- Kinh Tăng Chi Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- 11
- CHƯƠNG MƯỜI MỘT
- MƯỜI MỘT PHÁP
I. PHẨM Y CHỈ
(I) (1) CÓ LỢI ÍCH GÌ ?
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, các thiện giới
có ý nghĩa gì, có lợi ích gì ?
- Có ý nghĩa không hối tiếc, có lợi
ích không hối tiếc.
- Nhưng bạch Thế Tôn, không hối
tiếc có ý nghĩa gì ? Có lợi ích gì ?
- Này Ànanda, không hối tiếc có ý
nghĩa hân hoan, có lợi ích hân hoan.
- Bạch Thế Tôn, nhưng hân hoan có
ý nghĩa gì, có lợi ích gì ?
- Này Ànanda, hân hoan có ý nghĩa
hoan hỷ, có lợi ích hoan hỷ.
- Nhưng bạch Thế Tôn, hoan hỷ có
ý nghĩa gì, có lợi ích gì ?
- Nhưng Ànanda, hoan hỷ có ý nghĩa
khinh an, có lợi ích khinh an.
- Nhưng bạch Thế Tôn, khinh an có
ý nghĩa gì, có lợi ích gì ?
- Này Ànanda, khinh an có ý nghĩa an
lạc, có lợi ích an lạc.
- Nhưng bạch Thế Tôn, an lạc có
ý nghĩa gì, có lợi ích gì ?
- Này Ànanda, an lạc có ý nghĩa định,
có lợi ích định.
- Nhưng bạch Thế Tôn, định có ý
nghĩa gì ? Có lợi ích gì ?
- Này Ànanda, định có ý nghĩa gì
như thật tri kiến, có lợi ích như thậﴠtri kiến.
- Nhưng bạch Thế Tôn, như thậﴠtri
kiến có ý nghĩa gì, có lợi ích gì ?
- Này Ànanda, như thật tri kiến có
ý nghĩa nhàm chán, có lợi ích nhàm chán.
- Nhưng bạch Thế Tôn, nhàm chán
có ý nghĩa gì, có lợi ý gì ?
- Này Ànanda, nhàm chán có ý nghĩa
ly tham, có lợi ích ly tham.
- Nhưng bạch Thế Tôn, ly tham có ý
nghĩa gì, có lợi ích gì ?
- Này Ànanda ly tham có ý nghĩa giải
thoát tri kiến, có lợi ích giải thoát tri kiến.
2. Như vậy, này Ànanda, các thiện
giới có ý nghĩa không hối tiếc, có lợi ích không hối tiếc. Không hối
tiếc có ý nghĩa hân hoan, có lợi ích hân hoan. Hân hoan có ý nghĩa hoan hỷ,
có lợi ích hoan hỷ. Hoan hỷ có ý nghĩa khinh an, có lợi ích khinh an. Khinh
an có ý nghĩa an lạc, có lợi ích an lạc. An lạc có ý nghĩa định, có lợi
ích định. Định có ý nghĩa gì như thật tri kiến, có lợi ích như thậﴠtri
kiến. Như thật tri kiến có ý nghĩa nhàm chán, có lợi ích nhàm chán.
Nhàm chán có ý nghĩa ly tham, có lợi ích ly tham. Ly tham có ý nghĩa giải
thoát tri kiến, có lợi ích giải thoát tri kiến. Như vậy, này Ànanda, các
thiện giới thứ lớp dẫn đến tối thượng.
(II) (2) NGHĨ VỚI DỤNG Ý
(Giống như kinh 2, A.v. 2, chỉ khác
nibbidà viràgatthà chia 2 nên thành 11 pháp)
(III) (3) THIẾU DO BẬC ĐẠO SƯ SỞ
Y
(Tương tự kinh số IV).
(IV) (4) THIẾU DO TÔN GIẢ SÀRIPUTTA
SỞ Y
(Tương tự kinh số IV).
(V) (5) THIẾU DO TÔN GIẢ ÀNANDA SỞ
Y
(Tương tự kinh số IV).
(VI) (6) TAI HỌA
1. Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo
nào mắng nhiếc, chỉ trích quở trách các bậc Thánh là những vị đồng
Phạm hạnh, thời không có sự kiện, không có cơ hội người ấy không gặp
một trong mười một tai họa. Thế nào là mười một ?
2. Không chứng điều chưa chứng,
đã chứng được thời mất đi, diệu pháp không được tỏ rõ, hay là tự
kiêu trong diệu pháp, hay là không hoan hỷ sống Phạm hạnh, hay phạm một
tội ô uế, hay từ bỏ Phạm hạnh và hoàn tục, hay là thọ bệnh nặng,
hay là đạt đến điên cuồng loạn tâm, hay là bất tỉnh mệnh chung, sau
khi thân hoại mạng chung rơi vào cõi dữ, ác thú đọa xứ, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo
nào mắng nhiếc, chỉ trích, quở trách các bậc Thánh là những đồng Phạm
hạnh, thời không có sự kiện, không có cơ hội rằng người ấy không gặp
một trong mười một tai họa này.
(VII) (7) TƯỞNG HAY TÁC Ý (1)
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, có thể chăng một
Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định, như vậy, vị ấy có thể trong đất
không tưởng đến đất, trong nước không tưởng đến nước, trong lửa
không tưởng đến lửa, trong gió không tưởng đến gió, trong Không vô
biên xứ không tưởng đến Không vô biên xứ, trong Thức vô biên xứ
không tưởng đến Thức vô biên xứ, trong Vô sở hữu xứ không tưởng đến
Vô sở hữu xứ, trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ không tưởng đến Phi
tưởng phi phi tưởng xứ, trong thế giới hiện tại không tưởng đến thế
giới hiện tại, trong thế giới đời sau không tưởng đến thế giới đời
sau, và phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được
thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy nghĩ đến,
trong ấy vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
2. Này Ànanda, có thể như vậy, một
Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, có thể trong đất không tưởng
đến đất, trong nước không tưởng đến nước, trong lửa không tưởng
đến lửa, trong gió không tưởng đến gió, trong Không vô biên xứ, không
tưởng đến Không vô biên xứ, trong Thức vô biên xứ không tưởng đến
Thức vô biên xứ, trong Vô sở hữu xứ không tưởng đến Vô sở hữu xứ,
trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ không tưởng đến Phi tưởng phi phi tưởng
xứ, trong thế giới hiện tại không tưởng đến thế giới hiện tại,
trong thế giới đời sau không tưởng đến thế giới đời sau. Và phàm
điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri,
được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy nghĩ đến, trong
ấy vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
3. Nhưng bạch Thế Tôn, như thế nào
một vị Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể
trong đất, không tường đến đất... trong thế giới đời sau, không tưởng
đến thế giới đời sau... vị ấy có thể không có tưởng đến. Tuy vậy,
vị ấy vẫn có tưởng.
4. Ở đây, này Ànanda, vị Tỷ-kheo
tưởng như sau : "Đây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự tịnh
chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự đoạn diệt khát ái,
ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn". Như vậy, này Ànanda, vị Tỷ-kheo khi
chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng
đến đất, trong nước không tưởng đến nước... trong thế giới đời
sau, không tưởng đến thế giới đời sau... vị ấy không có tưởng đến.
Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
(VIII) (8) TƯỞNG HAY TÁC Ý (2)
Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Thế Tôn, rồi đi đến Tôn
giả Sàriputta, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời
chàođón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ànanda thưa với
Tôn giả Sàriputta :
- Thưa Tôn giả Sàriputta, có thể
chăng một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể
trong đất không tưởng đến đất, trong nước không tưởng đến nước,
trong lửa không tưởng đến lửa, trong gió không tưởng đến gió, trong
Không vô biên xứ, không tưởng đến Không vô biên xứ, trong Thức vô
biên xứ không tưởng đến Thức vô biên xứ, trong Vô sở hữu xứ không
tưởng đến Vô sở hữu xứ, trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ không tưởng
đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, trong thế giới hiện tại không tưởng
đến thế giới hiện tại, trong thế giới đời sau không tưởng đến thế
giới đời sau. Và phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác,
được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy
nghĩ đến, trong ấy vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn
có tưởng.
2. Này Ànanda, có thể như vậy, một
Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy... được ý suy nghĩ đến,
vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
3. Nhưng thưa Tôn giả Sàriputta, như
thế nào, một Tỷ-kheo, khi chứng được Thiền định như vậy... được
ý suy nghĩ đến, vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có
tưởng ?
4. Ở đây, này Hiền giả Ànanda, Tỷ-kheo
tưởng như sau : "Đây là An tịnh, đây là thù thắng, tức là sự an tịnh
chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự đoạn diệt khát ái,
ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn". Như vậy, này Hiền giả Ànanda, Tỷ-kheo
khi chứng được Thiền định như vậy, có thể trong đất không tưởng đến
đất... trong thế giới đời sau, không tưởng đến thế giới đời sau...
vị ấy không có tưởng đến. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
5. Thật vi diệu thay, thưa Hiền giả
! Thật hy hữu thay, thưa Hiền giả ! Sự giải thích của Đạo Sư và đệ
tử tương hợp, tương hội không tương phản nhau, nghĩa với nghĩa, lời với
lời, tức là đối với câu tối thượng. Thưa Hiền giả, vừa rồi tôi
đã đi đến Thế Tôn và hỏi ý nghĩa này, Thế Tôn với những câu thế
này với những lời thế này, đã trả lời về ý nghĩa này, giống như Tôn
giả Sàriputta. Thật vi diệu thay, Hiền giả ! Thật hy hữu thay, Hiền giả
! Sự giải thích của Đạo Sư và đệ tử sẽ tương hợp, sẽ tương hội,
không tương phản nhau tức là về câu tối thượng.
