- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 6b
- IV. PHẨM CHƯ THIÊN
(I) (31) HỮU HỌC
1. - Sáu pháp này, này các Tỷ-kheo,
đưa Tỷ-kheo hữu học đến thối đọa. Thế nào là sáu ?
2. Ưa công việc, ưa nói chuyện,
ưa ngủ, ưa hội chúng, các căn không phòng hộ, ăn uống không tiết độ.
Sáu pháp này, này các Tỷ-kheo,
đưa Tỷ-kheo hữu học đến thối đọa.
3. Sáu pháp này, này các Tỷ-kheo,
không đưa Tỷ-kheo hữu học đến thối đọa. Thế nào là sáu ?
4. Không ưa công việc, không ưa nói
chuyện, không ưa ngủ nghỉ, không ưa hội chúng, các căn có phòng hộ, ăn
uống có tiết độ.
Sáu pháp này, này các Tỷ-kheo,
không đưa Tỷ-kheo hữu học đến thối đọa.
(II) (32) KHÔNG THỐI ĐỌA (1)
1. Rồi một Thiên nhân, sau khi đêm
đã gần tàn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến
Thế Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một
bên, Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn : "Có sáu pháp này, bạch Thế Tôn,
không đưa Tỷ-kheo đến thối đọa. Thế nào là sáu ? Kính trọng Đạo
Sư, kính trọng Pháp, kính trọng chúng Tăng, kính trọng học pháp, kính trọng
không phóng dật, kính trọng tiếp đón. Sáu pháp này, bạch Thế Tôn,
không đưa Tỷ-kheo đến thối đọa.
Thiên nhân ấy nói như vậy, Bậc
Đạo Sư chấp nhận. Rồi Thiên nhân ấy nghĩ rằng : "Bậc Đạo Sư đã
chấp nhận ta", đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi
biến mất tại chỗ.
2. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã
qua, gọi các Tỷ-kheo :
- Đêm nay, này các Tỷ-kheo, có một
Thiên nhân, sau khi đêm đã gần tàn, với dung sắc thù thắng chói sánh
toàn vùng Jetavana, đi đến Ta ; sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một
bên. Đứng một bên, này các Tỷ-kheo, Thiên nhân ấy nói với Ta : "Có
sáu pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến thối đọa. Thế nào
là sáu ? Kính trọng Đạo Sư, kính trọng Pháp, kính trọng chúng Tăng, kính
trọng học pháp, kính trọng không phóng dật, kính trọng tiếp đón. Sáu
pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến thối đọa". Này
các Tỷ-kheo, Thiên nhân ấy nói như vậy. Nói như vậy xong, vị ấy đảnh
lễ Ta, thân bên hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.
Tỷ-kheo kính Đạo Sư,
Cung kính Pháp và Tăng,
Học pháp không phóng dật,
Cung kính nghinh tiếp đón,
Không thể bị thối đọa,
Nhất định gần Niết-bàn.
(III) (33) KHÔNG THỐI ĐỌA (2)
1. - Đêm nay, này các Tỷ-kheo, một
Thiên nhân, sau khi đêm đã gần tàn, với dung sắc thù thắng chói sáng
toàn vùng Jatavana, đi đến Ta ; sau khi đến đảnh lễ Ta rồi đứng một bên.
Đứng một bên, này các Tỷ-kheo, Thiên nhân ấy thưa với Ta : "Có sáu
pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến thối đọa. Thế nào là
sáu ? Kính trọng Đạo Sư, kính trọng Pháp, kính trọng chúng Tăng, kính trọng
học pháp, kính trông hổ thẹn, kính trọng sợ hãi. Sáu pháp này, bạch Thế
Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến thối đọa". Này các Tỷ-kheo, Thiên nhân
ấy nói như vậy. Nói như vậy xong, vị ấy đảnh lễ Ta, thân bên hướng
về Ta rồi biến mất tại chỗ.
Cung kính bậc Đạo Sư,
Cung kính lớn Pháp Tăng,
Đầy đủ tàm và quý
Kính nhường và cung kính,
Không thể bị thối đọa,
Nhất định gần Niết-bàn.
(IV) (34) ĐẠI MỤC-KIỀN-LIÊN
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì, tại Jetavana, chỗ khu vườn ông Anàthapindika. Rồi Tôn giả
Mahà Moggallàna trong khi độc cư thiền tịnh, những suy nghĩ như sau được
khởi lên : "Có bao nhiêu chư Thiên có trí như sau : "Ta là bậc Dự
lưu, không còn bị đọa lạc, quyết chắc đạt được giác ngộ" ?
"
Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo Tissa mệnh
chung không bao lâu, được lên một Phạm thiên giới. Tại đấy, họ biết
vị ấy là : "Phạm thiên Tissa, có đại thần lực, có đại uy lực".
2. Rồi Tôn giả Mahà Moggallàna, ví
như người lực sĩ duỗi bàn tay đang co lại hay co lại bàn tay đang duỗi
ra, cũng vậy biến mất ở Jetavana và hiện ra ở Phạm thiên giới ấy. Phạm
thiên Tissa thấy Tôn giả Mahà Moggallàna từ xa đi đến ; sau khi thấy, nói
Tôn giả Mahà Moggallàna :
- Hãy đến, bạn Moggallàna ! Thiện
lai, bạn Moggallàna ! Đã lâu, bạn Moggallàna, mới tạo cơ hội này, tức
là đến đây. Này bạn Moggallàna, hãy ngồi trên chỗ đã soạn này !
"
Tôn giả Mahà Moggalàna ngồi xuống
trên chỗ đã soạn sẵn. Phạm thiên Tissa đảnh lễ Tôn giả Mahà
Moggallàna, rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Mahà Moggallàna nói với Phạm
thiên đang ngồi một bên :
- Có bao nhiêu Thiện nhân, này
Tissa, có trí như sau : "Chúng ta là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc đạt đến giác ngộ" ?
- Này bạn Moggallàna, bốn Thiên vương
có trí như sau : "Chúng ta là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc đạt đến giác ngộ".
- Này Tissa, có phải tất cả Bốn
Thiên vương đều có trí như sau : "Chúng ta là bậc Dự lưu, không còn
bị thối đọa, quyết chắc đạt đến giác ngộ" ?
- Này bạn Moggallàna, không phải tất
cả Bốn Thiên vương đều có trí như sau : "Chúng ta là bậc Dự lưu,
không còn bị đọa lạc, quyết chắc đạt đến giác ngộ". Này bạn
Moggallana, Bốn Thiên vương nào không thành tựu lòng tín bất động đối
với đức Phật, không thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Pháp,
không thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Tăng, không thành tựu
các Giới Luật được các bậc Thánh ái kính, Bốn Thiên vương ấy không
có trí như sau : "Chúng ta là bậc Dự lưu không còn bị thối đọa,
quyết chắc đạt đến giác ngộ". Và này bạn Moggallàna, Bốn Thiên vương
nào thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Phật, thành tựu lòng
tịnh tín bất động đối với Tăng, thành tựu lòng tịnh tín bất động
đối với các Giới được bậc trí ái kính, Bốn Thiên vương ấy có trí
như sau : "Chúng ta là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc
đạt đến giác ngộ".
- Này Tissa, có phải chỉ có Bốn
Thiên vương mới có trí như sau : "Chúng ta là bậc Dự lưu, không còn
bị thối đọa, quyết chắc đạt đến giác ngộ", hay các chư thiên
ở cõi trời Ba mươi ba... hay các chư Thiên Dạ-ma... hay các chư Thiên ở
cõi Tusità (Đâu-suất)... hay chư thiên Hóa lạc hay chư Thiên tha hóa Tự tại...
cũng có trí như sau : "Chúng ta là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc đạt đến giác ngộ" ?
- Này bạn Moggallàna, chư Thiên Tha
hóa Tự tại có trí như sau : "Chúng ta là bậc dự lưu, không còn bị
thối đọa, quyết chắc đạt đến giác ngộ".
- Này Tissa, có phải tất cả chư
Thiên Tha hóa Tự tại đều có trí như sau : "Chúng ta là bậc Dự lưu,
không còn bị đọa lạc, quyết chắc đạt đến giác ngộ" ?
- Này bạn Moggallàna, không phải tất
cả chư Thiên Tha hóa Tự tại đều có trí như sau : "Chúng ta là bậc
Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc đạt đến giác ngộ".
Này bạn Moggallàna, chư thiên Tha hóa Tự tại nào với đức Phật, không
thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Pháp, không thành tựu lòng
tịnh tín bất động với Tăng, không thành tựu lòng tịnh tín bất động
đối với các Giới được các bậc Thánh ái kính, các chư Thiên ấy
không có trí như sau : "Chúng ta là bậc Dư lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc đạt đến giác ngộ". Và này bạn Moggallàna, chư thiên
Tha hóa Tự tại nào thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức
Phật, thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Pháp, thành tựu
lòng tịnh tín bất động đối với Tăng, thành tựu các Giới được các
bậc Thánh ái kính, chỉ những chư Thiên ấy mới có trí như sau : "Chúng
ta là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc đạt đến giác
ngộ".
3. Rồi Tôn giả Mahà Moggalàna sau
khi hoan hỷ tín thọ lời nói của Phạm thiên Tissa, như một người lực
sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy,
biến mất tại Phạm thiên giới và hiện tại Jetavana.
(V) (35) MINH PHẦN
1. - Có sáu pháp này thuộc về minh
phần. Thế nào là sáu ?
2. Tưởng vô thường, tưởng khổ
trong vô thường, tưởng vô ngã trong khổ, tưởng đoạn tận, tưởng ly
tham, tưởng đoạn diệt.
Sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, là
thuộc về minh phần.
(VI) (36) GỐC RỄ CỦA ĐẤU TRANH
1. - Có sáu gốc rễ đấu tranh này,
này các Tỷ-kheo. Thế nào là sáu ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
phẫn nộ và hiềm hận.
Này các Tỷ-kheo, ở đây, vị Tỷ-kheo
phẫn nộ, hiềm hận. Này các Tỷ-kheo, ai phẫn nộ, hiềm hận, vị ấy sống
không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo Sư, sống không cung kính, không
tùy thuận Pháp, sống không cung kính, không tùy thuận Tăng, không thành tựu
đầy đủ các Học pháp. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống không cung kính,
không tùy thuận bậc Đạo Sư, không cung kính, không tùy thuận Pháp, không
tùy thuận Tăng, không thành tựu đầu đủ các Học pháp, vị ấy khởi
lên tranh luận giữa chư Tăng. Tranh luận như vậy khiến nhiều người không
hạnh phúc, khiến nhiều người không an lạc, khiến nhiều người không lợi
ích, khiến chư Thiên và loài Người không hạnh phúc và đau khổ. Này các
Tỷ-kheo, nếu các Thầy thấy ác tránh căn ấy giữ các Thầy hay ngoài các
Thầy, này các Tỷ-kheo, các Thầy phải cố gắng đoạn trừ ác tránh căn
ấy. Này các Tỷ-kheo, nếu các Thầy không ác tránh căn ấy giữa các Thầy
hãy tác động đừng cho ác tránh căn ấy có cơ hội làm hại trong tương
lai. Như vậy là đoạn tận ác tránh căn ấy. Như vậy là ngăn chận nguy hại
ác tránh căn ấy trong tương lai.
