- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 5c
- (VII) (67) THẦN THÔNG (1)
1. - Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào, này
các Tỷ-kheo, tu tập năm pháp, làm cho sung mãn năm pháp, được chờ đợi
là vị ấy được một trong hai quả, ngay trong hiện tại được chánh
trí, hay nếu có dư y, chứng được Bất lai. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tu tập thần túc câu hữu tình với dục định tinh cần hành, tu tập thần
túc câu hữu tình với tinh tấn định tinh tấn hành, tu tập thần túc câu
hữu với tâm định tinh cần hành, tu tập thần túc câu hữu với tư duy
định tinh tấn hành, và thứ năm là tăng thượng tinh tấn.
Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni, này các Tỷ-kheo,
tu tập năm pháp, làm cho sung mãn năm pháp, được chờ đợi là vị ấy
được một trong hai quả: ngay trong hiện tại được chánh trí, hay nếu
có dư ý, chứng được Bất lai.
(VIII) (68) THẦN THÔNG (2)
1. - Trước khi Ta giác ngộ, này
các Tỷ-kheo, khi Ta chưa Chánh đẳng Chánh giác, còn là Bồ-tát, Ta đã tu tập
năm pháp, làm cho sung mãn năm pháp. Thế nào là năm?
2. Ta đã tu tập thần túc câu hữu
với dục định tinh cần hành, đã tu tập túc, câu hữu với tinh tấn định
tinh cần hành, đã tu tập thần túc câu hữu với tâm định tinh cần hành,
đã tu tập thần túc câu hữu với tư duy định tinh cần hành, và thứ năm
là tăng thượng tinh tấn. Này các Tỷ-kheo, do Ta tu tập và làm cho sung mãn
các pháp với tăng thượng tinh tấn là thứ năm, tùy theo Ta hướng tâm đến
pháp nào cần được chứng ngộ với thắng trí, để có thể chứng ngộ
với thắng trí, Ta có thể đạt đến pháp ấy, dầu thuộc hành xứ nào.
Nếu Ta muốn, ta có thể đến pháp ấy, dầu thuộc hành xứ nào. Nếu Ta
muốn... do đoạn tận các lậu hoặc ngay trong hiện tại với thắng trí,
Ta tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát, tại đấy, Ta có thể đạt đến pháp ấy, dầu thuộc hành xứ
nào.
(IX) (69) NHÀM CHÁN (1)
1. - Có năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán,
ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Thế nào là
năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
trú quán bất tịnh trên thân, với tưởng ghê gớm đối với các món ăn,
với vô thường đối với tất cả hành, và tưởng về chết, nội tâm
khéo an trú.
Này các Tỷ-kheo, năm pháp này được
tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham,
đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
(X) (70) NHÀM CHÁN (2)
1. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến đoạn diệt các lậu hoặc.
Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
trú quán bất tịnh trên thân, với tưởng ghê tởm đối với các món ăn,
với tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, quán vô thường
đối với tất cả hành, với tưởng về chết, nội tâm khéo an trú.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, được
tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến đoạn diệt các lậu hoặc.
VIII. PHẨM CHIẾN SĨ
(I) (71) TÂM GIẢI THOÁT QUẢ (1)
1. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến tâm giải thoát quả, tuệ
giải thoát lợi ích. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú tùy quán bất tịnh trên thân, với tưởng ghê tởm trong các món ăn, với
tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, tùy quán vô thường
đối với tất cả hành, với tưởng về chết. Vị ấy nội tâm khéo an
trú.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, được
tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến tâm giải thoát quả, tâm giải
thoát lợi ích, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát lợi ích.
3. Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo
có tâm giải thoát và có tuệ giải thoát này các Tỷ-kheo, vị ấy được
gọi là Tỷ-kheo đã cất đi các vật chướng ngại, đã lấp các thông
hào, đã nhổ lên cột trụ, đã mở tung các ổ khóa, là bậc Thánh đã hạ
cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy. Và thế
nào là Tỷ-kheo đã cất đi các chướng ngại?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đoạn trừ vô minh, đã cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây
tàla, làm cho không thể hiện hữu, không thể sinh khởi trong tương lai. Này
các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã cất đi các vật chướng ngại. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã lấp các thông hào?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
đã đoạn trừ tái sanh và sự luân chuyển sanh tử, đã cắt đứt tận gốc
rễ, làm cho như thân cây tàla, làm cho không thể hiện hữu, không thể
tái sanh trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã lấp các
thông hào. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo đã nhổ lên cột
trụ?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đoạn trừ tham ái, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân
cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương
lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã nhô lên cột trụ. Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo đã mở tung các ổ khóa?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã
làm cho như thân cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể tái
sanh tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã mở tung các ổ
khóa. Và này các Tỷ-kheo, thế nào gọi Tỷ-kheo là bậc Thánh đã hạ cây
cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đoạn trừ ngạ mạn, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân
cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương
lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi Tỷ-kheo là bậc Thánh đã hạ cây cờ
xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không còn gì hệ lụy.
(II) (72) TÂM GIẢI THOÁT QUẢ (2)
1. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến tâm giải thoát quả,
tâm giải thoát lợi ích, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát lợi
ích. Thế nào là năm?
2. Tưởng vô thường, tưởng khổ
trong vô thường, tưởng vô ngả trong khổ, tưởng đoạn tận, tưởng ly
tham.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, được
tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến tâm giải thoát quả, tâm giải
thoát lợi ích, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát lợi ích.
3. Khi nào vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo,
có tâm giải thoát và tuệ giải thoát, này các Tỷ-kheo vị ấy được gọi
là Tỷ-kheo đã cất đi các vật chướng ngại, đã lấp các thông hào, đã
nhổ lên cột trụ, đã mở tung các ổ khóa, là bậc Thánh đã hạ cây cờ
xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy. Và thế nào là Tỷ-kheo
đã cất đi các vật chướng ngại?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đoạn trừ vô minh, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân
cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể tái sanh trong tương
lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã cất đi các vật chướng ngại.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã lấp các thông hào?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
đã đoạn trừ tái sanh và sự luân chuyển sanh tử, đã cắt đứt tận gốc
rễ, đã làm cho như thân cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không
thể sanh khởi trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo dã lấp
các thông hào. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã nhô lên cột
trụ?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
đã đoạn trừ tham ái, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân
cây tàla, làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương
lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ. Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã mở tung các ổ khóa?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã
làm cho như thân cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh
khởi trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã mở tung
các ổ khóa. Và này các Tỷ-kheo, thế nào gọi Tỷ-kheo là bậc Thánh đã
hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có hệ lụy?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đã đoạn trừ ngã mạn, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân
cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương
lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo bậc Thánh đã đặt gánh nặng
xuống, không có gì hệ lụy.
(III) (73) SỐNG THEO PHÁP (1)
1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- "Sống theo pháp, sống theo
pháp", bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào,
bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo là vị sống theo pháp?
2. - Ở đây, này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
học thông suốt pháp tức là Khế kinh, Ứng dụng, Ký thuyết, Phúng tụng,
Không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bồn sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải
hay Phương quảng. Vị ấy dùng trọn cả ngày để học thuộc lòng pháp, bỏ
phế sống độc cư an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ.
Này Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo không đạt nhiều kinh điển, nhưng không
sống theo pháp.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thuyết pháp cho các người khác một cách rộng rãi như đã được nghe,
như đã được học thông suốt. Vị ấy dùng trọn cả ngày để trình
bày pháp cho các người khác, bỏ phế sống độc cư an tịnh, không nỗ lực
chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này Tỷ-kheo, đấy gọi là Tỷ-kheo thuyết
trình nhiều, nhưng không sống theo pháp.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đọc tụng pháp một cách rộng rãi như đã được nghe, như đã được học
thuộc lòng. Vị ấy dùng trọn cả ngày để tụng học, bỏ phế sống độc
cư an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này Tỷ-kheo, đây
gọi là Tỷ-kheo đọc tụng nhiều, nhưng không sống theo pháp.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
với tâm tùy tiện, với ý tùy quán pháp như đã được nghe, như đã được
học thuộc lòng. Vị ấy dùng trọn cả ngày suy tầm về pháp, bỏ phế sống
độc cư an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này Tỷ-kheo,
đây gọi là Tỷ-kheo suy tâm nhiều, nhưng không sống theo pháp.
6. Ở đây, này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo học
thuộc lòng pháp, tức là Khế kinh, Ứng dụng, Ký thuyết, Phúng tụng,
Không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải
hay Phương quảng. Vị ấy không dùng trọn cả ngày để học thuộc lòng
pháp, không phế bỏ sống độc cư an tịnh, nỗ lực chuyên chú vào nội
tâm an chỉ. Này Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống theo pháp.
7. Này Tỷ-kheo, như vậy ta đã thuyết
về học thuộc lòng nhiều, đã thuyết về thuyết trình nhiều, đã thuyết
về thuyết tụng nhiều, đã thuyết về suy tầm nhiều, đã thuyết về sống
theo pháp. Này Tỷ-kheo, điều gì bậc Đạo Sư cần phải làm cho các đệ
tử vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ khởi lên, các điều
ấy, Ta đã làm cho các Thầy. Này Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây
là những căn nhà trống. Này Tỷ-kheo, hãy tu Thiền, chớ có phóng dật, chớ
có để về sau sẽ phải hối tiếc. Đấy là lời giáo giới của Ta cho
các Thầy.
(IV) (74) SỐNG THEO PHÁP (2)
1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- "Sống theo pháp, sống theo
pháp", bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào,
bạch Thế Tôn, là vị Thế Tôn sống theo pháp?
2. - Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
học thuộc lòng pháp, tức là Khế kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng,
không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bốn sanh, Vị tăng hữu pháp, Trí giải
hay Phương quảng, nhưng không rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo học thuộc lòng nhiều, nhưng không
sống theo pháp.