(IX) (9) TÁC Ý
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, có thể chăng một
Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, có thể không tác ý đến
mắt, có thể không tác ý đến sắc, có thể không tác ý đến tai, có thể
không tác ý đến tiếng, có thể không tác ý đến mũi, có thể không tác
ý đến hương, có thể không tác ý đến lưỡi, có thể không tác ý đến
vị, có thể không tác ý đến thân, có thể không tác ý đến xúc, có thể
không tác ý đến đất, có thể không tác ý đến nước, có thể không
tác ý đến lửa, có thể không tác ý đến gió, có thể không tác ý đến
Không vô biên xứ, có thể không tác ý đến Thức vô biên xứ, có thể
không tác ý đến Vô sở hữu xứ, có thể không tác ý đến Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, có thể không tác ý đến đời này, có thể không tác
ý đến đời sau. Phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác,
được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy
nghĩ đến, vị ấy có thể không có tác ý. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tác
ý.
2. Này Ànanda, có thể như vậy : Một
Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, có thể không tác ý đến
mắt, có thể không tác ý đến sắc... (như trên 9, 1)... được suy nghĩ đến,
vị ấy có thể không có tác ý. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tác ý.
3. Bạch Thế Tôn, nhưng thế nào, một
Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, có thể không tác ý đến
mắt, có thể không tác ý đến sắc... được ý suy nghĩ đến, vị ấy có
thể không có tác ý. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tác ý.
4. Ở đây, này Ànanda, Tỷ-kheo tác
ý như sau : "Đây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự tịnh chỉ
tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự đoạn diệt khát ái, ly
tham, đoạn diệt, Niết bàn". Như vậy, này Ànanda, Tỷ-kheo khi chứng
được Thiền định như vậy, vị ấy có thể không tác ý đến mắt, có
thể không tác ý đến sắc... được ý suy nghĩ đến, vị ấy có thể
không có tác ý. Tuy vậy, vị ấy vẫn có tác ý.
(X) (10) SANDHA
1. Một thời Thế Tôn trú ở
Nàtika, tại ngôi nhà có lợp ngói. Rồi Tôn giả Sandha đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với
Tôn giả Sandha đang ngồi một bên :
2. Này Sandha, hãy tu Thiền với sự
Thiền định của con ngựa thuần thục, chớ có với Thiền định của con
ngựa chưa thuần thục. Và này Sandha, thế nào là Thiền định của con ngựa
chưa thuần thục ?
3. Con ngựa chưa thuần thục, khi bị
cột vào máng ăn, liền Thiền tư : "Cỏ ăn, cỏ ăn". Vì sao ? Này
Sandha, con ngựa chưa thuần thục, khi bị cột vào máng ăn, không có nghĩ
như sau : "Không biết hôm nay, người đánh xe điều phục ngựa sẽ bảo
ta làm việc gì ? Nay ta có hễ làm gì để báo đáp ? " Con ngựa bị cột
vào máng ăn, chỉ Thiền tư : "Cỏ ăn, cỏ ăn ! " Cũng vậy, này
Sandha, ở đây có hạng người chưa được thuần thục, khi đi đến ngôi
rừng, hay khi đi đến gốc cây, hay khi đi đến ngôi nhà trống, trú với
tâm bị dục tham ám ảnh, bị dục tham chi phối, không như thật rõ biết
sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên. Người ấy tàng trữ dục tham
vào trong, rồi Thiền tư, Thiền lự, Thiền liên tục, Thiền quán, trú với
tâm bị sân ám ảnh, bị sân chi phối... trú với tâm bị hôn trầm thụy
miên ám ảnh, bị hôn trầm thụy miên chi phối... trú với tâm bị trạo hối
ám ảnh, bị trạo hối chi phối... trú với tâm bị nghi hoặc ám ảnh, bị
nghi hoặc chi phối, không như thật rõ biết sự xuất ly ra khỏi nghi hoặc
đã khởi lên. Người ấy tàng trữ nghi hoặc vào trong, rồi Thiền tư, Thiền
lự, Thiền liên tục, Thiền quán. Người ấy Thiền tư, y chỉ vào đất,
Thiền tư y chỉ vào nước, Thiền tư y chỉ vào lửa, Thiền tư y chỉ vào
gió, Thiền tư y chỉ vào Không vô biên xứ, Thiền tư y chỉ vào Thức vô
biên xứ, Thiền tư y chỉ vào Vô sở hữu xứ, Thiền tư y chỉ vào Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, Thiền tư y chỉ vào đời này, Thiền tư y chỉ vào đời
sau, phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức
tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy tư, đều ý
chỉ vào đấy người ấy Thiền tư. Như vậy, này Sandha là người Thiền
tư không thuần thục. Và này Sandha, như thế nào là Thiền tư như con ngựa
thuần thục ?
4. Con ngựa hiền lương, này Sandha,
con ngựa được thuần thục, khi bị cột vào máng ăn, không có Thiền tư
: "Cỏ ăn, cỏ ăn ! " Vì sao ? Này Sandha, con ngựa chưa thuần thục,
khi bị cột vào máng ăn, không có nghĩ như sau : "Không biết hôm nay,
người đánh xe điều phục ngựa sẽ bảo ta làm việc gì ? Nay ta có hễ
làm gì để báo đáp ? " Con ngựa bị cột vào máng ăn, chỉ Thiền tư
: "Cỏ ăn, cỏ ăn ! " Con ngựa hiền lương, này Sandha, được thuần
thục, nhìn sự áp dụng cây gậy thúc ngựa hiền lương như là món nợ,
như là trói buộc, như là một thiện hại, như là một điềm xấu. Cũng vậy,
này Sandha, con người hiền thiện, thuần thục, khi đi đến ngôi rừng, khi
đi đến gốc cây, khi đi đến ngôi nhà trống, trú với tâm không bị dục
tham ám ảnh, không bị dục tham chinh phục, như thật quán tri sự xuất ly
đã khởi lên. Vị ấy an trú với tâm không bị sân ám ảnh... Vị ấy an
trú với tâm không bị si ám ảnh... Vị ấy an trú với tâm không bị hôn
trầm thụy miên ám ảnh... Vị ấy an trú với tâm không bị trạo hối ám
ảnh... Vị ấy an trú với không tâm bị nghi hoặc ám ảnh, không bị nghi
hoặc chinh phục, như thật rõ biết sự xuất ly ra khỏi nghi hoặc đã khởi
lên. Vị ấy Thiền tư không y chỉ vào đất, Thiền tư không y chỉ vào nước,
Thiền tư không y chỉ vào lửa, Thiền tư không y chỉ vào gió, Thiền tư
không y chỉ vào Không vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Thức vô
biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Vô sở hữu xứ, Thiền tư không y chỉ
vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Thiền tư không y chỉ vào đời này, Thiền
tư không y chỉ vào đời sau, phàm điều gì được thấy, được nghe, được
cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến,
được ý suy tư, thiền tư không y chỉ vào cái ấy. Tuy vậy, vị ấy vẫn
có Thiền tư. Lại nữa, này Sandha, với vị ấy Thiền tư như vậy, chư
Thiên với Thiên chủ, các Phạm thiên với chúng Phạm thiên, dầu từ xa,
đảnh lễ con người hiền thiện thuần thục :
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Con người hiền, thuần thục,
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Con người bậc Thượng thủ,
Y chỉ gì Ngài Thiền,
Chúng tôi không được biết.
5. Khi nghe nói như vậy, Tôn giả
Sandha bạch Thế Tôn :
- Thiên như thế nào, bạch Thế
Tôn là con người hiền thiện thuần phục Thiền tư ? Vị ấy Thiền tư không
y chỉ vào đất, Thiền tư không y chỉ vào nước, Thiền tư không y chỉ
vào lửa, Thiền tư không y chỉ vào gió, Thiền tư không y chỉ vào Không
vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Thức vô biên xứ, Thiền tư không
y chỉ vào Vô sở hữu xứ, Thiền tư không y chỉ vào Phi tưởng phi phi tưởng
xứ, Thiền tư không y chỉ vào thế giới này, Thiền tư không y chỉ vào
thế giới sau, và phàm cái gì được thấy, được nghe, được cảm giác,
được thức tri, được tầm cầu, được đạt đến, được ý suy tư, vị
ấy Thiền tư. Thiền tư như thế nào, bạch Thế Tôn là con người hiền
thiện thuần thục, khiến chư Thiện với Thiên chủ, các Phạm thiên với
chúng Phạm thiên dầu từ xa, đảnh lễ con người hiền thiện thuần thục
:
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Con người hiền, thuần thục,
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Con người bậc Thượng thủ,
Y chỉ gì Ngài Thiền,
Chúng tôi không được biết.