3. Này các Tỷ-kheo, lại nữa, vị
Tỷ-kheo giả dối và não hại... tật đố và xan tham... lừa đảo vá man
trá... ác dục và tà kiến... chấp trước sở kiến, kiên trì gìn giữ, rất
khó rời bỏ. Này các Hiền giả, Tỷ-kheo chấp trước sở kiến, kiên trì
gìn giữ rất khó rời bỏ, vị ấy sống không cung kính, không tùy thuận
bậc đạo Sư, không cung kính, không tùy thuận Pháp, không cung kính, không
tùy thuận Tăng, không thành tựu đầy đủ các Học pháp. Này các Hiền giả,
Tỷ-kheo không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo Sư... Pháp... Tăng... không
thành tựu đầy đủ các Học pháp, vị ấy khởi lên tranh luận giữa chư
Tăng. Tranh luận như vậy khiến nhiều người không hạnh phúc, khiến nhiều
người không an lạc, khiến nhiều người không ích lợi, khiến chư Thiên
và loài Người không hạnh phúc và đau khổ. Này các Tỷ-kheo, nếu các Thầy
thấy được ác tránh căn ấy giữa các Thầy hay ngoài các Thầy, các Thầy
phải cố gắng đoạn trừ ác tránh căn ấy. Này các Tỷ-kheo, nếu các Thầy
không thấy ác tránh căn ấy giữa các Thầy hay ngoài các Thầy, các Thầy
hãy gìn giữ đừng cho ác tránh căn ấy có cơ hội làm hại trong tương
lai. Như vậy là sự đoạn tận ác tránh căn ấy. Như vậy là ngăn chặn
ngay hại ác tránh căn ấy trong tương lai.
Này các Tỷ-kheo, đây là sáu tránh
căn.
(VII) (37) BỐ THÍ
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì, tại Jetavata, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, mẹ
của Nanda, nữ gia chủ người Velukandaki làm một thí vật gồm có sáu phần
cho chúng Tỷ-kheo Tăng, cầm đầu là Sariputta và Moggallàna. Thế Tôn với
thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, thấy mẹ của Nanda, nữ gia chủ người
Velukandaki làm một thí vật gồm có sáu phần cho chúng Tỷ-kheo Tăng, cầm
đầu là Sàriputta và Moggallàna. Sau khi thấy vậy Thế Tôn liền bảo các Tỷ-kheo
:
- Có mẹ của Nanda, nữ gia chủ người
Velukandaki làm một thí vật gồm có sáu phần cho chúng Tỷ-kheo Tăng, cầm
đầu là Sàriputta và Moggallàna. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thí vật
gồm có sáu phần cho chúng Tỷ-kheo Tăng ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có ba
phần thuộc người bố thí và có ba phần thuộc người nhận đồ bố thí.
Thế nào là ba phần thuộc về người bố thí ? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
người bố thí, trước khi bố thí, ý được vui lòng ; trong khi bố thí,
tâm được tịnh tín ; sau khi bố thí, cảm thấy hoan hỷ. Đây là ba phần
của người bố thí. Thế nào là ba phần của người nhận bố thí ? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, những người nhận vật bố thí, đã được ly tham
hay đang thực hành hạnh ly tham ; đã được ly sân hay đang thực hành hạnh
ly sân ; đã được ly si hay đang thực hành hạnh ly si. Đây là ba phần của
những người nhận vật bố thí. Như vậy là ba phần của người bố thí
và ba phần của những người nhận được vật bố thí. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là thí vật gồm có sáu phần.
3. Như vậy, này các Tỷ-kheo, thực
không dễ gì nắm được số lượng về công đức một thí vật gồm có
sáu phần như vậy : "Có chừng ấy nguồn sanh phước, nguồn sanh thiện,
món ăn an lạc, thuộc Thiên giới, là quả lạc dị thục, dẫn đến cõi
Trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc" ; vì
rằng cả khố công đức lớn được xem là vô số, vô lượng. Ví như, này
các Tỷ-kheo, trong biển lớn, thật không dễ gì nắm lấy một số lượng
nước và nói rằng : "Có chừng ấy thùng nước, hay có chừng ấy trăm
thùng nước, hay có chừng ấy ngàn thùng nước, hay có chừng ấy trăm ngàn
thùng nước" ; vì rằng, cả khối lượng lớn nước được xem là vô
số, vô lượng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì để nắm
được số lượng về công đức của một thí vật gồm sáu phần như vậy
: "Có chừng ấy nguồn sanh phước, nguồn sanh thiện, món ăn lạc. thuộc
Thiên giới, là quả lạc dị thục, dẫn đến cõi Trời, đưa đến khả lạc,
khả hỷ, khả ý, hạnh phúc an lạc" ; vì rằng cả khối công đức lớn
được xem là vô số, vô lượng.
Trước bố thí, ý vui,
Khi bố thí, tâm tín.
Sau bố thí, hoan hỷ,
Đây lễ thí đầy đủ.
Ly tham và ly sân,
Ly si, không lậu hoặc,
Vị Phạm hạnh chế ngự
Là ruộng phước lễ thí.
Nếu tự thanh tịnh mình,
Tự tay mình bố thí,
Tự mình đến đời sau,
Lễ thí vậy, quả lớn.
Lễ thí vậy, bậc trí,
Với tín, tâm giải thoát,
Không hận thù, an lạc,
Bậc Hiền sanh ở đời.
(VIII) (38) TỰ LÀM
1. Rồi một vị Bà-la-môn đi đến
Thế Tôn ; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn :
2. - Thưa Tôn giả Gatama, tôi nói như
sau, có tri kiến như sau : "Không có tự mình làm, không có người khác
làm".
- Này Bà-la-môn, Ta không bao giờ thấy,
không bao giờ nghe lời nói như vậy, tri kiến như vậy. Sao người ta có thể
tự mình bước tới, hay tự mình bước lui, lại có thể nói rằng :
"Không có tự mình làm, không có người khác làm" ? Ông nghĩ thế
nào, này Bà-la-môn, có phát khởi giới hay không ? (Có vần đề khởi sự
bắt đầu không ? )
- Thưa có, thưa Tôn giả.
Nếu đã có sự khởi sự, thời
các loài hữu tình có được nêu rõ là có khởi sự không ?
- Thưa có, thưa tôn giả.
- Này Bà-la-môn, đã có khởi sự,
các loài hữu tình có được nêu rõ là có khởi sự, thời đây là tự
mình làm, đây là người khác làm của các loài hữu tình. Ông nghĩ thế nào,
này Bà-la-môn, có sự khởi xuất giới... có sự khởi nhập giới... có sự
nỗ lựa giới... có sự kiên trì giới... có sự dõng tiến giới hay không
?
- Thưa có, thưa Tôn giả.
- Này Bà-la-môn, nếu đã có sự
dõng tiến giới, thời các loài hữu tình có được nêu rõ có sự dõng tiến
giới không ?
- Thưa có, thưa Tôn giả.
- Này Bà-la-môn, đã có sự dõng tiến
giới, các loài hữu tình có được nêu rõ là có sự dõng tiến giới, thời
đây là tự mình làm, đây là người khác làm của các loài hữu tình.
Này Bà-la-môn, Ta không bao giờ thấy, không bao giờ nghe nói như vậy, tri
kiến như vậy. Sao người ta lại có thể tự mình bước tới, tự mình bước
lui lại có thể nói rằng : "Không có tự mình làm, không có người khác
làm".
- Thật vi diệu thay, Thưa Tôn giả
Gotama ! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Gotama... Từ nay cho đến mạng
chung, con trọn đời quy ngưỡng
(IX) (39) NHÂN DUYÊN
1. - Có ba nhân duyên này, này các Tỷ-kheo,
khiến các nghiệp khởi lên. Thế nào là ba ?
2. Tham là nhân duyên khiến các nghiệp
khởi lên. Sân là nhân duyên khiến các nghiệp khởi lên. Si là nhân duyên
khiến các nghiệp khởi lên. Này các Tỷ-kheo, không phải từ tham, không
tham khởi các Tỷ-kheo, không phải từ tham, không tham khởi lên. Này các Tỷ-kheo,
chính từ tham, chỉ có tham khởi lên. Này các Tỷ-kheo, không phải từ si,
không sân khởi lên. Này các Tỷ-kheo, chính từ sân, chỉ có sân khởi
lên. Này các Tỷ-kheo, không phải từ si, không si khởi lên. Này các Tỷ-kheo,
chính từ si, chỉ có si khởi lên. Này các Tỷ-kheo, không phải do nghiệp từ
tham sanh, không phải do nghiệp từ sân sanh, không phải do nghiệp từ si
sanh, chu Thiên được nêu rõ, loài Người được nêu rõ, hay những loài
khác đang ở trong thiện thú. Này các Tỷ-kheo, chính do nghiệp từ tham
sanh, chính do nghiệp từ sân sanh, chính do nghiệp từ si sanh, địa ngục
được nêu rõ, các loài bàng sanh được nêu rõ, các loại ngạ quỷ được
nêu rõ, và các loài khác đang ở trong ác thú.
Đây là ba nhân duyên, này các Tỷ-kheo,
khiến các nghiệp khởi lên.
3. Có ba nhân duyên này, này các Tỷ-kheo,
khiến các nghiệp khởi lên. Thế nào là ba ?
4. Không tham là nhân duyên khiến
các nghiệp khởi lên, không sân là nhân duyên khiến các nghiệp khởi lên,
không si là nhân duyên khiến các nghiệp khởi lên. Không phải từ không
tham, tham khởi lên. Này các Tỷ-kheo, chính từ không tham, chỉ có không
tham khởi lên. Này các Tỷ-kheo, không phải từ không sân, sân khởi lên.
Này các Tỷ-kheo, chính từ không sân, chỉ có không sân khởi lên. Này các
Tỷ-kheo, không phải từ không si, si khởi lên. Này các Tỷ-kheo, chính từ
không si, si khởi lên. Này các Tỷ-kheo, chính từ không si, chỉ có không si
khởi lên. Này các Tỷ-kheo, không phải do nghiệp từ không tham sanh, không
phải do nghiệp từ không sân sanh, không phải do nghiệp từ không sân sanh,
địa ngục được nêu rõ, loài bàng sanh được nêu rõ, cõi ngạ quỹ được
nêu rõ, và các loài khác đang ở trong ác thú. nhưng này các Tỷ-kheo,
chính do nghiệp từ không tham sanh, chính do nghiệp từ không sân sanh, chính
do nghiệp từ không si sanh, chư Thiên được nêu rõ, loài Người được nêu
rõ, và các loài khác đang ở trong thiện thú.
Đây là ba nhân duyên, này các Tỷ-kheo,
khiến các nghiệp khởi lên.
(X) (40) TÔN GIẢ KIMBILA
1. Như vầy tôi nghe :
Một thời, Thế Tôn trú ở Kimbila,
tại rừng Trúc. Rồi Tôn giả Kimbila đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Kimbila bạch Thế Tôn :
2. - Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, sau khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp không còn tồn tại lâu dài
?
3. - Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai
nhập diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống không cung
kính, không tùy thuận Pháp ; sống không cung kính, không tùy thuận chúng Tăng
; sống không cung kính, không tùy thuận học pháp ; sống không cung kính,
không tùy thuận không phóng dật ; sống không cung kính, không tùy thuận tiếp
đón. Này Kimbila, đây là nhân, đây là duyên khiến chi Như Lai nhập diệt,
Diệu pháp không tồn tại lâu dài.
4. - Do nhân gì, do duyên gì khi Như
Lai nhân diệt, Diệu pháp được tồn tại lâu dài ?
5. Ở đây, này Kimbila, khi Thế Tôn
nhập diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống cung kính
tùy thuận bậc Đạo Sư ; sống cung kính tùy thuận Pháp ; sống cung kính
tùy thuận chúng Tăng ; sống cung kính tùy thuận học pháp ; sống cung kính
tùy thuận không phóng dật ; sống cung kính tùy thuận tiếp đón. Đây là
nhân, đây là duyên, khi Như lai nhập diệt, Diệu pháp được tồn tại lâu
dài
(XI) (41) ĐỐNG GỖ
1. Như vầy tôi nghe :
Một thời, Tôn giả Sàriputta trú
ở Ràjagaha, tại núi Gijjhakùta. Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi sáng đắp
y, cầm y bát cùng với số đông Tỷ-kheo, từ núi Gijjhakùta đi xuống. Tôn
giả thấy tại một chỗ nọ, một đống gỗ to lớn, thấy vậy liền nói
với các Tỷ-kheo :
- Này các Hiền giả, các Hiền giả
có thấy đống gỗ to lớn ấy không ?
- Thưa Hiền giả, có thấy.