3. Lại nữa, đây các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thuyết pháp cho các người khác một cách rộng rãi như đã được nghe,
như đã học thuộc lòng, nhưng không rõ biết mục đích tối thượng với
trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo, thuyết trình nhiều, nhưng
không sống theo pháp.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đọc tụng pháp một cách rộng rãi như đã được nghe, như đã được học
thuộc lòng, nhưng không rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đọc tụng nhiều, nhưng không sống
theo pháp.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo với tâm tùy tầm, tùy tứ, với ý tùy quán pháp như được nghe,
như đã được học thuộc lòng, nhưng không rõ biết mục đích tối thượng
với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo suy tầm nhiều nhưng
không sống theo pháp.
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
học thuộc lòng pháp, tức là Khế kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng.
Không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải
hay Phương quảng, và biết mục đích tối thượng với trí tuệ. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo sống theo pháp.
7. Này các Tỷ-kheo, như vậy Ta đã
thuyết về học thuộc lòng nhiều, đã thuyết về thuyết trình nhiều, đã
thuyết về đọc tụng nhiều, đã thuyết về suy tầm nhiều đã thuyết về
sống theo pháp. Này các Tỷ-kheo, điều gì bậc Đạo Sư cần phải làm cho
các đệ tử, vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ khởi
lên, các điều ấy, Ta đã làm cho các Thầy. Này các Tỷ-kheo, đây là những
gốc cây, đây là những căn nhà trống. Này các Tỷ-kheo, hãy tu Thiền, chớ
có phóng dật, chớ có để về au phải hối tiếc. Đây là lời giáo giới
của Ta cho các Thầy.
(V) (75) NGƯỜI CHIẾN SĨ (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm hạng
chiến sĩ này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
chiến sĩ chỉ thấy bụi mù dấy lên đã chùn chân, rủn chí, không còn
can đảm, không có thể tham gia chiến trận. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo,
là một hạng người chiến sĩ. Này các Tỷ-kheo, đây là người chiến sĩ
thứ nhất có mặt hiện hữu ở đời.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, nhưng khi
thấy cờ xí dựng lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không
còn can đảm, không có thể tham gia chiến trận. Như vậy ở đây, này các
Tỷ-kheo, là một hạng người chiến sĩ ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây
là hạng người chiến sĩ thứ hai có mặt, hiện hữu ở đời.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, chịu đựng
cờ xí dựng lên, nhưng khi nghe tiếng la hét, liền chùn chân, rủn chí,
không còn can đảm, không có thể tham gia chiến trận. Như vậy ở đây,
này các Tỷ-kheo, là một hạng người chiến sĩ. Này các Tỷ-kheo, đây là
hạng người chiến sĩ thứ ba có mặt, hiện hữu ở đời.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có hạng người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, chịu
đựng cờ xí dựng lên, chịu đựng tiếng la hét, nhưng khi bị thương
trong chiến trận, liền thất kinh, thất đảm. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo,
là một hạng người chiến sĩ. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chiến
sĩ thứ tư có mặt, hiện hữu ở đời.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có hạng người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, chịu
đựng cờ xí dựng lên, chịu đựng tiếng la hét, chịu đựng cuộc xáp
chiến. Vị ấy, sau khi thắng trận, dự phần vào chiến thắng, cầm đầu
trong chiến thắng. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một hạng chiến
dĩ. Đây là hạng người chiến sĩ thứ năm, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện
hữu ở đời.
Năm hạng người chiến sĩ này,
này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.
7. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, được
ví dụ với năm hạng chiến sĩ này, có năm hạng người có mặt, hiện hữu
giữa các Tỷ-kheo. Thế nào là năm?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi thất
bụi mù dấy lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có
thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong
học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Thế nào
là bụi mù dấy lên đối với vị ấy ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
được nghe: "Tại một làng hay một thị trấn kia, có người phụ nữ
hay thiếu nữ đẹp đẽ, khả ái, làm đẹp lòng người với sắc mặt đẹp
thù thắng như hoa sen". Khi được nghe vậy, vị ấy liền chùn chân, rủn
chí, không còn can đảm, không thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau
khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại
đời sống thế tục. Đây là nghĩa bụi mù dấy lên đối với vị ấy.
Ví như, này các Tỷ-kheo, hạng người
chiến sĩ ấy, khi mới thấy bụi mù dấy lên, liền chùn chân, rủn chí,
không còn can đảm, không có thể tham dự chiến trận. Này các Tỷ-kheo, Ta
tuyên bố người này giống như ví dụ ấy. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo,
là một hạng người. Đây là người, này các Tỷ-kheo, được ví dụ với
hạng người chiến sĩ thứ nhất có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo
chịu đựng được bụi mù dấy lên,, nhưng khi thấy cờ xí dựng lên, liền
chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tiếp tục đời sống
Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền bỏ học
pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Thế nào là cờ xí dựng lên đối
với vị ấy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có nghe: "Tại một
làng hay thị trấn kia, có người phụ nữ hay thiếu nữ đạp đẽ, khả
ái, làm đẹp lòng người với sắc mặt đẹp thù thắng như hoa sen",
nhưng vị ấy tự mình thấy một phụ nữ hay một thiếu nữ đẹp đẽ,
khả ái, làm đẹp lòng người với sắc mặt đẹp thù thắng như hoa sen.
Vị ấy, sau khi thấy người phụ nữ hay người thiếu nữ ấy, liền chùn
chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể có thể tiếp tục đời sống
Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền bỏ học
pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Đây là nghĩa cờ xí dựng lên đối
với vị ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, hạng người chiến sĩ ấy chịu đựng
được bụi mù dấy lên, nhưng khi thấy cờ xí dựng lên, liền chùn chân,
rủn chí, không còn can đảm, không có thể ra trận xáp chiến. Này các Tỷ-kheo,
Ta tuyên bố người này giống như ví dụ ấy. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo,
là một hạng người. Đây là người, này các Tỷ-kheo, được ví dụ với
hạng người chiến sĩ thứ hai có mặt, hiện hữu giữa các vị Tỷ-kheo
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng
lên, nhưng khi nghe tiếng la hét, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm,
không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu
kém trong học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục.
Thế nào là tiếng la hét đối với vị ấy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, một
nữ nhân đi đến vị Tỷ-kheo tại ngôi rừng, dưới một gốc cây hay tại
ngôi nhà trống, cười nhạo Tỷ-kheo, nói mơn trớn, nói cười lớn tiếng,
cợt nhả. Tỷ-kheo bị nữ nhân cười nhạo, nói mơn trớn, nói cười lớn
tiếng, cợt nhả, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có
thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự hèn yếu trong
học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Đây là
nghĩa của tiếng la hét đối với vị ấy.
Ví như người chiến sĩ ấy, này
các Tỷ-kheo, chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ
xí dựng lên, nhưng khi nghe tiếng la hét, liền chùn chân, rủn chí, không
còn can đảm, không có thể ra trận xáp chiến. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố
người này giống như ví dụ ấy. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một
hạng người. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người được ví dụ với người
chiến sĩ thứ ba có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng
lên, chịu đựng được tiếng la hét, nhưng bị thương trong khi xáp chiến
lâm trận liền thất kinh thất đảm. Thế nào là xáp chiến lâm trận đối
với vị ấy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi đi đến gốc cây, hay đi đến
ngôi nhà trống, một nữ nhân đến Tỷ-kheo ấy, ngồi sát một bên, nằm
sát một bên, vuốt ve mơn trớn. Tỷ-kheo ấy được nữ nhân ngồi sát một
bên, nằm sát một bên, được vuốt ve mơn trớn, không từ bỏ học tập,
không biểu lộ sự yếu kém trong học tập, hành dâm (với nữ nhân). Đây
là nghĩa xáp chiến lâm trận đối với vị ấy. Ví như người chiến sĩ
ấy, này các Tỷ-kheo, chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng
được cờ xí dựng lên, chịu đựng được tiếng la hét, nhưng khi lâm trận
xáp chiến, bị thương, thất kinh, thất đảm. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố
người này giống như ví dụ ấy. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một
hạng người. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người được ví dụ với người
chiến sĩ thứ tư có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng
lên, chịu đựng được tiếng la hét, chịu đựng được xáp chiến lâm
trận. Vị ấy sau khi chiến thắng chiến trận ấy, chiến thắng trong chiến
trận, vị ấy vẫn đứng hàng đầu trong trận chiến ấy. Thế nào là sự
chiến thắng trong chiến trận đối với vị ấy? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
khi vị Tỷ-kheo đi đến ngôi nhà rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi
nhà trống, có nữ nhân đi đến vị ấy, ngồi xuống sát một bên, nằm
sát một bên, vuốt ve mơn trớn. Vị ấy, khi được nữ nhân ngồi sát một
bên, nằm sát một bên, vuốt ve mơn trớn, liền gỡ mình ra, gỡ thoát ra,
và ra đi chỗ nào mình muốn. Và vị ấy đi đến một chỗ trống trải,
khu rừng, gốc cây, ngọn núi, khe đá, hang núi, nghĩa địa, cao nguyên,
ngoài trời, đống rơm. Rồi vị ấy đi đến khu rừng, đi đến gốc cây
hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng và để niệm trước
mặt. Vị ấy, sau khi đoạn tận tham, an trú với tâm ly tham, gột sạch
tâm khỏi tham, sau khi đoạn tận sân, an trú với tâm ly sân, có lòng thương
tưởng đến tất cả loài hữu tình và chúng sanh, gột sạch tâm khỏi
sân hận; sau khi đoạn tận hôn trầm thụy miên, an trú với tâm ly thụy
miên hôn trầm, với tưởng ánh sáng, chánh niệm, tỉnh giác, gột sách
tâm khỏi hôn trầm thụy miên; sau khi đoạn tận trạo cử hối quá, an
trú không trạo cử, nội tâm tịch tịnh, gột sạch tâm khỏi trạo cử hối
quá; sau khi đoạn tận nghi, an trú với tâm vượt khỏi nghi ngờ đối với
các thiện pháp. Vị ấy, sau khi đoạn tận năm triền cái này, những pháp
làm uế nhiễm tâm, làm yếu ớt trí tuệ, ly dụ, ly các pháp bất thiện...
chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy với tâm định tĩnh, thanh tịnh,
trong sáng, không cấu uế, ly các tùy phiền mão, nhu nhuyến, kham nhẫn,
kiên trì, bất động, hướng tâm về trí đoạn tận các lậu hoặc. Vị
ấy như thật rõ biết: "Đây là Khổ; như thật rõ biết: "Đây
là Khổ tập"; như thật rõ biết: "Đây là khổ diệt"; như thật
rõ biết: "Đây là con Đường đưa đến khổ diệt"; như thật rõ
biết: "Những pháp này là những lậu hoặc"; như thật rõ biết:
"Đây là lậu hoặc tập khởi" như thật rõ biết: "Đây là
con đường đưa đến lậu hoặc đoạn diệt". Do vị ấy biết như vậy,
thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải
thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự
giải thoát trí khởi lên: "Ta đã được giải thoát". Vị ấy rõ
biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm,
nay không còn trở lui trăng thái này nữa". Đây là sự chiến thắng
trong trận chiến đối với vị ấy.