6. Ở đây này Sandha, với con người
hiền thiện thuần thục, tưởng đất trong đất được sáng tỏ, tưởng
nước trong nước được sáng tỏ, tưởng lửa trong lửa được sáng tỏ,
tưởng Thức vô biên xứ trong Thức vô biên xứ được sáng tỏ, tưởng Vô
sở hữu xứ trong Thức vô sở hữu xứ được sáng tỏ, tưởng Phi tưởng
phi phi tưởng xứ trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ được sáng tỏ, tưởng
thế giới này trong thế giới này được sáng tỏ, tưởng thế giới sau
trong thế giới sau được sáng tỏ, phàm cái gì được thấy, được nghe,
được cảm giác, được thức tri, được tầm cầu, được đạt đến,
được ý suy tư, tưởng tại ấy được sáng tỏ. Thiền tư như vậy, này
Sandha là người đã hiền thiện thuần thục, vị ấy Thiền tư không y chỉ
vào đất, Thiền tư không y chỉ vào nước, Thiền tư không y chỉ vào lửa,
Thiền tư không y chỉ vào gió, Thiền tư không y chỉ vào Không vô biên xứ,
Thiền tư không y chỉ vào Thức vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Vô
sở hữu xứ, Thiền tư không y chỉ vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Thiền
tư không y chỉ vào thế giới này, Thiền tư không y chỉ vào thế giới
sau. Và蠰hàm cái gì được thấy, được
nghe, được cảm giác, được thức tri, được tầm cầu, được ý suy tư,
Thiền tư không y chỉ vào cái ấy. Do Thiền tư như vậy, này Sandha, là蠣on người hiền thiện thuần thục, khiến chư Thiện với
Thiên chủ, các Phạm thiên với chúng Phạm thiên dầu từ xa, đảnh lễ
con người hiền thiện thuần thục :
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Con người hiền, thuần thục,
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Con người bậc Thượng thủ,
Y chỉ gì Ngài Thiền,
Chúng tôi không được biết.
(XI) (11) RỪNG KHỔNG TƯỚC
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Ràjagaha (Vương Xá) tại chỗ nuôi dưỡng khổng tước ở khu vườn các du
sĩ. Tại đấy, Thế Tôn gọi là Tỷ-kheo :
- Này các Tỷ-kheo.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau :
2. Thành tựu ba pháp, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đạt được cứu cánh của cứu cánh, cứu cánh an ổn khỏi các
khổ ách, cứu cánh Phạm hạnh, cứu cánh mục đích, bậc tối thượng giữa
chư Thiên và loài Người. Thế nào là ba ?
3. Vô học giới uẩn, vô học định
uẩn, vô học tuệ uẩn.
Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đạt được cứu cánh của cứu cánh, cứu cánh an
ổn khỏi các khổ ách, cứu cánh Phạm hạnh, cứu cánh mục đích, bậc tối
thượng giữa chư Thiên và loài Người.
4. Lại thành tựu ba pháp, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đạt được cứu cánh của cứu cánh... chư Thiên và
loài Người. Thế nào là ba ?
5. Thần biến thần thông, ký tâm
thần thông, giáo hóa thần thông.
Thành tựu với ba pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đạt đến cứu cánh của cứu cánh... chư Thiên và
loài Người.
6. Lại thành tựu ba pháp khác, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đạt được cứu cánh của cứu cánh... chư Thiên và
loài Người. Thế nào là ba ?
7. Với chánh tri kiến, với chánh
trí, với chánh giải thoát.
Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đạt đến cứu cánh của cứu cánh... chư Thiên và loài Người.
8. Thành tựu với hai pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đạt được cứu cánh của cứu cánh... chư Thiên và
loài Người. Thế nào là hai ?
9. Với minh và với hạnh.
Thành tựu hai pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đạt đến cứu cánh của cứu cánh... chư Thiên và loài Người.
10. Này các Tỷ-kheo, đây là những
bài kệ do Phạm thiên Sanamkumàra nói lên :
Sát-ly, chúng tối thắng,
Với người tin chủng tánh,
Bậc Minh Hạnh đầy đủ,
Tối thắng giữa Nhân, Thiên.
Này các Tỷ-kheo, những bài kệ
này được khéo hát lên, không phải vụng hát, được khéo nói lên, không
phải vụng nói, liên hệ đến mục đích, không phải không liên hệ đến
mục đích, và được Ta chấp nhận. Này các Tỷ-kheo, Ta cũng nói lên như
vậy :
Sát-ly, chúng tối thắng,
Với người tin chủng tánh,
Bậc Minh Hạnh đầy đủ,
Tối thắng giữa chư Thiên.
II. PHẨM TÙY NIỆM
(I) (12) MAHÀNÀMA (1)
1. Một thời, Thế Tôn trú giữa
dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha. Lúc bấy giờ, nhiều
Tỷ-kheo đang may y cho Thế Tôn, nghĩ rằng : "Y làm xong, sau ba tháng, Thế
Tôn sẽ bộ hành ra đi". Họ Thích Mahànàma được nghe : "Nhiều Tỷ-kheo
đang may y cho Thế Tôn, nghĩ rằng : "Y làm xong, sau ba tháng, Thế Tôn sẽ
bộ hành ra đi". Rồi họ Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, họ
Thích Mahànàma bạch Thế Tôn :
- Con nghe như sau, bạch Thế Tôn :
Có nhiều Tỷ-kheo đang may y cho Thế Tôn nghĩ rằng : "Y làm xong, sau ba
tháng, Thế Tôn sẽ bộ hành ra đi". Bạch Thế Tôn, giữa các người
an trú với những an trú khác nhau, chúng con nên an trú với an trú nào ?
2. Lành thay, lành thay, này Mahànàma
! Như vậy thật xứng đáng cho thiện nam tử các người, sau khi đến Thế
Tôn đã hỏi, đã thưa như vậy : "Bạch Thế Tôn, giữa các người an
trú với những an trú khác nhau, chúng con nên an trú với an trú nào ? "
- "Hãy nhập cuộc này Mahànàma với lòng tin, không phải với không
lòng tin. Hãy nhập cuộc với tinh cần tinh tấn, không với biếng nhác.
Hãy nhập cuộc với trú niệm, không với thất niệm. Hãy nhập cuộc với
định, không với không định. Hãy nhập cuộc với trí tuệ, không với liệt
tuệ".
Sau khi an trú trong năm pháp này,
này Mahànàma, hãy tu tập thêm sáu pháp nữa.
6. Ở đây, này Mahànàma, Ông hãy
tùy niệm Như Lai : "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Này Mahànàma, trong khi Thánh đệ tử
tùy niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không bị tham ám ảnh, tâm không bị
sân ám ảnh, tâm không bị si ám ảnh, trong khi ấy, tâm được chánh trực
nhờ duyên Như Lai. Vị Thánh đệ tử, này Mahànàma với tâm chánh trực,
có được nghĩa tín thọ, có được pháp tín thọ, có được hân hoan
liên hệ đến pháp. Khi có hân hoan, hỷ sanh ; Khi có hỷ, thân được khinh
an ; khi thân khinh an, cảm giác được lạc thọ ; khi có lạc thọ, tâm được
định tỉnh. Này Mahànàma, như vậy gọi là bậc Thánh đệ tử sống đạt
được bình đẳng với chúng sanh không bình đẳng, sống đạt được vô
sản với chúng sanh có sân, nhập được pháp lưu, tu tập Phật tùy niệm.
4. Lại nữa, này Mahànàma, Ông hãy
tùy niệm Pháp : "Khéo thuyết là pháp Thế Tôn thuyết giảng, thiết thực
hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng
thường, do người trí tự mình giác hiểu". Này Mahànàma, trong khi vị
Thánh đệ tử tùy niệm Pháp, trong khi ấy, tâm không bị tham ám ảnh, tâm
không bị sân ám ảnh, tâm không bị si ám ảnh, trong khi ấy, tâm được
chánh trực, nhờ duyên Pháp. Vị Thánh đệ tử, này Mahànàma, với tâm
chánh trực có được nghĩa tín thọ có được pháp tín thọ, có được hân
hoan liên hệ đến pháp ; khi có hân hoan, hỷ sanh ; khi có hỷ, thân được
khinh an ; khi thân khinh an, cảm giác lạc thọ, tâm được định tỉnh. Này
Mahànàma, như vậy gọi là bậc Thánh đệ tử sống đạt được bình đẳng
với chúng sanh không bình đẳng, sống đạt được vô sân với chúng sanh
có sân, nhập được pháp lưu, tu tập Pháp tùy niệm.
5. Lại nữa, này Mahànàma, Ông hãy
tùy niệm Tăng : "Thiện hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, trực hạnh
là chúng đệ tử Thế Tôn, ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, tịnh
hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, tức là bốn đôi, tám vị. Chúng đệ tử
này của Thế Tôn là đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng
được cúng dường, đáng được chắp tay là ruộng phương vô thượng ở
đời". Này Mahànàma, trong khi vị Thánh đệ tử tùy niệm T8ng, trong
khi ấy, tâm không bị tham ám ảnh, tâm không bị sân ám ảnh, tâm không bị
si ám ảnh ; trong khi ấy, tâm được chánh trực nhờ duyên Tăng. Vị Thánh
đệ tử, này Mahànàma, với tâm chánh trực, có được nghĩa tín thọ, có
được pháp tín thọ, có được hân hoan liên hệ đến pháp. Khi có hân
hoan, hỷ sanh ; khi có hỷ, thân được khinh an ; khi thân khinh an, cảm giác
lạc thọ ; khi có lạc tho, tâm được định tỉnh. Này Mahànàma, như vậy
gọi là bậc Thánh đệ tử sống đạt được bình đẳng với chúng sanh
không bình đẳng, sống đạt được vô sản với chúng sanh có sân, nhập
được pháp lưu, tu tập Tăng tùy niệm.
6. Lại nữa, này Mahànàma, Ông hãy
tùy niệm Giới của mình : "Không có bể vụn, không có cắt xén,
không có vết nhở, không có chấm đen, đưa đến giải thoát, được người
trí tán thán, không bị chấp trước, đi đến Thiền định". Này
Mahànàma, khi nào bậc Thánh đệ tử tùy niệm Giới... trong khi ấy, tâm
được chánh trực nhờ duyên Giới... nhập được pháp lưu, tu tập Giới
tùy niệm.