2. - Nếu muốn, này các Hiền giả,
một Tỷ-kheo có thần không, đạt được tâm sự tại có thể quán (Tập
Sớ Sallakkheyya : Thắng giải, thiên về, hướng về) Đống gỗ ấy thành
địa đại. Vì cớ sao ? Vì rằng có địa giới trong đống gỗ lớn ấy,
y tựa theo đó, Tỷ-kheo có thần thông, đạt được tâm sự tại có thể
quán đống gỗ ấy thành địa đại.
3. Nếu muốn, này các Hiền giả, Tỷ-kheo
có thần thông, đạt được tâm tự tại, có thể quán đống gỗ lớn ấy
thành nước... thành lửa... thành gió... thành tịnh... thành bất tịnh. Vì
cớ sao? Vì rằng có bất tịnh trong đống gỗ lớn ấy, y tựa theo đó, Tỷ-kheo
có thần thông, đạt được tâm sự tại, có thể quán đống gỗ ấy thành
bất tịnh.
(XII) (42) TÔN GIẢ NÀGITA
1. Như vậy tôi nghe :
Một thời thế Tôn đang bộ hành
giữa các người Kosala, cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến một làng
Bà-la-môn tên là Icchànangala. Tại đấy, Thế Tôn trú ở Icchànangala, trong
khóm rừng Icchànangala. Các Bà-la-môn gia củ ở Icchànangala được nghe :
"Tôn giả Gotama là Thích tử, xuất gia từ gia đình họ Thích, đã đến
Icchànangala, trú ở Icchànangaka trong khóm rừng Icchànagala. Về Tôn giả
Gotama ấy, tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi : "Đây là
Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Thế Tôn.
Với thắng trí, Ngài tự thân chúng ngộ thế giới này cũng với Thiên giới,
Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và Người.
Sau khi đã chúng ngộ, Ngài tuyên thuyết điều Ngài đã chúng ngộ, Ngài
thuyết pháp điều Ngài đã chúng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung
thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn
toàn đầy đủ trong sạch". Tốt đẹp thay, sự chiêm ngưỡng một vị
A-la-hán như vậy ! ". Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Icchànangala, sau khi
đêm ấy đã mãn, cầm theo rất nhiều đồ ăn loại cứng và loại mềm,
đi đến khóm rừng Icchànangala, sau khi đến, đứng ở ngoài cổng vào, cao
tiếng và lớn tiếng.
2. Lúc bấy giờ, Tôn giả Nàgita
là thị giả của Thế Tôn. Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Nàgita :
- Này Nàgita, những ai đã cao tiếng
và lớn tiếng như những người đánh cá đang giết hại cá ?
- Các người ấy, bạch thế Tôn,
là các Bà-la-môn gia chủ trú ở Icchànangala đang đứng ở khu viên cổng
ngoài, đem theo rất nhiều đồ ăn loại cứng và loại mềm cho Thế tôn
và chúng Tăng.
- Này Nàgita, Ta không có liên hệ
gì với danh vọng và danh vọng không có liên hệ gì với Ta, Này Nàgita, những
ai tìm được có khó khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức
an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc, mà Ta đã tìm được
không khó khăn, tìm được không mệt nhọc, tìm được không phí sức,
hãy để họ thọ hưởng lạc như phân ấy, thụy miên lạc, lợi dưỡng,
cung kính, danh văn lạc.
- Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy
chấp nhận ! Thiện Thệ hãy chấp nhận ! Nay Thế Tôn sẽ đi đến chỗ nào,
tại chỗ ấy các Bà-la-môn gia chủ ở thị trấn và ở quốc độ cũng sẽ
đi đến với tâm hướng về cúng dường. Ví như trời mưa nặng hột, và
nước được chảy tùy theo chiều dốc ; cũng vậy, bạch Thế Tôn, nay Thế
Tôn sẽ đi đến chỗ nào. tại chỗ ấy cũng sẽ đi đến, với tâm hướng
về cúng dường. Vì cớ sao ? Bạch Thế Tôn do vì giới hạnh và trí tuệ
của Thế Tôn !
- Này Nàgita, Ta không vó liên hệ
gì với danh vọng và danh vọng không có liên hệ gì với Ta. Này Nàgita, những
ai tìm được có khó khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức
an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc mà Ta đã tìm được
không khó khăn, tìm được không mệt nhọc, tìm được không phí sức,
hãy để họ thọ hưởng lạc như phân ấy, thụy miên lạc, lợi dưỡng,
cung kính, danh văn lạc.
3. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy một
Tỷ-kheo ngồi Thiền định tại trú xứ ở cuối làng. Này Nàgita, về vị
ấy, Ta suy nghĩ như sau : "Nay có người coi khu vườn hay người Sa-di phá
phách vị Tỷ-kheo này, làm cho vị này xuất khỏi thiền định". Do vậy,
này Nàgita, Ta không có hoan hỷ với trú xứ của vị ấy.
4. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy một
Tỷ-kheo đang ngồi ngủ ngục ở trong rừng. Này Nàgita, Ta suy nghĩ về vị
ấy như sau : "Nay vị Tỷ-kheo này, sau khi đoạn trừ ngủ nghỉ và mệt
nhọc, sẽ tác ý tưởng về rừng đạt được nhất tâm". Do vậy, nầy
Nàgita, ta hoan hỷ với trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy.
5. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy Tỷ-kheo
sống ở rừng, ngồi không Thiền định trong rừng. Này Nàgita, đối với
vị ấy, Ta suy nghĩ : "Nay Tỷ-kheo này sẽ Thiền định được tâm
không Thiền định, hay sẽ bảo vệ tâm đã được Thiền định". Do vậy,
này Nàgita. Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy.
6. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy Tỷ-kheo
sống ở rừng ngồi với tâm Thiền định ở rừng. này Nàgita, đối với
vị ấy, Ta suy nghĩ : "Nay Tỷ-kheo này sẽ giải thoát". Do vậy,
này Nàgita, Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy.
7. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy Tỷ-kheo
sống ở cuối làng, nhận được vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực,
sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, thích thú với các lợi dưỡng, cung kính,
danh văn ấy, bỏ phế thiền tịnh, bỏ phế các trú xứ rừng núi cao
nguyên xa vắng, đi xuống làng, thị trấn, kinh đô để lo nuôi sống. Do vậy,
này Nàgita, Ta không có hoan hỷ về trú xứ cuối làng của Tỷ-kheo ấy.
8. Ở đây, này Nàgita, Ta thấy Tỷ-kheo
sống ở rừng nhận được các vật dụng cần thiết như y áo, đồ ăn khất
thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, nhưng chận đứng các lợi dưỡng,
cung kính, danh văn ấy, không bỏ phế Thiền tịnh, không bỏ phế các Trú
xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Do vậy, này Nàgita, Ta hoan hỷ về tú xứ
tại rừng của Tỷ-kheo ấy.
Nhưng khi Ta đang bước đi trên con
đường, trước mặt, Ta không thấy ai ; sau lưng, Ta không thấy ai ; trong
khi ấy, Ta cảm thấy an ổn, này Nàgita, cho đến vấn đề đi đại, tiểu
tiện.
V. PHẨM DHAMMIKA
(I) (43) CON VOI
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. rồi Thế Tôn vào buổi
sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvavatthì để khất thực. Khất thực ở
Sàvavatthì xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, Ngài
gọi Tôn giả Ànanda :
- Này Ànanda, chúng ta hãy đi đến
Đông Viên, giảng đường Mẹ của Migàra để nghỉ trưa.
- Thưa vâng, bạch thế Tôn.
Tôn giả Ànanda vâng đáp thế Tôn.
Rồi Thế Tôn cùng với Tôn giả Ànanda đi đến Đông Viên, chỗ giảng
đường Mẹ của Migàra. Rồi Thế Tôn, vào buổi chiều, từ tịnh đứng dậy,
gọi tôn giả Ànanda :
- Này Ànanda, chúng ta hãy đi đến
Pubbakotthaka để rửa tay rửa chân.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ànanda vâng đáp Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn cùng với Tôn giả Ànanda đi đến Pubbkotthaka để rửa tay rửa
chân. Sau khi rửa tay rửa chân ở Pubbakotthaka xong, Thế Tôn lên đứng trên
bờ, đắp một tấm y, phơi tay chân cho khô.
2. Lúc bấy giờ, Seta, con voi của
vua Pasenadi nước Kosala, từ Pubbokatthaka đi ra, với nhiều tiếng các loại
trống và nhạc lớn tiếng, dân chúng thấy vậy liền nói : "Ôi đẹp
đẽ thay, thưa các Ngài, con voi của vua ! Đánh nhìn thay, thưa các Ngài, con
voi của vua ! Thoải mái thay, thưa các Ngài, con voi của vua ! Thân thể đầy
đủ thay, thưa các Ngài, là con voi của vua ! Con voi, thưa các Ngài, thật xứng
đáng là con voi ! "Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Udàyi bạch Thế
Tôn :
- Bạch Thế Tôn, quần chúng, do thấy
con voi to lớn, đồ sộ, thân thể đẩy đà nói như sau : "Con voi, thưa
các Ngài, thật xứng đáng là con voi ! ". Hay là thấy một cái gì khác
to lớn, đồ sộ, thân thể đẩy đà nên họ nói như vậy : "Con voi,
thưa các Ngài, thật xứng đáng là con voi ! " ?
- Này Udàyi, quần chúng do thấy con
voi to lớn, đồ sộ, thân thể đẩu đà nên nói như sau : "Con voi,
thưa các Ngài thật xứng đáng là con voi ! "
Này Udàyi, thấy con ngựa... Này
Udàyi, thấy con bò... Này Udàyi, thấy con rắn... Này Udàyi, thấy cây...
này Udàyi thấy con người to lớn, đồ sộ, với thân thể đẩy đà nên
nói như sau : "Con voi, thưa các Ngài, thật xứng đáng là con voi !
"Nhưng Ta tuyên bố rằng, này Udàyi, trong thế giới chư Thiên này với
Ma giới, Phạm thiên giới, và trên thế giới này các Sa-môn. Bà-la-môn, chư
Thiện và loài Người, ai không phạm một tôi về thân, về lời, về ý
nghĩ, người ấy Ta nói rằng : "Người ấy là con voi".
- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn
! Thật hy hữu thay, bạch thế Tôn. Thế Tôn đã khéo nói như sau : "Này
Udàyi, trong thế giới chư Thiện này, với Ma giới, Phạm thiên giới, và
trên thế giới này với các Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài Người,
ai không phạm một tội lớn về thân, về lời, về ý, người ấy Ta nói
rằng : "Người ấy là con voi"".
Bạch Thế Tôn, lời nói tốt đẹp
này của Thế Tôn, con xin tùy hỷ với những câu kệ như sau :
Là con người tự giác,
Tự nhiếp phục, được định,
Đang đi đường Phạm thiên,
Tâm tịnh tín, hoan hỷ,
Cùng tận tất cả Pháp,
Vị ấy, loài người kính,
Vị ấy, chư thiên trọng.
Vị ấy, con được nghe,
LÀ bậc A-la-hán.
Mọi kiết sử vượt qua,
Thoát rừng, đến Niết-bàn,
Hoan hỷ sống an ổn,
Rời khỏi các dục vọng,
Như vàng thoát đá sỏi.
Voi ấy rực chói sáng,
Chiếu sáng khắp tất cả,
Như ngọn núi Tuyết sơn,
Cao hơn mọi núi đá.
Vị đạt chân, vô thượng,
Vượt tất cả loài voi,
Ta sẽ khen vị voi,
Không làm các tội phạm,
Nhu hòa và thất bại,
Là hai bàn chân trước,
Khổ hạnh và Phạm hạnh,
Là hai bàn chân sau.
Lòng tin là vòi voi,
Trú xả đôi ngà trắng,
Niệm là cô của voi.
Nếu có suy tư gì
Là suy tư Chánh pháp
Bụng là chỗ chứa pháp,
Đuôi là sống viễn ly,
Vị ấy tu Thiền định,
Hoan hỷ trong hơi thở,
Với nội tâm định tĩnh,
Khéo định tâm Thiền định.