Ví như, này các Tỷ-kheo, người
chiến sĩ chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí
dựng lên, chịu đựng được các tiếng la hét, chịu đựng được sự xáp
chiến. Vị ấy, sau khi chiến thắng chiến trận ấy, chiến thắng trong chiến
trận, vị ấy vẫn đứng đầu trong trận chiến ấy. Vị ấy, sau khi chiến
thắng chiến trận ấy, chiến thắng trong chiến trận, vị ấy vẫn đứng
hàng đầu trong trận chiến ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này
giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là một hạng người. Này
các Tỷ-kheo, đấy là hạng người được ví dụ với người chiến sĩ thứ
năm có mặt, hiện hữu ở đời.
Những người này, này các Tỷ-kheo,
được ví dụ với năm chiến sĩ có mặt, hiện hữu ở giữa các vị Tỷ-kheo.
(VI) (76) NGƯỜI CHIẾN SĨ (2)
- Có năm người chiến sĩ này, này
các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt.
Người ấy trong trận chiến ấy nỗ lực hăng hái. Nhưng các người khác,
trong khi người ấy nỗ lực và hăng hái như vậy, đánh người ấy và áp
đảo người ấy. Như vậy, ở đây này các Tỷ-kheo, có hạng người chiến
sĩ như vậy. Đây là hạng chiến sĩ thứ nhất có mặt, hiện hữu ở đời.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có hạng người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia
vào trận chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận chiến ấy, nỗ lực, hăng hái.
Nhưng các người khác làm cho các người ấy bị thương, khiêng người ấy
đi, chở người ấy đến các bà con. Khi chở người ấy đi và chưa đến
các bà con, người ấy mệnh chung ở giữa đường. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
có một hạng chiến sĩ như vậy. Đây là hạng chiến sĩ thứ hai, này các
Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có hạng người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia
vào trận chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận ấy, nỗ lực hăng hái. Nhưng
các người khác làm cho người ấy bị thương và khiêng người ấy đi, chở
người ấy đến các bà con. Và những người bà con săn sóc và nuôi dưỡng
người ấy. Người ấy, trong khi được các người bà con săn sóc và nuôi
dưỡng, bị mệnh chung vì vết thương ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có một
hạng người chiến sĩ như vậy. Đây gọi là hạng người chiến sĩ thứ
ba có mặt, hiện hữu ở đời.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận
chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận chiến ấy, nỗ lực hăng hái. Nhưng các
người khác làm cho người ấy bị thương, và khiêng người ấy đi, chở
người ấy đến các người bà con. Và những người bà con nuôi dưỡng và
săn sóc người ấy. Người ấy, trong khi được các người bà con săn sóc
và nuôi dưỡng, được chữa lành các vết thương ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
có hạng người chiến sĩ như vậy. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng chiến
sĩ thứ tư có mặt, hiện hữu ở đời.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở
đây có hạng chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào chiến
trận ấy, chiến thắng trong chiến trận, vị ấy vẫn đứng hàng đầu
trong chiến trận ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng chiến sĩ như vậy.
Này các Tỷ-kheo, đây là hạng chiến sĩ thứ năm có mặt, hiện hữu ở
đời.
Năm hạng chiến sĩ này, này các Tỷ-kheo,
có mặt, hiện hữu ở đời.
7. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có
những hạng người được ví dụ với năm hạng chiến sĩ này có mặt, hiện
hữu giữa các vị Tỷ-kheo. Thế nào là năm?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo
sống dựa vào ngôi làng hay thị trấn. Vị ấy, vào buổi sáng đắp y, cầm
y bát đi vào làng hay thị trấn để khất thực, không phòng hộ thân,
không phòng hộ lời, không phòng hộ tâm, niệm không an trú, các căn không
được bảo vệ. Vị ấy ở đấy thấy một nữ nhân ăn mặc không tề chỉnh,
ăn mặc không kín đáo. Được thấy nữ nhân ăn mặc không tề chỉnh, ăn
mặc không kín đáo, tham dục tấn công tâm vị ấy. Tâm bị tham dục tấn
công, không từ bỏ học tập, không biểu lộ sự yếu kém trong học pháp,
vị ấy rơi vào hành dâm.
Ví như người chiến sĩ ấy, này
các Tỷ-kheo, cầm gươm và mâu, đeo cung và tên tham gia vào trận chiến ác
liệt. Vị ấy trong trận chiến ấy nỗ lực hăng hái. Nhưng các người khác,
trong khi người ấy nỗ lực hăng hái như vậy, đánh người ấy và áp đảo
người ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này giống như ví dụ ấy.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có một hạng người như vậy. Này các Tỷ-kheo,
đây là hạng người được ví dụ với hạng chiến sĩ thứ nhất có mặt,
hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống dựa vào một làng hay thị trấn. Vị ấy, vào buổi sáng, đắp y, cầm
y bát, đi vào làng ấy hay thị trấn ấy để khất thực, với thân không
phòng hộ, với lời nói không phòng hộ, với tâm không phòng hộ, với niệm
không an trú, với các căn không được bảo vệ. Ở đây, vị ấy thấy một
nữ nhân ăn mặc không chỉnh tề, ăn mặc không kín đáo. Được thấy nữ
nhân ăn mặc không chỉnh tề, ăn mặc không kín đáo, tham dục tấn công
tâm vị ấy. Vị ấy, với tâm bị tham dục tấn công nên thân bị thiêu
cháy, tâm bị thiêu cháy. Vị ấy nghỉ: "Ta hãy đi về khu vườn (chỗ
Tăng ở) báo tin cho các Tỷ-kheo: "Này các Hiền giả, tôi bị tham dục
tràn ngập, bị tham dục ám ảnh, tôi không có thể tiếp tục đời sống
Phạm hạnh, tôi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp,
tôi trở về với đời sống thế tục". Vị ấy, trên con đường đi
đến khu vườn, còn ở giữa đường, biểu lộ sự yếu kém trong học tập,
từ bỏ học pháp, trở về đời sống thế tục.
Ví như, này các Tỷ-kheo, người
chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt.
Vị ấy, trong trận chiến ấy, nỗ lực hăng hái. Nhưng các người khác,
trong khi người ấy nỗ lực hăng hái như vậy, làm cho người ấy bị
thương, khiêng người ấy đi, chở người ấy, và đưa người ấy đến các
bà con, người ấy mệnh chung giữa đường. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố
này giống với ví dụ ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có một hạng người
như vậy. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người được ví dụ với người
chiến sĩ thứ hai có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn. Vị ấy vào buổi
sáng đắp y, cầm y bát đi vào làng hay thị trấn ấy để khất thực, thân
không phòng hộ, lời nói không phòng hộ, tâm không phòng hộ, niệm không
an trú, các căn không được bảo vệ. Vị ấy ở đấy thấy nữ nhân ăn
mặc không tề chỉnh, ăn mặc không kín đáo, tham dục tấn công vị ấy.
Vị ấy với tham dục bị tấn công, nên thân bị thiêu cháy, tâm bị
thiêu cháy. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Ta hãy đi đến khu vườn báo tin
cho các Tỷ-kheo: "Này các Hiền giả, tôi bị tham dục tràn ngập, bị
tham dục ám ảnh. Tôi không thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi
biểu hiện sự yếu kém trong học tập, tôi từ bỏ học pháp, sẽ trở về
với đời sống thế tục". Các vị đồng Phạm hạnh giáo giới,
khuyên bảo như sau: "Này Hiền giả, Thế Tôn đã nói: "Các dục vị
ngọt ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây nhiều hơn. Các dục
được Thế Tôn ví dụ như một khúc xương, khổ nhiều, não nhiều, sự
nguy hại ở đây nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như miếng thịt,
khổ nhiều, não nhiều, nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được
Thế Tôn ví dụ như bó đuốc bằng cỏ, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại
ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như một hố than
hừng, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục
được Thế Tôn ví dụ như một cơn mộng, khổ nhiều, não nhiều, sự
nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như vật
dụng mượn dùng, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều
hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như quả của cây, khổ nhiều, não
nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví
dụ như lò thịt, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều
hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như cây gậy nhọn, khổ nhiều, não
nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví
dụ như đầu rắn, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều
hơn". Tôn giả hãy tìm sự thoải mái trong Phạm hạnh! Tôn giả chớ
biểu hiện sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp và trở lui đời
sống thế tục".
Vị ấy được các đồng Phạm hạnh
giáo giới như vậy, khuyên bảo như vậy, liền nói như sau: "Này các
Hiền giả, dầu cho Thế Tôn có nói các dục ngọt ít, khổ nhiều, não nhiều,
sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn, nhưng tôi có thể tiếp tục sống Phạm
hạnh. Sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, tôi
sẽ trở về đời sống thế tục". Sau khi biểu lộ sự yếu kém trong
học tập, sau khi từ bỏ học pháp, vị ấy trở lui đời sống thế tục.