7. Lại nữa, này Mahànàma, Ông hãy
tùy niệm Thí của mình : "Thật là được lợi cho ta ! Thật là khéo
được lợi cho ta ! (Vì rằng) với quần chúng bị cấu uế xan tham chi phối,
ta sống trong gia đình, với tâm không bị cấu uế của xan tham chi phối, bố
thí rộng rãi, với bàn tay sạch sẽ, ưa thích từ bỏ, sẵn sàng, để
được yêu cầu, ưa thích phân phát vật bố thí". Này Mahànàma, khi
nào bậc Thánh đệ tử tùy niệm Thí... Trong khi ấy, tâm được chánh trực
nhờ duyên Thí... nhập được pháp lưu tu tập tùy niệm Thí.
8. Lại nữa, này Mahànàma, Ông hãy
tùy niệm Thiên : Có bốn Thiên vương thiên, có chư Thiên cõi Trời Ba-mươi-ba,
có chư Thiên Yàma, có chư Thiên Tusita (Đâu-suất), có chư Thiên Hóa lạc,
có chư Thiên Tha hóa Tự tại, có chư Thiên Phạm chúng, có chư Thiên cao hơn
nữa. Đầy đủ với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ
này, được sanh tại chỗ kia. Lòng tin như vậy cũng có đầy đủ nơi Ta.
Đầy đủ với giới như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này,
được sanh tại chỗ kia. Nghe như Pháp vậy cũng đầy đủ nơi Ta. Đầy đủ
với thí như vậy, chư Thiên ấy sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại
chỗ kia, thí như vậy cũng có đầy đủ nơi Ta. Đầy đủ với tuệ như vậy,
chư Thiên ấy sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như
vậy cũng có đầy đủ nơi Ta". Trong khi vị ấy tùy niệm tín, giới,
nghe pháp, thí và tuệ của tự mình và chư Thiên ấy, trong khi ấy, tâm
không bị tham ám ảnh, tâm không bị sân ám ảnh, không bị si ám ảnh ;
trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ duyên chư Thiên... nhập
được pháp lưu, tu tập chư Thiên tùy niệm.
(II) (13) MAHÀNÀMA (2)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa
dân chúng Sakka tại Kapilavatthu, khu vườn Nigrodha. Lúc bấy giờ, họ Thích
Mahànàma mới khỏi bệnh, khỏi bệnh không bao lâu. Lúc bấy giờ, nhiềⵠTỷ-kheo
đang may y cho Thế Tôn, nghĩ rằng : "Y làm xong, Thế Tôn sẽ ra đi, bộ
hành..." (Tới đây, kinh này giống như kinh số 12 trước, từ số 1 đến
số 2, số 3 cho đến câu...) "Khi có lạc thọ, tâm được định tỉnh.
Tùy niệm Phật này, này Mahànàma, Ông cần phải tu tập khi đi, Ông cần
phải tu tập khi đứng, Ông cần phải tu tập khi ngồi, Ông cần phải tu tập
khi nằm, Ông cần phải tu tập khi ngươi chú tâm vào các công việc, Ông cần
phải tu tập, khi Ông sống tại trú xứ đầy những con nít".
4. Lại nữa, này Mahànàma, , Ông cần
phải tu tập tùy niệm Pháp... tùy niệm Tăng... tùy niệm Giới của
mình... tùy niệm Thí của mình... tùy niệm chư Thiên. Có bốn Thiên vương
Thiên, có chư Thiên cõi trời Ba mươi ba ; có chư Thiên Dạ ma, có chư Thiên
Đâu suất đà, có chư thiên Hóa Lạc, có chư Thiên Tha hóa Tự tại, có chư
Thiên Phạm chúng, có chư Thiên cao hơn nữa. Đầy đủ với lòng tin như vậy
chư Thiên ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh tại chỗ kia. Lòng
tin như vậy, cũng có đầy đủ nơi Ta. Đầy đủ với nghe Pháp như vậy,
chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia, nghe Pháp
như vậy cũng có đầy đủ ở nơi Ta. Đầy đủ với thí như vậy... đầy
đủ với trí tuệ như vậy, chư Thiên ấy, sau khi thân hoại mạng chung,
được sanh tại chỗ kia. Trí tuệ như vậy cũng có đầy đủ ở nơi Ta.
Trong khi vị ấy tùy niệm tín, giới, nghe pháp thí, tuệ của tự mình và
chư Thiên ấy, trong khi ấy, tâm không bị ám ảnh ; trong khi ấy, tâm không
bị sân ám ảnh ; trong khi ấy, tâm không bị si ám ảnh ; trong khi ấy, tâm
vị ấy được chánh trực nhờ duyên chư Thiên. Này Mahànàma, vị Thánh đệ
tử, với tâm chánh trực, có được nghĩa tín thọ, có được pháp tín thọ,
có được hân hoan liên hệ đến pháp. Khi có hân hoan, hỷ sanh ; khi có hỷ,
thân được khinh an ; khi thân khinh an, cảm giác lạc thọ ; khi có lạc thọ,
tâm được định tỉnh. Tùy niệm chư Thiên này, này Mahànàma, Ông cần phải
tu tập khi đi, Ông cần phải tu tập khi đứng, Ông cần phải tu tập khi
ngồi, Ông cần phải tu tập khi nằm, Ông cần phải tu tập khi ngươi chú
tâm vào các công việc, Ông cần phải tu tập, khi Ông sống tại trú xứ
đầy những con nít.
(II) (14) NANDIYÀ
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa
dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, khu vườn Nigrodha. Lúc bấy giờ, Thế Tôn
muốn an cư vào mùa mưa tại Sàvatthi. Họ Thích Nandiya được nghe : "Thế
Tôn muốn an cư vào mua mưa tại Sàvatthi". Họ Thích Nandiya suy nghĩ như
sau : "Ta hãy đến trú ở Sàvatthi vào mùa mưa. Tại đây, ta sẽ chăm
lo công việc, và thỉnh thoảng có dịp được yết kiến Thế Tôn". Rồi
Thế Tôn đến trú ở Sàvatthi trong mùa mưa và họ Thích Nandiya cùng đến
trú ở Sàvatthi vào mùa mưa, và tại đấy chăm lo côgn việc, và thỉnh thoảng
có dịp được yết kiến Thế Tôn.
2. Lúc bấy giờ, nhiều vị Tỷ-kheo
làm y cho Thế Tôn, nghĩ rằng : "Khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ
bộ hành ra đi". Họ Thích Nandiya được nghe : "Khi y làm xong, Thế
Tôn sau ba tháng sẽ bộ hành ra đi". Họ Thích Nandiya đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, họ Thích Nandiya bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, con có nghe, nhiều
Tỷ-kheo làm y cho Thế Tôn, nghĩ rằng : "Khi y làm xong, Thế Tôn sau ba
tháng sẽ bộ hành ra đi". Bạch Thế Tôn, giữa những người an trú với
những an trú khác nhau, chúng con nên an trú với an trú của ai ?
3. Lành thay, lành thay, này Nandiya.
như vậy thật xứng đáng cho thiện nam tử các Ông, sau khi đi đến Thế Tôn
đã hỏi như vậy : "Bạch Thế Tôn, giữa các người an trú với các
an trú khác nhau, chúng con nên an trú với an trú của ai ? ". Này Nandiya,
hãy nhập cuộc với lòng tin, không với không có lòng tin. Hãy nhập cuộc
với có giới, không phải với không giới. Hãy nhập cuộc với tinh cần
tinh tấn, không với biếng nhác. Hãy nhập cuộc với trú niệm, không với
thất niệm. Hãy nhập cuộc với định, không với không định. Hãy nhập
cuộc với trí tuệ, không với liệt tuệ.
Sau khi an trú trong sáu pháp, này
Nandiya, hãy tu tập thêm nữa năm pháp này.
4. Ở đây, này Nandiya, Ông hãy tùy
niệm Như Lai : "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh
Hạnh Túc, Thiện Tuệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Diều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Như vậy, này Nandiya, duyên vào Như
Lai, ông hãy an trú niệm trong nội tâm.
5. Lại nữa, này Nandiya, Ông phải
tùy niệm Pháp : "Pháp được Thế Tôn khéo nói, thiết thực hiện tại,
không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được
người trí tự mình giác hiểu. Như vậy, này Nandiya, duyên vào Pháp, Ông
hãy an trú niệm trong nội tâm.
6. lại nữa, này Nandiya, cần phải
tùy niệm bạn lành : "Thật có lợi cho ta ! Thật khéo có lợi cho ta, rằng
ta có các bạn lành biết thương mến ta, muốn ta được lợi ích, giáo giới
giảng dạy". Như vậy, này Nandiya, duyên vào bạn lành, Ông hãy an trú
niệm trong nội tâm.
7. Lại nữa, này Nandiya, cần phải
tùy niệm bạn lành : "Thật có lợi cho ta ! Thật khéo có lợi cho ta, rằng
ta sống an trú với tâm ly cấu uế, xan tham, cùng với quần chúng vị xan
tham ám ảnh, bố thí rộng rãi, với bàn tay sạch sẽ, ưa thích từ bỏ, sẵn
sàng để được yêu cầu, ưa thích phân phát vật bố thí". Này
Nandiya, như vậy duyên vào thí, Ông hãy an trú niệm trong nội tâm.