Voi đi là hành Thiền,
Voi đứng là hành Thiền,
Voi nằm là hành Thiền,
Voi hộ trì tất cả,
Đây viên mãn của voi.
Voi ăn, không phạm lỗi,
Có phạm lỗi không ăn.
Nhận được cơm và áo,
Quyết từ bỏ chất chứa,
Các kiết sử lớn nhỏ,
Cắt đứt mọi trói buộc.
Chỗ nào vị ấy đi,
Vị ấy đi không cầu
Giống như bông hoa sen,
Sanh và lớn trong nước,
Không bị nước uế nhiễm,
Hương thơm đẹp ý người.
Cũng vậy là đức Phật,
Khéo sanh, vượt khỏi đời,
Không bị đời uế nhiễm,
Như sen không dính nước,
Như lửa lớn cháy đỏ,
Không nhiên liệu, tự tắt,
Ai lắng dịu các hành,
Được gọi bậc Tịch tịnh.
Ví dụ này nhiều nghĩa,
Do bậc trí thuyết giảng.
Bậc ly tham, ly sân,
Ly si, không lậu hoặc,
Voi này từ bỏ thân,
Nhập diệt, không lậu hoặc.
(II) (44) MIGASALA
1. Rồi Tôn giả Ànanada vào buổi
sáng đắp y, cầm y vát, đi đến trú xứ của nữ tu sĩ Migasàlà ; sau khi
đến, ngồi trên ghế đã soạn sẵn. ngồi xuống một bên, nữ cư sĩ
Migasàlà thưa với Tôn giả Ànanda :
2.- Như thế nào, thế nào, thưa Tôn
giả Ànanda, cần phải hiểu pháp này do Thế Tôn tuyên thuyết (nói rằng)
: "Cả hai sống Phạm hạnh đều đồng đẳng về sanh thú trong tương
lai ? " Puràna, thân phụ của con, thưa Tôn giả, sống Phạm hạnh, sống
biệt lập, tránh xa dâm dục hạ liệt, khi mệnh chung được Thế Tôn trả
lời : "Là bậc Dữ lưu sanh với thân ở Tusità ( Đâu-suất)". Còn
Isidatta, cậu của con, thưa Tôn giả, sống không Phạm hạnh, tự bằng
lòng với vợ mình, sau khi mệnh chung được Thế Tôn trả lời : "Là bậc
Dữ lưu, sanh với thân ở Tusità". Như thế nào, thế nào, thưa Tôn giả
Ànanda, cần phải hiểu pháp này do Thế Tôn tuyên thuyết (nói rằng) :
"Cả hai sống Phạm hạnh và sống không Phạm hạnh đều đồng đẳng
về sanh thú trong tương lai" ?
- Này Chị, như vậy là câu trả lời
của Thế Tôn.
3. Tôn giả Ànanda sau khi nhận đồ
ăn khất thực tại nhà của nữ cư sĩ Migasàlà, từ chỗ ngồi đứng dậy
rồi ra đi. Rồi Tôn giả Ànanda, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực
trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :
- Ở đây, bạch Thế Tôn, vào buổi
sáng con đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ của nữ cư sĩ Migasàlà, sau
khi đến, con ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Nữ cư sĩ Migasàlà đi
đến con, sau khi đến, đảnh lễ con rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, bạch Thế Tôn, nữ cư sĩ Migasàlà Ànanda thưa với con :
"Như thế nào, thế nào, thưa Tôn giả Ànanda, cần phải hiểu pháp
này do Thế Tôn tuyên thuyết (nói rằng) : "Cả hai sống Phạm hạnh và
sống không Phạm hạnh đều đồng đẳng về sanh thú trong tương lai".
Puràna thân phụ con, thưa Tôn giả, sống Phạm hạnh, sống biệt lập,
tránh xa dâm dục hạ liệt, khi mệnh chung, được Thế Tôn trả lời :
"Là bậc Dự lưu, sanh với thân ở Tusità". Còn Isidatta, cậu của
con, thưa Tôn giả, sống không Phạm hạnh, tự bằng lòng với vợ mình,
sau khi mệnh chung, được Thế Tôn trả lời : "Là bậc Dự lưu, sanh với
thân ở Tusità". Như thế nào, thế nào, thưa Tôn giả Ànanada, cần phải
hiểu pháp này do Phạm hạnh và sống không Phạm hạnh đều đồng đẳng
về sanh thú trong tương lai" ? "Được hỏi vậy, bạch Thế Tôn,
con nói với nữ cư sĩ Migasàlà : "Này Chị, như vậy là câu trả lời
của Thế Tôn".
- Nhưng này Ànanda, ai là nữ cư sĩ
Migasàlà lại ngu si, kém thông minh, với thân như bà mẹ, với trí như bà
mẹ, để có thể hiểu biết sự thắng liệt giữa các người ? Này
Ànanda, có sáu hạng người có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là sáu
?
4.- Ở đây, này Ànanda, có người
khéo tự chế ngự, dễ chung sống, các đồng Phạm hạnh hoan hỷ sống
chung. Vị ấy nghe Pháp có tác động, học nhiều có tác động, có thể nhập
vào tri kiến, có chứng đắc thời giải thoát. Người ấy sau khi thân hoại
mạng chung hướng về thối đọa, không hướng về thù thắng, chỉ đi đến
thối đọa, không đi về thù thắng.
5. Ở đây, này Ànanda, có người
khéo tự chế ngự, dễ chung sống, các đồng Phạm hạnh hoan hỷ sống
chung. Vị ấy nghe Pháp có tác động, học nhiều đắc thời giải thoát.
Người ấy sau khi thân hoại mạng chung hướng về thù thắng, không hướng
về thối đọa, chỉ đi đến thù thắng, không đi về thối đọa. Ở đây,
này Ànanda, những kẽ đo lường đo lường như sau : "Những pháp ấy của
vị này là như vậy, những pháp ấy của vị kia là như vậy ; làm sao
trong những hạng người này, có người hạ liệt, có người là thắng diệu
? Và do sự đo lường ấy, này Ànanda, đối với những người đo lường
là không hạnh phúc, là đau khổ lâu dài. Ở đây, này Ànanda, hạng người
này, khéo tự chế ngự, dễ chung sống, các đồng Phạm hạnh hoan hỷ sống
chung. Vị này nghe pháp có tác động, học nhiều có tác động, thể nhập
được vào tri kiến, chứng được thời giải thoát. Hạng người trước
là tiến bộ hơn, là thắng diệu hơn. Vì cớ sao ? Vì dòng pháp đưa người
này ra phía trước. Nhưng ai ngoài Như Lai có thể biết được sự khác biệt
? Do vậy, này Ànanda, chớ có là người đo lường các hạng người. Chớ
có lấy sự đo lường của các hạng người. Này Ànanada, tự đào hố cho
mình là người đi lấy sự đo mới có thể lấy sự đo lường của các hạng
người, hay là người như Ta.
6. Ở đây, này Ànanda, có hạng người
đã chinh phục được phẫn nộ và kiêu mạn, nhưng thỉnh thoảng các tham
pháp khởi lên ; với người này, nghe pháp không có tác động, học nhiều
không có tác động, không thể nhập tri kiến, không chứng được thời giải
thoát. Hạng người này sau khi thân hoại mạng chung hướng về thối đọa,
không hướng về thù thắng, chỉ đi đến thối đọa, không đi về thù thắng.
7. Ở đây, này Ànanda, có hạng người
đã chinh phục được phẫn nộ và kiêu mạn, nhưng thỉnh thoảng các tham
pháp khởi lên ; với người này, nghe pháp có tác động, học nhiều có
tác động, có thể nhập tri kiến, có chứng được thời giải thoát. Người
ấy sau khi thân hoại mạng chung hướng về thù thắng, không hướng về thối
đọa, chỉ đi đến thù thắng, không đi đến thối đọa...
8. Nhưng ở đây, này Ànanda, có hạng
người đã chinh phục được phẫn nộ và kiêu mạn, nhưng thỉnh thoảng
khẩu hành khởi lên ; với người này, nghe pháp không có tác động, học
nhiều không có tác động, không thể nhập tri kiến, không chứng được
thời giải thoát. Hạng người này sau khi thân hoại mạng chung hướng về
thối đọa, không hướng về thù thắng, chỉ đi đến thối đọa, không
đi đến thù thắng.
9. Ở đây, này Ànanda, có hạng người
đã chinh phục được phẫn nộ và kiêu mạn, nhưng thỉnh thoảng khẩu hành
khởi lên. Với người này, nghe pháp có tác động, học nhiều có tác động,
có thể nhập tri kiến, chứng được thời giải thoát. Hạng người này
sau khi thân hoại mạng chung hướng về thù thắng, không hướng về thối
đọa, chỉ đi đến thù thắng, không đi đến thối đọa. Ở đây, Này
Ànanda, những kẻ đo lường đo lường như sau : "Những pháp ấy của
vị này là như vậy ; những pháp ấy của vị kia là như vậy. Làm sao
trong những hạng người là hạ liệt, cò người là thắng diệu ? "Và
sự đo lường ấy, này Ànanda, đối với những người đo lường là
không hạnh phúc, là đau khổ lâu dài.
Ở đây, này Ànanda, hạng người này
khéo tự chế ngự, dễ chung sống, các đồng Phạm hạnh hoan hỷ sống
chung. Bị này nghe pháp có tác động, học nhiều có tác động, thể nhập
được vào tri kiến, chứng được thời giải thoát. Hạng người này,
này Ànanda, so sánh với hạng người trước là tiến bộ hơn, là thắng diệu
hơn. Vì cớ sao ? Vì dòng pháp đưa người này ra phía trước. Nhưng ai ngoài
Như Lai có thể biết được sự khác biệt ? Do vậy, này Ànanda, chớ có
làm người đo lường các hạng người. Chớ có lấy sự đo lường của các
hạng người. Này Ànanda, tự đào hố cho mình là người đi lấy sự đo
lường của các hạng người. Chỉ có Ta, này Ànanda, mới có thể lấy sự
đo lường của các hạng người này hay là người như Ta.
Và này Ànanda, ai là nữ cư sĩ
Migasàlà, lại ngu si, kém thông minh, với thân như bà mẹ, với trí như bà
mẹ, để có thể biết sự thắng liệt giữa các người ? Này Ànanda, có
sáu hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Giới như thế nào, này
Ànanda, Puràna được thành tựu, giới ấy Isidatta chưa thành tựu. Do vậy
ở đây, Puràna có sanh thú khác với sanh thú của Isidatta. Tuệ như thế nào,
này Ànanda, Isidatta được thành tựu, tuệ ấy Puràna chưa thành tựu. Do vậy
ở đây, Isidatta có sanh thú khác với sanh thú của Puràna. Như vậy, này
Ànanda, cả hai người này đều có thiếu sót một chi phần.
(III) (45) NGHÈO KHỔ
1.-Sự nghèo khổ, này các Tỷ-kheo,
có phải là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Khi một người khổ không có sở
hữu, sống túng thiếu, phải mắc nợ, mắc nợ ấy, này các Tỷ-kheo, có
phải là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời ?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Khi một người nghèo khổ không
có sở hữu, sống túng thiếu, sau khi mắc nợ, phải chấp nhận tiền lời.
Tiền lời, này các Tỷ-kheo, có phải là một sự đau khổ cho người có
tham dục ở đời ?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn !
- Khi một người nghèo khổ, này
các Tỷ-kheo, không có sở hữu, sống túng thiếu phải chấp nhận tiền lời,
và khi thời hạn đến, không trả được tiền lời, người ta hối thúc,
đốc thúc người ấy. Sự thối thúc, đốc thúc, này các Tỷ-kheo, có phải
là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời ?
- Thưa vâng, bạch thế Tôn.