Ví như, này các Tỷ-kheo, người
chiến sĩ ấy, sau khi cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận
chiến khốc liệt. Vị ấy, trong chiến trận ấy, nỗ lực, hăng hái. Nhưng
các người khác trong khi có nỗ lực, hăng hái như vậy, làm cho người bị
thương, khiêng người ấy đi, chở người ấy, và đưa người ấy đến các
người bà con. Các người bà con săn sóc nuôi dưỡng người ấy. Người
ấy, tuy được các người bà con săn sóc nuôi dưỡng nhưng bị mệnh chung
vì vết thương ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này được ví như
ví dụ ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là hạng người được ví dụ
với người chiến sĩ thứ ba có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống dựa vào làng hay thị trấn. Vị ấy vào buổi sáng đắp y, cầm bát,
đi vào ngôi làng hay thị trấn ấy để khất thực, với thân không phòng
hộ, với lời không phòng hộ, với niệm không an trú, với các căn không
được bảo vệ. Vị ấy ở đấy, thấy nữ nhân ăn mặc không chỉnh tề,
ăn mặc không kín đáo. Sau khi thấy nữ nhân ăn mặc không chỉnh tề, ăn
mặc không kín đáo, tham dục tấn công vị ấy. Vị ấy với tâm bị tham
dục tấn công, nên thân bị thiêu cháy, tâm bị thiêu đốt. Vị ấy suy
nghĩ như sau: "Ta hãy đi đến khu vườn, báo tin cho các Tỷ-kheo:
"Này các Hiền giả, tôi bị tham dục tràn ngập, bị tham bị tham dục
ám ảnh. Tôi không thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh. Tôi tuyên bố sự
yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, trở về với đời sống thế
tục". Vị ấy đi đến khu vườn, báo tin cho các Tỷ-kheo: "Này
các Hiền giả, tôi bị tham dục tràn ngập, bị tham dục ám ảnh. Tôi
không thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh; sau khi biểu lộ sự yếu kém
trong học tập, từ bỏ học pháp, tôi trở về với đời sống thế tục".
Các vị đồng Phạm hạnh giáo giới như sau: "Này hiền giả, Thế Tôn
đã nói: "Các dục ngọt ít, đắng nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở
đây lại nhiều hơn... Các dục được Thế Tôn ví như đầu rắn, khổ
nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn". Tôn giả hãy
tìm sự thoải mái trong Phạm hạnh. Hiền giả chớ biểu lộ sự kém trong
học tập, từ bỏ học pháp và trở lui đời sống thế tục".
Vị ấy được các đồng giáo giới
ví như vậy, khuyên bảo như vậy, nói như vầy: "Thưa các Hiền giả,
tôi sẽ nỗ lực. Thưa các Hiền giả, tôi sẽ cố gắng. Thưa các Hiển giả,
tôi sẽ sống thoải mái. Nay tôi không biểu lộ sự yếu kém trong học tập,
từ bỏ học pháp, trở lui về đời sống thế tục".
Ví như, này các Tỷ-kheo, người
chiến sĩ ấy cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến
ác liệt. Vị ấy trong trận chiến ấy, nỗ lựa hăng hái. Nhưng các người
khác, trong khi người ấy nỗ lực hăng hái như vậy, làm cho người ấy bị
thương, khiêng người ấy đi, chở người ấy và đưa người ấy đến các
bà con. Các người bà con săn sóc người ấy, nuôi dưỡng người ấy. Người
ấy, nhờ các bà con săn sóc nuôi dưỡng, được chữa lành khỏi vết thương.
Ta tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy. Ở
đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người như vậy. Người này, này các Tỷ-kheo,
được ví dụ với chiến sĩ thứ tư có mặt, hiện hữu giữa các vị Tỷ-kheo.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống dựa vào một làng hay một thị trấn. Vị ấy vào buổi sáng đắp
y, cầm bát y, vào làng hay thị trấn ấy để khất thực, với thân được
phòng hộ, với lời được phòng hộ, với tâm được phòng hộ, với niệm
được an trú, với các căn được bảo vệ. Vị ấy khi mắt thấy sắc,
không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên
nhân gì, vì nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác bất
thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn
căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi
hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy
không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên
nhân gì, khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác,
bất thiện pháp khởi lên, vị Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì
ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy, sau bữa ăn, trên con đường
khất thực trở về, đi đến một chỗ sàng tọa trống trãi, khu rừng, gốc
cây, ngọn núi, khe núi, hang núi, bãi tha ma, cao nguyên, ngoài trời, đống
rơm. Vị ấy đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi
nhà trống, ngồi kiết-gà, lưng thẳng, để niệm trước mặt. Vị ấy đoạn
tận tham ở đời, an trú với tâm ly tham... (xem trang #125)... chứng đạt và
an trú Thiên thứ tư. Vị ấy với tâm định tĩnh, trong sáng, không cấu uế,
các phiền não được đoạn trừ, nhu nhuyến, kham nhẫn, kiên trì, bất động,
hướng tâm về trí đoạn tận các lậu hoặc. Vị ấy như thật rõ biết:
"Đây là khổ", nhu thật rõ biết: "Đây là khổ tập", như
thật rõ biết: "Đây là khổ diệt", như thật rõ biết: "Đây
là con đường đi đến khổ diệt"...(xem trang #125)... không còn trở
lui trạng thái này nữa".
Ví như, này các Tỷ-kheo, người
chiến sĩ ấy cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến
ác liệt. Người ấy, sau khi chiến thắng trận ấy, chiến thắng trong chiến
trận, vị ấy vẫn đứng đầu trong chiến trận ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta
tuyên bố người này giống như ví dụ ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
một hàng người như vậy. Đây là hạng người được ví dụ với chiến
sĩ thứ năm, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.
Này các Tỷ-kheo, có năm hạng người
được ví dụ với năm người chiến sĩ này, có mặt, hiện hữu giữa
các vị Tỷ-kheo.
(VIII) (77) SỢ HÃI TRONG TƯƠNG LAI
(1)
1. - Này các Tỷ-kheo, do quán thấy
năm sợ hãi trong tương lai này, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống
ở rừng không phóng dật, nhiệt tình, tinh tấn để chứng đạt những gì
chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng
ngộ những gì chưa chứng ngộ. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống ở rừng quán sát như sau: "Nay ta sống một mình trong rừng. Khi
ta sống một mình trong rừng, con rắn có thể cắn ta, con bò cạp có thể
cắn ta, con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung. Như vậy là
chướng ngại cho ta. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn để chứng đạt những
gì chưa chứng đạt, để chứng đạt những gì chưa chứng đắc, để chứng
ngộ những gì chưa chứng ngộ".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ
hãi thứ nhất này về tương lai, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống
ở trong rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh tấn để chứng đạt những
gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng
ngộ những gì chưa chứng ngộ.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống ở trong rừng quán sát như sau: "Nay ta sống một mình trong rừng.
Khi ta sống một mình trong rừng, ta có thể vấp ngã và té xuống, cơm ta
ăn có thể làm ta mắc bệnh khi ăn, hay mật có thể làm ta khuấy động,
hay niêm dịch (đàm) có thể làm ta khuấy động, các gió như kiếm có thể
làm ta khuấy động, do vậy ta có thể mệnh chung. Như vậy là chướng ngại
cho ta. Vậy ta hãy hăng hái, cố gắng để chứng đạt những gì chưa chứng
đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những
gì chưa chứng ngộ".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ
hãi thứ hai này về tương lai, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống
ở rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh tấn để chứng đạt những gì
chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chứa chứng đắc, để chứng
ngộ những gì chưa chứng ngộ.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống ở rừng quán sát như sau: "Nay ta sống một mình trong rừng. Sống
một mình trong rừng, ta chung sống với các loài thú nguy hiểm, như sư tử,
cọp, báo, gấu, dã can. Chúng có thể đoạt mạng sống của ta, có thể
làm ta mệnh chung. Như vậy là một sự chướng ngại cho ta. Vậy ta hãy hăng
hái tinh cần để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc
những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ
hãi thứ ba này về tương lai, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống
ở rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì
chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng
ngộ những gì chưa chứng ngộ.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống ở rừng quán sát như sau: "Nay ta sống một mình trong rừng. Trong
khi ta sống một mình trong rừng, ta chung sống với các loài ăn trộm, ăn cắp
đã hành nghề. Chúng có thể đoạt mạng sống của ta, chúng có thể làm
ta mạng chung và như vậy là một chướng ngại cho ta. Vậy ta hãy hăng hái
tinh tấn, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những
gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ
hãi thứ tư này về tương lai, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống
ở rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh tấn, để chứng đạt những gì
chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng
ngộ những gì chưa chứng ngộ.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống ở rừng quán sát như sau: "Nay ta sống một mình ở trong rừng.