8. Lại nữa, này Nandiya, hãy tùy niệm
chư Thiên : "Các chư Thiên ấy, vượt qua sự cộng trú với chư Thiên
dùng các món ăn đoàn thực, được sanh với thân do ý tác thành, các chư
Thiên ấy quán thấy tự mình không có gì nữa phải làm, không cần phải
làm lại những gì đã làm. Ví như, này Nandiya, Tỷ-kheo được phi thời giải
thoát quán thấy tự mình không có gì nữa phải làm, không cần phải làm
lại những gì đã làm. Cũng vậy, này Nandiya, các chư Thiên ấy vượt qua
sự cộng trú với chư Thiên dùng các món ăn đoàn thực, được sanh với
thân do ý tác thành, các chư Thiên ấy quán thấy tự mình không có gì nữa
phải làm, không cần phải làm lại những gì đã làm. Như vậy, này
Nandiya, duyên mạnh vào chư Thiên, Ông hãy an trú niệm trong nội tâm.
Thành tựu với mười một pháp
này, này Nandiya, vị Thánh đệ tử từ bỏ các ác bất thiện pháp, không
chấp thủ chúng. Ví như, này Nandiya, một cái ghè bị chúc ngược, nước
đã đổ ra, không thể đem hốt lại. Ví như ngọn lửa đốt một khóm rừng
đầy cỏ khô đã được cháy lan tới, không có trở lui đốt lại vật đã
bị cháy. Cũng vậy, này Nandiya, thành tựu với mười một pháp này, vị
Thánh đệ tử từ bỏ các ác bất thiện pháp không có chấp thủ chúng.
(VI) (15) SUBHÙTI
1. Rồi Tôn giả Subhùti, cùng với
một Tỷ-kheo có lòng tin đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Subhùti đang ngồi một
bên :
- Này Subhùti, Tỷ-kheo này tên là
gì ?
- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này có
lòng tin, con một nam cư sĩ có lòng tin, đã vì lòng tin xuất gia, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình.
- Này Subhùti, Tỷ-kheo có lòng tin
này, con một người an cư sĩ có lòng tin, đã xuất gia vì lòng tin, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình, người ấy có được thấy sống trong những
tiêu chuẩn về lòng tin của một người có lòng tin không ?
- Bạch Thế Tôn, nay là thời cho vấn
đề này ! Bạch Thiện Thệ, nay là thời cho vấn đề này, để Thế Tôn
thuyết các tiêu chuẩn về lòng tin của một người có lòng tin ; nay con sẽ
biết được : "Vị Tỷ-kheo này có được thấy là sống trong những
tiêu chuẩn về lòng tin của một người có lòng tin hay không ? "
- Vay này Subhùti, hãy nghe và khéo
tác ý, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Subhùti vâng đáp Thế
Tôn, Thế Tôn nói như sau :
2. Ở đây, này Subhùti, Tỷ-kheo có
giới, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy
đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp
nhận và tu học trong các học pháp. Này Subhùti, vị Tỷ-kheo nào có giới,
sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ oai
nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và
tu học trong các học pháp. Này Subhùti, đây là tiêu chuẩn về lòng tin của
một người có lòng tin.
3. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo
nghe nhiều, thọ trì những gì đã nghe, tích tập những gì đã nghe. Những
pháp nào, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời
sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh, những pháp ấy, vị ấy đã
nghe nhiều, đã thọ trì, đã tụng đọc bằng lời, đã quán sát với ý,
đã thể nhập với chánh kiến. Này Subhùti, Tỷ-kheo nào nghe nhiều... với
chánh kiến. Này Subhùti, đây là tiêu chuẩn về lòng tin của một người
có lòng tin.
4. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo
làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện. Này
Subhùti, Tỷ-kheo nào làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp
với thiện. Này Subhùti, đây là tiêu chuẩn về lòng tin của một người
có lòng tin.
5. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo
là người dễ nói, thành tựu những pháp tác thành người dễ nói, kham nhẫn
và khéo chấp nhận những lời giáo giới. Này Subhùti, Tỷ-kheo nào dễ
nói, thành tựu những pháp tác thành người dễ nói, kham nhẫn và khéo chấp
nhận những lời giáo giới. Này Subhùti, đây là tiêu chuẩn về lòng tin của
một người có lòng tin.
6. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo
phàm có những công việc gì cần phải làm, hoặc lớn, hoặc nhỏ, đối với
các vị đồng Phạm hạnh, ở đây, vị ấy khéo léo và tinh cần, thành tựu
sự quán sát các phương tiện, vừa đủ để làm, vừa đủ để tổ chức.
Này Subhùti, Tỷ-kheo nào, phàm có những công việc gì... vừa đầy đủ để
tổ chức. Này Subhùti, đây là tiêu chuẩn về lòng tin của mọi người có
lòng tin.
7. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo
ưa pháp, lời nói dễ thương, hân hoan lớn trong thắng Pháp, trong thắng Luật.
Này Subhùti, phàm Tỷ-kheo nào ưa pháp, lời nói dễ thương hân hoan lớn
trong thắng Pháp, thắng Luật. Này Subhùti, đây là tiêu chuẩn về lòng tin
của một người có lòng tin.
8. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo sống
tinh cần, tinh tấn đoạn trừ các pháp bất thiện, làm cho đầy đủ các
thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không bỏ rơi gánh nặng đối với các thiện
pháp. Này Subhùti, phàm vị Tỷ-kheo nào sống tinh cần, tinh tấn đoạn trừ
các pháp bất thiện, làm cho đầy đủ các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì
không bỏ rơi gánh nặng đối với các thiện pháp. Này Subhùti, đây là
tiêu chuẩn về lòng tin của một người có lòng tin.
9. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo
đối với bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, có
được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức.
Này Subhùti, phàm vị Tỷ-kheo đối với bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm,
hiện hiện tại lạc trú, có được không khó khăn, có được không mệt
nhọc, có được không phí sức. Này Subhùti, đây là tiêu chuẩn về lòng
tin của một người có lòng tin.
10. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo
nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn
đời, năm đời, sáu đời, bảy đời, tám đời, chín đời, mười đời,
hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm
đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp,
nhiều thành kiếp, nhiều hoại thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng : "Tại
chỗ kia, ta có tên như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến
mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ.
Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như
thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này.
Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, vị ấy
nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và
các chi tiết. Này Subhùti, phàm Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ,
như một đời, hai đời... vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ với
các nét đại cương và các chi tiết. Này Subhùti, đây là tiêu chuẩn về
lòng tin của một người có lòng tin.
11. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo
với thiện nhãn thanh tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng
sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người
đẹp để, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp
của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, ngữ và ý, phỉ
báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người
này sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục. Còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, ngữ
và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo
chánh kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên
các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Này Subhùti, phàm Tỷ-kheo với
thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh.
Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp
đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của
họ. Như vậy này Subhùti, là tiêu chuẩn về lòng tin của người có lòng
tin.
12. Lại nữa, này Subhùti, Tỷ-kheo
do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình chứng ngộ với
thắng trí, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát. NÀy Subhùti, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc..., sau khi chứng
ngộ, chứng đạt và an trú, này Subhùt, đây là tiêu chuẩn về lòng tin của
người có lòng tin.
13. Khi nghe nói vậy, Tôn giả
Subhùti bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, các tiêu chuẩn về
lòng tin của người có lòng tin này được Thế Tôn thuyết giảng, là có
trong Tỷ-kheo này các Tỷ-kheo này được thấy là có chúng. Bạch Thế
Tôn, Tỷ-kheo này được là có chúng. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này là có giới,
sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy
nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và
tu học trong các học pháp. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này nghe nhiều, thọ
trì những gì đã nghe, chất chứa tích tập những gì đã nghe, những pháp
nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời sống
Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Những pháp ấy, vị ấy đã nghe
nhiều, đã thọ trì, đã tụng đọc bằng lời, đã quán sát với ý, đã
thể nhập với chánh kiến. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này làm bạn với thiện,
thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này
là người dễ nói, thành tựu những pháp tác thành người dễ nói, thành
tựu những pháp tác thành người dễ nói, kham nhẫn và khéo chấp nhận những
lời giáo giới. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này, phàm có những công việc gì
cần phải làm, hoặc lớn, hoặc nhỏ, đối với các vị đồng Phạm hạnh,
ở đây, vị ấy khéo léo và tinh cần, thành tự sự quán sát các phương
tiện vừa đủ để làm, vừa đủ để tổ chức. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo
này ưa pháp, lời nói dễ thương, hân hoan lớn trong thắng Pháp, thắng Luật.
Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này sống tinh cần tinh tấn, đoạn trừ các pháp bất
thiện, làm cho đầy đủ các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không bỏ rơi
gánh nặng đối với các thiện pháp. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này, đối với
bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, có được không
khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức. Bạch Thế
Tôn, Tỷ-kheo này nhớ đến nhiều đời sống quá khử, như một đời, hai
đời... nhớ đến nhiều đời sống quá khứ với các nét đại cương và
các chi tiết. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này với thiên nhãn thần tịnh siêu
nhân.... rõ biết các chúng sanh, tùy theo hạnh nghiệp của họ. Bạch Thế
Tôn, Tỷ-kheo này do đoạn diệt các lậu hoặc... chứng ngộ, chứng đạt
và an trú. Bạch Thế Tôn, các tiêu chuẩn về lòng tin này được Thế Tôn
thuyết giảng là có trong Tỷ-kheo này. VÀ Tỷ-kheo này được thấy là có
chúng.
14. Lành thay, lành thay này Subhùti !
Vậy này Subhùti, Thầy hãy an trú với Tỷ-kheo, có lòng tin này. Khi nào,
này Subhùti Thầy muốn yết kiến Như Lai, hãy cùng với Tỷ-kheo có lòng
tin này đi đến yết kiến Như Lai.