- Khi một người nghèo khổ, này
các Tỷ-kheo, không có sở hữu, sống túng thiếu, bị hối thúc, không trả
được, người ta theo sát gót truy tìm người ấy. Bị theo sát gót, bị
truy tìm, này các Tỷ-kheo, có phải là một sự đau khổ cho người có tham
dục ở đời ?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Khi một người nghèo khổ, này
các Tỷ-kheo, không có sở hữu, sống túng thiếu, bị theo sát gót, bị
truy tìm, không trả nợ được, người ta bắt trói người ấy. Sự bắt
trói, này các Tỷ-kheo, có phải là một sự đau khổ cho người có tham dục
ở đời ?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Này các Tỷ-kheo, như vậy, nghèo
khổ là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời ; mắc nợ cũng
là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời ; tiền lời cũng là
sự đau khổ cho người có tham dục ở đời ; bị hối thúc, đốc thúc cũng
là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời ; bị theo sát gót, bị
truy tìm cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời ; bị bắt
trói cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai
không có lòng tin trong các thiện pháp, không có lòng hổ thẹn trong các thiện
pháp, không có lòng sợ hãi trong các thiện pháp, không có tinh tấn trong
các thiện pháp, không có trí tuệ trong các thiện pháp ; người này, này
các Tỷ-kheo, được gọi là người nghèo khổ, không có sở hữu, sống
túng thiếu trong Luật của bậc Thánh.
2. Nay chính người ấy, này các Tỷ-kheo,
nghèo khổ, không có sở hữu, sống túng thiếu, không có lòng tin trong thiện
pháp, không có lòng hổ thẹn trong các thiện pháp, không có lòng sợ hãi
trong các thiện pháp, không có tinh tấn trong các thiện pháp, không có trí
tuệ trong các thiện pháp, làm ác hạnh về thân, làm ác hạnh về lời,
làm ác hạnh về ý nghĩ. Ta gọi người ấy là người mắc nợ. Người
ấy do nhân che giấu thân ác hạnh, khởi lên ác dục, muốn rằng :
"Mong rằng không ai biết ta làm", suy nghĩ rằng : "Mong rằng không
ai biết ta làm", nói rằng : "Mong rằng không ai biết ta làm", cố
gắng với tác động về thân, nghĩ rằng : "Mong rằng không ai biết ta
làm". Người ấy, do nhân che giấu ác hạnh về lời... ác hạnh về
ý, khởi lên ác dục, muốn rằng : "Mong rằng không ai biết ta
làm", suy nghĩ rằng : "Mong rằng không ai biết ta làm", cố gắng
với tác động về thân, nghĩ rằng : "Mong rằng không ai biết ta
làm". Đây Ta gọi rằng : "Tiền lời gia tăng". Và các đồng
Phạm hạnh thuần thành nói về người ấy như sau : "Tôn giả này có
làm như vậy, có sở hành như vậy". Đây Ta nói rằng, người ấy bị
hối thúc, đốc thúc, rồi đi đến rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến
ngôi nhà trống, các ác thiện tầm, câu hữu với hối lỗi hiện hành. Đây
Ta gọi là bị theo sát gót, bị truy tìm.
3. Nay chính người ấy, này các Tỷ-kheo,
nghèo khổ, không có sở hữu, sống túng thiếu, sau khi làm ác hạnh về
thân, sau khi làm ác hạnh về lời, sau khi làm ác hạnh về ý, khi thân hoại
mạng chung, bị trói buộc trong trói buộc của Địa ngục, bị trói buộc
trong trói buộc của loài bàng sanh. Và này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một
trói buộc nào khác lại khắc nghiệt như vậy, lại ác liệt như vậy, lại
làm chướng ngại như vậy cho sự chứng đắc vô thượng an ổn khỏi các
khổ ách, này các Tỷ-kheo, giống như sự trói buộc Địa ngục hay sự trói
buộc các loài bàng sanh.
Nghèo khổ và mắc nợ,
Được gọi khổ ở đời !
Kẻ bần cùng mắc nợ,
Thọ dụng, bị tổn hại,
Rồi bị người truy lùng,
Cho đến bị trói buộc.
Trói buộc vậy là khổ,
Cho người cầu được dục.
Như vậy trong Luật Thánh,
Ai sống không lòng tin,
Không xấu hổ, sợ hãi,
Quyết định chọn ác nghiệp.
Sau khi làm ác hạnh,
Về thân, lời và ý.
Lại mong muốn được rằng :
"Chớ ai biết ta làm".
Người ấy khéo che giấu,
Với thân, lời và ý,
Làm tăng trưởng ác nghiệp,
Tại đây, đó, làm nữa.
Người ác tuệ, ác nghiệp,
Biết việc ác mình làm,
Như kẻ nghèo mắc nợ,
Thọ dụng, bị tổn hại.
Những tư tưởng khổ đau
Sanh ra từ hối hận
Vẫn truy tìm người ấy,
Ở làng hoặc ở rừng.
Người ác nghiệp, ác tuệ,
Biết việc ác mình làm,
Hoặc rơi vào bàng sanh,
Hoặc bị trói Địa ngục.
Trói buộc này giải thoát,
Ai tâm tịnh bố thí,
Với vật dụng đúng pháp,
Gieo cầu may hai đường,
Tín tại gia tìm cầu,
Hiện tại được hạnh phúc,
Đời sau được an lạc.
Như vậy tại gia thí,
Tăng trưởng các công đức.
Như vậy trong Luật Thánh
Tín tâm được an trú.
Có xấu hổ, sợ hãi,
Có trí, bảo hộ giới,
Bậc ấy, trong Luật Thánh,
Được gọi : "Sống an lạc".
Được lạc không vật chất,
An trú trên tánh xả.
Từ bỏ năm triền cái,
Thường siêng năng, tinh cần,
Chứng Thiền định, nhứt tâm,
Thận trọng, giữ chánh niệm.
Biết như thật là vậy,
Đoạn diệt mọi kiết sử,
Hoàn toàn không chấp thủ,
Chơn chánh, tâm giải thoát,
Với chánh giải thoát ấy,
Nếu trí như vậy khởi :
"Bất động ta giải thoát,
Đoạn diệt hữu kiết sử".
Trí này, trí tối thượng,
Lạc này, lạc vô thượng,
Không dầu, không trần cấu,
Được an ổn, (giải thoát),
Trạng thái không nợ này,
Được xem là tối thượng.
(IV) (46) MAHÀCUNDA
1. Như vậy tôi nghe :
Một thời, Tôn giả Mahàcunda trú
ở Cetì, tại Sahajàti. Tại đấy, Tôn giả Mahàcunda gọi các Tỷ-kheo :
- Này các Hiền giả Tỷ-kheo !
- Thưa Hiền giả !
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Mahàcunda. Tôn giả Mahàcunda nói như sau :
2. - Ở đây, này chư Hiền, một số
Tỷ-kheo chuyên tâm về pháp không ưa thích các Tỷ-kheo tu Thiền, nói như
sau : "Các người này nói : "Chúng tôi tu Thiền, chúng tôi tu Thiền".
Họ tu Thiền, họ hành thiền. Những người này Thiền cái gì ? Những người
này Thiền có lợi ích gì ? Những người này Thiền như thế nào ? "Ở
đây, các Tỷ-kheo chuyên tâm về pháp không hoan hỷ, và các Tỷ-kheo tu Thiền
cũng không hoan hỷ ; hành động như vậy không đưa lại hạnh phúc cho nhiều
người, an lạc cho nhiều người, không đưa lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc
cho chư Thiên và loài Người.
3. Ở đây, này chư hiền, một số
Tỷ-kheo tu thiền không ưa thích các Tỷ-kheo chuyên tâm về pháp, nói như
sau : "Các người này nói : "Chúng tôi chuyên tâm về pháp, chúng
tôi huyết tâm về pháp". Họ tháo động, kiêu căng, dao động, lắm mồm,
lắm miệng, lắm lời, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm
tán loạn, các căn thả lỏng. Những người này chuyên tâm về pháp cái
gì ? Những người này chuyên tâm về pháp có lợi ích gì ? Những người
này chuyên tâm về pháp như thế nào ? "". Ở đây, này các Tỷ-kheo
tu Thiền không có hoan hỷ, và các Tỷ-kheo, chuyên tu về pháp cũng không
hoan hỷ ; hành động như vậy không đưa lại hạnh phúc cho nhiều người,
an lạc cho nhiều người, không đưa lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho
chư Thiên và loài Người.
4. Nhưng ở đây, này chư Hiền, có
những Tỷ-kheo chuyên tâm về pháp, chỉ tán thán các Tỷ-kheo chuyên tâm về
pháp, không tán thán các Tỷ-kheo tu Thiền. Và ở đây, các Tỷ-kheo chuyên
tâm về pháp không được hoan hỷ ; các Tỷ-kheo tu Thiền không được hoan
hỷ. Hành đông như vậy không đưa lại hạnh phúc cho nhiều người, an lạc
cho nhiều người, không đưa lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên
và loài Người
5 Nhưng ở đây, này chư Hiền, có
những Tỷ-kheo tu Thiền chỉ tán thán các Tỷ-kheo tu Thiền, không tán thán
các Tỷ-kheo chuyên tâm về pháp. Và ở đây, các Tỷ-kheo chuyên tâm về
pháp không được hoan hỷ ; các Tỷ-kheo chuyên tâm về pháp không được
hoan hỷ. Sở hành như vậy không đưa lại hạnh phúc cho nhiều nguời, an lạc
cho nhiều người, không đưa lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên
và loài người. Do vậy, này chư Hiền, cần phải học tập như sau :
6. "Chúng ta là những người
chuyên tâm về pháp, chúng ta sẽ tán thán các Tỷ-kheo tu Thiền ".
Này chư Hiền, chư Hiền cần phải
học tập như vậy. Vì cớ sao ? Thật vậy, này chư Hiền, các người vi diệu
ấy khó tìm được ở đời, những người cảm giác bất tử giới với
thân và an trú. Do vậy, này chư Hiền, cần phải học tập như sau :
7. "Chúng ta là những người tu
thiền, chúng ta sẽ tán thán các Tỷ-kheo chuyên tâm về pháp".
Này các chư Hiền, chư Hiền cần
phải học tập như vậy. Vì cớ sao ? Thật vậy, này chư Hiền, các người
vi diệu ấy khó tìm được ở đời, những người với trí tuệ thể nhập
và thấy con đường thâm sâu hướng dẫn đến đích.
(V) (47) CHO ĐỜI NAY (1)
1. Rồi du sĩ ngoại đạo Moliyasìvaka
đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, du sĩ ngoại
đạo Moliyasìvaka bạch Thế Tôn :
-Pháp là thiết thực hiện tại,
Pháp là thiết thực hiện tại, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy.
Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, pháp là thiết thực hiện tại,
không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được
người trí tự mình giác hiểu ?
2.- Vậy này Sìvaka, ở đây Ta sẽ
hỏi Ông ; nêu Ông có thể kham nhẫn thời hãy trả lời. Ông nghĩ thế nào,
này Sìvaka ? Nội tâm có tham, Ông có biết : "Nội tâm ta có tham "
? Nội tâm không có tham, Ông có biết : "Nội tâm ta không có tham"
?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Này Sìvaka, nội tâm có tham, Ông
có biết : "Nội tâm ta có tham". Nội tâm không có tham, Ông có biết
: "Nội tâm ta không có tham". Như vậy này Sìvaka, pháp là thiết thực
hiện tại... Ông nghĩ thế nào, này Sìvaka ? Nội tâm có sân...( Như trên)...Ông
nghĩ thế nào, này Sìvaka ? Nội tâm có si, Ông có biết : "Nội tâm ta
có si" ? Hay nội tâm không si, Ông có biết : "Nội tâm ta không
si" ?
-Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Này Sìvaka, nội tâm có si, Ông
có biết : "Nội tâm ta có si", hay nội tâm không có si, Ông có biết
: "Nội tâm ta không si". như vậy, này Sìvaka, pháp là thiết thực
hiện tại... Ông nghĩ thế nào, này Sìvaka ? Nội tâm có tham pháp,... hay nội
tâm có sân pháp..., hay nội tâm có si pháp..., Ông có biết : "Nội tâm
ta có si pháp" ?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Hay nội tâm không có si pháp. Ông
có biết : "Nội tâm ta không có si pháp" ?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Này Sìvaka, nội tâm có si pháp,
Ông có biết : "Nội tâm ta có si pháp", hay nội tâm không có si
pháp, Ông có biết : "Nội tâm ta không có si pháp. "Như vậy, này
Sìvaka, pháp là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà
thấy, có khả năng hướng thượng, được người có trí tự mình gác hiểu.
- Thật vi diệu thay ! ... Mong Thế
Tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời
quy ngưỡng.
(VI) (48) CHO ĐỜI NAY (2)
1. Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, vị Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn :
-Pháp là thiết thực hiện tại,
pháp là thiết thực hiện tại, thưa Tôn giả Gotama, được nói đến như
vậy. Cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, pháp là thiết thực hiện
tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng,
được người có trí tự mình giác hiểu ?
2.- Vậy này Bà-la-môn, ở đây Ta sẽ
hỏi Ông. Nếu Ông có thể kham nhẫn thời hãy trả lời; Ông nghĩ thế nào,
này Bà-la-môn ? Nội tâm có tham ái, Ông có biết : "Nội tâm ta có tham
ái" ? Hay nội tâm không có tham ái. Ông có biết : "Nội tâm ta
không có tham ái" ?
- Thưa có, thưa Tôn giả.
- Này Bà-la-môn, nội tâm có tham
ái, Ông có biết : "Nội tâm ta có tham ái". Hay nội tâm không có
tham ái, Ông có biết : "Nội tâm ta không có tham ái. "Như vậy, này
Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại... Ông nghĩ thế nào, này
Bà-la-môn ? Nội tâm ta có si" ? Hay nội tâm không có si, Ông có biết :
"Nội tâm ta không có si" ?
-Thưa có, thưa Tôn giả.
- Này Bà-la-môn, nội tâm có si,
Ông có biết : "Nội tâm ta có si. "Hay nội tâm không có si, Ông có
biết : "Nội tâm ta không có si. "Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là
thiết thực hiện tại...Ông nghĩ thế nào, này Bà-la-môn ? Nội tâm có
thân uế..., hay nội tâm có khẩu uế...hay nội tâm có ý uế, Ông có biết
: "Nội tâm ta có ý uế" ? Hay nội tâm không có ý uế, Ông có biết
: "Nội tâm ta không có ý uế..." ?
- Thưa có, thưa Tôn giả.
- Này Bà-la-môn, nội tâm có ý uế,
Ông có biết : "Nội tâm ta có ý uế". Hay nội tâm không có ý uế,
Ông có biết : "Nội tâm ta không có ý uế". Như vậy này
Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà
thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu.
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
Gotama... Mong Tôn giả Gotama nhận
con làm để tử cư sĩ, từ nay cho
đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(VII) (49) KHEMA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì, Jetavana, tại khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả
Sumana trú ở Sàvavatthì, tại rừng Andha. Rồi Tôn giả Khema và Tôn giả
Sumana đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Khema bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo là bậc
A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, Phạm hạnh đã thành, đã làm những
việc phải làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu
kiết sử đã đoạn tận, chánh trí giải thoát. Vị ấy không nghĩ rằng :
"Có người tốt hơn ta" hay "Có người giống như ta" hay
"Có người hạ liệt hơn ta".
Tôn giả Khema nói như vậy, Bậc Đạo
Sư chấp nhận. Rồi Tôn giả Khema nghĩ rằng : "Thế Tôn đã chấp nhận
ta". Tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên
hữu hướng về Ngài rồi ra đi. Tôn giả Sumana, khi Tôn giả Khema ra đi không
bao lâu, liền bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo là bậc
A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, Phạm hạnh đã thành, đã làm những
việc phải làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu
kiết sử đã đoạn tận, chánh trí giải thoát. Vị ấy không nghĩ rằng :
"Có người tốt hơn ta", hay "Có người giống như ta", hay
"Có người hạ liệt hơn ta".
Tôn giả Sumana nói như vậy, bậc
Đạo Sư chấp nhận. Rồi tôn giả Sumana nghĩ rằng : "Thế Tôn đã chấp
nhận ta". Tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn,
thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
2. Rồi Thế Tôn, sau khi Tôn giả
Khema và Tôn giả Sumana ra đi không bao lâu, liền bảo các Tỷ-kheo :
- Như vậy, này các Tỷ-kheo, các
thiện nam tử nói lên chánh trí, có nói đến mục đích, nhưng không đề
cập đến tự ngã. Tuy vậy, ở đời một số kẻ ngu nói lên chánh trí một
cách ngạo mạn đắc chí. Họ về sau rơi vào nguy hại.
Không thắng, không hạ liệt,
Không ai đồng đẳng Ta,
Những tư tưởng như vậy
Không chi phối các vị.
Sanh khởi đã chấm dứt,
Phạm hạnh được viên thành,
Họ lìa bỏ kiết sử,
Hoàn toàn được giải thoát.
(VIII) (50) CÁC CĂN
1. - Với căn không phòng hộ, này
các Tỷ-kheo, với người khiếm khuyết phòng hộ các căn giới đi đến hủy
hoại ; với giới không có, có ai khiếm khuyết về giới, chánh định đi
đến hủy hoại. Với chánh định không có, với ai khiếm khuyết chánh định,
trì kiến như thật đi đến hủy hoại. Với tri kiến như thật không có,
với ai khiếm khuyết tri kiến như thật, nhàm chán ly tham đi đến hủy hoại.
Với nhàm chán, ly tham không có, với ai khiếm khuyết nhàm chán, ly tham, giải
thoát tri kiến đi đến hủy hoại.
2. Ví như, này các Tỷ-kheo, một
cây, với cành và lá khiếm khuyết, thời các chồi non không đi đến viên
mãn, vỏ cây không đi đến viên mãn, giác cây không đi đến viên mãn,
lõi cây không đi đến viên mãn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với căn không
phòng hộ, với người khiếm khuyết phòng hộ các căn... giải thoát tri kiến
đi đến hủy hoại.
3. Với các căn được phòng hộ,
này các Tỷ-kheo, với người đầy đủ các căn được phòng hộ, giới
đi đến đầy đủ. Với giới có mặt, với người đầy đủ. Với giới
có mặt, với người đầy đủ giới, chánh định đi đến đầy đủ. Với
chánh định có mặt, với người đầy đủ chánh định, tri kiến như thật
đi đến đầy đủ. Với tri kiến như thật có mặt, với người đầy đủ,
nhàm chán ly tham đi đến đầy đủ. Với nhàm chán, ly tham có mặt, với
người đầy đủ nhàm chán ly tham, giải thoát tri kiến đi đến đầy đủ.
4. Ví như, này các Tỷ-kheo, một
cây với cành và lá đầy đủ, thời chồi non đi đến viên mãn, vỏ cây
đi đến viên mãn, giác cây đi đến viên mãn, lõi cây đi đến viên mãn.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với căn được phòng hộ, với người đầy
đủ phòng hộ các căn, giới đi đến đầy đủ... giải thoát tri kiến
đi đến đầy đủ.
(IX) (51) ÀNANDA
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Tôn
giả Sàriputta ; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời
chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu,
liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ànanda thưa với
Tôn giả Sàriputta :
2. - Cho đến như thế nào, thưa Hiền
giả Sàriputta, Tỷ-kheo nghe pháp trước kia chưa được nghe, với pháp đã
được nghe, không đi đến rối loạn, còn đối với các pháp trước kia tâm
đã từng cảm xúc, chúng vẫn được hiện hành, và vị ấy biết được
điều trước kia chưa biết ?
- Tôn giả Ànanda là vị nghe nhiều,
Tôn giả hãy nói lên !
- Vậy thưa Hiền giả Sàriputta,
hãy nghe và khéo tác ý, tôi sẽ nói !
- Thưa vâng, hiền giả.
Tôn giả Sàriputta vâng đáp Tôn giả
Ànanda. Tôn giả Ànanda nói như sau :
3. - Ở đây, thưa Hiền giả Sàriputta,
Tỷ-kheo học thông suốt pháp, tức là Khế kinh, Ứng tụng, Ký thuyết,
Phúng tụng, Vô vấn tự thuyết, Như thị thuyết, bản sanh, Vị tăng hữu
pháp, Trí giải hay Phương quảng. Vị ấy thuyết pháp cho các người khác
một cách rộng rãi như đã được nghe, như đã được học thông suốt. Vị
ấy khiến cho các người khác nói pháp một cách rộng rãi như đã được
nghe, như đã được học thông suốt. Vị ấy tụng đọc pháp một cách rộng
rãi như đã được nghe, như đã được học thông suốt. Vị ấy với tâm
tùy tầm, tùy tứ, với ý tùy quán pháp như đã được nghe, như đã được
học thuộc lòng. Tại trú xứ nào các Tỷ-kheo trưởng lão trú ở, các vị
nghe nhiều, được trao truyền các tập Àgama, bậc Trì pháp, Trì luật,
Trì toát yếu, tại các chỗ ấy, vị ấy an cư vào mùa mưa, thỉnh thoảng
đến các Tôn giả ấy ; sau khi đến, phỏng vấn, đặt các câu hỏi :
"Thưa Tôn giả, cái này là thế nào ? Ý nghĩa cái này là gì ?
"Các Tôn giả ấy mở rộng những gì chưa được mở rộng, phơi bày
những gì chưa được phơi bày, và đối với những đoạn sai khác, còn
có chỗ nghi ngờ, các tông giả ấy giải thích các sự nghi ngờ. Cho đến
như vậy, thưa Hiền giả Sàriputta, Tỷ-kheo nghe pháp chưa được nghe, với
pháp đã được nghe, không đi đến rối loạn, còn đối với các pháp trước
kia tâm đã từng cảm xúc, chúng vẫn được hiện hành, và vị ấy biết
được điều trước kia chưa biết.
4. - Thật vi diệu thay, thưa Hiền
giả ! thưa Hiền giả ! Thật hy hữu thay, thưa Hiền giả ! Khéo nói cho đến
như vậy, chính là điều đã được Tôn giả Ànanda nói lên. Và chúng tôi
thọ trì rằng Tôn giả Ànanda đã được thành tựu sáu pháp :
5. Tôn giả Ànanda học thông suốt
pháp, tức là Khế kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Vô vân tự thuyết,
Như thị thuyết, Bản sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải hay Phương quảng.
Tôn giả Ànanda thuyết pháp cho các người khác một cách rộng rãi như đã
nghe, như đã được học thông suốt. Tôn giả Ànanda khiến cho các người
khác nói lên pháp một cách rộng rãi như đã được nghe, như đã được
học thông suốt. Tông giả Ànanda đọc tụng pháp một cách rộng rãi, như
đã được nghe, như đã được học một cách thông suốt. Tôn giả Ànanda
với tâm tùy tầm, tùy tứ, với ý tùy quán pháp như đã được nghe, như
đã được học thuộc lòng. Tôn giả Ànanda, tại trú xứ nào các Tỷ-kheo
trưởng lão trú ở, các vị nghe nhiều, được trao truyền các tập Àgama,
bậc Trì pháp, Trì luật. Trì toát yếu, tại các chỗ ấy, Tôn giả Ànanda
an cư vào mùa mưa, thỉnh thoảng đến các vị ấy, sau khi đến, phỏng vấn,
đặt câu hỏi : "Thưa Tôn giả, cái này là thế nào ? Ý nghĩa cái này
là gì ? "Các Tôn giả ấy mở rộng những gì chưa được mở rộng,
phơi bày những gì chưa được phơi bày, và đối với những đoạn sai khác,
còn có chỗ nghi ngờ, các vị ấy giải thích cá sự nghi ngờ.
(X) (52) VỊ SÁT-ĐẾ-LỴ
1. Rồi Bà-la-môn Jànussoni đi đến
Thế Tôn ; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn :
2. - Đối với Sát-đế-lỵ, thưa Tôn
giả Gotama, vị ấy mong muốn cái gì, cận hành cái gì, điểm tựa cái
gì, xu hướng cái gì, cứu cánh cái gì ?