Ở trong rừng có những loài phi nhân nguy hiểm, chúng có thể đoạt mạng
sống của ta làm ta mệnh chung, như vậy là một chướng ngại cho ta. Vậy
ta hãy hăng hái tinh cần để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng
đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ
hãi thứ năm này về tương lai, thật là vừa đủ để Tỷ-kheo sống ở rừng,
chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy năm
sợ hãi về tương lai này, thật là vừa đủ để Tỷ-kheo sống ở rừng
chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng
đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
(VIII) (78) SỰ SỢ HÃI TRONG TƯƠNG
LAI (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, do quán thấy
năm sự sợ hãi về tương lai này, thật là vừa đủ để Tỷ-kheo sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng
đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa
chứng ngộ. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
quán sát như sau: "Nay ta còn trẻ, niên thiếu, còn thanh niên, tóc đen
nhánh, trong buổi thanh xuân, trong sơ kỳ tuổi đời. Nhưng rồi đến thời
già sẽ xúc chạm thân này. Khi đã già yếu, và bị già chinh phục, thật
không dễ gì để tác ý đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ
gì để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng
thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta
hãy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những gì
chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những
gì chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, có bị già, ta sẽ
sống được thoải mái".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ
hãi thứ nhất này về tương lai, như vậy là vừa đủ để Tỷ-kheo sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để đạt đến... để chứng ngộ
những gì chưa chứng ngộ.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo quán sát như sau: "Nay ta ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa được
điều hòa, không lạnh quá, không nóng quá, trung bình, hợp với tinh tấn,
nhưng rồi đến thời bệnh sẽ xúc phạm thân này. Khi đã bị bệnh và bị
bệnh chinh phục, thật không dễ gì tác ý đến giáo pháp của các đức
Phật, thật không dễ gì để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên
xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng
thích, không khả ý, ta hãy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để
chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng
đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng
thái này, dầu có bị bệnh, ta sẽ sống được thoải mái".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ
hãi thứ hai này về tương lai, như vậy là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để đạt đến... để chứng ngộ
những gì chưa chứng ngộ.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo quán sát như sau: "Nay không có đói kém, được mùa, đồ ăn
khất thực dễ kiếm được, thật dễ dàng để nuôi sống bằng khất thực
nỗ lực. Nhưng rồi đến thời có nạn đói, mất mùa, đồ ăn khất thực
nỗ lực được, không dễ gì nuôi sống bằng khất thực nỗ lực. Và những
người bị nạn đói sẽ dời đến chỗ nào được nhiều đồ ăn; tại
đấy, phải sống với quần chúng, phải sống với hỗn tạp. Khi phải sống
với quần chúng, phải sống với hỗn tạp, thật không dễ gì để tác ý
đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ gì để sống tại các
trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với
ta, không khả ý, ta hãy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để
chứng đạt những gì chưa chứng đạt... để chứng ngộ những gì chưa
chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, có bị đói kém, ta sẽ sống
được thoải mái".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ
hãi thứ ba này về tương lai, như vậy là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, đạt đến... để chứng ngộ những
gì chưa chứng ngộ.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
quán sát như sau: "Nay các loài Người sống với nhau thuận hòa, hoan hỷ
với nhau, không cãi lộn nhau, hòa hợp như nước với sữa, sống nhìn nhau
với cặp mắt ái kính. Nhưng rồi đến thời có sự sợ hãi về nạn cướp
rừng, dân chúng trong nước leo lên xe để trốn tại nào có sự sợ hãi,
dân chúng đi động đến chỗ có sự an ổn. Tại đấy, phải sống với
quần chúng, phải sống với hỗn tạp, thật không dễ với quần chúng, sống
với hỗn tạp, thật không dễ gì để tác ý đến giáo pháp của các đức
Phật, thật không dễ gì để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên
xa vắng.. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng
thích, không khả ý, ta phải hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến
để chứng đạt những gì chưa chứng đạt... để chứng ngộ những gì
chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, có gặp sự sợ hãi,
ta sẽ sống được thoải mái".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ
hãi thứ tư này về tương lai, như vậy là vừa đủ để Tỷ-kheo sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để đạt đến... để chứng ngộ những
gì chưa chứng ngộ.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
quán sát như sau: " Nay chúng Tăng hòa hợp, cùng nhau hoan hỷ, không
tranh luận nhau, sống thoải mái cùng chung một lời dạy... nhưng rồi đến
thời chúng Tăng chia rẽ. Khi chúng Tăng chia rẽ, thật không dễ gì để tác
ý đến giáo pháp của các đức Phật. Thật không dễ gì để sống tại
các trú xứ rừng núi, cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến
với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta hãy hăng hái
tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những gì chưa chứng
đạt... để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng
thái ấy, chúng Tăng có chia rẽ, ta sẽ sống được thoải mái".
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ
hãi thứ năm này về tương lai, như vậy là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để đạt đến... chứng ngộ những
gì chưa chứng ngộ.
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy năm
sợ hãi này về tương lai, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống không
phóng, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt,
chứng đắc những gì chưa chứng đạt, chứng ngộ những gì chưa chứng
ngộ.
(IX) (79) SỢ HÃI TRONG TƯƠNG LAI (3)
1. - Có năm sợ hãi về tương lai này,
này các Tỷ-kheo, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai. Các
Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng, sau khi rõ biết, cần phải tinh tấn
đoạn trừ chúng. Thế nào là năm?
2. Này các Tỷ-kheo, sẽ có những vị
Tỷ-kheo trong tương lai, thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu
tập, tuệ không tu tập. Do thân không tu tập, giới không tu tập, tâm
không tu tập, tuệ không tu tập, nếu họ thọ đại giới cho các người
khác, họ sẽ không có thể huấn luyện trong tăng thượng giới, trong tăng
thượng tâm, trong tăng thượng tuệ. Các người ấy sẽ trở thành những
người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không
tu tập. Do thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ
không tu tập, họ sẽ thọ đại giới cho các người khác, họ không có thể
huấn luyện trong tăng thượng giới, trong tăng thượng tâm, trong tăng thượng
tuệ. Các người ấy sẽ trở thành những người thân không tu tập, giới
không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
do Pháp ô nhiễm, nên Luật bị ô nhiễm; do Luật ô nhiễm, nên Pháp bị ô
nhiễm.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi
thứ nhất về tương lai, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong
tương lai; các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn
rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn trừ chúng.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo trong tương lai sẽ trở thành những người thân không tu tập, giới
không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, họ làm y chỉ sư cho các
người khác. Họ không có thể huấn luyện trong tăng thượng giới, trong
tăng thượng tâm, trong tăng thượng tuệ. những người ấy sẽ trở thành
những người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ
không tu tập. Các người ấy, do thân không tu tập, giới không tu tập,
tâm không tu tập, tuệ không tu tập, lại làm y chỉ sư cho những người
khác, họ không có thể huấn luyện trong tăng thượng giới, trong tăng thượng
tâm, trong tăng thượng tuệ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, do Pháp ô nhiễm,
nên Luật bị ô nhiễm. Do Luật ô nhiễm, nên Pháp bị ô nhiễm.
Này các Tỷ-kheo, đây là sự sợ
hãi thứ hai về tương lai, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong
tương lai, các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn
rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn trừ chúng.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các
Tỷ-kheo trong tương lai sẽ trở thành những người thân không tu tập, giới
không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập. Do thân không tu tập, giới
không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, khi họ thuyết về Thắng
pháp hay về Quảng thuyết (Trí giải luận), họ rơi vào hắc pháp, không
có thể giác ngộ rõ ràng. Này các Tỷ-kheo, đây là do ô nhiễm Pháp, nên
sanh ô nhiễm Luật; do ô nhiễm Luật, nên sanh ô nhiễm Pháp.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi
thứ ba về tương lai, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương
lai, các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết,
các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn tận chúng.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ
có những Tỷ-kheo trong tương lai thân không tu tập, giới không tu tập,
tâm không tu tập, tuệ không tu tập. Do thân không tu tập, giới không tu tập,
tâm không tu tập, tuệ không tu tập, đối với các tạng do Như Lai tuyên
thuyết, thâm sâu, ý nghĩa sâu kín, siêu thế, liên hệ đến không, khi các
kinh ấy được thuyết giảng, họ không có nghe, họ không có lắng tai, họ
không an trú tâm liễu giải, họ không nghĩ rằng các kinh ấy cần phải học
tập, cần phải học thuộc lòng. Còn những ai kinh điển do các thi sĩ làm,
những bài thi, với những chữ văn hoa, với những câu văn hoa, thuộc ngoại
điển do các đệ tử thuyết, trong khi các kinh ấy được thuyết giảng, họ
sẽ lắng nghe, họ sẽ lóng tai, họ an trú tâm liễu giải. Các pháp ấy, họ
sẽ nghĩ cần phải học tập, cần phải học thuộc lòng. Này các Tỷ-kheo,
đây là do Pháp ô nhiễm, nên Luật ô nhiễm; do Luật ô nhiễm, nên Pháp ô
nhiễm.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi
thứ tư về tương lai, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương
lai, các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết,
các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn tận sợ hãi ấy.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ
có những Tỷ-kheo trong tương lai thân không tu tập, giới không tu tập,
tâm không tu tập, tuệ không tu tập. Do thân không tu tập, giới không tu tập,
tâm không tu tập, tuệ không tu tập nên các trưởng lão Tỷ-kheo sẽ sống
đầy đủ, biếng nhác dẫn đầu trong thối đọa, từ bỏ gánh nặng viễn
ly, không có hăng hái tinh tấn để chứng đạt những gì chưa chứng đạt,
để chứng đắc những đạt những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ
những gì chưa chứng ngộ. Và quần chúng về sau sẽ đi theo tà kiến của
họ. Họ sẽ trở thành những người sống đầy đủ, biếng nhác, dẫn đầu
trong thối đọa, từ bỏ gánh nặng, viễn ly, sẽ không hăng hái tinh tấn
để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa
chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, do nhiễm ô về Pháp, đưa đến nhiễm ô về Luật; do nhiễm ô về
Luật, đưa đến nhiễm ô về Pháp.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi
thứ năm về tương lai, hiện nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong
tương lai, các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn
rõ biết, cần phải tinh tấn để đoạn tận sợ hãi ấy.
Này các Tỷ-kheo, năm sợ hãi về tương
lai này, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai. Các Thầy cần
phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn (biết, các Thầy cần phải
tinh tấn để đoạn tận sự sợ hãi ấy.
(X) (80) SỰ SỢ HÃI TRONG TƯƠNG LAI
(4)
1. - Có năm sợ hãi về tương lai này,
hiện chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai, các Thầy cần phải
hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải
tinh tấn để đoạn tận sợ hãi ấy.
2. Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo
trong tương lai sẽ tham muốn các y tốt đẹp. Do họ tham muốn các y tốt
đẹp. Do họ tham muốn các y tốt đẹp, họ sẽ từ bỏ các y nhặt nơi đống
rác, họ sẽ từ bỏ các khu rừng, các vùng cao nguyên, các trú xứ xa vắng,
họ sẽ đi đến các làng, thị trấn, kinh đô vua chúa và sống tại các
chỗ ấy. Vì nhân y áo, họ sẽ rơi vào những hành vi tầm cầu không
thích hợp.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi
thứ nhất về tương lai, hiện nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong
tương lai. Các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn
rõ biết, cần phải tinh tấn để đoạn trừ sợ hãi ấy.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, những
Tỷ-kheo trong tương lai sẽ tham muốn các đồ ăn khất thực ngon lành. Do họ
tham muốn các đồ ăn khất thực ngon lành, họ sẽ từ bỏ nếp sống khất
thực, từ bỏ các khu rừng, các vùng cao nguyên, các trú xứ xa vắng. Họ
sẽ đi vào các làng, thị trấn, kinh đô của vua và sinh sống tại đấy,
tìm cầu các món ăn thượng vị, như với đầu lưỡi. Do nhân đồ ăn khất
thực, họ sẽ rơi vào nhiều hành động tâm cầu không thích hợp.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi
thứ hai về tương lai, hiện nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong
tương lai... để đoạn trừ sợ hãi ấy.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, những
Tỷ-kheo trong tương lai sẽ tham muốn sàng tọa tốt đẹp. Do họ tham muốn
các sàng tọa tốt đẹp, họ sẽ từ bỏ nếp sống dưới gốc cây, họ sẽ
từ bỏ các khu rừng, các vùng cao nguyên, các trú xứ xa vắng. Họ sẽ đi
vào các làng, thị trấn, kinh đô của vua và sinh sống tại đấy. Vì nhân
sàng tọa, họ sẽ rơi vào nhiều hành động tầm cầu không thích hợp.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi
thứ ba về tương lai, hiện nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong
tương lai... để đoạn trừ sợ hãi ấy.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ
có những Tỷ-kheo trong tương lai sẽ sống liên hệ với Tỷ-kheo-ni, các
chánh học nữ, các Sa-di-ni. Khi sống liên hệ với Tỷ-kheo-ni, chánh học nữ,
Sa-di-ni, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi là: Họ sẽ không thích thú sống
Phạm hạnh, hay họ sẽ rơi vào một trong những tội lỗi ô nhiễm, sẽ từ
bỏ học pháp và trở lui lại đời sống thế tục.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi
thứ tư về tương lai, hiện nay chưa sanh khởi... để đoạn trừ sợ hãi
ấy.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ
có những Tỷ-kheo trong tương lai sống liên hệ với các người có hệ lụy
đến khu vườn, với các Sa-di. Khi sống liên hệ với các người có hệ lụy
đến khu vườn và với các Sa-di, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi là họ
sẽ sống và tận hưởng các vật liệu cất chứa, và họ sẽ làm các
thô tướng đối với đất đai và đối với các sản phẩm trồng trọt.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi
thứ năm về tương lai, hiện nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong
tương lai. Các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn
rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn tận sự sợ hãi ấy.
Năm sự sợ hãi về tương lai này,
này các Tỷ-kheo, hiện nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương
lai. Các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết,
các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn tận những sợ hãi ấy.
IX. PHẨM TRƯỞNG LÃO
(I) (81) KHẢ ÁI
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không
được ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được
làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
2. Bị tham ái bởi những gì khả
ái, bị hiềm hận bởi những gì đáng hiềm hận, bị si mê bởi những
gì đáng si mê, bị phẫn nộ bởi những gì đáng phẫn nộ, bị say đắm
bởi những gì đáng say đắm. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
Trưởng Lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không được ái mộ,
không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm gương để
tu tập.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được
ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.
Thế nào là năm?
4. Không bị tham bởi những gì khả
ái, không bị hiềm hận bởi những gì đáng hiềm hận, không bị si mê bởi
những gì đáng si mê, không bị phẫn nộ bởi những gì đáng phẫn nộ,
không bị say đắm bởi những gì đáng say đắm. Thành tựu năm pháp này,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng Lão đối với các vị đồng Phạm hạnh
được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để
tu tập.
(II) (82) LY THAM
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không
được ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được
làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
2. Không ly tham, không ly sân, không
ly si, hư ngụy và não hại.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không được
ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm gương
để tu tập.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được
ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.
Thế nào là năm?
4. Ly tham, ly sân, ly si, không hư ngụy
và không não hại. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo
Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được
ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.
(III) (83) LỪA ĐẢO
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không
được ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được
làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
2. Lừa đảo, siễm nịnh (hư đàm),
hiện tướng (gợi ý), gièm pha, lấy lợi cầu lợi. Thành tựu năm pháp
này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng
Phạm hạnh không được ái mộ, không được ưa thích, không được tôn
trọng, không được làm gương để tu tập.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được
ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.
Thế nào là năm?
4. Không lừa đảo, không siễm nịnh,
không hiện tướng, gièm pha, không lấy lợi cầu lợi. Thành tựu năm pháp
này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng
Phạm hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm
gương để tu tập.
(IV) (84) LÒNG TIN
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không
được ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được
làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
2. Không tín, không hổ thẹn, không
biết sợ, biếng nhác và ác tuệ. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không được
ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm gương
để tu tập.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được
ái mộﬠđược ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.
Thế nào là năm?
4. Có lòng tin, có hổ thẹn, có biết
sợ, tinh cần, tinh tấn và có tuệ. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ,
được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.
(V) (85) KHÔNG KHAM NHẪN
(1-4)... (Như kinh trên, chỉ khác về
năm pháp, đó là: không kham nhẫn đối với các sắc, không kham nhẫn đối
với các tiếng, không kham nhẫn đối với các hương, không kham nhẫn đối
với các vị, không kham nhẫn đối với các xúc. Còn về năm thiện pháp
là kham nhẫn đối với các sắc... các tiếng... các hương... các vị và
các xúc).
(VI) (86) VÔ NGẠI GIẢI
- Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được
ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.
Thế nào là năm?
Đạt được nghĩa vô ngại giải,
đạt được pháp vô ngại giải, đạt được từ vô ngại giải, đạt
được biện tài vô ngại giải, đối với các sự việc, các vị đồng
Phạm hạnh cần phải làm, hoặc lớn hay nhỏ, vị ấy thiện xảo, không
có biếng nhác, thành tựu trí phương tiện. Ở đây vừa đủ để làm, vừa
đủ đến khiến người làm.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộﬠđược
ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.
(VII) (87) GIỚI
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ,
được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập. Thế nào
là năm?
2. Có giới, sống được bảo vệ
với sự bảo vệ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự
sợ hãi trong các tội nhỏ nhiệm, chấp nhận và học tập các học pháp,
nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, tích tập điều được nghe. Các
pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩ, có văn, đề cao đời
sống Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp ấy, vị ấy
đã nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý
quán sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến; thiện ngôn dùng lời thiện
ngôn, lời nói tao nhã, ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ, phều
phào, giải thích nghĩa lý minh xác, chứng được không khó khăn, chứng
được không mệt nhọc, chứng được không phí sức bốn Thiền, thuộc tăng
thượng tâm, đem đến hiện tại lạc trú. Do đoạn tận các lậu hoặc, vị
ấy tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện
tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ,
được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.
(VIII) (88) VỊ TRƯỞNG LÃO
1. - Thành tựu năm pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đem lại bất hạnh cho đa số, đem lại
không an lạc cho đa số, đem lại không lợi ích, bất hạnh, đau khổ cho
chư Thiên và loài Người. Thế nào là năm?
2. Trưởng lão là bậc kỳ cựu, xuất
gia đã lâu ngày, được nhiều người biết đến, có danh vọng, được một
số đông người tại gia, xuất gia doanh vây, nhận được các vật dụng cần
thiện như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Bậc
nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, tích tập điều được nghe. Các
pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời sống
Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp ấy, vị ấy đã
nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ nhờ đọc chánh kiến. Vị ấy có
tà kiến, có tri kiến điên đảo. Vị ấy làm cho nhiều người từ bỏ diệu
pháp, chấp nhận phi diệu pháp. VÌ Tỷ-kheo là bậc kỳ cựu, xuất gia đã
lâu ngày, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy. Vì vị Trưởng lão được
nhiều người biết đến, gia đoanh vây, nhiều người làm theo tri kiến vị
ấy. Vì rằng, Tỷ-kheo Trưởng lão nhận được các vật dụng cần thiết
như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, nhiều người
làm theo tri kiến vị ấy. Vì rằng Tỷ-kheo là bậc nghe nhiều, thọ trì
điều được nghe, tích tập điều được nghe, nhiều người làm theo tri
kiến vị ấy.
Thành tựu năm pháp này, Tỷ-kheo Trưởng
lão đem lại bất hạnh cho đa số, đem lại bất hạnh cho đa số, đem lại
không an lạc cho đa số, đem lại không lợi ích, bất hạnh, đau khổ cho
chư Thiên và loài Người.
3. Thành tựu năm pháp này, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo Trưởng lão đem lại hạnh phúc cho đa số, đem lại
an lạc cho đa số, đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và
loài Người. Thế nào là năm?
4. Trưởng lão là bậc kỳ cựu, xuất
gia đã lâu ngày, được nhiều người biết đến, có danh vọng, được một
số đông người tại gia, xuất gia đoanh vây, nhận được các vật dụng
cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Bậc
nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, tích tập điều được nghe. Các
pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời sống
Phạm hạnh, hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp ấy, vị ấy đã
nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý quan
sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến. Vị ấy có chánh kiến, không có tri
kiến điên đảo. Vị ấy làm cho nhiều người từ bỏ phi diệu pháp, chấp
nhận diệu pháp. Vị Tỷ-kheo Trưởng lão là bậc kỳ cựu xuất gia đã
lâu ngày, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy. Vị Tỷ-kheo Trưởng lão
đã được nhiều người biết đến, có danh vọng, được số đông người
tại gia xuất gia doanh vây, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy. Vì rằng
Tỷ-kheo Trưởng lão nhận được các vật dụng cần thiết như y, đồ ăn
khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, nhiều người làm theo tri kiến
vị ấy. Vì rằng Tỷ-kheo Trưởng lão là bậc nghe nhiều, thọ trì điều
được nghe, tích tập điều được nghe, nhiều người làm theo tri kiến vị
ấy.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo Trưởng lão đem lại hạnh phúc cho đa số, đem lại an lạc cho đa
số, đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài Người.