(V) (16) TỪ
1. Này các Tỷ-kheo, từ tâm giải
thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác
thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được
tích tập, được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi
ích. Thế nào là mười một ?
2. Ngủ an lạc, thức an lạc, không
ác mộng được loài Người ái mộ, được phi nhân ái một, chư Thiên bảo
hộ, không bị lửa, thuốc độc, kiếm xúc chạm, tâm được định mau chóng,
sắc mặt trong sáng, mệnh chung không hôn ám ; nếu chưa thể nhập thượng
pháp (A-la-hán quả) ; được sanh lên Phạm thiên giới.
Này các Tỷ-kheo, từ tâm giải
thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác
thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được
tích tập, được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi
ích.
(VI) (17) DASAMA GIA CHỦ
1. Một thời, Tôn giả Ànanda trú
ở Vesàli, tại làng Beluvagàmaka. LÚc bấy giờ, gia chủ Dasama, trú ở
thành Atthaka, đã đi đến Pàtiliputta vì một vài công việc. Rồi gia chủ
Dasama, dân ở thành Atthaka đi đến một Tỷ-kheo, sau khi đến, thưa với Tỷ-kheo
ấy :
- Thưa Tôn giả, Tôn giả Ànanda nay
trú ở đâu ? Thưa Tôn giả, con muốn yết kiến Tôn giả Ànanda.
- Này Gia chủ, Tôn giả Ànanda nay
trú ở Vesàli, tại làng Beluvagàmaka.
2. Rồi gia chủ Dasama, dân ở thành
Atthaka, sau khi làm công việc xong ở Pàtimokkha, đi đến Vesàli,
Beluvagàmaka, đi đến Tôn giả Ànanda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả
Ànanda rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, gia chủ Dasama, dân
ở thành Atthaka thưa với Tôn giả Ànanda :
- Có một pháp nào, thưa Tôn giả
Ànanda được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
khéo nói, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh
cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm
dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an
ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được ?
- Này Gia chủ, có một pháp, được
Thế Tôn bậc đã biết... hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các ách
khổ chưa đạt được.
- Nhưng thưa Tôn giả Ànanda, một
pháp ấy là gì, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải
thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận,
hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được ?
3. Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly
dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiên thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Vị ấy quán sát như sau :
"Thiền thứ nhất này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng
tâm". Phàm cái gì thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm,
vị ấy quán tri : "Cái gì là vô thường, chịu sự đoạn diệt".
Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu
không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với
Pháp, với hoan hỷ ấy đối với Pháp, với sự đoạn diệt năm hạ hần
kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không còn phải
trở lui thế giới ấy nữa. Này Gia chủ, đây là một pháp này, được Thế
Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác... vô
thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.
4. Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo,
làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhất
tâm,... và an trú Thiền thứ ba... và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy quán
sát như sau : "Thiền thứ tư này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc
tăng thượng tâm". Phàm cái gì... không còn phải trở lui thế giới
ấy nữa. Này Gia chủ, đây là một pháp này, được Thế Tôn, bậc đã biết,
bậc đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi các
khổ ách chưa đạt được.
5. Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo
với tâm câu hữu với từ an trú biến mãn một phương ; như vậy phương
thứ hai ; như vậy phương thứ ba ; như vậy phương thứ tư ; như vậy cùng
khắp thế giới trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp
vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm cầu hữu với từ, quảng
đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy quán sát như sau : "Từ tâm
giải thoát này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm".
Phàm cái gì... không còn trở lui thế giới ấy nữa. Này Gia chủ, đây là
một pháp, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A-la-hán, ,
Chánh Đẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.
6. Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo
với tâm câu hữu với bi... với tâm câu hữu với hỷ... với tâm câu hữu
với xả, an trú biến mãn một phương ; như vậy phương thứ hai ; như vậy
phương thứ ba ; như vậy phương thứ tư ; như vậy cùng khắp thế giới
trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị
ấy an trú biến mãn với tâm cầu hữu với từ, quảng đại, vô biên,
không hận, không sân. Vị ấy quán sát như sau : "Xả tâm giải thoát
này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái
gì... không còn trở lui thế giới ấy nữa. Này Gia chủ, đây là một
pháp, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A-la-hán, ,
Chánh Đẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.
7. Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo
vượt qua một cách hoàn toàn các sắc tưởng, chấm dứt các tưởng chướng
ngại, không tác ý các tưởng sai biệt, nghĩ rằng : "Hư k là vô
biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Vị ấy quán sát như
sau : "Chứng đắc Không vô biên xứ này thuộc tăng thượng tác thành,
thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái gì... không còn trở lui thế giới
ấy nữa. Này Gia chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc đã biết,
bậc đã thấy, bậc A-la-hán, , Chánh Đẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi
các khổ ách chưa đạt được.
8. Lại nữa, này Gia chủ, sau khi vượt
Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng : "Thức là vô biên,
chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ... sau khi vượt Thức vô biên xứ
một cách hoàn toàn, biết rằng : "Vô sở hữu xứ", chứng đạt và
an trú Vô sở hữu xứ. Vị ấy quán sát như sau : "Chứng đắc Vô sở
hữu xứ này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm".
Phàm cái gì... không còn trở lui thế giới ấy nữa. Này Gia chủ, đây là
một pháp, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A-la-hán, ,
Chánh Đẳng Giác... vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.
9. Khi nghe nói vậy, gia chủ Dasama,
dân ở thành Atthaka thưa với Tôn giả Ànanda :
- Thưa Tôn giả Ànanda, ví như một
người tìm một cái cửa vào chỗ chôn cấy, trong một lúc, tìm ra được
mười một cái cửa. Cũng vậy, thưa Tôn giả, trong khi đi tìm một cửa bất
tử, trong một lúc, con tìm ra mười một cái cửa bất tử. Ví như, thưa Tôn
giả, trong một ngôi nhà chỉ có một cái cửa, và nhà ấy bị cháy, người
ấy chỉ có thể ra bằng một cửa để có thể được an toàn cho mình. Cũng
vậy, thưa Tôn giả, với mười một cửa bất tử này, con có thể tạo
được sự an toàn, cho con với chỉ một cửa bất tử. Thưa Tôn giả, các
ngoại đạo này sẽ tìm cầu tài sản của sư cho sư, tại sao con lại không
đảnh lễ Tôn giả A计nda ?
10. Rồi gia chủ Dasama, dân ở
thành phố Atthaka mời họp các Tỷ-kheo chúng ở Vesàli và Pàtaputta, với
các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, tự tay dân cúng cho đến
khi chúng Tăng được thỏa mãn, và mỗi Tỷ-kheo cúng một đôi y. Nhưng riêng
đối với Tôn giả Ànanda, vị ấy cúng ba y đầy đủ và xây dựng một
ngôi tinh xá giá trị 500 đồng tiền.
(VII) (18) NGƯỜI CHĂN BÒ
1. Thành tựu mười một chi phần,
này các Tỷ-kheo, một người chăn bò không có thể lãnh đạo đàn bò và
khiến đàn bò được tăng trưởng. Thế nào là mười một ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người
chăn bò không biết sắc, không thiện xảo trong tướng ; không trừ khử trứng
ruồi ; không băng bó vết thương ; không băng bó vết thương ; không có
xông khói ; không biết chỗ nước có thể lội qua ; không biết chỗ nước
uống được ; không biết đường ; không thiện xảo chỗ bò có thể ăn,
nặn sữa đến kiệt quệ ; đối với các con bò đực, con bò cha, con bò
lãnh đạo ; không có đặc biệt kính trọng.
Thành tựu mười một chi phần này,
người chăn bò không có thể lãnh đạo đàn bò và khiến đàn bò được
tăng trưởng.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
thành tựu với mười một pháp, Tỷ-kheo không có thể được tăng trưởng,
tăng thịnh, tăng rộng rãi trong pháp luật này. Thế nào là mười một ?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không biết sắc, không thiện xảo trong tướng ; không trừ khử trứng ruồi
; không băng bó vết thương ; không băng bó vết thương ; không có xông
khói ; không biết chỗ nước có thể lội qua ; không biết chỗ nước uống
được ; không biết đường ; không thiện xảo chỗ bò có thể ăn, nặn sữa
đến kiệt quệ ; đối với với Tỷ-kheo trưởng lão, kỳ cựu, xuất gia
đã lâu ngày, bậc cha trong Tăng chúng, bậc lãnh đạo trong Tăng chúng,
không có đặc biệt kính trọng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
không biết sắc ?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo,
phàm sắc gì do bốn đại hay do bốn đại tác thành, vị ấy không như thật
quán trị sắc ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không biết sắc.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo không thiện xảo trong các tướng
?
6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không như thật quán tri nghiệp tướng của người ngu, nghiệp tướng của
người trí. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không thiện xảo trong
các tướng. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo không trừ khử
trứng ruồi ?
7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đối với dục tầm được khởi lên, chấp nhận, không từ bỏ, không tẩy
sạch, không chấm dứt, không đưa đến không thể tái sanh. Đối với sân
tầm được khởi lên... đối với hại tầm được khởi lên, chấp nhận
không từ bỏ, không tẩy sạch, không chấm dứt, không đưa đến không thể
tái sanh.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
không trừ khử trứng các loài ruồi. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
không có băng bó vết thương ?
