghi ngờ đối với pháp thiện.
14. Vị ấy, sau khi đoạn tận năm
triền cái này, các pháp làm tân cấu uế, làm trí tuệ trở thành yếu ớt,
vị ấy ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Vị ấy diệt tầm
và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả,
chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả
niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Vị ấy xả lạc, xả khổ,
diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và an trú Thiền thứ tư, không
khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
15. Với tâm định tĩnh, thanh tịnh,
tinh khiết, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững
chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến lậu tận trí. Vị
ấy biết như thật : "Đây là khổ"; biết như thật: "Đây là
khổ tập"; biết như thật: "Đây là khổ diệt"; biết như thật:
"Đây là con đường đưa đến khổ diệt"; biết như thật :
"Đây là những lậu hoặc" ; biết như thật : "Đây là nguyên
nhân của những lậu hoặc" ; biết như thật : "Đây là sự diệt
trừ các lậu hoặc" ; biết như thật : "Đây là con đường đưa
đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ biết như vậy, thấy như vậy,
tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô
minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu
biết : "Ta đã giải thoát". Vị ấy quán tri : "Sanh đã diệt,
Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại, không
có trở lui trạng thái này nữa".
16. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng
người vừa không hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa
không hành khổ người, không chuyên tâm tự hành khổ người. Vị ấy không
tự hành khổ mình, không hành khổ người, hiện tại sống không tham ái,
tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm thấy lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm
thể.
Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người
này có mặt, hiện hữu ở đời.
(IX) (199) ÁI
1.- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Thầy về ái, lưới triền khiến cho lưu chuyển được rộng ra, bám
dính vào; chính do ái ấy, thế giới này bị hoại vong, trói buộc, rối loạn
như một cuộn chỉ, rối ren như một ổ kén, quyện lại như cỏ mujia và
lau sậy babbaja, không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh tử.
Hãy nghe và khéo tác ý, ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế tôn nói như sau :
2.- Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là ái, thế nào là lưới triền, khiến cho lưu chuyển, được trải rộng
ra, bám dính vào; chính do ái ấy, thế giới này bị hoại vong, trói buộc,
rối loạn như một cuộn chỉ, rối ren như một ổ kén, quyện lại như cỏ
mujia và lau sậy babbaja, không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ,
sanh tử ?
Này các Tỷ-kheo, mười tám ái
hành này, liên hệ đến nội tâm, có mười tám ái hành này liên hệ với
ngoại cảnh.
3. Thế nào là mười tám ái hành
liên hệ đến nội tâm ?
Này các Tỷ-kheo, khi nào có ý nghĩ
: "Ta có mặt", thời có những ý nghĩ : "Ta có mặt trong đời
này"; "Ta có mặt như vậy"; "Ta có mặt khác như vậy";
"Ta không phải thường hằng"; "Ta là thường hằng";
"Ta phải có mặt hay không ?"; "Ta phải có mặt trong đời này
?"; "Ta có mặt như vậy"; "Ta có mặt khác như vậy";
"Mong rằng ta có mặt"; "Mong rằng ta có mặt trong đời này";
"Mong rằng ta có mặt như vậy !"; "Mong rằng ta có mặt khác như
vậy!"; "Ta sẽ có mặt"; "Ta sẽ có mặt trong đời này";
"Ta sẽ có mặt như vậy"; "Ta sẽ có mặt khác như vậy".
Có mười tám ái hành này liên hệ với nội tâm.
4. Thế nào là mười tám ái hành
liên hệ với ngoại cảnh ?
Khi nào có tư tưởng : "Với cái
này, Ta có mặt", thời có những tư tưởng sau: "Với cái này, Ta
có mặt trong đời này"; "Với cái này, Ta có mặt như vậy";
"Với cái này, Ta có mặt khác như vậy"; "Với cái này, Ta
không phải thường hằng"; "Với cái này, Ta là thường hằng";
"Với cái này, Ta phải có mặt hay không ?"; "Với cái này, Ta
phải có mặt trong thế giới này?"; "Với cái này, Ta có mặt như
vậy"; "Với cái này, Ta có mặt khác như vậy"; "Với cái
này, mong rằng ta có mặt"; "Với cái này, mong rằng ta có mặt
trong đời này"; "Với cái này, mong rằng ta có mặt như vậy
!";" Với cái này, tôi sẽ có mặt"; "Với cái này, tôi sẽ
có mặt trong đời này";" Với cái này, tôi sẽ có mặt như vậy";"
Với cái này, tôi sẽ có mặt khác như vậy".
Có mười tám ái hành này liên hệ
với ngoại cảnh.
5. Mười tám ái hành này liên hệ
với nội tâm, và mười tám ái hành này liên hệ đến ngoại cảnh. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là ba mươi sáu ái hành. Ba mươi sáu ái hành quá khứ
như vậy ; ba mươi sáu ái hành vị lai như vậy; ba mươi sáu ái hành hiện
tại như vậy. Như vậy là một trăm lẻ tám ái hành.
6. Này các Tỷ-kheo, đây là ái
này, lưới triền, khiến cho lưu chuyển, được trải rộng ra, bám dính
vào; chính do ái ấy, thế giới này bị hoại vong, trói buộc, rối loạn
như một cuộn chỉ, rối ren như một ổ kén, quyện lại như cỏ mujia và
lau sậy babbaja, không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh tử.