(IX) (89) VỊ TỶ-KHEO HỮU HỌC (1)
1. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
khiến Tỷ-kheo hữu học thối chuyển. Thế nào là năm?
2. Ưa sự nghiệp, ưa đàm luận,
ưa ngủ, ưa có quần chúng, không quán sát tâm như đã được giải thoát.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, khiến
Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
3. Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
không khiến Tỷ-kheo hữu học thối chuyển. Thế nào là năm?
4. Không ưa sự nghiệp, không ưa đàm
luận, không ưa ngủ, không ưa có quần chúng, quán sát tầm như đã được
giải thoát.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
không khiến Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
(X) (90) VỊ TỶ-KHEO HỮU HỌC (2)
1. - Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
khiến Tỷ-kheo hữu học thối chuyển. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
hữu học có nhiều công việc, có nhiều việc phải làm, khéo léo trong
công việc phải làm, từ bỏ độc cư Thiền tịnh, không chuyên chú vào nội
tâm tịnh chỉ. Đây là pháp thứ nhất khiến Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
hữu học suốt ngày làm những công việc nhỏ nhặt, từ bỏ độc cư Thiền
tịnh, không có chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Đây là pháp thứ hai
khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
hữu học sống liên hệ nhiều với các vị tại gia và xuất gia, hệ lụy
với các sự việc tại gia không thích đáng, từ bỏ độc cư Thiền tịnh,
không chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Đây là pháp thứ ba khiến Tỷ-kheo
hữu học thối chuyển.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo hữu học đi vào làng quá sớm, từ giã làng quá muộn từ bỏ độc
cư Thiền tịnh, không chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Đây là pháp thứ
tư khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo hữu học đối với các câu chuyện nghiêm trang, khai tâm như các
câu chuyện về ít dục, câu chuyện về tri túc, câu chuyện về viễn ly,
câu chuyện về không hội họp, câu chuyện về tinh cần, tinh tấn, câu
chuyện về giới, câu chuyện về định, câu chuyện về tuệ, câu chuyện
về giải thoát, câu chuyện về giải thoát tri kiến. Các câu chuyện ấy,
vị ấy có được có khó khăn, có được có mệt nhọc, có được có
phí sức. Vị ấy từ bỏ độc cư Thiền tịnh, không chuyên chú vào nội
tâm tịnh chỉ. Đây là pháp thứ năm khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối
chuyển.
7. Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
không khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển. Thế nào là năm?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
hữu học không có nhiều công việc, không có nhiều việc phải làm, không
khéo léo trong công việc phải làm, không từ bỏ độc cư Thiền tịnh,
chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Đây là pháp thứ nhất không khiến vị
Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo hữu học không suốt ngày làm những công việc nhỏ nhặt, không từ
bỏ độc cư Thiền tịnh, chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Đây là pháp
thứ hai không khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo hữu học không sống liên hệ nhiều với các vị tại gia và xuất
gia, không hệ lụy với các việc tại gia không thích đáng, không từ bỏ
độc cư Thiền tịnh, chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Đây là pháp thứ
ba không khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo hữu học không đi vào làng quá sớm, không từ giã quá muộn,
không từ bỏ độc cư Thiền tịnh, chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Đây
là pháp thứ tư không khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo hữu học đối với các câu chuyện nghiêm trang, khai tâm, như câu
chuyện về ít dục, câu chuyện về tri túc, câu chuyện về viễn ly, câu
chuyện về tinh cần tinh tấn, câu chuyện về giới, câu chuyện về định,
câu chuyện về giải thoát, câu chuyện về giải thoát tri kiến. Các câu
chuyện ấy có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được
không phí sức, không từ bỏ độc cư Thiền tịnh, chuyên chú vào nội
tâm tịnh chỉ. Đây là pháp thứ năm, này các Tỷ-kheo, không đưa đến thối
chuyển cho vị Tỷ-kheo hữu học.
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
không khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
X. PHẨM KAKUDHA
(I) (91) ĐẦY ĐỦ (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm đầy
đủ này. Thế nào là năm?
2. Tín đầy đủ, giới đầy đủ,
nghe đầy đủ, thí đầy đủ, tuệ đầy đủ.
Này các Tỷ-kheo, đây là năm đầy
đủ.
(92) ĐẦY ĐỦ (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm đầy
đủ này. Thế nào là năm?
2. Giới đầy đủ, định đầy đủ,
tuệ đầy đủ, giải thoát đầy đủ, giải thoát tri kiến đầy đủ.
Này các Tỷ-kheo, đây là năm đầy
đủ.
(III) (93) TRẢ LỜI
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm cách
trả lời về chánh trí này. Thế nào là năm?
2. Vì đần độn, vì ngu si, trả lời
về chánh trí; vì ác dục, vì bị dục chi phối, trả lời về chánh trí,
vì kiêu mạn, vì tâm tán loạn trả lời về chánh trí; vì tăng thượng mạn,
trả lời về chánh trí; vì hoàn toàn chơn chánh, trả lời về chánh trí.
Này các Tỷ-kheo, có năm cách trả
lời về chánh trí này.
(IV) (94) LẠC TRÚ
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm lạc
trú này. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo
ly dục, ly pháp bất thiện, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái
hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ, làm cho tịnh chỉ tầm và tứ...
chứng đạt vàn an trú Thiền thứ hai... Thiền thứ ba... Thiền thứ tư...
do đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí
chứng ngộ, chứng đạt, và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát.
Này các Tỷ-kheo, những pháp này
là năm lạc trú.
(V) (95) BẤT ĐỘNG
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không bao lâu thể nhập vào bất động. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đạt được nghĩa vô ngại giải, đạt được pháp vô ngại giải, đạt
được từ vô ngại giải, đạt được biện tài vô ngại giải, quán sát
tâm như đã giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không bao lâu thể nhập vào bất động.
(VI) (96) NGHE PHÁP
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo thực hành Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể nhập
vào bất động. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
muốn không có nhiều, công việc không có nhiều, nuôi sống dễ dàng, khéo
tri túc với những nhu yếu ở đời, ăn uống ít, không chuyên lo về bao tử;
ít thụy miên, chuyên chú trong giác tỉnh; nghe nhiều, thọ trì nhiều, tích
lũy điều đã nghe; các pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa,
có văn, tán thán Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh, các pháp ấy, Tỷ-kheo
đã nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý
quán sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến; quán sát tâm như đã được giải
thoát.
Thánh tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thực hành Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể nhập
vào bất động.
(VII) (97) NÓI CHUYỆN
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo tu tập Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể nhập vào
bất động. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
muốn không có nhiều, việc làm không có nhiều, nuôi sống dễ dàng, khéo
tri túc với những nhu yếu ở đời; ăn uống ít, không chuyên lo về bao tử;
ít thụy miên, chuyên chú vào giác tỉnh; đối với các câu chuyện nghiêm
trang, khai tâm, như câu chuyện về ít dục, câu chuyện về tri túc, câu
chuyện về viễn ly, câu chuyện về không hội họp, câu chuyện về tinh cần
tinh tấn, câu chuyện về giới, câu chuyện về định, câu chuyện về tuệ,
câu chuyện về giải thoát, câu chuyện về giải thoát tri kiến, các câu
chuyện ấy, vị ấy có được không khó khăn, có được không mệt nhọc,
có được không phí sức; vị ấy quán sát tâm như đã được giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo tu tập Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể nhập
vào bất động.
(VIII) (98) RỪNG
1. - Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo làm cho sung mãn Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể nhập
vào bất động. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
muốn không có nhiều, việc làm không có nhiều, nuôi sống dễ dàng, khéo
tri túc với những nhu yếu ở đời; ăn uống ít, không chuyên lo về bao tử,
ít thụy miên, chuyên chú vào giác tỉnh; sống ở trong rừng, sống tại
các sàng tọa xa vắng; quán sát tâm như đã được giải thoát.
Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo làm cho sung mãn Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể
nhập vào bất động.
(IX) (99) CON SƯ TỬٮ
1. - Con sư tử, này các Tỷ-kheo,
vào buổi chiều, từ hang đi ra, sau khi từ hang đi ra, nó duỗi chân; sau khi
nó duỗi chân, nó ngó xung quanh cả bốn phương; sau khi nó ngó xung quanh cả
bốn phương, ba lần nó rống tiếng rống con sư tử; sau khi ba lần rống
tiếng rống con sư tử, nó ra đi tìm mồi. Nếu nó vồ bắt con voi, nó vồ
bắt rất cẩn thận, chu đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu
nó vồ bắt con thủy ngưu, nó vồ bắt rất cẩn thận, chu đáo, không phải
không cẩn thận, chu đáo. Nếu nó vồ bắt con báo, nó vồ bắt rất cẩn
thận, chu đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu nó vồ bắt các
con vật nhỏ khác như thỏ hay mèo, nó vồ bắt rất cẩn thận, chu đáo,
không phải không cẩn thận, chu đáo. Vì cớ sao? "Mong rằng uy lực của
ta không có thất bại".