8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc, nắm giữ tướng chung, nắm giữ tướng riêng. Những
nguyên nhân gì khiến tham, ưu, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo
không tự chế ngự nguyên nhân ấy, không hộ trì nhãn căn, không thực
hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương...... khi
lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc... khi ý nhận thức các pháp, vị ấy nắm
giữ tướng chung, nắm giữ tướng riêng. những nguyên nhân gì, vì ý căn
không được chế ngự, khiến tham ưu, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo
không chế ngự nguyên nhân ấy, không hộ trì ý căn, không thực hành sự
hộ trì ý căn.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
không băng bó vết thương. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không
xông khói ?
9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không thuyết pháp rộng rãi cho các người khác, như đã được nghe, như
đã được hiểu biết.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
không xông khói. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo không biết
chỗ nước có thể lội qua.
10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đối với các Tỷ-kheo nghe nhiều, được trao truyền giáo điển, là bậc
trì Pháp, trì Luật, trì toát yếu. Tỷ-kheo thỉnh thoảng đến thăm những
vị ấy, nhưng không đặt câu hỏi, không thẩm vấn : "Thưa Tôn giả,
vấn đề này thế nào ? Nghĩa là vấn đề này là gì ? " Các vị Tôn
giả ấy không có khai mở những gì chưa khai mở, không có hiển lộ những
gì chưa hiển hộ, không có tẩy sạch sự nghi ngờ đối với các pháp
còn chỗ nghi ngờ.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không biết chỗ nước có thể lội qua được. Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là Tỷ-kheo không biết chỗ nước uống ?
11. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi Pháp và Luật được thuyết giảng do Như Lai thuyết giảng, không
được nghĩa tín thọ atthaveda, không được pháp tín thọ, không pháp tín
thọ, không được hân hoan liên hệ đến Pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là Tỷ-kheo không biết chỗ nước uống. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo không biết con đường ?
12. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không như thật quán tri con đường Thánh đạo, Thánh đạo tám ngành. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không rõ biết con đường. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là Tỷ-kheo không thiện xảo trong các chỗ bò ăn cỏ ?
13. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không như thậﴠquán tri Bốn niệm xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không thiện xảo trong các chỗ bò ăn cỏ. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào
là Tỷ-kheo nặn sữa bò cho đến khô kiệt ?
14. Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi
các tín nam, tín nữ cúng dường, đem lại cúng dường hết sức đầy đủ
các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh,
ở đây Tỷ-kheo không biết thâu nhận vừa phải.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
nặn sữa bò đến khô kiệt. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào, đối với
các Tỷ-kheo Trưởng lão, kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, bậc cha trong Tăng
chúng, bậc lãnh đạo trong Tăng chúng, không có đặc biệt kính trọng ?
15. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo
nào là bậc Trưởng lão, kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, bậc chan trong Tăng
chúng, bậc lãnh đạo trong Tăng chúng, với các vị ấy, không có đối xử
với từ thân hành, trước mặt và sau lưng... với từ khẩu hành... với từ
ý hành, trước mặt và sau lưng.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đối với các Tỷ-kheo Trưởng lão, kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, là bậc
cha trong Tăng chúng, là bậc lãnh đạo trong Tăng chúng, đối với các vị
ấy không có đặc biệt tôn kính.
Thành tựu với mười một pháp
này, Tỷ-kheo không có thể tăng trưởng, tăng thịnh, tăng rộng rãi trong
Pháp và Luật này.
16. Thành tựu với mười một chi
phần, này các Tỷ-kheo, người chăn bò có thể lãnh đạo đàn bò và khiến
đàn bò được tăng trưởng. Thế nào là mười môﴠ?
17. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người
chăn bò biết sắc, thiện xảo trong tướng ; trừ khử trứng ruồi ; băng
bó vết thương ; có xông khói ; biết chỗ nước có thể lội qua ; biết
chỗ nước uống được ; biết đường ; thiện xảo chỗ bò có thể ăn,
không nặn sữa đến kiệt quệ ; đối với các con bò đực, con bò cha,
con bò lãnh đạo ; có đặc biệt kính trọng.
Thành tựu mười một chi phần này,
người chăn bò có thể lãnh đạo đàn bò và khiến đàn bò được tăng
trưởng.
18. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
thành tựu với mười một pháp, Tỷ-kheo có thể được tăng trưởng,
tăng thịnh, tăng rộng rãi trong Pháp và Luật này. Thế nào là mười một
?
19. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
biết sắc, thiện xảo trong tướng ; trừ khử trứng ruồi ; băng bó vết
thương ; có xông khói ; biết chỗ nước có thể lội qua ; biết chỗ nước
uống được ; biết đường ; thiện xảo chỗ bò có thể ăn, không nặn sữa
đến kiệt quệ ; đối với với Tỷ-kheo trưởng lão, kỳ cựu, xuất gia
đã lâu ngày, bậc cha trong Tăng chúng, bậc lãnh đạo trong Tăng chúng, có
đặc biệt kính trọng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết sắc
?
20. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo,
phàm sắc gì do bốn đại hay do bốn đại tác thành, vị ấy như thật quán
trị sắc ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết sắc. Và này
các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo thiện xảo trong các tướng ?
21. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
như thật quán tri nghiệp tướng của người ngu, nghiệp tướng của người
trí. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo thiện xảo trong các tướng. Và
này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo trừ khử trứng ruồi ?
22. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đối với dục tầm được khởi lên, không chấp nhận, từ bỏ, tẩy sạch,
chấm dứt, đưa đến không thể tái sanh. Đối với sân tầm được khởi
lên... đối với hại tầm được khởi lên, không chấp nhận từ bỏ, tẩy
sạch, chấm dứt, đưa đến không thể tái sanh.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
trừ khử trứng các loài ruồi. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là có băng bó
vết thương ?
23. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì khiến tham, ưu, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo
tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì
nhãn căn. Khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương...... khi lưỡi nếm vị...
khi thân cảm xúc... khi ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng
chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì ý căn được
chế ngự, khiến tham ưu, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo chế
ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
băng bó vết thương. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo xông khói ?
24. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thuyết pháp rộng rãi cho các người khác, như đã được nghe, như đã
được hiểu biết.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
xông khói. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo biết chỗ nước có
thể lội qua ?
25. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đối với các Tỷ-kheo nghe nhiều, được trao truyền giáo điển, là bậc
trì Pháp, trì Luật, trì toát yếu. Tỷ-kheo thỉnh thoảng đến thăm những
vị ấy, nhưng không đặt câu hỏi, không thẩm vấn : "Thưa Tôn giả,
vấn đề này thế nào ? Nghĩa là vấn đề này là gì ? " Các vị Tôn
giả ấy có khai mở những gì chưa khai mở, hiển lộ những gì chưa hiển
hộ, tẩy sạch nghi vấn trong những vấn đề còn nghi vấn.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
biết chỗ nước có thể lội qua được. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo biết chỗ nước uống ?
26. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trong khi Pháp và Luật được thuyết giảng do Như Lai thuyết giảng, được
nghĩa tín thọ atthaveda, được pháp tín thọ, pháp tín thọ, được hân
hoan liên hệ đến Pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết chỗ
nước uống. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết con đường ?
27. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
như thật quán tri con đường Thánh đạo, Thánh đạo tám ngành. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo rõ biết con đường. Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là Tỷ-kheo thiện xảo trong các chỗ bò ăn cỏ ?
28. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
như thậﴠquán tri Bốn niệm xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thiện
xảo trong các chỗ bò ăn cỏ. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo
nặn sữa bò còn để sữa lại ?
29. Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi
các tín nam, tín nữ cúng dường, đem lại hết sức đầy đủ các vật dụng
như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, ở đây Tỷ-kheo
biết thâu nhận vừa phải.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
nặn sữa bò còn để lại sữa. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào, đối với
các Tỷ-kheo Trưởng lão, kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, bậc cha trong Tăng
chúng, bậc lãnh đạo trong Tăng chúng, có đặc biệt kính trọng ?
30. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo
nào là bậc Trưởng lão, kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, bậc cha trong Tăng
chúng, bậc lãnh đạo trong Tăng chúng, với các vị ấy, có đối xử với
từ thân hành, trước mặt và sau lưng... với từ khẩu hành... với từ ý
hành, trước mặt và sau lưng.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đối với các Tỷ-kheo Trưởng lão, kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, là bậc
cha trong Tăng chúng, là bậc lãnh đạo trong Tăng chúng, với các vị ấy,
có đặc biệt tôn kính.
Thành tựu với mười một pháp
này, Tỷ-kheo không có thể tăng trưởng, tăng thịnh, tăng rộng rãi trong
Pháp và Luật này.
(VIII) (19) THIỀN ĐỊNH (1)
1. bấy giờ có một số đông Tỷ-kheo
đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên, các Tỷ-kheo bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, có thể chăng một
Tỷ-kheo chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất,
không tưởng đến đất ; trong nước, không tưởng đến nước ; trong lửa,
không tưởng đến lửa ; trong gió, không tưởng đến gió ; trong Không vô
biên xứ, không tưởng đến Không vô biên xứ ; trong Thức vô biên xứ,
không tưởng đến Thức vô biên xứ ; trong Vô sở hữu xứ, không tưởng
đến Vô sở hữu xứ ; trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không tưởng đến
Phi tưởng phi phi tưởng xứ ; trong thế giới hiện tại, không tưởng đến
thế giới hiện tại ; trong thế giới đời sau, không tưởng đến thế giới
đời sau ; tuy vậy vị ấy vẫn có tưởng ?