- Đối với Sát-đế-lỵ, này
Bà-la-môn, tài sản là mong muốn, trí tuệ là cận cánh, sức mạnh là điểm
tựa, xu hướng là trái đất, cứu cánh là tự tại.
- Nhưng đối với Bà-la-môn, thưa Tôn
giả Gotama, mong muốn cái gì, cận hành cái gì, điểm tựa cái gì, xu hướng
cái gì, cứu cánh cái gì ?
- Đối với Bà-la-môn, này
Bà-la-môn, tài sản là mong muốn, trí tuệ là cận hành, chú thuật là điểm
tựa, tế tự là xu hướng, cứu cánh là Phạm thiên giới.
- Nhưng đối với gia chủ, thưa Tôn
giả Gotama, mong muốn cái gì, cận hành cái gì, điểm tựa cái gì, xu hướng
cái gì ?
- Đối với gia chủ, này
Bà-la-môn, tài sản là mong muốn, trí tuệ là cận hành, nghề nghiệp là
điểm tựa, công việc là xu hướng, thành tựu công việc là cứu cánh.
- Nhưng đối với nữ nhân, thưa Tôn
giả Gotama, mong muốn cái gì, cận hành tận cái gì, điểm tựa cái gì, xu
hướng cái gì, cứu cánh cái gì ?
- Đối với nữ nhân, này
Bà-la-môn, đàn ông là mong muốn, trang điểm là cận hành, điểm tựa là
con cái, không có địch thù là xu hướng, tự tại là cứu cánh.
- Nhưng đối với người ăn trộm,
thưa Tôn giả Gotama, mong rằng cái gì, cận hành cái gì, điểm tựa cái
gì, xu hướng cái gì, cứu cánh cái gì ?
- Đối với người ăn trộm, này
Bà-la-môn, đồ lấy được là mong muốn, rừng rậm ( ? ) là cận hành.
đao trượng là điểm tựa , tối tăm là xu hướng, không bị thấy là cứu
cánh.
- Nhưng đối với Sa-môn, thưa Tôn
giả Gotama, mong muốn cái gì, cận hành cái gì, điểm tựa cái gì, xu hướng
cái gì, cứu cánh cái gì ?
- Đối với Sa-môn, này Bà-la-môn,
nhẫn nhục nhu hòa là mong muốn, trí tuệ là cận hành, giới hạnh là điểm
tựa, không có sở hữu là xu hướng, Niết-bàn là cứu cánh.
3. - Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
Gotama. Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Gotama ! Tôn giả Gotama rõ biết mong
muốn, cận hành, điểm tựa, xu hướng và cứu cánh của các Sát-đế-lỵ,
Tôn giả Gotama rõ biết mong muốn, cận hành, điểm tựa, xu hướng, cứu cánh
của các Bà-la-môn... của các gia chủ... của các nữ nhân... của các người
ăn trộm... của các Sa-môn. Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama ! ...
Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng
chung con xin trọn đời quy ngưỡng !
(XI) (53) KHÔNG PHÓNG DẬT
1. Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến, nói với thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau
khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn :
2. - Có một pháp nào, thưa Tôn giả
Gotama, được tu tập, được làm cho sung mãn, pháp ấy bao trùm và an trú
hai lợi ích : lợi ích hiện tại và lợi ích trong tương lai ?
- Có một pháp, này Bà-la-môn, được
tu tập, được làm cho sung mãn bao trùm và an tú hai lợi ích : lợi ích hiện
tại và lợi ích trong tương lai.
- Một pháp ấy là gì, thưa tôn giả
Gotama được tu tập, được làm cho sung mãn, pháp ấy bao trùm và an trú
hai lợi ích : lợi ích hiện tại và lợi ích trong tương lai ?
3. - Không phóng dật, này Bà-la-môn
là một pháp được tu tập, được làm cho sung mãn, bao trùm và an trú hai
lợi ích : lợi ích hiện tại và lợi ích trong tương lai. Ví như, này
Bà-la-môn, phàm có những dấu chân của các loại bộ hành nào, tất cả dấu
chân ấy đều được thâu nhiếp trong dấu chân voi. Dấu chân voi được gọi
là tối thắng trong các dấu chân ấy, cũng vậy, này Bà-la-môn, không
phóng dật là một pháp được tu tập, được làm cho sung mãn, bao trùm và
an trú hai lợi ích : lợi ích hiện tại và lợi ích trong tương lai. Ví như
này Bà-la-môn, trong một ngôi nhà có nóc nhọn, tất cả rui kèo đều hướng
về nóc nhọn, thiên về nóc nhọn, quy tụ về nóc nhọn, nóc nhọn được
gọi là tối thắng trong các vậy ấy. Cũng vậy, này Bà-la-môn, không
phóng dật... Ví như, này Bà-la-môn, người cắt cỏ, trong khi cắt cỏ, sau
khi túm lấy dấu các ngọn cỏ, liền lùa cỏ qua lại, dặc cỏ lên xuống,
đập cỏ. Cũng vậy, này Bà-la-môn... Ví như, này Bà-la-môn, nhánh cây có
chùm xoài bị chặt đứt, tất cả trái xoài dính với nhánh ấy đều bị
chung một số phận với nhánh kia. Cũng vậy, này Bà-la-môn... Ví như, này
Bà-la-môn, phàm có các tiểu vương nào, tất cả đều tùy thuộc vua Chuyển
Luân. Vua Chuyển Luân được gọi là tối thắng trong các vị vua ấy. Cũng
vậy, này Bà-la-môn... Ví như, này Bà-la-môn, ánh sáng của các vì sao, tất
cả ánh sáng các ngôi sao không bằng giá trị một phần mười sáu ánh
sáng của mặt trăng. Ánh sáng của mặt trăng được gọi là tối thắng
trong tất cả ánh sáng. Cũng vậy, này Bà-la-môn, không phóng dật là một
pháp được tu tập, được làm cho sung mãn, bao trùm và an trú hai lợi
ích: lợi ích hiện tại và lợi ích trong tương lai. Đây là một pháp,
này Bà-la-môn, được tu tập, được làm cho sung mãn, bao trùm và an lạc
hai lợi ích : lợi ích hiện tại và lợi ích trong tương lai.
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
Gotama ! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama ! ... Xin Tôn giả Gotama nhận
con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(XII) (54) DHAMMIKA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Ràjagaha (Vương Xá) tại núi Gijihakùta (Linh Thứu).
Lúc bấy giờ, Tôn giả Dhammika trú
tại chỗ sanh trưởng của mình và có tất cả bảy trú xứ tại chỗ sanh
trưởng ấy. tại đấy, Tôn giả Dhammika đối với các khách Tỷ-kheo, mắng
nhiếc, quở trách, não hại, châm biếm, khiến họ tức giận với những lời
nói. Và các khách Tỷ-kheo ấy bị Tôn giả Dhammika mắng nhiếc, quở
trách, não hại, châm biếm, khiến họ tức giận, liền bỏ đi, không có
an trú và từ bỏ trú xứ. Rồi các cư sĩ tại chỗ sanh trưởng, suy nghĩ
như sau : "Chúng ta đã cung cấp cho chúng Tỷ-kheo Tăng các vật dụng cần
thiết như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh,
nhưng các khách Tỷ-kheo lại bỏ đi, không có an trú và từ bỏ trú xứ.
Do nhân gì, do duyên gì, các khách Tỷ-kheo lại bỏ đi, không có an trú, từ
bỏ trú xứ ? "Rồi các cư sĩ tại chỗ sanh trưởng suy nghĩ : "Có
Tôn giả Dhammika này mắng nhiếc các khách Tỷ-kheo, quở trách, não hại,
châm biếm, làm họ tức giận với những lời nói. Các khách Tỷ-kheo ấy
bị Tôn giả Dhammika mắng nhiếc, quở trách, não hại, châm biếm, làm cho
tức giận với những lời nói, nên bỏ đi, không có an trú, từ bỏ trú xứ.
Vậy chúng ta hãy mời Tôn giả Dhammika đi chỗ khác." Rồi các cư sĩ tại
chỗ sanh trưởng đi đến Tôn giả Dhammika ; sau khi đến, thưa với Tôn giả
Dhammika : "Thưa Tôn giả, Tôn giả Dhammika hãy từ bỏ trú xứ này. Tôn
giả trú ở đây đã vừa đủ rồi."
2. Rồi Tôn giả Dhammika từ bỏ
trú xứ ấy, đi đến một trú xứ khác. Tại đấy, Tôn giả Dhammika mắng
nhiếc các khách Tỷ-kheo, quở trách, não hại, châm biếm, làm cho tức giận
với các lời nói. Và các khách Tỷ-kheo ấy bị Tôn giả Dhammika mắng nhiếc,
quở trách, não hại, châm biếm, làm cho tức giận với các lời nói, liền
bỏ đi, không an trú, và từ bỏ trú xứ. Rồi các cư sĩ tại chỗ sanh
trưởng suy nghĩ như sau : "Chúng ta đã cung cấp cho chúng Tỷ-kheo các vật
dụng cần thiết, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị
bệnh, nhưng các khách Tỷ-kheo lại bỏ đi, không an trú, từ bỏ trú xứ.
Do nhân gì, do duyên gì, các khách Tỷ-kheo lại bỏ đi, không có an trú, từ
bỏ trú xứ ? "Rồi các cư sĩ tại chỗ sanh trưởng suy nghĩ : "Có
Tôn giả Dhammika này mắng nhiếc các khách Tỷ-kheo, quở trách, não hại,
châm biếm, làm họ tức giận với những lời nói. Các khách Tỷ-kheo ấy
bị Tôn giả Dhammika mắng nhiếc, quở trách, não hại, nên bỏ đi, không
có n trú, từ bỏ trú xứ. Vậy chúng ta hãy mời Tôn giả Dhammika đi đến
chỗ khác". Rồi các cư sĩ tại chỗ sanh trưởng đi đến Tôn giả
Dhammika ; sau khi đến, thưa với tôn giả Dhammika : "Thưa Tôn giả, Tôn
giả Dhammika hãy tử bỏ trú xứ này. Tôn giả trú ở đây đã vừa đủ rồi".
3. Rồi Tôn giả Dhammika từ bỏ
trú xứ ấy, đi đến một xứ khác . Tại đấy, Tôn giả Dhammika mắng nhiếc
các khách Tỷ-kheo, quở trách, não hại, châm biếm, làm tức giận với lời
nói. Và các khách tỷ-kheo ấy bị Tôn giả Dhammika mắng nhiếc, quở
trách, não hại, châm biếm, làm cho tứ giận với lời nói, liền bỏ đi,
không có an trú và từ bỏ trú xứ. Rồi các cư sĩ tại chỗ sanh trưởng
suy nghĩ như sau : "Chúng ta đã cung cấp cho chúng Tỷ-kheo các vật dụng
cần thiết như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh,
nhưng các khách Tỷ-kheo lại bỏ đi, không an trú, từ bỏ trú xứ. Do nhân
gì, do duyên gì, các khách Tỷ-kheo lại bỏ đi, không có an trú xứ ?
". Rồi các cư sĩ tại chỗ sanh trưởng suy nghĩ : "Có Tôn giả
Dhammika này mắng nhiếc, quở trách, não hại, châm biếm, làm họ tức giận
với những lời nói. Các khách Tỷ-kheo ấy bị Tôn giả Dhammika mắng nhiếc,
quở trách, não hại, châm biếm, làm tức giận với những lời nói, nên bỏ
đi, không có an trú, từ bỏ trú xứ. Vậy chúng ta hãy mời Tôn giả
Dhammika rời bỏ hoàn toàn bảy trú xứ tại chỗ đất sanh trưởng". Rồi
các cư sĩ tại chỗ đất sanh trưởng đi đến Tôn giả Dhammika ; sau khi đến,
nói với Tôn giả Dhammika : "Thưa Tôn giả, Tôn giả Dhammika hãy rời bỏ
hoàn toàn bảy trú xứ tại chỗ đất sanh trưởng".