2. Con sư tử, này các Tỷ-kheo, là
đồng nghĩa với bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác. Khi Như Lai thuyết pháp cho
hội chúng, tức là rống tiếng rống con sư tử. Này các Tỷ-kheo, nếu Như
Lai thuyết pháp cho các vị Tỷ-kheo, Như Lai thuyết pháp hết sức cẩn thận,
chu đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu Như Lai thuyết pháp cho
các hàng nam cư sĩ, Như Lai thuyết pháp hết sức cẩn thận, chu đáo,
không phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu Như Lai thuyết pháp cho các hàng
nữ cư sĩ, Như Lai thuyết pháp hết sức cẩn thận, chu đáo, không phải
không cẩn thận, chu đáo. Nếu Như Lai thuyết pháp cho các hàng phàm phu, Như
Lai thuyết pháp hết sức cẩn thận, chu đáo, không phải không cẩn thận,
chu đáo. Vì cớ sao? Vì Như Lai là bậc tôn trọng Pháp, này các Tỷ-kheo,
là bậc tôn kính Pháp.
(X) (100) KAKUDHA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Kosambì, tại khu vườn Ghosita. Lúc bấy giờ Kakudha, người Koliya, là thị
giả của Tôn giả Mahàmoggallàna vừa mệnh chung và sanh ra với một thân
do ý tạo, thân ấy với tự thể có được (to rộng) ví như hai hay ba thửa
ruộng làng ở Magadha. Vị ấy, với tự thể như vậy, không làm cho tự
mình hay làm cho người khác bị bệnh. Rồi Thiên tử Kakudha đi đến thời
gian Mahàmoggallàna; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Mahàmoggallàna rồi đứng
một bên. Thiên tử Kakudha thưa với Tôn giả Mahàmoggallàna:
- Thưa Tôn giả, Devadatta có khởi
lên ý muốn như sau: "Ta sẽ lãnh đạo chúng Tăng". Với tâm khởi
lên như vậy, thưa Tôn giả, thần thông của Devadatta bị thối thất.
Thiên tử Kakudha nói lên như vậy,
nói như vậy xong, đảnh lễ Tôn giả Mahàmoggallàna, thân phía hữu hướng
về ngài rồi biến mất tại chỗ. Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tôn giả Mahàmoggallàna bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Kakudha, người xứ
Koliya, là thị giả của con, mệnh chung không bao lâu, sanh ra với thân do ý
tạo thành, thân ấy với tự thể có được (to rộng) ví như hai hay ba thửa
ruộng làng ở Magadha. Vị ấy với tự thể như vậy, không làm cho tự
mình hay làm cho người khác bị bệnh. Rồi Thiên tử Kakudha đi đến con;
sau khi đến, đảnh lễ con rồi đứng một bên. Thiên tử Kakudha, bạch Thế
Tôn, Thiên tử Kakudha thưa với con: "Thưa Tôn giả, Devadatta có khởi
lên ý muốn như sau: "Ta sẽ lãnh đạo chúng Tăng". Với tâm khởi
lên như vậy. Thưa Tôn giả, thần thông của Devadatta bị thối thất".
Thiên tử Kakudha, bạch Thế Tôn, nói lên như vậy. Nói như vậy xong, đảnh
lễ con, rồi thân phía hữu hướng về con rồi biến mất.
- Này Moggallàna, có phải Thầy với
tâm của mình biết được tâm của Thiên tử Kakudha rằng: "Điều gì
Thiên tử Kakudha nói lên, tất cả đều là như vậy, không thể khác được"?
- Bạch Thế Tôn, với tâm của con,
con biết được tâm của Thiên tử Kakudha rằng: "Điều gì Thiên tử
Kakudha nói lên, tất cả đều là như vậy, không thể khác được".
- Nà Moggallàna, hãy phòng hộ lời
nói này! Này Moggallàna, hãy phòng hộ lời nói này. Này kẻ ngu si ấy sẽ
tự mình thấy rõ tự mình. Này Moggallàna, có năm bậc Đạo sư này có mặt,
hiện hữu ở đời. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này Moggallàna, có vị
Đạo sư, giới không thanh tịnh lại tự cho rằng: "Ta có giới thanh tịnh.
Giới của ta thanh tịnh, chói sáng, không có uế nhiễm". Nhưng các đệ
tử biết về vị ấy như sau: "Tôn giả Đạo sư này có giới không
thanh tịnh, lại tự nghĩa rằng: "ta có giới thanh tịnh. Giới của ta
thanh tịnh, trong sáng, không uế nhiễm". Nếu ta tin cho các cư sĩ biết
như vậy, thời vị Đạo sư sẽ không bằng lòng. Và nếu vị ấy không bằng
lòng, thời chúng ta sẽ xử sự như thế nào mới được". Và vị ấy
nhận được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh. Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được biết
do việc làm ấy. Như vậy, này Moggallàna, các đệ tử che chở giới cho bậc
Đạo sư, và bậc Đạo sư như vậy chờ đợi các đệ tử che chở về giới
cho mình.
3. Lại nữa, này Moggallàna ở đây
có bậc Đạo sư mạng sống không thanh tịnh, lại tự cho rằng: "Ta
có mạng sống thanh tịnh. Mạng sống của ta thanh tịnh chói sáng, không
có uế nhiễm". Nhưng các đệ tử biết về vị ấy như sau: "Vị
Tôn giả Đạo sư này có mạng sống không thanh tịnh, lại tự nghĩ rằng:
"Ta có mạng sống thanh tịnh. Mạng sống của ta thanh tịnh, trong sáng,
không uế nhiễm". Nếu chúng ta tin cho các cư sĩ biết như vậy, thời
vị Đạo sư ấy không bằng lòng, và nếu vị ấy không bằng lòng thời
chúng ta sẽ xử sự như thế nào mới được". Và vị ấy nhận được
các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm
trị bệnh. Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã Sàriputta được biết do việc
làm ấy. Như vậy, này Moggallàna, các đệ tử che chở mạng sống cho bậc
Đạo sư và bậc Đạo sư như vậy chờ đợi các đệ tử che chở mạng sống
cho mình.
4. Lại nữa, này Moggallàna, ở đây
có bậc Đạo sư thuyết pháp không thanh tịnh, lại tự cho rằng: "Ta
thuyết pháp thanh tịnh. Thuyết pháp của ta thanh tịnh, chói sáng, không có
uế nhiễm". Nhưng các đệ tử biết về vị ấy như sau: "Tôn giả
Đạo sư này thuyết giảng không thanh tịnh, lại tự nghĩ rằng: "Ta
thuyết pháp thanh tịnh. Thuyết pháp của ta thanh tịnh, trong sáng, không uế
nhiễm". Nếu chúng ta tin cho các cư sĩ biết như vậy, thời bằng lòng,
thời chúng ta sẽ xử sự như thế nào mới được". Và vị ấy nhận
được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược
phẩm trị bệnh. Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được biết do việc
làm ấy. Như vậy, này Moggallàna, các đệ tử phòng hộ sự thuyết pháp
cho bậc Đạo sư, và bậc Đạo sư như vậy chờ đợi các đệ tử che chở
thuyết pháp cho mình.
5. Lại nữa, này Moggallàna, ở đây
có bậc Đạo sư trả lời không thanh tịnh, lại tự cho rằng: "Ta trả
lời thanh tịnh. Trả lời của ta thanh tịnh, chới sáng, không có uế nhiễm".
Nhưng các đệ tử biết về vị ấy như sau: "Tôn giả Đạo sư này trả
lời không thanh tịnh, lại nghĩ rằng: "Ta trả lời thanh tịnh. Trả lời
của ta thanh tịnh, chói sáng, không uế nhiễm". Nếu chúng ta tin cho
các cư sĩ biết như vậy, thời vị Đạo sư sẽ không bằng lòng và nếu
vị ấy không bằng lòng, thời chúng ta sẽ xử sự như thế nào mới được".
Và vị ấy được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh. Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được
biết do việc làm ấy. Như vậy, này Moggallàna, các đệ tử che chở trả
lời cho bậc Đạo sư, và bậc Đạo sư như vậy chờ đợi các đệ tử
che chở trả lời cho mình.
6. Lại nữa, này Moggallàna, ở đây
có bậc Đạo sư tri kiến không thanh tịnh, lại tự cho rằng: "Ta có
tri kiến thanh tịnh. Tri kiến của ta thanh tịnh, chới sáng, không có uế
nhiễm". Nhưng các đệ tử biết về vị ấy như sau: "Tôn giả Đạo
sư này tri kiến không thanh tịnh, lại tự nghĩ rằng: "Ta có tri kiến
thanh tịnh. Tri kiến của ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm".
Nếu chúng ta tin cho các cư sĩ biết như vậy, thời vị Đạo sư sẽ không
bằng lòng và nếu vị ấy không bằng lòng, thời chúng ta sẽ xử sự như
thế nào mới được". Và vị ấy được các vật dụng nhu yếu như
y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Những gì tự
ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được biết do việc làm ấy. Như vậy, này
Moggallàna, các đệ tử che chở trả lời cho bậc Đạo sư, và bậc Đạo
sư như vậy chờ đợi các đệ tử che chở tri kiến cho mình.
7. Này Moggallàna, Ta có giới thanh tịnh,
và Ta tự (biết: "Giới của Ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm".
Các đệ tử không có che chở Ta về giới, và Ta không có chờ đợi các
đệ tử che chở Ta về giới. Mạng sống của Ta thanh tịnh. Ta tự rõ biết:
"Mạng sống của Ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm".
Các đệ tử không có che chở Ta về mạng sống, và Ta không có chờ đợi
các đệ tử che chở cho Ta về mạng sống. Thuyết pháp của Ta thanh tịnh,
Ta tự rõ biết: "Thuyết pháp của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết:
"Thuyết pháp của Ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm".
Các đệ tử không có che chở Ta về thuyết pháp và Ta không có chờ đợi
các đệ tử che chở Ta về thuyết pháp. Các câu trả lời của Ta thanh tịnh,
trong sáng, không có uế nhiễm". Các đệ tử không có che chở Ta về
các câu trả lời, và Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về các
câu trả lời. Tri kiến của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: "Tri kiến của
Ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm". Các đệ tử không có
che chở Ta về tri kiến, và Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta
về tri kiến.