- Này các Tỷ-kheo, có thể như vậy,
một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong
đất, không tưởng đến đất ; trong nước, không tưởng đến nước ;
trong lửa, không tưởng đến lửa ; trong gió, không tưởng đến gió ;
trong Không vô biên xứ, không tưởng đến Không vô biên xứ ; trong Thức
vô biên xứ, không tưởng đến Thức vô biên xứ ; trong Vô sở hữu xứ,
không tưởng đến Vô sở hữu xứ ; trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không
tưởng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ ; trong thế giới hiện tại, không
tưởng đến thế giới hiện tại ; trong thế giới đời sau, không tưởng
đến thế giới đời sau ; tuy vậy vị ấy vẫn có tưởng.
- Nhưng bạch Thế Tôn, như thế nào
một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong
đất, không tưởng đến đất... ; trong thế giới đời sau, không tưởng
đến thế giới đời sau ; tuy vậy vị ấy vẫn có tưởng ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tưởng như sau : "Đây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự tịnh
chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự đoạn diệt khát ái,
ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn". Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi
chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng
đến đất ; trong nước, không tưởng đến nước... ; trong thế giới đời
sau, không tưởng đến thế giới đời sau. Và trong những gì được thấy,
được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được
tầm cầu, được ý suy tư, tại đấy, vị ấy có thể không có tưởng.
Tuy vậy vị ấy vẫn có tưởng ?
(IX) (20) THIỀN ĐỊNH (2)
1. Tại đất, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo
:
- Này các Tỷ-kheo, có thể chăng một
Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất,
không tưởng đến đất ; trong nước, không tưởng đến nước ; trong lửa,
không tưởng đến lửa ; trong gió, không tưởng đến gió ; trong Không vô
biên xứ, không tưởng đến Không vô biên xứ ; trong Thức vô biên xứ,
không tưởng đến Thức vô biên xứ ; trong Vô sở hữu xứ, không tưởng
đến Vô sở hữu xứ ; trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không tưởng đến
Phi tưởng phi phi tưởng xứ ; trong thế giới hiện tại, không tưởng đến
thế giới hiện tại ; trong thế giới đời sau, không tưởng đến thế giới
đời sau. Phàm cái gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được
thức tri, được đạt đến, được tầm cầu, được ý suy tư. Tại đấy,
vị ấy có thể không có tưởng. Tuy vậy vị ấy vẫn có tưởng.
2. Này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo
khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không
tưởng đến đất... ; được ý suy tư. Tại đấy, vị ấy có thể không
có tưởng. Tuy vậy vị ấy vẫn có tưởng.
- Như thế nào, bạch Thế Tôn, một
Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất,
không tưởng đến đất... ; được ý suy tư. Tại đấy, vị ấy có thể
không có tưởng. Tuy vậy vị ấy vẫn có tưởng ?
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo,. Tỷ-kheo
tưởng như sau : ""Đây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự
tịnh chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự đoạn diệt khát
ái, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn". Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không
tưởng đến đất ; trong nước, không tưởng đến nước... ; được ý
suy tư, tại đấy, vị ấy có thể không có tưởng. Tuy vậy vị ấy vẫn
có tưởng.
(X) (21) THIỀN ĐỊNH (3)
1. Rồi một số đông Tỷ-kheo đi
đến Tôn giả Sàriputta... (như kinh số 7, chương mười pháp, chỉ khác đây
là Tôn giả Sàriputta).
(XI) (22) THIỀN ĐỊNH (4)
1. Tại đấy, Tôn giả Sàriputta
nói với các Tỷ-kheo :
- Này chư Hiền, có thể chăng một
Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định... được ý suy tư. Tại đấy, vị
ấy có thể không có tưởng ; tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng ?
- Thưa Hiền giả, chúng tôi từ xa
đi đến để được biết ý nghĩa của lời nói này từ Tôn giả
Sàriputta. Lành thay, nếu ý nghĩa lời nói này được Tôn giả Sàriputta
nói lên. Sau khi nghe Tôn giả Sàriputta, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này chư Hiền, hãy nghe và
khéo tác ý, tôi sẽ nói.
- Thưa vâng, Hiền giả, các Tỷ-kheo
ấy vâng đáp Tôn giả Sàriputta. Tôn giả Sàriputta nói như sau :
2. Này các Hiền giả, Tỷ-kheo khi
chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong đất, không tưởng
đến đất... được ý suy tư. Tại đấy, vị ấy có thể không có tưởng.
Tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
- Như thế nào, thưa Hiền giả Sàriputta,
một Tỷ-kheo khi chứng được Thiền định như vậy, vị ấy có thể trong
đất, không tưởng đến đất... được ý suy tư ; tại đất, vị ấy có
thể không có tưởng ; tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng?
- Ở đây, này các Hiền giả, Tỷ-kheo
tưởng như sau... (như số 20 kinh trước)... tuy vậy, vị ấy vẫn có tưởng.
III. PHẨM BA : TỔNG KẾT
(I) (23) NGƯỜI CHĂN BÒ
1. Này các Tỷ-kheo, thành tựu với
mười một chi phần, người chăn bò không có thể là người lãnh đạo bò
và đưa đàn bò đến tăng trưởng. Thế nào là mười một ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người
chăn bò không biết sắc, không thiện xảo trong tướng ; không trừ khử trứng
ruồi ; không băng bó vết thương ; không có xông khói ; không biết chỗ nước
có thể lội qua ; không biết chỗ nước uống được ; không biết đường
; không thiện xảo chỗ bò có thể ăn, nặn sữa đến kiệt quệ ; đối với
các con bò đực, con bò cha, con bò lãnh đạo ; không có đặc biệt kính trọng.
Thành tựu mười một chi phần này,
người chăn bò không có thể lãnh đạo đàn bò và khiến đàn bò được
tăng trưởng.
3. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
thành tựu với mười một pháp, vị Tỷ-kheo không có thể trú tùy quán
vô thường trong con mắt... không có thể trú tùy quán khổ trong con mắt...
không có thể trú tùy quán vô ngã trong con mắt... không có thể trú tùy
quán hoại diệt trong con mắt... không có thể trú tùy quán hủy diệt trong
con mắt.. không có thể trú tùy quán ly tham trong con mắt... không có thể
trú tùy quán đoạn diệt trong con mắt... không có thể trú tùy quán từ bỏ
trong con mắt... trong lỗ tai... trong lỗ mũi... trong lưỡi... trong thân...
trong ý... trong các sắc... trong các tiếng... trong các hương... trong các vị...
trong các xúc... trong các pháp... trong nhãn thức... trong nhĩ thức... trong tỷ
thức.... trong thiệt thức... trong thân thức... trong ý thức... trong nhãn
xúc... trong nhĩ xúc... trong tỷ xúc.... trong thiệt xúc... trong thân xúc...
trong ý xúc... trọng thọ do nhãn xúc sanh... trọng thọ do nhĩ xúc sanh... trọng
thọ do tỷ xúc sanh... trọng thọ do thiệt xúc sanh... trọng thọ do thân
xúc sanh... trọng thọ do ý xúc sanh... trong sắc tưởng... trong thanh tưởng...
trong hương tưởng... trong vị tưởng... trong xúc tưởng... trong pháp tưởng...
trong sắc tư... trong thanh tư... trong hương tư... trong vị tư... trong xúc tư...
trong pháp tư... trong sắc ái... trong thanh ái... trong hương ái... trong vị
ái... trong xúc ái... trong pháp ai... trong sắc tầm... trong thanh tầm... hương
tầm... trong vị tầm... trong xúc tầm... trong pháp tầm... trong sắc tứ...
trong thanh tứ... trong hương tứ... trong vị tứ... trong xúc tứ... trú tùy
quán... vô thường trong pháp tứ... trú tùy quán khổ... trú tùy quán vô
ngã... trú tùy quán hoại diệt... trú tùy quán hủy diệt... trú tùy quán
ly tham... trú tùy quán đoạn diệt... trú tùy quán từ bỏ.
4. Thành tựu mười một pháp, này
các Tỷ-kheo, người chăm bò có thể lãnh đạo đàn bò và khiến đàn bò
tăng trưởng. Thế nào là mười một ?
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người
chăn bò biết sắc...
6. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
thành tựu với mười một pháp, Tỷ-kheo có thể trú tùy quán vô thường
trong con mắt... có thể trú tùy quán từ bỏ.
(II) (24) THAM ÁI (1)
1. Để thắng tri tham ái, này các Tỷ-kheo,
mười một pháp cần phải tu tập. Thế nào là mười một ?
2. Thiền thứ nhất. Thiền thứ
hai, Thiền thứ ba, Thiền thứ tư, từ tâm giải thoát, bi t6am giải thoát,
hỷ tâm giải thoát, xả tâm giải thoát, Không vô biên xứ, Thức vô biên
xứ, Vô sở hữu xứ.
Để thắng tri tham ái, này các Tỷ-kheo,
mười một pháp cần phải tu tập.
(III) (25) THAM ÁI (2)
1. Để thắng tri tham ái, này các Tỷ-kheo,
để liễu tri, để liễu diệt, để đoạn tận, để hoại diệt, để hủy
diệt, để ly tham, để đoạn diệt... để xả ly, để từ bỏ... mười một
pháp cần phải tu tập.
2. Để thắng tri sân... si... phẫn
nộ... hiềm hận.... gièm pha... não hại... tật đố... xan tham... man trá...
lừa đảo.... cứng đầu.... hung hăng... mạn... quá mạn... say đắm... phóng
dật... để liễu tri, để liễu diệt, để đoạn tận, để hoại diệt,
để hủy diệt, để ly tham, để đoạn diệt, để xả ly, để từ bỏ...
mười một pháp này cần phải tu tập.
Thế Tôn thuyết như vậy, các Tỷ-kheo
ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.