4. Rồi Tôn giả Dhammika suy nghĩ :
"Ta đã bị các cư sĩ đất sanh trưởng mời rời bỏ hoàn toàn bảy
trú xứ tại chỗ đất sanh trưởng. Nay ta sẽ đi tại chỗ nào ? Ta hãy
đi đến Thế Tôn". Rồi Tôn giả Dhammika cầm y bát, ra đi, hướng đến
Ràjagaha (Vương Xá), dần dần đi đến núi Gijihakùta (Linh Thứu) tại
Ràjagaha ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế
Tôn nói với Tôn giả Dhammika đang ngồi xuống một bên :
- Này Bà-la-môn Dhammika, Ông đi từ
đâu đến ?
- Bạch Thế Tôn, con bị các cư sĩ
tại chỗ đất sanh trưởng mời rời bỏ hoàn toàn bảy trú xứ tại chỗ
đất sanh trưởng !
- Thôi vừa rồi, này Bà-la-môn
Dhammika ! Sự việc này, đối với Ông có hề hấn gì ! Dầu họ có mời
Ông từ bỏ tại chỗ nào, chỗ nào, sau khi đã từ bỏ chỗ ấy, chỗ ấy,
Ông đã đi đến gần Ta !
5. Trong quá khứ, này Bà-la-môn
Dhammika, các nhà buôn đường biển đem theo một con chim để tìm bờ, khi họ
đi tàu ra biển. Khi chiếc tàu ra xa, không thấy bờ, họ thả con chim đi tìm
bờ. Con chim bay về hướng Đông, bay về hướng Tây, bay về hướng Bắc,
bay về hướng Nam, bay về hướng Trên, bay về hướng Gió. Nếu nó thấy bờ
xung quanh, nó liền bay luôn. Nếu nó không thấy bờ xung quanh, nó bay trở
lui về tàu. Cũng vậy, này Bà-la-môn Dhammika, dầu họ có mời Ông từ bỏ
tại chỗ nào, chỗ nào, sau khi đã từ bỏ chỗ ấy, chỗ ấy, Ông đã đi
đến gần Ta.
6. Thuở xưa, này Bà-la-môn Dhammika,
vua Koravya có một cây bàng chúa tên là Suppatittha, cây này có năm cành, có
bóng mát dịu, rất là khả ý. Này Bà-la-môn Dhammika, cây bàng chúa
Suppatittha tỏa rộng ra đến mười hai do tuần, các rễ mọc lan rộng đến
năm do tuần. Này Bà-la-môn Dhammika, cây bàng chúa Suppatittha có những trái
cây to lớn, lớn như những cái nồi con ; những trái cây ngọt lịm như vậy,
trong sáng và ngọt như mật ong. Này Bà-la-môn Dhammika, vua với các cung nữ
hưởng thụ một cành cây của cây bàng chúa Suppatittha ; quân đội hưởng
thụ một cành ; các Sa-môn, Bà-la-môn hưởng thụ một cành ; các loài
thú, loài chim hưởng thụ một cành. Này Bà-la-môn Dhammika, không có ai
phòng hộ các trái của cây bàng chúa Suppatittha, và không có ai hại nhau
vì trái cây. Rồi này Bà-la-môn Dhammika, một người sau khi đã ăn hết cho
đến thỏa thích những trái của cây bàng chúa Suppatittha, liền bẻ gãy một
cành rồi bỏ đi. Rồi này Bà-la-môn Dhammika, vị Thiên trú ở cây bàng
chúa Suppatittha suy nghĩ như sau : "Thật là vi diệu, thưa Tôn giả ! Thật
là hy hữu, thưa Tôn giả, con người lại ác cho đến như vậy ! Sau khi ăn
cho đến thỏa thích các trái của cây bàng chúa Suppatittha, lại bẻ một
cành rồi bỏ đi ! Vậy cây bàng chúa Suppatittha hãy đừng sanh trái nữa
trong tương lai ! "Rồi này Bà-la-môn Dhammika, cây bàng chúa Suppatittha
không sanh trái nữa trong tương lai. Rồi này Bà-la-môn Dhammika, vua Koravya
đi đến Thiên chủ Sakka ; sau khi đến, thưa với Thiên chủ Sakka :
"Tôn giả có biết không ? Cây bàng chúa Suppatittha không sanh trái nữa
! "Rồi này Bà-la-môn Dhammika, Thiên chủ Sakka thực hiện thần thông,
khiến cho mưa to gió lớn khởi lên, làm cây bàng chúa Suppatittha ngã xuống
và bậc gốc rễ. Này Bà-la-môn Dhammika, vị Thiên trú ở cây bàng chúa
Suppatittha khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt, khóc lóc, đứng một
bên. Này Bà-la-môn Dhammika, rồi Thiên chủ Suppatittha, sau khi đến, nói với
vị Thiên trú ở cây bàng chúa Suppatittha như sau :
"- Vì sao, này vị Thiên kia,
Ông lại khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt, khóc lóc, đứng một
bên ?
"- Thưa Tôn giả, có cơn mưa to
gió lớn khởi lên, và làm cho chỗ trú xứ của con bị ngã xuống và bật
gốc rễ lên.
"- Này vị Thiên kia, có phải
Ông đang gìn giữ cây pháp, nhưng cơn mưa to lớn ấy khởi lên, làm trú xứ
của Ông bị ngã xuống và bật gốc rễ lên ?
"- Làm thế nào, thưa Tôn giả,
một cây... được gìn giữ như một cây pháp ?
"- Ở đây, này vị Thiên kia,
những người cần rễ đến lấy rễ cây đi, những người cần vỏ đến
lấy vỏ cây đi. Những người cần lá đến lấy lá đi. Những người cần
bông đến lấy bông đi. Những người cần trái đến lấy trái đi. Như vậy,
không có gì để khiến cho một vị Thiên phải không hoan hỷ, không vui vẻ.
Như vậy, là một cây được gìn giữ như một cây pháp.
"- Thưa Tôn giả, con không gìn
giữ một cây pháp, khi cơn mưa to lớn ấy khởi lên, làm chỗ trú xứ của
con ngã xuống và bật gốc rễ lên !
"- Này vị Thiên kia, nếu Ông
gìn giữ cây pháp, thời trú xứ của Ông sẽ trở lại như xưa.
Rồi Thiên chủ Sakka thực hiện thần
thông khiến cho mưa to gió lớn đến dựng đứng lại cây bàng chúa và chữa
lành những rễ cây
Cũng vậy, này Bà-la-môn Dhammika,
Ông có gìn giữ Sa-môn pháp, khi các người cư sĩ tại chỗ sanh trưởng mời
Ông đi khỏi bảy trú xứ tại chỗ sanh trưởng không ?
- Như thế nào, thưa Tôn giả, là một
Sa-môn gìn giữ Sa-môn pháp ?
- Như thế này, này Bà-la-môn
Dhammika, ở đây, một Sa-môn không có mắng nhiếc lại người đã mắng
nhiếc mình, không có tức giận người đã tức giận mình, không có quở
trách người đã quở trách mình. Như vậy, này Bà-la-môn Dhammika, là vị
Sa-môn gìn giữ Sa-môn pháp.
- Thưa Tôn giả, con không gìn giữ
Sa-môn pháp khi những người cư sĩ ở tại chỗ sanh trưởng mời con đi khỏi
hoàn toàn bảy trú xứ trong chỗ được sanh trưởng.
7. - Thuở xưa, này Bà-la-môn
Dhammika, có một ngoại đạo sư tên là Sunettto (Diệu Nhãn) đã viễn ly
các dục. Này Bà-la-môn Dhammika, ngoại đạo sư Sunetto có hàng trăm đệ tử.
Ngoại đạo sư Sunetto thuyết pháp về cọng trú tại Phạm thiên giới cho
các người đệ tử. Những ai nghe ngoại đạo sư Sunetto thuyết giảng về
cọng trú tại Phạm thiên giới, này Bà-la-môn Dhammika, tâm không được
hoan hỷ, các người ấy sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào cõi dữ,
ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những ai, này Bà-la-môn Dhammika, nghe ngoại
đạo sư Sunetto thuyết giảng về cọng trú tại Phạm thiên giới, tâm được
hoan hỷ, các người ấy sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện
thú, Thiên giới, cõi đời này. Thuở xưa, này Bà-la-môn Dhammika, có ngoại
đạo sư tên là Mugapakkha... có ngoại đạo sư tên là Aranemi... có ngoại
đạo sư tên là Kuddàlaka... có ngoại đạo sư tên là Hatthipàla... có ngoại
đạo sư tên là Jotipàla đã viễn ly các dục... được sanh vào thiện
thú, Thiên giới, cõi đời này. Ông nghĩ thế nào, này Bà-la-môn Dhammika?
đối với sáu ngoại đạo sư này đã viễn ly các dục, hay đối với chúng
đệ tử hàng trăm hội chúng của những vị ấy, ai với tâm uế nhiễm, mắng
nhiếc, quở trách, như vậy có sanh khởi ra nhiều vô phước không ?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
8. - Thật vậy, này Bà-la-môn
Dhammika, đối với sáu ngoại đạo sư này đã viễn ly các dục, hay đối
với chúng đệ tử hàng trăm hội chúng của những vị ấy, ai với tâm uế
nhiễm, mắng nhiếc, quở trách, có sanh khởi ra nhiều vô phước. Còn ai,
đối với bị đầy đủ chánh kiến, với tâm uế nhiễm, mắng nhiếc, quở
trách, như vậy sanh khởi ra nhiều vô phước hơn nữa. Vì cớ sao ? Ta
tuyên bố rằng, này Bà-la-môn Dhammika, sự tổn hại đối với các ngoại
đạo sư như vậy không bằng sự tổn hại nếu đối xử với các vị đồng
Phạm hạnh. Do vậy, này các Bà-la-môn Dhammika, cần phải học tập như sau
:
9. Chúng ta sẽ không có tâm uế nhiễm
đối với vị đồng Phạm hạnh". Này Bà-la-môn Dhammika, các Ông cần
phải học tập như vậy.
- Các vị Bà-la-môn,
- Như Sư Sunetto,
- Sư Mugapakkha,
- Và Aranemi,
- Sư Kuddalaka,
- Và Hatthipàla,
- Sư Jotipàla,
- Và Sư Govinda,
- Là quốc sư thứ bảy.
- Sáu Sư bạn vị này,
- Là những vị danh tiếng,
- Quá khứ không hại ai,
- Thoát hôi hám, từ bi,
- Giải thoát dục kiết sử,
- Thoát ly tham ái dục,
- Đạt được Phạm thiên giới.
- Và các hàng đệ tử,
- Con số lên hành trăm,
- Thoát hôi hám, từ bi,
- Giải thoát dục kiết sử,
- Thoát ly tham ái dục,
- Đạt được Phạm thiên giới.
- Ẩn sĩ ngoại đạo ấy,
- Ly tham, tâm Thiền định,
- Nếu với tâm uế nhiễm,
- Có ai mắng nhiếc họ,
- Người như vậy tạo ra,
- Rất nhiều sự vô phước.
- Đối một đệ tử Phật,
- Tỷ-kheo có chánh kiến,
- Nếu với tâm uế nhiễm,
- Có ai mắng vị ấy,
- Người như vậy tạo ra,
- Nhiều vô phước bậc thiện,
- Hãy từ bỏ kiến xứ,
- Tối thượng trong Thán chúng,
- Vị ấy được gọi vậy.
- Ai chưa ly các dục,
- Năm căn còn mềm dịu,
- Tín, niệm và tinh tấn,
- Với chỉ và với quán,
- Nếu phật ý vị ấy,
- Trước hết tự hại mình,
- Sau khi tự hại mình,
- Lại hại đến người khác,
- Ai tự bảo vệ mình,
- Bề ngoài cũng bảo vệ,
- Do vậy, bảo vệ mình,
- Bậc trí không tổn hại,